Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

SKKn nâng cao hứng thú học lịch sử việt nam 1919 1954 bằng việc sử dụng văn thơ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (371.72 KB, 22 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRIỆU SƠN 4

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

SỬ DỤNG THƠ VĂN KẾT HỢP VỚI 1 SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY
HỌC TÍCH CỰC GÓP PHẦN NÂNG CAO HỨNG THÚ HỌC
TẬP LỊCH SỬ CHO HỌC SINH KHI DẠY PHẦN LỊCH SỬ
VIỆT NAM TỪ NĂM 1919 ĐẾN NĂM 1954.

Người thực hiện: Ninh Thị Cúc
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc môn: Lịch sử

THANH HOÁ, NĂM 2013


A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt Nam là một quốc gia có bề dày lịch sử và văn hóa. Trong 4000 năm
dựng nước và giữ nước với bao biến cố thăng trầm Việt Nam vẫn đứng vững và
vươn lên. Một trong những động lực giúp nhân dân Việt Nam kiên cường và bền
bỉ như vậy là nhờ những trang sử hào hùng mà cha ông ta để lại. Vì vậy tiếp thu
và kế thừa được di sản văn hóa vô giá này sẽ là hành trang quan trọng cho sự
phát triển của đất nước trong tương lai.
Cùng với các môn học khác môn lịch sử ở trường phổ thông đang đóng
góp một phần quan trọng vào việc giáo dục nhân cách, phẩm chất đạo đức con
người Việt Nam mới. Tại Đại hội khoa học lịch sử lần thứ III, tổng bí thư Đỗ
Mười đã phát biểu: “Cùng với quá trình quốc tế hóa ngày càng mở rộng thì
trở về nguồn là xu thế chung của các dân tộc trên thế giới. Với chúng ta đó là
sự tìm tòi phát hiện ngày càng sâu sắc hơn những đặc điểm xã hội Việt Nam,
những phẩm chất cao quí, những giá trị truyền thống và những bài học lịch


sử giúp chúng ta lựa chọn và tiến hành những bước đi thích hợp hướng tới
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Tuy nhiên hiện nay môn lịch sử đang ngày càng ít được quan tâm, chú ý. Do
đó chất lượng dạy và học lịch sử đang ngày càng giảm sút. Một mùa tuyển sinh
mới lại đến với bao bộn bề, lo lắng của các sĩ tử. Và năm nào môn lịch sử cũng
trở thành “nỗi nhức nhối” của toàn xã hội. Làm sao để nâng cao chất lượng dạy
và học lịch sử, làm sao để học sinh hứng thú khi mỗi tiết học lịch sử đến, làm
sao để học sinh hiểu biết nhiều về lịch sử dân tộc?…… là nỗi trăn trở của rất
nhiều người Việt nam yêu nước, đặc biệt là của những thầy cô đang trực tiếp
giảng dạy bộ môn. Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy lịch sử và thấy được
thực trạng hiện nay của việc dạy và học lịch sử tôi vô cùng lo lắng. Theo tôi để
học sinh yêu thích lịch sử, để môn lịch sử có được “chỗ đứng” vững chắc trong
thời kì hiện đại thì cần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn, trong đó đổi mới
phương pháp và vận dụng có hiệu quả các phương tiện dạy học có vai trò cực kì


quan trọng. Nhà giáo dục Mỹ J.Dewey cho rằng “Học sinh là mặt trời, xung
quanh nó qui tụ mọi phương tiện giáo dục”.
Nhằm nâng cao chất lượng dạy học lịch sử lớp 12 tôi đã chọn đề tài: “Sử
dụng thơ văn và 1 số phương pháp dạy học tích cực góp phần nâng cao hứng
thú học tập lịch sử cho học sinh khi dạy phần lịch sử Việt Nam từ năm 19191954” làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm của mình trong năm học 2013-2014.


B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1. Cơ sở lí luận
Sinh thời Bác Hồ đã căn cặn thế hệ trẻ Việt Nam :
“Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”
Có thể nói Việt Nam là một quốc gia có bề dày lịch sử và văn hóa. Trải qu

hơn 4000 năm dựng nước và giữ nước đã có rất nhiều biến cố, thăng trầm diễn
ra trên đất nước hình chữ S này. Vậy làm sao để những người đời sau có được
cái nhìn khách quan, toàn vẹn về lịch sử dân tộc, về những gì ông cha ta đã làm
để bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ Quốc? Tất cả những vấn đề này đặt
lên vai môn lịch sử và những người giảng dạy lịch sử. Trong tiến trình phát triển
cưa lịch sử dân tộc, ngoài những thành tựu văn hóa, sự phát triển kinh tế đất
nước, thì chiếm thời lượng không nhỏ trong chương trình bộ môn là những cuộc
đấu tranh kiên cường, bền bỉ của dân tộc để chống lại các thế lực ngoại xâm.
Môn lịch sử lớp 12 bao gồm 2 phần: Lịch sử thế giới từ năm 1945 đến
nay và lịch sử Việt Nam từ năm 1919- nay. Trong đó Lịch sử Việt Nam chiến
tới 2/3 thời lượng chương trình. Tìm hiểu lịch sử dân tộc là nội dung cơ bản nhất
của chương trình lịch sử lớp 12. Lịch sử Việt Nam từ năm 1919-1954 chứng
kiến cuộc đấu tranh anh dũng, bất khuất, bền bỉ của quân và dân ta trong cuộc
kháng chiến chống Pháp. Đây là 1 giai đoạn cực kì quan trọng, chi phối sự phát
triển của lịch sử dân tộc trong các giai đoạn lịch sử tiếp theo.
Tuy nhiên có 1 thức tế là môn những năm gần đây môn lịch sử ở tất cả
các cấp học đang dần được rất ít học sinh chú ý đến. Lên lớp 12 việc học lịch sử
đối với học sinh lại càng trở nên nặng nề và mang tính chất đối phó. Bởi lẽ hiện
nay cùng với sự phát triển chung của xã hội thì nhiều người nghĩ rằng học lịch
sử không còn phù hợp với thời “Kinh tế thị trường” so với các ngành nghề
khác. Vì vậy đa số học sinh chỉ chú ý học các môn khoa học tư nhiên mà rất ít
chú ý đến các môn học xã hội. Vì vậy các môn xã hội nói chung và môn lịch sử


