Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

skkn một số biện pháp nhằm đánh giá học sinh có hiệu quả theo thông tư 30

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (13.51 MB, 25 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
“Một số biện pháp nhằm đánh giá học sinh có hiệu quả theo Thông tư 30”
Họ và tên: Nguyễn Thị Lan
Sinh ngày: 05/11/1978
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Thanh Lạc, Nho Quan, Ninh Bình
Email:
Điện thoại: 0944059625.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong giai đoạn hiện nay, Bộ giáo dục và đào tạo đã xác định mục tiêu trọng
tâm và then chốt của công cuộc đổi mới toàn diện và căn bản giáo dục phải là phát
huy năng lực của người học, từ đó hoàn thiện năng lực, phẩm chất cá nhân.
Đổi mới giáo dục tiểu học là một nội dung trong chương trình đổi mới giáo dục
phổ thông của Bộ giáo dục và đào tạo. Qua đó đổi mới toàn bộ mục tiêu, chương
trình, sách giáo khoa, phương pháp dạy học và đặc biệt là cách đánh giá học sinh
theo thông tư 30. Điều đó cho thấy việc dạy “kiến thức” không phải là nhiệm vụ
quan trọng nhất mà bên cạnh đó chúng ta cũng cần phải chú trọng đến khâu “dạy
người”.
Đối với học sinh tiểu học, được đến trường, được tham gia vào các hoạt
động giáo dục, được đánh giá một cách công bằng, khách quan và được động viên
là một vấn đề rất được quan tâm của tất cả mọi đối tượng xung quanh trẻ.
Đóng vai trò quan trọng trong nhận xét, đánh giá học sinh ở nhà trường, đó
chính là đội ngũ giáo viên bao gồm giáo viên chủ nhiệm và giáo viên các bộ môn.
Nếu được đánh giá, động viên đúng mức, học sinh coi đó như một động lực
để phấn đấu, cố gắng trong học tập và khi tham gia các hoạt động tập thể. Ngược
lại, những đánh giá, nhận xét tiêu cực sẽ làm tổn thương tới trẻ, khiến trẻ có những
hành vi, trạng thái tiêu cực, hạn chế sự phát triển nhân cách của trẻ.
Trải qua hơn 16 năm trong nghề với 2 năm thay đổi trong nhận xét, đánh giá
học sinh, bản thân tôi gặp khá nhiều lúng túng với sự thay đổi này. Tuy nhiên với
tâm huyết cùng nghề, lòng yêu mến học sinh, sự không ngừng học hỏi trong công
việc, tôi đã cảm thấy tự tin, thoải mái hơn với sự thay đổi này. Trong quá trình dạy


học và giáo dục của mình, tôi đã rất trăn trở và hàng ngày đều ghi ra những kinh
nghiệm, những việc làm dù nhỏ nhưng khá hiệu quả khi nhận xét, đánh giá học
sinh. Và thường đặt ra những câu hỏi: Phải làm gì giúp học sinh luôn có ý thức cố
gắng rèn luyện để trở thành con ngoan, trò giỏi, phụ huynh và toàn xã hội quan tâm
trẻ em một cách đúng mực, tạo mọi điều kiện tốt nhất để phát huy trí lực, phẩm
chất tốt đẹp tiềm ẩn trong mỗi đứa trẻ mà không gây áp lực cho các em? Làm gì
giúp giáo viên không bị áp lực bởi công việc nhận xét, đánh giá học sinh, những
trăn trở hàng ngày: Cần nhận xét gì cho học sinh ngày hôm nay?
Với những lí do nêu trên, tôi mạnh dạn đưa ra một số biện pháp giúp bản
thân bớt gặp lúng túng, khó khăn hơn trong quá trình đánh giá học sinh với đề tài:
“Một số biện pháp nhằm đánh giá học sinh có hiệu quả theo Thông tư 30”.

1


II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lý luận của vấn đề
1.1. Đặc điểm tâm sinh lí của trẻ lớp 1
Bước vào giai đoạn 6 tuổi, trẻ có nhiều thay đổi cả về tâm, sinh lí.
- Thứ nhất, chú ý có chủ định (tức chú ý có ý thức, chú ý vào việc học tập)
của trẻ còn yếu, khả năng kiểm soát, điều khiển chú ý còn hạn chế. Ở giai đoạn này
chú ý không chủ định (chú ý tự do) chiếm ưu thế hơn chú ý có chủ định. Sự tập
trung chú ý của trẻ còn yếu và thiếu tính bền vững, dễ bị phân tán bởi những âm
thanh, sự kiện khác ngoài nội dung học tập. Trẻ thường quan tâm chú ý đến những
môn học, giờ học có đồ dùng trực quan sinh động, hấp dẫn có nhiều tranh ảnh, trò
chơi hoặc có cô giáo xinh đẹp, dịu dàng,… Thời gian chú ý có chủ định chỉ kéo dài
tối đa từ 25 đến 30 phút.
- Thứ hai, tri giác các em mang tính đại thể, ít đi vào chi tiết và mang tính
không ổn định, tri giác thường gắn với hình ảnh trực quan.
- Thứ ba, tưởng tượng của học sinh lớp 1 đã phát triển phong phú hơn so với

trẻ mầm non nhờ có bộ não phát triển và vốn kinh nghiệm ngày càng nhiều. Tuy
nhiên, tưởng tượng của các em vẫn còn đơn giản, chưa bền vững và dễ thay đổi.
- Thứ tư, hầu hết học sinh tiểu học có ngôn ngữ nói thành thạo. Khi trẻ vào
lớp 1 bắt đầu xuất hiện ngôn ngữ viết. Nhờ có ngôn ngữ phát triển mà trẻ có khả
năng tự đọc, tự học, tự nhận thức thế giới xung quanh và tự khám phá bản thân
thông qua các kênh thông tin khác nhau. Ngôn ngữ có vai trò hết sức quan trọng
đối với quá trình nhận thức cảm tính và lý tính của trẻ, nhờ có ngôn ngữ mà cảm
giác, tri giác, tư duy, tưởng tượng của trẻ phát triển dễ dàng và được biểu hiện cụ
thể thông qua ngôn ngữ nói và viết của trẻ. Thông qua khả năng ngôn ngữ của trẻ
ta có thể đánh giá được sự phát triển trí tuệ của trẻ.
- Thứ năm, trong giai đoạn lớp 1, 2 ghi nhớ máy móc phát triển tương đối
tốt và chiếm ưu thế hơn so với ghi nhớ có ý nghĩa. Nhiều học sinh chưa biết tổ
chức việc ghi nhớ có ý nghĩa, chưa biết dựa vào các điểm tựa để ghi nhớ, chưa biết
cách khái quát hóa hay xây dựng dàn bài để ghi nhớ tài liệu.
- Thứ sáu, tình cảm của học sinh tiểu học mang tính cụ thể trực tiếp và luôn
gắn liền với các sự vật hiện tượng sinh động, rực rỡ,...Lúc này khả năng kiềm chế
cảm xúc của trẻ còn non nớt, trẻ dễ xúc động và cũng dễ nổi giận, biểu hiện cụ thể
là trẻ dễ khóc mà cũng nhanh cười, rất hồn nhiên vô tư...
Vì thế có thể nói tình cảm của trẻ chưa bền vững, dễ thay đổi (tuy vậy so với
tuổi mầm non thì tình cảm của trẻ tiểu học đã "người lớn" hơn rất nhiều. Trong quá
trình hình thành và phát triển tình cảm của học sinh tiểu học luôn luôn kèm theo sự
phát triển năng khiếu: Trẻ nhi đồng có thể xuất hiện các năng khiếu như thơ, ca,
hội họa, kĩ thuật, khoa học,... Chính đặc điểm này đòi hỏi người làm công tác giáo
dục phải có sự quan tâm, sát sao và có những lời nói chuẩn mực, những đánh giá
khách quan, cần phát hiện và bồi dưỡng kịp thời cho trẻ sao cho vẫn đảm bảo kết
quả học tập mà không làm thui chột năng khiếu của trẻ. Việc giáo dục tình cảm
cho học sinh tiểu học cần ở nhà giáo dục sự khéo léo, tế nhị khi tác động đến các

2



em không phải là những câu nói dễ dãi, nuông chiều khiến cho trẻ và phụ huynh có
nhận thức thiếu sót về sự phát triển toàn diện của trẻ.
Tóm lại là, sáu tuổi vào lớp 1 là bước ngoặt lớn của trẻ thơ. Môi trường học
tập thay đổi một cách cơ bản: trẻ phải tập trung chú ý trong thời gian liên tục từ 30
–> 35 phút. Nhu cầu nhận thức chuyển từ hiếu kỳ, tò mò sang tính ham hiểu biết,
hứng thú khám phá. Trẻ bắt đầu kiềm chế dần tính hiếu động, bột phát để chuyển
thành tính kỷ luật, nền nếp, chấp hành nội quy học tập. Sức bền vững, sự khéo léo
của các thao tác của đôi bàn tay để tập viết được phát triển nhanh. Tất cả những
điều đó đều là thử thách đối với trẻ, muốn trẻ vượt qua được tốt những thử thách
đó thì phải cần có sự quan tâm giúp đỡ của gia đình, nhà trường và xã hội mà cụ
thể là có những nhận xét, đánh giá phù hợp, kịp thời nhằm động viên, khích lệ học
sinh tự tin vào bản thân.
1.2. Vai trò của nhận xét, đánh giá trong quá trình giáo dục
Chúng ta đều biết rằng nhận xét, đánh giá không phải là khâu cuối cùng của hoạt
động giáo dục. Những nhận xét, đánh giá phải được thực hiện song song với quá trình
giáo dục, có tác động ngược trở lại vói sự thay đổi nội dung, phương pháp, hình thức tổ
chức dạy học nhằm đạt được chất lượng giáo dục mong muốn.
Trong nhà trường hiện nay, việc dạy học không chỉ chủ yếu là dạy cái gì mà
còn dạy học như thế nào. Đổi mới phương pháp dạy học là một yêu cầu cấp bách
có tính chất đột phá để nâng cao chất lượng dạy học. Đổi mới phương pháp dạy
học đòi hỏi phải tiến hành một cách đồng bộ đổi mới từ nội dung chương trình
sách giáo khoa, phương pháp dạy học cho đến kiểm tra đánh kết quả dạy học.
Kiểm tra đánh giá có vai trò rất to lớn đến việc nâng cao chất lượng giáo dục. Kết
quả của kiểm tra đánh giá là cơ sở để điều chỉnh hoạt động dạy, hoạt động học.
Nếu kiểm tra đánh giá sai dẫn đến nhận định sai về chất lượng giáo dục gây tác hại
to lớn đối với sự hình thành và phát triển nhân cách còn non nớt của học sinh tiểu
học, đặc biệt là với học sinh lớp 1. Vậy đổi mới kiểm tra đánh giá trở thành nhu
cầu bức thiết của ngành giáo dục và toàn xã hội ngày nay. Kiểm tra đánh giá đúng
thực tế, chính xác và khách quan sẽ giúp học sinh tự tin, hăng say, nâng cao năng

lực sáng tạo trong học tập.
1.3. Một số nội dung chính của Thông tư 30/2014/TT-BGDĐT
1.3.1. Mục đích đánh giá
- Giúp giáo viên điều chỉnh, đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức hoạt
động dạy học, hoạt động trải nghiệm ngay trong quá trình và kết thúc mỗi giai
đoạn dạy học, giáo dục; kịp thời phát hiện những cố gắng, tiến bộ của học sinh để
động viên, khích lệ và phát hiện những khó khăn chưa thể tự vượt qua của học sinh
để hướng dẫn, giúp đỡ; đưa ra nhận định đúng những ưu điểm nổi bật và những
hạn chế của mỗi học sinh để có giải pháp kịp thời nhằm nâng cao chất lượng, hiệu
quả hoạt động học tập, rèn luyện của học sinh; góp phần thực hiện mục tiêu giáo
dục tiểu học.
- Giúp học sinh có khả năng tự đánh giá, tham gia đánh giá; tự học, tự điều
chỉnh cách học; giao tiếp, hợp tác; có hứng thú học tập và rèn luyện để tiến bộ.

3


- Giúp cha mẹ học sinh hoặc người giám hộ tham gia đánh giá quá trình và
kết quả học tập, rèn luyện, quá trình hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất
của con em mình; tích cực hợp tác cùng nhà trường trong các hoạt động giáo dục
học sinh.
- Giúp cán bộ quản lí các cấp kịp thời chỉ đạo các hoạt động giáo dục, đổi
mới phương pháp dạy học, phương pháp đánh giá nhằm đạt hiệu quả giáo dục.
1.3.2. Nguyên tắc đánh giá
- Đánh giá vì sự tiến bộ của học sinh; coi trọng việc động viên, khuyến
khích tính tích cực và vượt khó trong học tập, rèn luyện của học sinh; giúp học
sinh phát huy tất cả khả năng; đảm bảo kịp thời, công bằng, khách quan.
- Đánh giá toàn diện học sinh thông qua đánh giá mức độ đạt chuẩn kiến
thức, kĩ năng và một số biểu hiện năng lực, phẩm chất của học sinh theo mục tiêu
giáo dục tiểu học.

- Kết hợp đánh giá của giáo viên, học sinh, cha mẹ học sinh, trong đó đánh
giá của giáo viên là quan trọng nhất.
- Đánh giá sự tiến bộ của học sinh, không so sánh học sinh này với học sinh
khác, không tạo áp lực cho học sinh, giáo viên và cha mẹ học sinh.
1.3.3. Nội dung và cách thức đánh giá
- Đánh giá quá trình học tập, sự tiến bộ và kết quả học tập của học sinh theo
chuẩn kiến thức, kĩ năng từng môn học và hoạt động giáo dục khác theo chương
trình giáo dục phổ thông cấp tiểu học
- Đánh giá sự hình thành và phát triển một số năng lực của học sinh:
+ Tự phục vụ, tự quản;
+ Giao tiếp, hợp tác;
+ Tự học và giải quyết vấn đề.
- Đánh giá sự hình thành và phát triển một số phẩm chất của học sinh:
+ Chăm học, chăm làm; tích cực tham gia hoạt động giáo dục;
+ Tự tin, tự trọng, tự chịu trách nhiệm;
+ Trung thực, kỉ luật, đoàn kết;
+ Yêu gia đình, bạn và những người khác; yêu trường, lớp, quê hương, đất nước.
Bên cạnh những nội dung cơ bản như trên, Thông tư 30 cũng đưa ra những
quy định về Đánh giá thường xuyên; Đánh giá thường xuyên hoạt động học tập, sự
tiến bộ và kết quả học tập theo chuẩn kiến thức, kĩ năng từng môn học, hoạt động
giáo dục khác theo chương trình giáo dục phổ thông cấp tiểu học; Đánh giá thường
xuyên sự hình thành và phát triển năng lực của học sinh; Đánh giá thường xuyên
sự hình thành và phát triển phẩm chất của học sinh; Đánh giá định kì kết quả học
tập ...; và Sử dụng kết quả đánh giá.
2. Giải pháp cũ thường làm
Năm học 2014 – 2015 tôi đã áp dụng một số biện pháp để đánh giá học sinh
theo Thông tư 30. Cụ thể:

4



2.1. Đánh giá học sinh theo sự chỉ đạo của cấp trên
Ngay sau khi Thông tư 30/2014/TT-BGDĐT được ban hành, bản thân tôi đã
được tham dự các lớp tập huấn do phòng giáo dục và nhà trường tổ chức. Đồng
thời tôi cũng đọc và nghiên cứu Thông tư 30 và đã tập trung đánh giá học sinh ở
các nội dung sau:
+ Đánh giá quá trình học tập, sự tiến bộ và kết quả học tập theo chuẩn kiến
thức, kĩ năng từng môn học, hoạt động giáo dục.
+ Đánh giá sự hình thành và phát triển một số năng lực của học sinh.
+ Đánh giá sự hình thành và phát triển phẩm chất của học sinh.
Trong từng tiết học tôi thường xuyên theo dõi mọi hoạt động của học sinh,
những ưu điểm và những tồn tại hạn chế sau đó tranh thủ ghi chép những điều
mình quan sát được vào sổ tay riêng và cuối hàng tháng chắt lọc để ghi vào sổ theo
dõi chất lượng giáo dục. Học sinh nào tôi cũng ghi nhận xét đánh giá, tôi không bỏ
sót em nào. Do đó tôi phải tranh thủ mọi thời gian để viết các nhận xét, đánh giá, ở
trường không có cả thời gian ra chơi, phải tranh thủ viết nhận xét ở mọi lúc mọi
chỗ. Vì vậy, tôi cảm thấy việc ghi nhận xét học sinh cực kì vất vả và quá tải, áp
lực. Với cách làm như trên vào cuối học kì I và cuối năm học tôi phải vắt óc suy
nghĩ để ghi nhận xét trong học bạ của học sinh, việc ghi các nhận xét từng môn học
mất rất nhiều thời gian, đôi khi phải chuẩn bị viết ra giấy trước mới ghi vào học bạ.
Tôi cảm thấy rất căng thẳng và lúng túng.
2.2. Sử dụng những câu nhận xét sẵn có theo mẫu.
Việc nhận xét, đánh giá học sinh trong từng tiết học và hoạt động giáo dục
mất nhiều thời gian như trên nên tôi đã chuẩn bị những câu nhận xét trước cho
từng môn học. Chẳng hạn: Trong giờ Học vần khi học sinh học tốt thì tôi nhận xét:
“Em đã phát âm đúng, đọc to, rõ ràng”, còn đối với những học sinh còn gặp khó
khăn khi đọc tôi đưa ra nhận xét: “Em cần rèn đọc nhiều hơn nữa”. Trong các giờ
học Toán khi học sinh nắm vững bài tôi thường nhận xét: “Em làm bài tốt.” Hoặc:
“Em nắm vững bài”. Học sinh làm bài chưa đúng: “Em nắm bài chưa vững” hoặc
“Thực hiện các phép tính chưa thành thạo”.... Các câu nhận xét được sử dụng

nhiều lần trong một tiết học đối với giáo viên thì không mất thời gian suy nghĩ, còn
với học sinh được nhận xét đầu tiên cảm thấy rất vui, học sinh học chưa tốt thì nghĩ
mình sẽ cố gắng để học tốt hơn nhưng khi thấy nhiều bạn cũng được nhận xét như
mình thì học sinh không còn phấn khởi, phấn đấu nữa vì mình cũng giống như
nhiều bạn trong lớp. Hơn nữa sau nhiều lần sử dụng bản thân tôi cũng cảm thấy
mình thiếu đi sự linh hoạt trong các lời nhận xét, không thể hiện được sự ân cần,
điều mình mong mỏi đối với học sinh, không linh hoạt đưa ra những tư vấn, biện
pháp giúp học sinh tiến bộ.
* Ưu điểm của giải pháp cũ
- Giáo viên hoàn thành được nhiệm vụ giáo dục của mình là vừa nhận xét
được bằng lời vừa viết được nhận xét trong vở, sổ theo dõi chất lượng giáo dục đối
với tất cả học sinh.