nói riêng đang bị xem nhẹ. Vẫn còn đó sự kiện gây nhức nhối trong xã hội, đó là
năm học 2012-2013 học sinh trường THPT Nguyễn HIền (Thành phố Hồ Chí
Minh) sau khi nghe bộ GD-ĐT thông báo các môn thi tốt nghiệp không có môn
lịch sử thì lập tức vui mừng, sung sướng xé toàn bộ tài liệu ôn thi môn lịch sử
rồi tung trắng sân trường. Việc làm đó của học sinh trường Nguyễn Hiền là một
hồi chuông cảnh báo về vấn đề học lịch sử và ý thức đối với bộ môn lịch sử hiện

nay của học snh THPT.
Để nâng cao chất lượng dạy học bộ môn trước hết phải làm cho học sinh
hứng thú trong mỗi tiết dạy để từ đó các em thấy được sự lo gic, mối liên hệ
giữa sự kiện lịch sử này với sự kiện lịch sử khác, giai đoạn lịch sử này với giai
đoạn lịch sử khác và các em sẽ thấy bài học lịch sử không còn khô khan, nhàm
chán nữa. Sử dụng thơ văn trong dạy học lịch sử kế hợp với 1 số phương pháp
dạy học là biện pháp hữu hiệu góp phần nâng cao hứng thú học tập lịch sử cho
học sinh. Nâng cao hứng thú học tập lịch sử cho học sinh cũng có nghĩa là nâng
cao hiệu quả học tập của môn học, nâng cao hiểu biết của học sinh đối với lịch
sử dân tộc, từ đó góp phần giáo dục, đào tạo một đội ngũ thế hệ trẻ Việt Nam có
bản lĩnh trong quá trình hội nhập và phát triển, giàu lòng yêu nước, yêu chủ
nghĩa xã hội, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện tốt chính sách pháp
luật của nhà nước…..trong đó quan trọng trọng nhất là phát huy, khơi dậy lòng
yêu nước đang tiềm ẩn trong mỗi con người Việt Nam.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
- Kiểm tra, đánh giá thực trạng của việc học tập lịch sử Việt Nam giai đoạn
1919-1954 của học sinh. Qua đó giáo viên tìm ra những giải pháp nhằm nâng
cao ý thức, hứng thú, niềm đam mê tìm hiểu lịch sử của học sinh.
- Nâng cao kết quả học lịch sử cho học sinh.
- Giáo dục lòng yêu nước, biết ơn những anh hùng có công với đất nước, bảo tồn
các di sản văn hóa dân tộc, có tinh thần trách nhiệm cao đối với Tổ Quốc.
3. Đối tương nghiên cứu của đề tài


- Đối tượng nghiên cứu là bộ môn lịch sử lớp 12 ban sơ bản và học sinh THPT
lớp 12.
- Để có cơ sở đánh giá hiệu qủa của đề tài trong thực tế giảng dạy tôi chọn 2
lớp của trường THPT Triệu Sơn 4 là lớp 12 C7 (năm học 2012-2013) làm lớp
đối chứng và lớp 12A3 (năm học 2013-2014) làm lớp thực nghiệm. Hai lớp này
đều là 2 lớp mà 100% học sinh theo khối A, có sự tương đồng về tinh thần, thái

độ và kết quả học tập môn lịch sử.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ
1. Thực trạng về hứng thú học tập của học sinh khi dạy phần lịch sử Việt
Nam từ năm 1919-1954.
Ở trường THPT Triệu Sơn 4 trước khi dạy sang phần II lịch sử Việt Nam từ
năm 1919-1954 tôi thường giành 1 ít thời gian để kiểm tra hứng thú học lịch sử
của học sinh giai đoạn này, từ đó có thể rút ra những nguyên nhân chính dẫn đến
việc học sinh không hào hứng khi học lịch sử, đưa ra những biện pháp khắc
phục những nguyên nhân của tình trạng trên nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy
bộ môn.
Tôi sử dụng phiếu điều tra về hứng thú học tập của học sinh lớp 12 C7,
12A3 ở phần lịch sử Việt Nam 1919-1954 (lưu ý phiếu điều tra không ghi tên
người được điều tra để đảm bảo yếu tố khách quan) và nhận được kết quả như
sau:
Mức dộ hứng thú