5


- Giáo viên bớt lúng túng khi lên lớp hoặc có người dự giờ.
- Học sinh nào trong lớp cũng được giáo viên nhận xét, đánh giá nên thấy rất
vui.
* Nhược điểm của giải pháp cũ
- Giáo viên phải ghi nhiều nhận xét, lời nhận xét phải ghi rõ ràng, cẩn thận
nên mất nhiều thời gian. Mặt khác, mỗi môn học lại phải có lời nhận xét đặc trưng,
phải phù hợp với môn học nên giáo viên phải vắt óc nghĩ cho bằng được nhiều lời
nhận xét khác nhau nên giáo viên cảm thấy “quá tải”, hạn chế thời gian để nghiên
cứu bài dạy và quan tâm kèm cặp, bồi dưỡng phụ đạo học sinh.
- Giáo viên phụ thuộc vào những lời nhận xét sẵn có theo mẫu sẽ giảm sự
linh hoạt và nhạy bén khi đưa ra những lời nhận xét cụ thể cho từng đối tượng học
sinh, từng loại bài, từng môn học. Giảm khả năng tự điều chỉnh hoạt động dạy để
phù hợp với mọi đối tượng học sinh.
- Những lời nhận xét sẵn có được sử dụng lặp đi lặp lại mang tính áp đặt,

chung chung.
- Chưa phối hợp linh hoạt được các hình thức tuyên dương khen thưởng.
- Chưa khuyến khích tính tích cực và vượt khó trong học tập và rèn luyện
của học sinh, học sinh chưa rút ra được kinh nghiệm để tự điều chỉnh cách học của
mình, không điều chỉnh được những lỗi đã mắc theo nhận xét của cô giáo nên có
vẻ như lời nhận xét đưa ra không có hiệu quả.
- Giáo viên chưa đưa ra được lời tư vấn giúp đỡ để học sinh kịp thời sửa sai.
- Học sinh không phát huy vai trò cá nhân một cách tối đa trong các hoạt
động giáo dục.
- Học sinh không biết tự đánh giá mình và đánh giá bạn một cách tự tin.
- Học sinh chưa biết đưa ra những lời tư vấn cho bạn để bạn có hướng sửa
chữa phát huy.
Đây cũng chính là những khó khăn rất lớn mà bản thân tôi đã gặp phải khi
thay đổi cách đánh giá. Việc giáo dục, dạy dỗ học sinh, đưa ra những lời nhận xét
đánh giá và tư vấn cho học sinh cần phải thay đổi để phù hợp hơn với tinh thần của
Thông tư 30. Bởi thế tôi đã suy nghĩ và thay đổi các biện pháp đánh giá học sinh
trong năm học này nhằm giúp cho học sinh của mình tiến bộ.
3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
3.1. Biện pháp 1: Nâng cao nhận thức về việc đánh giá học sinh theo
Thông tư 30
Trong quá trình giáo dục, giáo viên giữ một vị trí, vai trò quan trọng. Giáo
viên là người trực tiếp giảng dạy, giáo dục học sinh, lên kế hoạch, tiến hành các
tiết dạy học, thực hành và phát triển các bài học trong chương trình giảng dạy
của nhà trường đồng thời cũng là người hàng ngày trực tiếp kiểm tra đưa ra những

6


đánh giá từng học sinh, theo dõi, quản lý học sinh theo các hoạt động của nhà
trường. Những đánh giá của giáo viên không chỉ đơn thuần là tổng kết, ghi nhận

kết quả học tập của học sinh trong một bài làm, một kì học, một năm học mà còn
tác động mạnh mẽ đến tâm lí, có thể tạo động lực để học sinh tiếp tục cố gắng học
tập và rèn luyện. Mặt khác, từ kết quả rèn luyện của học sinh, giáo viên có những
điều chỉnh phương pháp, hoạt động dạy học, giáo dục của giáo viên và hoạt động
học của học sinh sao cho phù hợp với từng đối tượng học sinh của mình.
Tuy nhiên sau khi nghiên cứu kĩ Thông tư 30 và sau hai năm thay đổi, tôi
thấy rằng bản thân cần thay đổi nhận thức.
+ Với lớp 1, hãy tăng cường nhận xét bằng miệng, bằng lời khen kết hợp với
những món quà nhỏ mà vô cùng ý nghĩa, gây hứng thú, lôi cuốn và tạo động lực
một cách bất ngờ cho trẻ.
+ Có ý kiến cho rằng: Đánh giá chung Hoàn thành/Chưa hoàn thành là kiểu
đánh giá “dở nhất” trong tất cả các kiểu đánh giá. Nó sẽ đánh đồng tất cả học sinh
vào 1 loại, không những làm cho phụ huynh học sinh mà ngay cả giáo viên cũng sẽ
thấy rất khó theo được kiểu đánh giá này. Nhưng theo tôi nếu chúng ta suy nghĩ
theo hướng tích cực, nghiên cứu kĩ mục tiêu của giáo dục tiểu học thì chúng ta
nhận ra rằng cách đánh giá mới hoàn toàn phù hợp với tâm sinh lí lứa tuổi tiểu học,
phù hợp với mục tiêu của giáo dục hiện đại “Giáo dục làm sao để trẻ biết cách
sống và biết sống”, phù hợp với yêu cầu về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục
và đào tạo vì đánh giá vì việc học, đánh giá chính là quá trình học.
Ngoài việc nâng cao nhận thức về ý nghĩa của việc đổi mới hình thức, nội
dung đánh giá, mỗi giáo viên chúng ta cũng cần quan tâm đến việc nâng cao chất
lượng dạy học bằng việc không ngừng học và tự học, vận dụng linh hoạt các hình
thức và phương pháp dạy học hiện đại nhằm lôi cuốn học sinh vào bài học, tạo cơ
hội cho nhiều học sinh được phát biểu ý kiến, mọi đối tượng học sinh trong lớp đều
được cô quan tâm, động viên. Tạo cơ hội cho tất cả học sinh đều chủ động, tích
cực tham gia vào các hoạt động, được bày tỏ, chia sẻ trong nhóm, trước lớp một
cách thường xuyên.
Với suy nghĩ như trên, tôi luôn tạo không khí thật vui vẻ trước khi bắt đầu
tiết học. Đó có thể là một câu nói vui, một lời hứa khen thưởng (Cô rất vui khi lớp
mình tích cực phát biểu; Ai tích cực trong tiết học sẽ được tặng phiếu đổi quà. Ai

là học sinh thông minh nhất sẽ trả lời được các câu hỏi trong bài học hôm nay; Ai
muốn là cá nhân tiêu biểu, xuất sắc?...)
Ngoài ra tôi cũng luôn ý thức phải động viên, quan tâm nhiều tới học sinh nhút
nhát, có thái độ tự ti bằng cách thủ thỉ với học sinh những lúc cầm tay học sinh tập viết,
khen ngợi trước lớp khi học sinh có tiến bộ nhỏ. Tôi luôn suy nghĩ “Nếu bạn thờ ơ với
hành động nhỏ của học sinh, bạn sẽ không bao giờ có học sinh tốt”.
Bản thân tôi luôn quan tâm, quan sát tất cả các hoạt động diễn ra trong lớp một
cách tỉ mỉ. Không chỉ quan sát học sinh trong giờ học mà tôi quan sát ở các giờ ra chơi,
trước khi vào lớp, khi tan học…để từ đó có những nhận xét, đánh giá khách quan và
mới tìm được những điểm mạnh, điểm cần khắc phục của học sinh.

7


Theo tôi, để có nhận xét, đánh giá đúng thì mỗi giáo viên cần quan sát một
cách tỉ mỉ, sát sao với tất cả các hoạt động của học sinh mình.
3.2. Biện pháp 2: Nghiên cứu kĩ các bài học, các môn học
Trước mỗi bài dạy, tiết dạy, tôi xác định chính xác mục tiêu, kiến thức, kĩ
năng, thái độ cần đạt ở mỗi bài dạy để từ đó định hướng cho mình: Nhận xét cái
gì? Nhận xét năng lực, kiến thức, kĩ năng nào của học sinh? Ở những vấn đề của
bài học hôm này cần quan tâm nhận xét những học sinh nào?
Ví dụ: Trong môn Tiếng việt 1- công nghệ giáo dục giáo viên cần dạy đúng
thiết kế, đúng quy trình 4 việc một cách nghiêm ngặt, vận dụng các bước trong
từng việc linh hoạt. Giáo viên không được phép xem nhẹ hay bỏ sót một thao tác
nào, không được thay đổi trật tự các thao tác. Từ đó dự kiến các lời nhận xét cho
phù hợp với từng bài, từng đối tượng học sinh, dự kiến những lời tư vấn, hướng
dẫn để học sinh sửa chữa khắc phục những tồn tại thiếu xót.
Chẳng hạn khi dạy bài vần /anh/, /ach/; vần /ênh/, /êch/; vần /inh/, /ich/…
giáo viên chú ý sửa ngọng cho những học sinh phát âm chưa chuẩn nhiều hơn là
những học sinh phát âm chuẩn rồi bằng cách cho học sinh phát âm, phân tích trong