Rất thích
Bình thường
Không thích
Tổng

Năm học 2012-2013
Lớp 12C7
SL
%
6
12,7
19
40,5
22

46,8
47
100

Năm học 2013-2014
Lớp 12A3
SL
%
7
15,6
18
40
20
40
45
100

Qua bảng điều tra ta thấy số lượng học sinh rất thích môn lịch sử ở cả 2 năm
học là rất ít. Còn lại đa số học sinh được điều tra cảm thấy bình thường hoặc
không thích học lịch sử giai đoạn này. Đáng chú ý là ở cả 2 năm học các em


không thích học phần lịch sử này chiếm tỉ lệ khá cao (Lớp 12C7 là 46,8% 12 A3
là 40%).
2. Kết quả của thực trạng trên.
- Từ việc không thích học lịch sử Việt Nam dẫn đến tình trạng vốn kiến thức
lịch sử dân tộc của các em ngày càng bị thu hẹp, các em có lối sống mơ hồ, thực
dụng, thích hưởng thụ mà không có ý thức cống hiến.
- Nhiều em quay lưng với lịch sử dân tộc, không hiểu được nguồn gốc, qui
luật phát triển của xã hội loài người dẫn đến một bộ phận thế hệ trẻ Việt Nam sẽ

sống lệch lạc, mất gốc, không biết trân trọng quá khứ.
- Do không thích học lịch sử dân tộc, không tìm hiểu cụ thể vầ lịch sử dân
tộc nên nhiều học sinh khi còn nhầm lịch sử Việt Nam với lịch sử các dân tộc
khác như nhầm nhân vật lịch sử Trung Quốc với nhân vật lịch sử Việt Nam,
nhầm lẫn sự kiện này với sự kiện khác. Nguy hiểm hơn nhiều em do không chú
ý học lịch sử dân tộc nên khi học thường hiện đại hóa lịch sử thậm chí xuyên
tác, bôi nhọ lịch sử, không có ý thức đấu tranh đúng mực trong cuộc sống, sống
nông nổi, nhất thời, lòng yêu nước suy giảm nghiêm trọng.
- Các bài kiểm tra ở trên lớp, các kì thi do bộ GD-ĐT tổ chức chất lượng các
bài thi lịch sử rất thấp. Các kì thi, cuộc thi gần đây làm cho việc học lịch sử trở
nên báo động. Vẫn còn đó hàng nghìn thí sinh bị điểm 0 trong kì thi đại học năm
học 2010 2011, trong kì thi tuyển sinh đại học năm học 2011- 2012 lịch sử là
môn có điểm thấp nhất, số bài thi sử dưới điểm trung bình là 80 - 90 %, có
những trường điểm sử cao nhất là 5,25.
3. Nguyên nhân của thực trạng trên
Trước những kết quả trên tôi đã giành thời gian tìm hiểu những nguyên
nhân, từ đó đề ra những nguyên nhân để khác phục việc học sinh chán học lịch
sử, giúp các em thấy được tìm hiểu lịch sử là trở về với cội nguồn dân tộc, với
quá khú bi thương mà hào hùng của dân tộc Việt Nam. Qu tìm hiểu ở 2 lớp
12C7 và 12 A3 trong 2 năm học khác nhau tôi thu được kết quả như sau:
- Năm học 2012-2013


Lớp


số

12C7 47


Do học sinh
không theo
khối C chỉ tập
trung học các
môn khối A

SL
12

%
25,5

Nguyên nhân
Do kiến thức
Do phương
SGK khô khan, pháp giảng
nặng nề
dạy khô
khan, buồn
tẻ, nặng về
trình bày
các sự kiện
đã diễn ra
SL
%
SL
%
10
21,2
22

46,8

Ý kiến
khác

SL
03

%
6,5

- Năm học 2013-2014

Lớp


số

12A3 45

Do học sinh
không theo
khối C chỉ tập
trung học các
môn khối A

SL
13

%

28,9

Nguyên nhân
Do kiến thức
Do phương
Ý kiến
SGK khô khan,
pháp giảng
khác
nặng nề
dạy khô khan,
buồn tẻ, nặng
về trình bày
các sự kiện đã
diễn ra
SL
%
SL %
SL %
11
24,4
19 42,2
02 4,5

Qua bảng thống kê trên ta thấy có nhiều nguyên nhân dẫn đến học sinh
không hứng thú khi học lịch sử, nhưng nguyên nhân quan trọng nhất đó là do
phương pháp giảng dạy khô khan, buồn tẻ, nặng về trình bày các sự kiện đã diễn
ra làm cho tiết học lịch sử trở nên nặng nề, việc học lịch sử trở thành những buổi
liệt kê những sự kiện đã xảy ra trong quá khứ. Vì vậy nhiều học sinh cảm thấy
“sợ” khi phải học lịch sử.

III. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919-1954 là một giai đoạn lịch sử khá dài, gắn
với nhiều sự kiện lịch sử có ý nghĩa quan trọng, nó chi phối sự phát triển của


lịch sử dân tộc trong các giai đoạn tiếp theo. Vì vậy hiểu rõ được lịch sử giai
đoạn này học sinh sẽ có được cái nhìn khái quát nhất về lịch sử Việt Nam, con
người và dân tộc Việt Nam, thấy được chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam
giia đoạn này được tỏa sáng hơn bao giờ hết. Vậy để làm được điều đó, giáo
viên phải đóng vai trò quan trọng trong việc tạo hứng thú, niềm tin cho các em
trong từng tiết học. Để các em nhận ra rằng lịch sử không đơn thuần là những sự
kiện khô khan sứng nhắc giáo viên vần kết hợp lồng ghép thơ văn và 1 số
phương pháp dạy học trong quá trình dạy.
1. Vai trò của thơ văn và 1 số phương pháp dạy học tích cực khi dạy phần
lịch sử Việt Nam từ năm 1919- 1954
Có một thời kì dài trong nền giáo dục Việt Nam có quan niêm “văn - sử triết bất phân”. Qua đó ta thấy văn học và lịch sử có mối quan hệ mật thiết với
nhau. Các nhà văn, nhà thơ dựa vào hiện thực lịch sử để viết nên những tác
phẩm văn học phản ánh trung thực, sống động các hoạt động của con người.
Ngược lại khi đọc các tác phẩm văn học, bức tranh về lịch sử dân tộc được hiện
ra một cách chân thực lôi cuốn.
Từ lâu đến nay môn lịch sử thường được đánh giá là môn học khô khan,
nặng nề bởi có quá nhiều sự kiện được phản ánh buộc học sinh phải tiếp thu
trong 1 khoảng thời gian hạn hẹp. Mô típ “thời gian- sự kiện” cứ lặp đi lặp lại
trong mỗi bài học lịch sử làm cho người dạy đau đầu, người học nhàm chán.
Văn học là món ăn tinh thần không thể thiếu được đối với con người. Khi đọc
các tác phẩm văn học, đặc biệt là những bài thơ ta thấy tâm hồn mình êm mát,
thư thái lạ thường. Chúng ta nên tận dụng những yếu tố tích cực của văn học để
loại bỏ những hạn chế trong quá trình dạy học lịch sử, để giờ dạy học lịch sử trở
nên nhẹ nhàng, thu hút hơn. Khi dạy lịch sử kết hợp với việc đưa 1 số đoạn thơ,
đoạn văn phù hợp vào sẽ giúp học sinh nhớ lâu, nhớ kĩ, khắc họa đậm nét sự

kiện, nhân vật lịch sử. Các em sẽ diễn đạt tốt các vấn đề lịch sử, hành văn thuần
thục hơn.


Tuy nhiên sử dụng văn học thôi chưa đủ, chúng ta cần phải kết hợp với việc
sử dụng 1 số phương pháp dạy học tích cực để nâng cao chất lượng bộ môn.
Hiện nay đổi mới phương pháp giáo dục đang được Đảng, Nhà nước, Bộ GDĐT đặt ra 1 cách cấp thiết và là mục tiêu hàng đấu của giáo dục Việt Nam thời
kì đổi mới. Nhưng đổi mới phương pháp giáo dục không có nghĩa là loại bỏ
những phương pháp dạy học cũ và thay vào đó là những phương pháp dạy học
mới mà cần phải duy trì những yếu tố tích cực của phương pháp cũ và đưa thêm
1 số phương pháp mới phù hợp vào giảng dạy.
Lịch sử là một môn học có đặc thù riêng. Là một môn xã hội nên trong quá
trình giảng dạy môn lịch sử không thể thiếu phương pháp tường thuật, miêu tả.
Bởi khi trình bày về diễn biến của các trận đánh, tiến trình của những hội nghị,
đại hội…… mà không sử dụng 2 phương pháp này thì bài giảng lịch sử sẽ không
đem lại hiệu quả.
Ví dụ: Khi dạy về sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam giáo viên cần sử
dụng phương pháp miêu tả để miêu tả về bối cảnh của hội nghị thành lập Đảng
tại Hương Cảng- Trung Quốc (1930): “”
Hoặc Khi dạy về diễn biến của phong trào cách mạng 1930-1931 giáo viên
cần sử dụng phương pháp tường thuật để học sinh thấy được khí thế “xông lên
chọc trời” của nhân dân ta trong đấu tranh, đặc biệt là nhân dân Nghệ An- Hà
Tĩnh.
2. Một số lưu ý khi sử dụng thơ văn và 1 số phương pháp dạy học tích cực
khi dạy phần lịch sử Việt Nam từ năm 1919-1954.
- Đối với việc sử dụng thơ văn: Học sinh có thể học văn để có những hiểu biết
thêm về lịch sử dân tộc. Tuy nhiên không phải giáo viên nào cũng biết được
điều này, và càng không phải ai biết cũng vận dụng 1 cách có hiệu quả. Do vậy
khi sử dụng thơ văn cần lưu ý:
+ Cần chọn lựa những nội dung văn học phù hợp với nội dung lịch sử cần khắc

sâu cho học sinh và với thời gian mà sự kiện lịch sử đang diễn ra. Đối với phần
lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919-1954 giáo viên nên lựa chọn, sử dụng thơ văn


cách mạng của một số nhà thơ tiêu biểu như Tố Hữu (tác phẩm Từ ấy, Hoan hô
chiến sĩ Điện Biên, Việt Bắc, Bài ca xuân 1961, Theo chân Bác…..), Chế Lan
Viên (tác phẩm Người đi tìm hình của nước, Tiếng hát con tàu…..), nhà thơ
Phan Bội Châu (Tác phẩm văn tế Nguyễn Thái Học), nhà thơ Viễn Phương (Bài
văn bia tại đền tưởng niệm Bến Dược - Củ Chi)….. Bên cạnh đó giáo viên nên
sử dụng những tác phẩm hiện thực phê phán của một số nhà văn như Kim Lân
(Tác phẩm Làng, Lão Hạc), Nam Cao (Tác phẩm Chí Phèo, Đời thừa, Một bữa
no… ), Ngô Tất Tố với tác phẩm Tắt đèn……
+ Cần sử dụng ngữ điệu phù hợp với tài liệu văn học, với nội dung sự kiện cần
minh họa.
+Tránh lạm dụng, đưa quá nhiều nội dung văn học vào bài học, biến giờ dạy lịch
sử thành giờ giới thiệu các tác phẩm văn học, ảnh hưởng tới sự tập trung nhận
thức của học sinh vào những vấn đề đang học.
+Tài liệu văn học phải có giá trị giáo dục, giáo dưỡng cao, phải là một bức tranh
sinh động về những sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử và phù hợp với trình độ
nhận thức của học sinh.
- Đối với việc sử dụng 1 số phương pháp dạy học tích cực:
+ Cần phải lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp với từng bài, từng nội dung,
tránh gây nhàm chán cho học sinh
+ Không lạm dụng quá mức nhiều phương pháp dạy học trong 1 tiết học, 1 bài
học sẽ ảnh hưởng đến việc truyền đạt kiến thức cho học sinh.
IV. BIỆN PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Sử dụng thơ văn và 1 số phương pháp dạy học tích cực khi dạy phần
lịch sử Việt Nam từ năm 1919-1954 để khắc họa về một nhân vật lịch sử.
Một nhà văn đã viết “Nếu muốn phác họa về đất nước Việt Nam hãy vẽ thanh
kiếm và dòng máu đỏ”. Có thể nói chưa có một dân tộc nào trên thế giới trải