nhóm; nghe bạn phát âm, phân tích trong nhóm để tự sửa và sửa cho nhau; cho học
sinh phát âm trước lớp, nghe giáo viên phát âm. Nếu học sinh phát âm còn chưa
chuẩn giáo viên khuyến khích, động viên các em như: “Nếu em chú ý lắng nghe
bạn, cô giáo phát âm cô tin em sẽ đọc đúng”. Hoặc nếu học sinh sửa được “Cô biết
em sẽ làm tốt”…
Khi viết chính tả học sinh chưa nắm vững luật chính tả về âm đệm, luật
chính tả e, ê … giáo viên yêu cầu: “Em hãy nhắc lại luật chính tả về âm đệm…”,
cho học sinh phân tích tiếng đó bằng tay rồi viết…
Trong môn Toán khi học sinh chưa thuộc các bảng cộng, trừ thì giáo viên
cần có những lời tư vấn, động viên, nhắc nhở như: “Em đọc lại bảng cộng, trừ
cùng các bạn trong nhóm”; “Nếu em chú ý hơn trong giờ học, cô tin rằng em sẽ
thuộc bảng cộng, trừ … ngay trên lớp…”.
Trong môn Đạo đức, một bài học được dạy trong hai tiết. Tiết một nhằm
cung cấp cho học sinh các kiến thức, các chuẩn mực hành vi đạo đức của con
người. Tiết học thứ hai giúp học sinh thể hiện những hành vi, thái độ, kĩ năng đã
được học ở tiết một thực hành vào thực tế cuộc sống. Xác định được mục tiêu tiết
học như vậy thì giáo viên sẽ nhận xét học sinh một cách chính xác, cụ thể và đúng
đối tượng mà mình muốn hướng tới.
Khi dạy bài: “Sách vở và đồ dùng học tập” giáo viên đưa ra một số tấm
gương biết giữ gìn sách vở, đồ dùng cẩn thận, cho cả lớp quan sát sách vở của
những học sinh đó đồng thời nhắc nhở, hướng dẫn lại cho những học sinh chưa
biết giữ gìn đồ dùng có ý thức hơn, biết những việc nên làm để sách vở, đồ dùng
học tập của mình luôn sạch sẽ, bền đẹp. Giao cho học sinh tự theo dõi, nhắc nhở
lẫn nhau và báo cáo thường xuyên việc giữ gìn, sắp xếp sách vở đồ dùng học tập
vào các tiết sinh hoạt lớp mỗi tuần. Tuyên dương khen ngợi những học sinh có tiến
bộ và thường xuyên giữ gìn sách vở cẩn thận, nhắc nhở động viên những học sinh
chưa giữ gìn và sắp xếp sách vở gọn gàng tự nhận xét, đánh giá việc làm của mình.

8



Như vậy, nếu người giáo viên muốn lời nhận xét, tư vấn của mình đúng đối
tượng, có trọng tâm, không sáo rỗng, không nhận xét kiểu chung chung, lời nhận xét,
tư vấn tác động trực tiếp đến học sinh, những vấn đề mà học sinh cần điều chỉnh theo
hướng tích cực thì đòi hỏi giáo viên phải suy nghĩ kĩ về mục tiêu bài dạy kết hợp với
thực tế quan sát các đối tượng học sinh hàng ngày, thường xuyên trong các hoạt động
khác nhau.
3.3. Biện pháp 3: Tích hợp các hình thức nhận xét, đánh giá trong quá trình giáo
dục và dạy học
Đối với học sinh lớp một cần tăng cường nhận xét bằng lời, đặc biệt là với đầu
năm học, khi học sinh mới bắt đầu tập đọc các tiếng bằng vật thật và mô hình, đọc
các âm … thì rõ ràng học sinh không thể đọc hiểu được lời nhận xét, đánh giá của
giáo viên ghi trong vở. Lúc này việc giáo viên thường xuyên nhận xét, đánh giá, tư
vấn bằng lời là việc cực kỳ cần thiết và hữu ích với học sinh. Cuối học kì I, học
sinh đã bắt đầu đọc được các câu dài. Lúc này lời nhận xét của giáo viên phải cụ
thể, rõ ràng, ngắn gọn. Ví dụ giáo viên chấm và ghi lời nhận xét ở bài làm của học
sinh:

9


Trên đây là một số ví dụ bài làm của học sinh được cô giáo chấm và được cô
giáo sửa lỗi, nhắc nhở, động viên. Theo tôi, nếu chúng ta quan tâm sát sao tới từng
học sinh, từng bài học, từng lỗi nhỏ như vậy sẽ giúp ích rất nhiều cho sự phát triển
toàn diện của học sinh (Học sinh vui vì được cô quan tâm; Những lời khen, lời
nhắc nhở là động lực để các em vươn lên; Kiến thức, kĩ năng: được cô sửa lỗi cẩn
thận để tránh mắc lại). Chính vì những lí do này nên đòi hỏi giáo viên, đặc biệt là
giáo viên lớp một phải quan tâm rèn chữ, cách trình bày sao cho khoa học.
Sau khi nhận xét, đánh giá, giáo viên có thể gặp riêng học sinh, chỉ rõ lỗi và nêu
lại lời nhận xét của mình cho học sinh nghe nhất là những học sinh cần được tư vấn,

hướng dẫn. Nhưng không thể nêu lại với tất cả học sinh trong lớp vì như thế không có
đủ thời gian. Vậy phải làm thế nào?

10


Tôi đã chia các đối tượng học sinh trong lớp thành các nhóm khác nhau để
có thể phát huy năng lực cá nhân và quan tâm tới tất cả các đối tượng học sinh
trong lớp:
+ Nhóm học sinh học tập tích cực, tiếp thu tốt, năng động, tự giác, tự tin thể
hiện bản thân trong tất cả các hoạt động.
+ Nhóm nhân tố bí ẩn - đây là những học sinh có năng lực tuy nhiên thiếu sự
quan tâm hoặc quan tâm chưa đúng cách từ phía phụ huynh hoặc có năng lực
nhưng nhút nhát…
+ Nhóm cần giúp đỡ - những học sinh này chỉ phát huy năng lực khi được
quan tâm, không bao giờ chủ động tham gia các hoạt động giáo dục, không tự tin,
khó khăn khi làm việc cá nhân….
+ Nhóm cần giúp đỡ đặc biệt - đây là nhóm đối tượng cá biệt: nghịch ngợm,
hiếu động, tự do, khó khăn trong nhận thức, giao tiếp….
Trong các môn học tôi lại chia nhỏ thành các nhóm năng lực khác nhau. Chẳng
hạn trong môn Tiếng Việt, tôi chia thành các nhóm:
+ Nhóm có kĩ năng thực hành tốt, thao tác nhanh, tự tin, mạnh dạn khi trình
bày trước lớp.
+ Nhóm có kĩ năng viết (đọc) cần cố gắng.
+ Nhóm cần sự hỗ trợ giúp đỡ từ thầy cô, bạn bè…
Từ việc chia thành các nhóm nhỏ như vậy, giáo viên có thể chủ động hơn
trong nhận xét, đánh giá; Mặt khác, giáo viên cũng định hướng đúng những mặt
học sinh cần giúp đỡ để từ đó quan tâm đến từng đối tượng cụ thể.
Ví dụ như trong lớp tôi năm nay có em: Đinh Quang Hà, Lê Duy Hoàng - là
những học sinh nhút nhát, tiếp thu khá khó khăn kiến thức cơ bản, hơi nghịch

ngợm nhưng rất chăm lao động, hay kê bàn ghế, tích cực vệ sinh lớp học, thu dọn
đồ dùng cùng cô giáo. Những lúc như vậy tôi đều động viên, khen ngợi các em và
tặng quà vào buổi sinh hoạt lớp, đồng thời nhắc nhở một cách nhẹ nhàng những
điểm em cần sửa, cần cố gắng. Trong từng tiết học tôi thường xuyên gọi các em
đọc bài, trình bày trước lớp nhất là trong môn Tiếng việt 1 – công nghệ giáo dục
tôi thường xuyên gọi các em lên tổ chức cho lớp chơi trò chơi giữa tiết học, tự
trình bày và giới thiệu về bản thân, trường lớp, thầy cô giáo và gia đình, tự đánh
giá việc đọc, viết của mình… Hoặc đối với em: Bùi Nguyễn Thị Thu Hồng - là
một học sinh khuyết tật, đầu năm học đến trường nhút nhát, không giao tiếp với ai.
Sau khi tìm hiểu về hoàn cảnh và tâm sinh lý của em tôi thường xuyên gần gũi, trò
chuyện động viên, hướng dẫn em tham gia học tập một cách tỉ mỉ, bắt tay khi em
không viết được, cùng em phát âm, phân tích, đánh vần, khi em phát âm đúng tôi
đã khen ngợi: “Em làm rất tốt”, “Cô hài lòng về em”, “Cô tin tưởng ở em, em sẽ
học tốt nếu em cố gắng…”. Với những lời động viên, khích lệ, sự quan tâm đặc
biệt em Hồng đã mạnh dạn, tự tin hơn, tham gia vào các hoạt động cùng các bạn.
Từ sự quan tâm học sinh như vậy đến cuối kì I tôi đã không khó khăn khi
ghi các nhận xét cho học sinh.
Cùng với lời nhận xét tôi đặc biệt quan tâm đến đặc điểm tâm lí của học sinh
là thích được khen, được tặng thưởng để động viên, khích lệ học sinh. Những món

11


quà rất nhỏ thôi, một cục tẩy, một chiếc bút, một cái nhãn vở, một quyển truyện
tranh, một hộp đất nặn...là những món quà không thể thiếu với cách thay đổi về
nhận xét, đánh giá mới với học sinh đặc biệt là học sinh lớp một. Học sinh sẽ vui,
phấn khởi thế nào khi trong vở có dòng chữ: Em viết có tiến bộ; Nét chữ của em
đẹp, đáng khen và kèm theo đó là một phiếu đổi quà! Cuối học kì I, sau khi dự sơ
kết toàn trường vào cuối buổi học hôm đó, tôi đã trực tiếp phát giấy khen và phần
thưởng trước lớp để các em cảm thấy phấn khởi, có mục tiêu phấn đấu, động viên

các em có tiến bộ để các em không cảm thấy buồn chán hay thua kém bạn bè và tự
đặt ra mục tiêu phấn đấu trong học kì II.