qua nhiều cuộc chiến tranh vệ quốc như dân tộc Việt Nam. Trong cuộc chiến
tranh ấy nhân dân đã làm nên đất nước “Họ đã sống và chết. Giản dị và bình
tâm. Không ai nhớ mặt đặt tên. Nhưng họ đã làm nên đất nước” (“Đất nước”-


Nguyễn Khoa Điềm). Như vậy trong sự phát triển của lịch sử dân tộc nhân vật
lịch sử có vai trò quan trọng. Bởi mỗi một cá nhân trong lịch sử đã góp phần tạo
nên tượng đài bất tử cho dân tộc Việt Nam. Tìm hiểu sâu sắc về nhân vật lịch sử
góp phần giáo dục lòng biết ơn cho học sinh: Đó là sự biết ơn đối với những
người có công với nước, biết ơn những người xung quanh.
Ví dụ 1: Khi dạy bài 12: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 19191925, ở mục 1(phần II): Hoạt động của phan Bội Châu, Phan Châu Trinh và 1
số người Việt Nam sống ở nước ngoài. Theo phân phối chương trình mục này
nằm trong nội dung giảm tải (đọc thêm). Tuy nhiên đây được coi là sự kiện tiêu
biểu nhất trong phong trào yêu nước của những người Việt nam ở nước ngoài.
Vì vậy giáo viên cần nhấn mạnh sự kiện Phạm Hồng Thái ám sát tên toàn
quyền Méc lanh tại Sa Diện- Quãng Châu- Trung Quốc (19/6/1924) bằng
phương pháp miêu tả, sau đó giáo viên sử dụng bài thơ “Phạm Hồng Thái” của
nhà thơ Tố Hữu để khắc họa đậm nét hình ảnh người thanh niên yêu nước Phạm
Hồng Thái:
“Sống, chết được như anh
Thù giặc thương nước mình
Sống, làm quả bom nổ
Chết, như dòng nước xanh”.
Ví dụ 2: Khi dạy bài 12: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 19191925, ở mục 3(phần II): Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc.
Trong tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc Nguyễn Ái Quốc có vai trò
quan trọng đối với cách mạng Việt Nam. Đã có rất nhiều sách báo, phim ảnh, tài
liệu nói về những đóng góp to lớn của Người đối với cách mạng Việt Nam. Tuy
nhiên để có thể khắc họa được đậm nét, chân thực về Người cho học sinh THPT
trong 1 khoảng thời gian hạn chế lại là một điều vô cùng khó. Vì vậy trong quá
trình dạy tôi kết hợp truyền đạt kiến thức và lồng ghép thơ văn về Người để học

sinh dễ học, dễ nhớ.


Ở mục này sách giáo khoa đã trình bày khá đầy đủ, chi tiết về quê hương và
gia đình của Nguyễn Ái Quốc. Giáo viên cần nhấn mạnh để học sinh thấy được
một trong những nguyên nhân ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc là
do tác động từ phía quê hương và gia đình:
- Về phía quê hương: Nguyễn Ái Quốc sinh ra trên một vùng quê nghèo như
bao vùng quê khác ở Việt Nam, nhưng vùng quê này lại có truyền thống yêu
nước và cách mạng, GV sử dụng đoạn thơ sau để minh họa:
“Bác ơi quê Bác cũng nghèo
Quê hương của Bác cũng như nhiều quê hương
Bởi vì Bác nặng tình thương
Cho nên nắng đẹp bốn phương quê Người”
(Tố Hữu)
- Về phía gia đình: Nguyễn Ái Quốc sinh ra trong một gia đình nhà nho giàu
lòng yêu nước, được sự dạy bảo ân cần, chu đáo của cả người cha và người
mẹ.tuy nhiên một trong nhũng tác động tói Nguyễn Ái quốc ngay từ khi còn nhỏ
là lời ru ngọt ngào của mẹ:
“À ơi…
Con ơi mẹ dặn điều này
Chăm lo đèn sách cho tày áo cơm
Làm người đói sạch, rách thơm
Công danh phủi nhẹ, nước non phải đền”.
Ví dụ 3: Khi dạy bài 20: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết
thúc ở mục 2(phần II): Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ giáo viên cần nhấn
mạnh:
- Đây là một chiến dịch lớn, thể hiện ý chí, tinh thần yêu nước và nghị lực phi
thường của nhân dân Việt Nam. Chiến dịch này góp phần kết thúc thắng lợi
cuộc kháng chiến chống Pháp và can thiệp Mĩ.