Tất cả những hình thức trên khi được áp dụng với học sinh lớp tôi, tôi thấy
có hiệu quả rõ rệt: học sinh hào hứng, phấn khởi trước khi bước vào bài học; Các
em thêm tự tin; Những học sinh nhút nhát, tiếp thu chậm luôn được giáo viên quan
tâm, giúp đỡ nên các em bớt dần tự ti để thể hiện mình.
3.4. Biện pháp 4: Phối hợp giữa các đoàn thể trong nhà trường trong
các hoạt động nhận xét, đánh giá học sinh
3.4.1. Phối hợp với các giáo viên bộ môn, Tổng phụ trách
Nếu trước đây, đánh giá học sinh chủ yếu dựa vào kết quả hai môn Toán và
Tiếng Việt thì hiện nay theo cách đánh giá mới đã thay đổi hoàn toàn. Một học
sinh phải được đánh giá toàn diện ở tất cả mọi mặt: kiến thức, kĩ năng, năng lực,
phẩm chất.
Để học sinh phát triển toàn diện như vậy thì một mình giáo viên chủ nhiệm
không thể làm tròn trách nhiệm này. Đây là lí do mà tôi rất coi trọng vai trò của
giáo viên bộ môn và Tổng phụ trách Đội.
Trước hết, tôi sẽ gặp gỡ trao đổi với đồng nghiệp về tình hình lớp học, sĩ số,
những học sinh cá biệt ngay từ đầu năm học. Tôi nghĩ rằng đây là một việc làm có
ý nghĩa hết sức quan trọng. Giáo viên chủ nhiệm chính là người tiếp xúc nhiều

12


nhất với học sinh ở trường, là người phải nắm rõ hơn các thầy cô khác về học sinh
của mình. Từ những trao đổi về đặc điểm lớp, khi dạy các tiết Âm nhạc, Mĩ thuật,
Thủ công. Thể dục giáo viên bộ môn sẽ có sự quan tâm cụ thể, giao những nhiệm
vụ phù hợp với đặc điểm của từng em từ đó mới phát huy hết năng lực cá nhân và
cùng với giáo viên chủ nhiệm đưa ra những nhận xét, đánh giá phù hợp với học
sinh, cùng giúp học sinh đó phát huy tố chất và nâng cao năng lực hành vi. Với đặc

điểm nổi trội của các cá nhân mà giáo viên chủ nhiệm cung cấp, thầy cô Tổng phụ
trách cũng sẽ chủ động lựa chọn nòng cốt cho các đội văn nghệ, tham gia các hoạt
động thể dục thể thao của nhà trường. Việc làm này cũng tạo thêm cơ hội để học
sinh lớp mình được tham gia vào các sân khấu lớn hơn, vượt ra khỏi phạm vi lớp
học, học sinh có cơ hội giao lưu với bên ngoài nhiều hơn.
Sau khi trao đổi, cung cấp thông tin về học sinh cho các giáo viên bộ môn,
Tổng phụ trách, giáo viên chủ nhiệm cũng sẽ tiếp nhận thông tin ngược trở lại từ
giáo viên bộ môn để có cái nhìn toàn diện, đầy đủ về học sinh từ đó đưa ra những
nhận xét, đánh giá chính xác về từng học sinh lớp mình.
Như vậy để đánh giá, nhận xét học sinh một cách toàn diện thì giáo viên chủ
nhiệm phải phối kết hợp chặt chẽ với các giáo viên bộ môn và giáo viên tổng phụ
trách đội.
3.4.2. Tăng cường vai trò của cá nhân và ban cán sự lớp
Bên cạnh những nhận xét, đánh giá từ các giáo viên, học sinh còn được tham
gia vào hoạt động tự đánh giá nhận xét bản thân và nhận xét đánh giá, tư vấn cho
bạn.
Ví dụ: Trong môn Tiệt việt 1- công nghệ giáo dục, khi dạy tiết 7, 8 “luật
chính tả về nguyên âm đôi”, ở việc 2 “đọc bài: Chiến thắng Bạch Đằng”. Nếu học
sinh đọc bài tốt tôi yêu cầu: “Em tự nhận xét, đánh giá việc đọc của minh”. Em học
sinh đó sẽ tự đánh giá mình: “Em đọc bài to, rõ ràng, tự tin, em sẽ phát huy hơn
nữa…” hoăc: “Em thấy mình đọc bài trôi trảy, rõ ràng, tự tin, em hứa sẽ cố gắng
hơn nữa…”. Nếu học sinh đọc bài chưa tốt, thì em học sinh đó tự đánh giá: “Em
đọc bài chưa trôi trảy, còn nhỏ, em sẽ rèn đọc thêm nhiều để đọc bài trôi trảy
hơn”… Song song với học sinh tự đánh giá mình, tôi yêu cầu các học sinh tham
gia đánh giá bạn. Cũng trong tiết 7, 8 “Luật chính tả về nguyên âm đôi”, việc 3
“viết chữ hoa M”, khi học sinh viết bảng con chữ hoa M cỡ nhỡ, cỡ nhỏ mà chữ
viết chưa ngay ngắn học sinh sẽ nhận xét: “chữ viết của bạn chưa ngay ngắn, bạn
nên rèn viết nhiều để chữ viết ngay ngắn hơn” hoặc “chữ viết của bạn chưa đủ độ
cao, bạn cần quan sát kĩ chữ mẫu để viết chữ đúng mẫu …”; Khi học sinh được
bạn nhận xét, tư vấn rồi, tôi hỏi lại học sinh đó: “Em cảm thấy thế nào khi nghe lời

nhận xét, tư vấn của bạn?”, học sinh đó trả lời: “Em thấy chữ viết của mình chưa
đúng mẫu, em cảm ơn bạn đã tư vấn, em hứa sẽ rèn viết nhiều cho chữ viết đúng
mẫu hơn…”. Như vậy khi khuyến khích học sinh tự nhận xét đánh giá và khuyến
khích học sinh tham gia nhận xét, đánh giá tư vấn cho bạn ở tất cả các tiết học của
từng môn học một cách linh hoạt thì học sinh sẽ có ý thức tự học, tự điều chỉnh
cách học; giao tiếp, hợp tác. Ngoài việc tự đánh giá nhận xét về bản thân và tham
gia đánh giá, tư vấn cho bạn ở các môn học thì học sinh tôi còn được tự đánh giá,
tham gia đánh giá bạn và mọi hoạt động của lớp trong giờ sinh hoạt cuối mỗi tuần.

13


Và đây là lí do tôi bầu luân phiên ban cán sự lớp. Mỗi học sinh trong lớp đều có cơ
hội tham gia vào các vị trí khác nhau : Lớp trưởng, lớp phó (lớp phó học tập, lớp
phó lao động, lớp phó văn nghệ….), tổ trưởng, tổ phó. Dù năng lực các em có khác
nhau nhưng khi được người lớn tin tưởng giao việc các em sẽ rất tự hào, coi đây là
một động lực vươn lên trong học tập, rèn luyện chứ không chỉ chăm chăm vào kết
quả học tập các môn văn hóa.
Ở lớp do tôi phụ trách cứ hết nửa học kì lại luân phiên bầu ban cán sự lớp và
các em trong lớp luôn có ý thức phấn đấu để được bạn bè, cô giáo tin tưởng giao
cho nhiệm vụ mới, những học sinh không còn giữ những vị trí trong ban cán sự lớp
cũng không cảm thấy buồn mà luôn có động lực để phấn đấu rèn luyện.
Như vậy khi học sinh mạnh dạn, tự tin tự đánh giá mình và tham gia đánh
giá bạn, phát huy vai trò của ban cán sự lớp, tất cả các em đều có cơ hội được làm
lớp trưởng, lớp phó … luân phiên nhau. Nếu tổ chức tốt được hoạt động này, giáo
viên cũng sẽ có những cơ sở thuận lợi để nhận xét, đánh giá học sinh một cách có
hiệu quả.
3.5. Biện pháp 5: Nâng cao chất lượng các buổi sinh hoạt tập thể, các tiết
hoạt động tập thể
Mục đích của các buổi sinh hoạt tập thể, các tiết hoạt động tập thể là: tạo ra

nhiều cơ hội để học sinh luyện tập, thực hành kĩ năng sống mà các môn học đã
cung cấp cho các em. Chẳng hạn như: kĩ năng nghe, nói, đọc, viết từ môn Tiếng
việt 1- công nghệ giáo dục, các kĩ năng giao tiếp trong môn Đạo đức, Tiếng việt,
các kĩ năng sống trong môn Toán, Tự nhiên và Xã hội, Thủ công, Mĩ thuật, Âm
nhạc, Thể dục…. giúp học sinh thêm tự tin, tích cực qua đó giáo viên điều chỉnh,
hướng dẫn thêm cho học sinh những điểm yếu mà trong quá trình học tập học sinh
mắc phải một cách nhẹ nhàng, mang tính khích lệ.
3.5.1. Tổ chức tốt các buổi sinh hoạt lớp
Trong các buổi sinh hoạt lớp, tôi thường tổ chức theo các nội dung chính sau:
Thời gian

Tiết:
Sinh
lớp

Nội dung hoạt động

Người điều khiển

-Nhận xét và tự nhận xét về:
- Ban cán sự lớp nhận
xét, bổ sung ý kiến
+ Đạo đức:
+ Chuyên cần:
+ Học tập:
hoạt + Các hoạt động khác:
+ Những bạn gặp khó khăn trong học tập, rèn
luyện:
+ Những bạn tiến bộ trong học tập:
- Nhận xét cụ thể ưu điểm của lớp và nêu - Giáo viên chủ nhiệm

gương cụ thể
+ Đạo đức:
+ Chuyên cần:

14


+ Hoạt động học tập:
. Có ý thức tốt khi tham gia vào các hoạt động
học tập:
. Có nhiều cố gắng trong học tập:
. Kết quả học tập, rèn luyện có tiến bộ:
+ Các hoạt động khác:
. Văn nghệ:
. Vệ sinh:
. Tham gia giao thông:
. Chăm sóc và bảo vệ cây, hoa:

+ Những học sinh gặp khó khăn trong học tập:
. Tư thế ngồi học:
. Đọc:
. Viết:
. Toán:
+ Những học sinh tiến bộ trong học tập:
- Năng lực:
- Phẩm chất:
- Nhắc nhở những tồn tại chung
- Bình bầu thi đua:
+ Cá nhân:
+ Tổ:


- Tất cả học sinh trong
lớp.
- Giáo viên chủ nhiệm

- Triển khai công việc tuần tới:

- Giáo viên chủ nhiệm

- Đăng kí thi đua:
+ Cá nhân:
+ Tổ:

- Học sinh

- Văn nghệ, liên hoan

- Ban cán sự lớp

Như vậy việc nhận xét, đánh giá được thực hiện xuyên suốt, trong tất cả các
tiết học và các hoạt động giáo dục mà học sinh được tham gia. Nếu có thực hiện
như vậy thì cách nhận xét, đánh giá mới mới có hiệu quả chứ không chỉ là nhận xét
qua loa, hời hợt và không biết nên nhận xét gì đối với học sinh.

15


Học sinh nhận xét đánh giá

Học sinh lắng nghe nhận xét


3.5.2. Động viên học sinh tham gia vào các phong trào văn nghệ, các sân
chơi trí tuệ do nhà trường tổ chức
Ngoài việc học tập trên lớp, học sinh cũng thể hiện rất rõ cá tính của mình
khi tham gia các phong trào, cuộc thi. Nắm được điểm này, giáo viên cần quan tâm
tới tất cả đối tượng học sinh trong lớp để khuyến khích các em tham gia. Với
những học sinh thích tham gia các hoạt động tập thể thường là những học sinh rất
năng động, tự tin và tích cực. Tuy nhiên có những học sinh có vẻ nhút nhát, ngại
tham gia các hoạt động tập thể lại đạt kết quả rất tốt khi được thầy cô động viên,
giúp đỡ. Từ các hoạt động này, giáo viên có thể đưa ra những nhận xét chính xác
hơn về năng lực của mỗi cá nhân học sinh.
Bên cạnh việc động viên học sinh tham gia các phong trào của trường, tôi
cũng động viên khuyến khích các em tham gia các sân chơi trí tuệ: tham gia giải
toán qua mạng Internet, Tham gia thi Trạng nguyên Tiếng Việt, Giao thông thông
minh… các em đều hào hứng, tích cực tham gia. Sau khi thi cấp trường tôi đã có
những phần quà nho nhỏ tặng các em để khích lệ, động viên mặc dù các em không
được chọn để đi thi cấp huyện nhưng các em vẫn tích cực tự luyện để nâng cao
kiến thức của mình.
“Học mà chơi, chơi mà học” với tinh thần đó tôi khuyến khích các em tham
gia các trò chơi dân gian do Đội tổ chức để giảm bớt căng thắng mệt mỏi sau các
giờ học. Do đó việc khuyến khích học sinh tham gia các phong trào văn hóa, văn
nghệ, thể dục thể thao, các sân chơi trí tuệ tạo điều kiện để học sinh được thể hiện
mình. Từ đó giáo viên lại có thêm những minh chứng để đánh giá, nhận xét học
sinh được toàn diện hơn.

16


Học sinh hội diễn văn nghệ


Học sinh thi vẽ tranh chào mừng 20-11

Thi kéo co

17


Vui chơi có thưởng
3.6. Biện pháp 6: Sử dụng linh hoạt các lời nhận xét nhằm động viên,
khuyến khích, giúp đỡ học sinh tiến bộ
3.6.1. Đối với các môn học
Bên cạnh việc quan tâm đến các biện pháp để giáo viên chủ động, khắc phục
khó khăn khi nhận xét, đánh giá học sinh theo Thông tư 30, tôi cũng đã suy nghĩ
và ghi lại một số lời nhận xét cho các môn học, đặc biệt là với môn Toán, Tiếng
Việt nhờ đó bản thân bớt lúng túng, khó khăn hoặc những lúc cảm thấy bí từ có
một điểm tựa để tham khảo. Ví dụ như:
Môn
Mức
độ
Tốt

Khá

TIẾNG VIỆT 1 CÔNG NGHỆ GIÁO DỤC
ĐỌC

VIẾT

NÓI


- Đọc tốt, to, rõ ràng,
tự tin, thật đáng khen!
- Đọc to, rõ ràng, trôi
trảy.
- Đọc đúng, trôi chảy

- Nét chữ đẹp, khéo léo,
trình bày bài khoa học.
- Viết đúng, sạch sẽ
- Viết đúng chính tả, đúng
cỡ chữ

- Đã biết nói thành
câu, tự tin trình
bày ý kiến trước
lớp.
- Nói rõ ràng,
mạch lạc
- Nói đúng yêu cầu
cần trao đổi.

- Đọc đúng nhưng đọc
còn nhỏ, có chữ phát
âm chưa rõ, em cố
gắng sửa lỗi phát âm
thì sẽ đọc tốt hơn.
- Đọc khá lưu loát, chú
ý sửa lỗi phát âm.

- Nét cong (khuyết, thắt…)

viết chưa đẹp, chưa đúng
cỡ chữ, nếu em quan sát
chữ mẫu kĩ hơn cô tin em
sẽ viết đẹp.
- Em chú ý ghi dấu thanh,
dấu phụ cho đúng luật

- Nói được câu, đủ
ý theo yêu cầu
nhưng chưa tự tin,
em nên tích cực
chia sẻ trước lớp.

18


- Đọc đúng chữ song chính tả.
em đọc còn ngọng,
phát âm chưa rõ tiếng
có thanh ngã, em cần
rèn thêm …

khó
khă
n

Cần
giúp
đỡ


- Đọc chưa lưu loát,
em cố gắng tự rèn đọc
cá nhân và tích cực
hơn trong khi đọc
nhóm.
- Cần rèn luyện thêm,
nếu em chăm chỉ rèn
đọc, cô tin em sẽ đọc
tốt hơn.
- Cố lên, rồi các em sẽ
đọc tốt như các bạn
nếu các em cố gắng
đọc bài nhiều ở lớp
cũng như ở nhà.

- Bài viết đúng, lưu ý nét
nối trong chữ…
- Lưu ý khoảng cách, vị trí
ghi dấu thanh
- Em nên chủ động rèn chữ
viết và kĩ năng trình bày
bài.

- Nói thành câu
nhưng chưa đủ ý.
- Em nói đủ câu,
nhưng diến đạt
chưa tốt, lần sau cố
gắng nhé.


- Đọc chưa nhanh,
quên chữ, chú ý nghe
cô giáo và bạn đọc để
đọc cho đúng.
- Em đánh vần lại
tiếng… cùng cô giáo.
- Em cần cố gắng
luyện đọc nhiều hơn
nữa nhé.
- Em cần rèn đọc lại
bài nhiều lần thì em sẽ
đọc tốt hơn …

- Viết chưa cẩn thận, chưa
đúng mẫu. Cần rèn chữ
nhiều em nhé.
- Cần chú ý ghi dấu thanh
rõ ràng, chú ý khoảng cách
các chữ cách nhau đúng
quy định. Cố gắng hơn em
nhé.

- Cần chú ý nói
thành câu.
- Chú ý nói thành
câu, em cố gắng
rèn thêm nhé.

Mức độ
Tốt


Khá

TOÁN
- Bài làm tốt, trình bày đẹp, đáng khen!
- Em hiểu bài và làm bài rất tốt, cô khen em!
- Nắm vững nội dung bài học
- Vận dụng kiến thức tốt
- Bài làm đúng, trình bày rõ ràng.
- Bài làm đúng song còn gạch xóa, viết số chưa rõ, cần chú ý rèn kĩ
năng trình bày bài.
- Còn sai 1, 2 phép tính.