- Giáo viên không nên chú ý trình bày về diễn biến của chiến dịch sẽ dẫn đến bài
học khô khan, học sinh nhàm chán không muốn học. Ở mục này giáo viên sử


dụng 1 đoạn trong bài thơ “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên” của nhà thơ Tố Hữu để
khắc họa rõ nét hình tượng 1 số chiến sĩ đã chiến đấu hy sinh trong chiến dịch:
“Những đồng chí thân chôn làm giá súng
Đầu bịt lỗ châu mai
Băng mình qua núi thép gai
Ào ào vũ bão
Những đồng chí chèn lưng cứu pháo
Nát thân, nhắm mắt, còn ôm...
Những bàn tay xẻ núi lăn bom
Nhất định mở đường cho xe ta lên chiến trường tiếp viện”
- Sau khi trích dẫn đoạn thơ, giáo viên chiếu một số hình ảnh để học sinh quan
sát, sau đó giáo viên đặt câu hỏi: Điền tên nhân vật mà em biết vào ô tương
ứng?
- Giáo viên kết luận: Đoạn
thơ trên nói về những tấm
gương chiến đấu hy sinh quả
cảm của anh Bế Văn Đàn
(lấy thân mình làm giá
súng), anh Phan Đình Giót
(lấy thân mình lấp lỗ châu
mai), anh Tô Vĩnh Diện (lấy

.

thân mình chèn pháo). Đồng
thời giáo viên sử dụng

phương pháp tường thuật để
nêu 1 cách ngắn gọn về những hành động quả cảm của các anh:
+ Anh Bế Văn Đàn sinh năm 1931 tại tỉnh Cao Bằng trong 1 gia đình có truyền
thống cách mạng. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ Bế Văn Đàn bị thương,
nhưng ông vẫn tiếp tục chiến đấu. Một khẩu trung liên của đơn vị không bắn


được vì xạ thủ hy sinh. Khẩu trung liên của Chu Văn Pù cũng chưa bắn được vì
không có chỗ đặt súng. Trong tình thế hết sức khẩn trương, Bế Văn Đàn không
ngần ngại chạy lại cầm 2 chân khẩu trung liên đặt lên vai mình và hô đồng đội
bắn. Pù còn do dự thì Bế Văn Đàn đã nói: Kẻ thù trước mặt, đồng chí có thương
tôi thì bắn chết chúng nó đi!. Trong lúc lấy thân mình làm giá súng, Bế Văn Đàn
bị hai vết thương nữa và hy sinh, hai tay vẫn còn ghì chặt súng trên vai mình.
+ Anh Phan Đình Giót sinh năm 1922 tại Hà Tĩnh trong một gia đình nghèo.
Trong đợt 1 của chiến dịch Điện Biên Phủ trận chiến giữa ta và địch diễn ra ác
liệt nhiều người bị thương, Phan Đình Giót bị thương vào đùi nhưng vẫn xông
lên chiến đấu tiếp anh lại bị thương vào vai, máu chẩy đầm đìa. Nhưng Pháp vẫn
bắn rất mạnh vào đội hình ta. Lực lượng xung kích bị ùn lại, Phan Đình Giót đã
dùng hết sức mình còn lại nâng tiểu liên lên bắn mạnh vào lỗ châu mai, miệng
hô to:"Quyết hy sinh…vì Đảng…vì dân!!.." rồi rướn người lấy đà, lao cả thân
mình vào bịt kín lỗ châu mai địch. Hoả điểm lợi hại nhất của quân Pháp đã bị
dập tắt, toàn đơn vị ào ạt xông lên như vũ bão, tiêu diệt gọn cứ điểm Him Lam,
giành thắng lợi trong trận đánh mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ.
+ Anh Tô Vĩnh Diện sinh năm 1924 quê ở xã Nông Trường, huyện Nông Cống,
tỉnh Thanh Hoá. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ quân ta được lệnh kéo pháo ra
khỏi trận địa. Trong quá trình kéo pháo dây tời bị đứt, ngay lập tức anh Tô Vĩnh
Diện đã lấy thân mình chèn pháo lại ngăn không cho pháo lăn xuống dốc và anh
đã hy sinh.
Khi hỏi về chiến dịch Điện Biên Phủ có thể nhiều học sinh sẽ trả lời ngay
được chiến dịch diễn ra qua 3 đợt, tuy nhiên qua nhiều năm giảng dạy tôi thấy

rất ít học sinh biết đến sự chiến đấu, hy sinh quả cảm của các anh. Vì vậy sử
dụng thơ văn và phương pháp tường thuật là 1 biện pháp hữu hiệu góp phần
nâng cao chất lượng giờ dạy.


2. Sử dụng thơ văn và 1 số phương pháp dạy học tích cực khi dạy phần
lịch sử Việt Nam từ năm 1919-1954 để nhấn mạnh về một sự kiện lịch sử.
Nội dung quan trọng nhất của lịch sử là các sự kiện lịch sử. Học lịch sử
người ta qui là nhớ sự kiện. Vì vậy rất nhiều người cho rằng môn lịch sử là một
môn học thuộc lòng các sự kiện đã diễn ra trong quá khứ. Chính vì quan niệm
sai lầm này đã làm cho chất lượng bộ môn ngày càng suy giảm. Làm sao để biến
các sự kiện khô khan thành những nội dung dễ học, dễ nhớ? Câu hỏi này đặt ra
với tôi trong rất nhiều tiết dạy, là nỗi trăn trở của tôi khi soạn bài. Sau khi áp
dụng rất nhiều phương pháp tôi thấy việc sử dụng thơ văn và 1 số phương pháp
dạy học tích cực đã phát huy tác dụng.
Ví dụ 1: Khi dạy bài 12: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 19191925, ở mục 3(phần I): Những chuyển biến mới về kinh tế và giai cấp xã hội ở
Việt Nam giáo viên sử dụng một vài câu thơ sau:
“Cao su đi dễ khó về
Khi đi trai tráng khi về bủng beo”.
Hay:
“Cha trốn ra Hòn Gai cuốc mỏ
Anh chạy vào Ðất Ðỏ làm phu
Bán thân đổi mấy đồng xu
Thịt xương vùi gốc cao su mấy tầng!”
- Sau khi đọc 2 đoạn thơ trên giáo viên đặt câu hỏi để học sinh suy nghĩ trả lời:
Em có nhận xét gì về đời sống của nông dân, công nhân Việt Nam qua 2 đoạn
thơ trên?
Mặc dù chưa tìm hiểu nội dung sách giáo khoa nhưng qua những đoạn thơ trên
học sinh có thể hình dung được cuộc sống khó khăn, khổ cực của nông dân,



công nhân Việt Nam thời kì Pháp thuộc và sự tàn bạo, độc ác của kẻ thù. Qua
đó học sinh cũng có thể lý giải được vì sao công nhân và nông dân lại là lực
lượng đông đảo, hăng hái trong phong trào đấu tranh.
Ví dụ 2: Khi dạy bài 12: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 19191925, ở mục 3(phần II): : Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc: Trong những hoạt
động của Nguyễn Ái Quốc khi ở nước ngoài sự kiện có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng là tháng 7 năm 1920 Nguyễn Ái Quốc đọc được bản sơ thảo lần thứ nhất
“Luận cương của Lê nin về vấn đề dân tộc và thuộc địa”. Bởi sau khi đọc được
bản sơ thảo Người đã tìm thấy trong đó con đường cứu nước cho dân tộc Việt
Nam, đó là con đường cách mạng vô sản. Để khắc sâu sự kiện này, giáo viên
trích đọc cho học sinh nghe 1 đoạn trong bài thơ “Người đi tìm hình của nước ”
của nhà thơ Chế Lan Viên:
“Luận cương đến với Bác Hồ. Và Người đã khóc
Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lê-nin.
Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách gấp
Tưởng bên ngoài, đất nước đợi mong tin.

Bác reo lên một mình như nói cùng dân tộc:
Cơm áo là đây! Hạnh phúc đây rồi!'
Hình của Ðảng lồng trong hình của Nước.
Phút khóc đầu tiên là phút Bác Hồ cười”.
- Sau đó giáo viên đặt câu hỏi: Vì sao Bác Hồ lại khóc khi đọc được bản Luận
cương của Lê Nin?
- Học sinh trả lời, giáo viên phân tích thêm: Qua đoạn thơ trên học sinh sẽ thấy
được cảm xúc bồi hồi xúc động của Người khi đọc được bản luận cương. Bác đã


bật khóc- những giọt nước mắt của hạnh phúc khi sau bao nhiêu năm bôn ba nơi
đất khách quê người Người đã tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn cho dân
tộc Việt Nam- đó là con đường cách mạng vô sản, giải quyết được sự bế tắc về

đường lối cho cách mạng Việt Nam.
Ví dụ 3: Khi dạy bài 13: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 19251930, ở mục 2(phần II): : Hội nghị thành lập Đảng cộng sản Việt Nam để khắc
sâu sự kiện Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, giáo viên trích dẫn 1 đoạn thơ của
nhà thơ Tố Hữu:
“Như đứa trẻ sinh nằm trên cỏ
Không áo cơm sương gió tơi bời
Đảng ta sinh ở trên đời
Một hòn máu đỏ nên người hôm nay”
- Qua đoạn thơ học sinh hiểu được hội nghị thành lập Đảng cộng sản Việt Nam
không diễn ra ở trong nước mà diễn ra ở nước ngoài (Trung Quốc). Điều này nói
lên nỗi nhục của những người dân mất nước và sự khó khăn của cách mạng thời
kì này.
Ví dụ 4: Khi dạy bài 16: Phong trào giải phóng dân tộc và tổng khởi nghĩa
tháng Tám( 1939-1945). Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được thành lập.
Bài 16 được dạy trong 3 tiết nhưng khối lượng kiến thức khá nhiều, dàn trải
làm cho giáo viên rất khó dạy và học sinh khó học. Đây cũng là một bài rất quan
trọng trong tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc, ảnh hưởng đến sự phát triển
của lịch sử trong các giai đoạn tiếp theo. Vì vậy cần phải tạo nên những ấn
tượng sâu sắc cho học sinh đối với từng nội dung của bài học.