19


- Vẽ đoạn thẳng chưa thẳng
- Lời giải của bài toán chưa đầy đủ, em đọc kĩ bài toán lần sau sẽ
không mắc phải lỗi này.
- Cần ghi nhớ kiến thức…

khó khăn

- Nắm kiến thức bài … chưa tốt, con cần ôn lại nội dung này
- Chưa nắm được kiến thức bài …, trình bày bài chưa rõ ràng, gạch
xóa, số viết chưa rõ.
- Cần cố gắng làm bài và chú ý nghe giảng hơn.

Những lời nhận xét trên được giáo viên sử dụng linh hoạt, ghi rõ ràng, cẩn thận
trong vở như một lời nhắc nhở, động viên học sinh, tư vấn học sinh. Ngoài ra với

những học sinh có cố gắng, có tiến bộ… để ghi nhận nỗ lực của các em, tôi có thể ghi :
- Cô rất vui vì sự tiến bộ của em.
- Cô rất tự hào vì có học sinh chăm ngoan như em.
- Em hãy cố gắng hơn nữa nhé!
- Sự cố gắng của em đã thành công! Em đã nắm chắc kiến thức cô dạy!(Chữ
viết, kĩ năng đọc, kĩ năng làm bài… của em đã tiến bộ)
3.6.2. Đối với việc xét tuyên dương khen thưởng học sinh
Dựa vào điều 16 Thông tư 30, Nhà trường đã giúp chúng tôi có thêm căn cứ để
dựa vào đó xét tuyên dương khen thưởng cho học sinh vào cuối kì I và cuối năm học
với Bộ tiêu chí tuyên dương khen thưởng học sinh. Dựa vào đây, giáo viên có thêm
cơ sở để có thể linh hoạt hơn trong nhận xét, đánh giá học sinh suốt quá trình học tập.
BỘ TIÊU CHÍ TUYÊN DƯƠNG KHEN THƯỞNG HỌC SINH
TT
1

2

Nội dung

Các tiêu chí

Nội dung 1: Đánh giá quá trình học
tập, sự tiến bộ và kết quả học tập của
học sinh theo chuẩn kiến thức, kĩ
năng từng môn học và hoạt động giáo
dục khác theo chương trình giáo dục
phổ thông tiểu học.

Tiêu chí 1: Đánh giá thường
xuyên đối với tất cả các môn

học và hoạt động giáo dục.
Tiêu chí 2: Kết quả học tập
thông qua kiểm tra định kì.
Tiêu chí 3: Thành tích trong
các cuộc thi.

Nội dung 2: Đánh giá sự hình thành Tiêu chí 1: Tự phục vụ, tự
và phát triển một số năng lực của học quản
sinh gồm 3 tiêu chí
Tiêu chí 2: Giao tiếp, hợp tác
Tiêu chí 3: Tự học và giải
quyết vấn đề.

3

Nội dung 3: Đánh giá sự hình thành Tiêu chí 1: Chăm học, chăm
và phát triển một số phẩm chất của làm; tích cực tham gia các hoạt
học sinh gồm 4 tiêu chí
động giáo dục

20


Tiêu chí 2: Tự tin, tự trọng, tự
chịu trách nhiệm
Tiêu chí 3: Trung thực, kỉ luật,
đoàn kết
Tiêu chí 4: Yêu gia đình, bạn
bè và những người khác; Yêu
trường, lớp, quê hương, đất

nước
3.7. Biện pháp 7: Phối hợp với cha mẹ học sinh trong nhận xét, đánh giá
Theo cách đánh giá trước đây, cha mẹ học sinh thực sự áp lực với con khi
con được ít hơn điểm 9, 10. Chính vì lí do đó họ cũng thường quan tâm sát sao hơn
với việc học tập của con, ép con học bằng bạn bằng bè, cho con đi học khắp nơi để
mong con có kết quả học tập tốt nhất. Ép buộc con học vì điểm số dẫn đến việc học
thêm tràn lan.
Hãy thay đổi nhận thức của các bậc phụ huynh!
Trước hết, giáo viên cần trao đổi kĩ về những thay đổi về nhận xét, đánh giá
trong các buổi họp phụ huynh; Giáo viên cần giải thích rõ về mục tiêu, ý nghĩa của
thay đổi để họ nhận ra: Cách nhận xét, đánh giá có cởi mở hơn, nhiều mặt hơn có
nghĩa là con em họ phải được quan tâm nhiều hơn, trang bị nhiều hơn các kinh
nghiệm và vốn sống. Điều này đòi hỏi phụ huynh quan tâm sát sao, phải thấu hiểu
được tâm tư nguyện vọng, hiểu được những thay đổi dù nhỏ trong tâm lí, tình cảm
của trẻ nhỏ mới mong có một “chồi non” khỏe mạnh, được trang bị đầy đủ các
kiến thức, kĩ năng để trẻ biết “sống”.
Thứ hai là giáo viên phải giúp phụ huynh hiểu rằng: Phải cùng con “có trách
nhiệm” với lời nhận xét, nhắc nhở của giáo viên. Với học sinh lớp một, không phải
trẻ nào cũng có kĩ năng đọc hiểu tốt dù lời nhận xét của giáo viên cố gắng đưa ra
thật ngắn gọn, xúc tích. Chẳng hạn như, khi nhận xét một bài tập viết có nét khuyết
cỡ chữ vừa, học sinh viết chưa đẹp, giáo viên có thể ghi nhận xét là: “Nét khuyết
của em viết chưa tròn đầu, chưa đủ độ rộng!”; “Nét khuyết cần viết đủ 5 li”…..Lúc
này, bố mẹ cần cùng với giáo viên giúp đỡ, hướng dẫn con để điều chỉnh nét bút
theo hướng dẫn còn nếu phụ huynh không quan tâm thì lời nhận xét của giáo viên
coi như không có tác dụng.
Thứ ba tôi tổ chức các tiết dạy mẫu cho các bậc phụ huynh dự giờ để nắm
được việc học tập của con em mình ở lớp, không những thế phụ huynh còn nắm
được cách đổi mới đánh giá của giáo viên với học sinh, của học sinh với học sinh,
học sinh tự đánh giá mình trong một tiết học cụ thể để thấu hiểu hơn về thông tư
30. Cuối buổi trao đổi ấy tôi khuyến khích phụ huynh tìm hiểu thêm về thông tư 30

trên mạng, và cung cấp địa chỉ hỏi đáp về Thông tư 30 cho phụ huynh nắm được.
Bên cạnh đó tôi cũng tham mưu với nhà trường chú trọng công tác tuyên
truyền tới toàn thể cha mẹ học sinh và cộng đồng về việc đổi mới cách đánh giá
nhận xét học sinh theo thông tư 30 thông qua đài truyền thanh 3 cấp, các buổi họp

21


phụ huynh đầu năm, cuối kì và cuối năm học để phụ huynh ngày càng hiểu hơn và
thông suốt về cách đánh giá mới này.
Năm học 2015-2016 với những biện pháp đã thực hiện như trên, tập thể phụ
huynh lớp do tôi chủ nhiệm luôn ủng hộ và giúp đỡ giáo viên trong công tác giáo
dục học sinh, trong những thay đổi về cách nhận xét, đánh giá mới và để cho
những nhận xét, đánh giá của giáo viên thật sự có hiệu quả, có tác động tích cực tới
học sinh.
Bên cạnh việc giúp phụ huynh hiểu ý nghĩa của những thay đổi về nhận xét,
đánh giá tôi cũng mạnh dạn trao đổi một số việc nên làm để trẻ thêm tự tin, tích
cực trong các hoạt động như phụ huynh nên để trẻ tự quyết định một số việc: Tham
gia các hoạt động con muốn, trẻ được chọn việc cảm thấy phù hợp với bản thân để
làm; phụ huynh không thể hiện thái độ kì vọng quá lớn vào con, không so sánh con
với bạn bè, anh chị xung quanh. Hãy đặt niềm tin vào trẻ!
Như vậy với cách nhận xét, đánh giá mới nếu giáo viên không có sự hợp tác
từ phía phụ huynh, phụ huynh không hiểu được mục đích giáo dục của giáo viên
trong mỗi lời nhận xét, đánh giá để cùng phối hợp giáo dục con mình thì những
thay đổi trong nhận xét, đánh giá khó có thể đạt hiệu quả mong muốn.
Nhận xét, đánh giá của giáo viên có thể phiến diện, thiếu chính xác nếu không
có sự kết hợp với gia đình học sinh, điều này đặc biệt dễ xảy ra với việc nhận xét,
đánh giá học sinh vào thời điểm đầu năm học.
Lúc này, giáo viên phải làm quen với rất đông học sinh, không có sự trao đổi với
giáo viên năm học trước như với học sinh lớp 2, 3, 4, 5. Chính vì vậy, điều đầu tiên

giáo viên nên làm là phối hợp với gia đình trong phiên họp phụ huynh đầu năm
học để điền đầy đủ thông tin trong phiếu điều tra đầu năm.
Nhận được những thông tin, tôi có thể chủ động khi làm quen, bắt nhịp với
học sinh một cách nhanh chóng đặc biệt là với học sinh cá biệt. Từ những nắm bắt
cơ bản ban đầu như vậy tôi tự tin hơn khi nhận xét, đánh giá học sinh. Những nhận
xét, đánh giá của giáo viên với học sinh cũng sẽ khách quan, phù hợp với từng đối
tượng học sinh hơn.
Hàng tuần tôi có những thông tin cụ thể gửi tới phụ huynh về tình hình học
tập, rèn luyện của học sinh. Giáo viên sẵn sàng lắng nghe những hồi đáp, thắc mắc
từ phía phụ huynh để có sự thông cảm, cùng hợp tác. Lời nhận xét của giáo viên có
thể khen ngợi hoặc chỉ ra những điểm cần lưu ý với con trong giao tiếp, ứng xử,
kiến thức, kĩ năng để phụ huynh cùng phối hợp giáo dục con em.
Ví dụ:
+ Với học sinh chưa tự tin, rụt rè, ngại phát biểu ý kiến: Em cần cố gắng
mạnh dạn hơn khi bày tỏ ý kiến. Nhờ bố mẹ cùng con hỏi đáp về bài học …..
+ Với học sinh chưa biết giữ vệ sinh thân thể, sách vở quần áo chưa biết giữ
gọn gàng: Em chú ý giữ bìa sách cẩn thận hơn. Cô giáo đã giúp em dán, bọc lại bìa
sách. Nhờ bố mẹ cùng con kiểm tra lại các loại sách vở, nhắc nhở con vệ sinh cá
nhân hàng ngày cho sạch hơn: vệ sinh răng miệng, rửa chân tay cho sạch….
+ Với học sinh chưa biết đoàn kết, hay trêu chọc bạn bè: Nhờ bố mẹ nhắc
con biết quan tâm, nhường nhịn bạn hơn.