- Khi dạy phần I: Tình hình Việt Nam trong những năm 1939 – 1945: Để khắc
họa về đời sống của nhân dân Việt Nam thời kì này, giáo viên sử dụng 1 số tác
phẩm văn học hiện thực phê phán như Tắt đèn của nhà văn Ngô Tất Tố, Lão
Hạc của nhà văn Kim Lân, Chí phèo của nhà văn Nam Cao…. Hoặc đoạn văn:
“Cuộc sống của người nông dân Việt Nam thời đó thật khốn quẫn. Bị tước đoạt
hết gạo mà họ năm nắng mười sương mới kiếm được, hay mảnh vải mà họ phải
thức khuya dậy sớm để dệt thành, họ sống cầm hơi với hớp cháo cám nhạt và
trần mình chịu rét lúc đêm đông”. Qua những hình ảnh văn học này học sinh có
thrr hình dung được cuộc sống cơ cực tăm tối của người dân Việt Nam trước

cách mạng, từ đó các em có thể lí giải được vì sao nhân dân Việt Nam lại đứng
lên đấu tranh và khí thế “Xông lên trọc trời” của nhân dân trong cuộc cách
mạng tháng tam, Các em cũng có thể rút ra qui luật xuyên suốt quá trình học lịch
sử cũng như trong cuộc sống thực tại “tức nước vỡ bờ”, “có áp bức, có đấu
tranh”.
- Khi dạy phần II: phong trào giải phóng dân tộc từ tháng 9/1939 đến tháng
3/1945. phần này gồm rất nhiều sự kiện và nhiều mốc thời gian khác nhau. Vì
vậy giáo viên nên có sự lựa chọn, dồn trọng tâm vào những nội dung quan trọng
Trong những nội dung của phần này thì sự trở về của Nguyễn Ái Quốc có ý
nghĩa vô cùng to lớn đối với cách mạng Việt Nam, giáo viên trích dẫn đoạn trích
trong bài thơ “Theo chân Bác ” của nhà thơ Tố Hữu khi dạy phần này:
“Bác đã về đây Tổ Quốc ơi
Nhớ thương hòn đất ấm hơi Người
Ba mươi năm ấy chân không mỏi
Mãi đến bây giờ mới tới nơi”.


Đoạn thơ trên sẽ cung cấp cho học sinh rất nhiều kiến thức: Đó là sự trở về
của Nguyễn Ái Quốc sau 30 năm bôn ba hải ngoại. Câu thơ “Ba mươi năm ấy
chân không mỏi” sẽ giúp học sinh có được sự liên kết giữa 2 mốc thời gian: khi
Người ra đi tìm đường cứu nước năm 1911 và khi người trở năm 1941 đúng 30
năm. Vì vậy khi học sinh nhớ điểm Người ra đi tìm đường cứu nước thì sẽ nhớ
được thời điểm Người trở về và ngược lại mà không cần học quá máy móc,
không mất nhiều thời gian.
- Khi dạy phần III: Khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền giáo viên nhấn mạnh
sự ra đời của căn cứ địa Việt Bắc (4/6/1945) và vai trò của căn cứ địa Việt Bắc
trong cuộc cách mạng tháng Tám. Đây là căn cứ địa quan trọng của cả nước. Để
nhấn mạnh nội dung này giáo viên sử dụng bài thơ “Việt Bắc” của nhà thơ Tố
Hữu, trong đó có đoạn:
“Ở đâu u ám quân thù

Trông về Việt Bắc cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Nhìn lên Việt Bắc mà nuôi chí bền”.
V. KIỂM NGHIỆM THỰC TẾ
1. Phương pháp kiểm nghiệm
Để đánh giá hiệu quả của đề tài tôi đã sử dụng phiếu điều tra về hứng thú
học tập của học sinh với phần lịch sử Việt Nam từ năm 1919-1954 .
Lưu ý: Phiếu điều tra dùng để đánh giá hiệu quả của đề tài cho nhóm thực
nghiệm và nhóm đối chứng cả trước và sau tác động là giống nhau.
2. Kết quả kiểm nghiệm
a. Đối với lớp đối chứng (Năm học 2012-2013)
Bảng thống kê về hứng thú học tập của học sinh đối với môn lịch sử khi học
phần lịch sử Việt Nam từ năm 1919-1954 của lớp 12 C7 (Khi chưa sử dụng thơ


văn và 1 số phương pháp dạy học tích cực khi dạy phần lịch sử Việt Nam từ
năm 1919-1954) kết quả như sau:
Lớp
12C7

Sĩ số
47

Rất thích
SL
%
7
14,9

Mức độ hứng thú

Bình thường
SL
%
21
44,7

Không thích
SL
%
19
40,4

b. Đối với lớp thực nghiệm (Năm học 2013-2014)
Bảng thống kê về hứng thú học tập của học sinh đối với môn lịch sử khi học
phần lịch sử Việt Nam từ năm 1919-1954 của lớp 12 A7 (Khi sử dụng thơ văn
và 1 số phương pháp dạy học tích cực khi dạy phần lịch sử Việt Nam từ năm
1919-1954) kết quả như sau:
Lớp
12A3

Sĩ số
45

Rất thích
SL
%
20
44,4

Mức độ hứng thú

Bình thường
SL
%
19
42,2

Không thích
SL
%
6
13,4

Qua 2 bảng thống kê ta thấy……………………
VI. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.
XÁC NHẬN

Thanh Hóa, ngày 28 tháng 05 năm 2014

CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Người viết
NINH THỊ CÚC

MỤC LỤC
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN



1. Cơ sở lí luận
2. Mục tiêu của đề tài
3. Đối tượng nghiên cứu củ đề tài
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ
1. Thực trạng về hứng thú học tập của học sinh khi dạy phần lịch sử Việt Nam
từ năm 1919-1954
2. Kết quả của thực trạng trên.
3. Nguyên nhân của thực trạng trên
III. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
1. Vai trò của thơ văn và 1 số phương pháp dạy học tích cực khi dạy phần lịch
sử Việt Nam từ năm 1919- 1954
2. Một số lưu ý khi sử dụng thơ văn và 1 số phương pháp dạy học tích cực khi
dạy phần lịch sử Việt Nam từ năm 1919-1954.
IV. BIỆN PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN
V. KIỂM NGHIỆM THỰC TẾ
VI. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.



×