22


Bên cạnh đó vào cuối học kì I và cuối năm học tôi gửi phiếu đánh giá của
cha mẹ học sinh về để lấy ý kiến đánh giá của cha mẹ về quá trình học tập và rèn
luyện của con em họ ở nhà. Vì thế khi học sinh nhận giấy khen mang về nhà thì tất
cả các phụ huynh đều hài lòng về kết quả mà con em mình đã đạt được.
Do đó việc phối kết hợp với gia đình học sinh thường xuyên là một trong

những biện pháp không thể thiếu cũng như không nên xem nhẹ trong công tác giáo
dục học sinh.
Tính mới, tính sáng tạo của giải pháp
- Giải pháp mới đã khắc phục được những nhược điểm mà giải pháp cũ
chưa làm được.
- Tạo điều kiện để giáo viên điều chỉnh, đổi mới phương pháp, hình thức tổ
chức hoạt động dạy học, hoạt động giáo dục phù hợp với từng đối tượng học sinh,
nâng cao chất lượng học tập của học sinh.
- Không tạo áp lực cho giáo viên, học sinh và phụ huynh.
- Giúp giáo viên đánh giá nhận xét học sinh một cách linh hoạt mà không
làm tổn thương đến học sinh.
- Sử dụng linh hoạt các giải pháp giúp học sinh tự điều chỉnh hoạt động học,
từ đó động viên các em phấn đấu vươn lên trong học tập và rèn luyện, góp phần
bồi dưỡng động cơ học tập đúng đắn cho học sinh. Là cơ hội để học sinh được thể
hiện mình, tự tin trong giao tiếp, hợp tác.
- Tạo mối quan hệ học tập, chia sẻ, động viên giúp đỡ giữa các học sinh với
nhau, tạo sự gắn bó giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong công tác giáo dục
học sinh.
4. Hiệu quả của sáng kiến
Sau khi áp dụng các biện pháp ở trên bản thân tôi đã rút ra cho mình nhiều
bài học quý báu, những kinh nghiệm giúp tôi hoàn thành tốt công tác chủ nhiệm,
giảng dạy và giáo dục học sinh, đưa ra những nhận xét, đánh giá thực sự có hiệu
quả với học sinh. Tôi nhận thấy mỗi đồng chí chúng ta nên thường xuyên tự học,
tự bồi dưỡng, những gì mình băn khoăn trăn trở nhất thì mình càng cần đầu tư thời
gian nghiên cứu, học hỏi ghi chép lại để tìm hiểu ngọn ngành của vấn đề.
Trong quá trình áp dụng các biện pháp đánh giá ở trên cho học sinh lớp 1B
năm học 2015 - 2016. Tôi đã đạt được những kết quả đáng khích lệ sau:
Tất cả các học sinh trong lớp đều được giáo viên quan tâm nhằm phát huy
những mặt mạnh và khắc phục những nhược điểm. Các em đều rất tự tin khi phát biểu
ý kiến, trong giao tiếp với thầy cô, bạn bè. Học sinh đều cảm thấy mỗi ngày đến lớp là

một ngày vui. Các học sinh trong lớp không bao giờ chê bai nhau : Bạn này học giỏi,
bạn kia học dốt. Các em trong lớp chơi hòa đồng, đoàn kết, vui vẻ; có thái độ tích cực,
tự giác khi tham gia các hoạt động tập thể.

23


Bên cạnh đó, khi giúp phụ huynh hiểu được mục đích của những thay đổi trong
nhận xét, đánh giá học sinh, tôi cũng nhận được sự ủng hộ phối hợp có hiệu quả hơn
từ các vị phụ huynh với giáo viên trong dạy học và giáo dục các em.
Với năm học 2015-2016 này, lớp học do tôi phụ trách còn đạt được một số
kết quả sau:
Em Nguyễn Việt Tiến, em Đào Trần Thảo Vy đạt giải khuyến khích thi Giải
toán qua mạng- cấp huyện
Em Nguyễn Việt Tiến, Phạm Khánh Linh tham gia thi Trạng nguyên Tiếng
việt qua mạng.
Em Phạm Khánh Linh đạt giải Nhất thi Viết chữ đẹp cấp trường.
Em Lê Thị Hà Anh đạt giải Nhì thi Viết chữ đẹp cấp trường.
Em Vũ Bảo Minh Châu, Đào Trần Thảo Vy đạt giải Ba thi Viết chữ đẹp cấp trường.
Trong học kì I có 5 em được khen toàn diện và 11 em được khen từng mặt.
Những kết quả rèn luyện, phấn đấu của học sinh như trên như một động lực
giúp tôi cố gắng, phân đấu hơn nữa để làm tròn trách nhiệm cao cả mà xã hội đã
giao cho mỗi nhà giáo chúng tôi.
5. Điều kiện và khả năng áp dụng
Qua thực tế hai năm học tôi thấy rằng, việc thay đổi cách nhận xét, đánh giá
mới theo Thông tư 30 là hoàn toàn phù hợp với xu hướng giáo dục hiện đại và tinh
thần của nghị quyết Trung ương số 29-NQ/TW ngày 4 tháng 11 năm 2013 về đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phù hợp với tâm lý học sinh tiểu học là
cần sự động viên, khen ngợi, hướng dẫn, chỉ bảo ân cần của thầy cô để các em tự
tin, thích học và học được. Cách đánh giá này là một quyết định đột phá với giáo

dục tiểu học, là một quan điểm tiến bộ trong giáo dục.
Theo cách nhận xét, đánh giá mới, học sinh không còn là trung tâm của sự
chỉ trích mà học sinh được thực sự quan tâm giáo dục và định hướng tới những
hành vi đạo đức chuẩn mực, chủ động tiếp nhận kiến thức, kĩ năng phù hợp với
năng lực mà không bị nhồi nhét. Học sinh có thể đạt ở mức độ phù hợp với năng
lực cá nhân và được mọi người ghi nhận. Từ những thay đổi này áp lực với học
sinh, với phụ huynh cũng sẽ giảm bớt.
Không chỉ học sinh tiểu học mà bất kì một học sinh nào đều cảm thấy rất vui
khi được khen ngợi, khuyến khích, động viên. Bởi thế trong quá trình giáo dục
những lời động viên, khích lệ, tư vấn, những món quà nhỏ, những đánh giá đúng,
kịp thời, … của giáo viên luôn là nguồn động viên để học sinh có ý chí vươn lên,
tự điều chỉnh mọi hoạt động học tập và rèn luyện của bản thân.
Việc áp dụng các biện pháp đánh giá trên phải thực sự linh hoạt. Chúng ta
cần hiểu rằng, giống như cây non, mọi sự uốn nắn, thay đổi phải được tiếp thu dần
dần chứ không thể áp đặt, ép buộc.
Những giải pháp trên tôi đã áp dụng có hiệu quả cao trong lớp 1B và tôi đã
mạnh dạn trao đổi với đồng nghiệp trong các buổi chuyên đề, hội thảo cấp trường,
tổ, từ đó các đồng nghiệp cùng nhau vận dụng và đều đạt hiệu quả cao ở trường
Tiểu học Thanh Lạc huyện Nho Quan.

24


Với hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm của tôi, tôi muốn chia sẻ cho các đồng
nghiệp trong toàn huyện, tỉnh tham khảo để áp dụng trong công tác giảng dạy đặc
biệt trong việc đánh giá, nhận xét học sinh theo Thông tư 30.
Trên đây là một số kinh nghiệm của tôi đã thực hiện theo sự thay đổi nhận
xét, đánh giá mới của Thông tư 30. Với những cách làm trên, lớp học do tôi làm
công tác chủ nhiệm trong hai năm vừa qua có một số thành công nhất định, học
sinh thực sự cảm thấy vui vẻ mỗi ngày đến lớp, phụ huynh cũng không bị áp lực

với thành tích học tập của con, những nhận xét, đánh giá của giáo viên với học
sinh có hiệu quả và phụ huynh cảm thấy yên tâm với sự quan tâm, sát sao của cô
giáo với con mình.
Tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các cấp lãnh đạo, bạn bè đồng nghiệp!
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Kết quả thẩm định đánh giá của nhà trường.
……………………………………………
……………………………………………
……………………………………………
……………………………………………
……………………………………………

25

Thanh Lạc, ngày 20 tháng 4 năm 2016
Người viết

Nguyễn Thị Lan


×