Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

truyện kiều của nguyễn du dưới góc nhìn tương tác thể loại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (907.08 KB, 106 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM
KHOA NGỮ VĂN


NGUYỄN THỊ NGỌC HÀ

TRUYỆN KIỀU CỦA NGUYỄN DU
DƯỚI GÓC NHÌN TƯƠNG TÁC
THỂ LOẠI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

TP. HỒ CHÍ MINH - 2016


MỤC LỤC
A. DẪN NHẬP
1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề ..................................................................................................... 2
3. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 5
4. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................ 5
5. Cấu trúc luận văn ................................................................................................ 6
B. NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lí luận và giới thiệu về Truyện Kiều ............................................ 8
1.1 Cơ sở lí luận........................................................................................................ 8
1.1.1 Khái niệm thể và loại ......................................................................... 8
1.1.2 Hiện tượng tương tác thể loại trong văn học...................................... 9
1.2 Giới thiệu về Nguyễn Du và Truyện Kiều ......................................................... 12
1.2.1 Nguyễn Du và Truyện Kiều ................................................................ 12
1.2.2 Đối sánh Truyện Kiều của Nguyễn Du với Kim Vân Kiều Truyện của


Thanh Tâm Tài Nhân.......................................................................................... 15
Chương 2: Sự tương tác thể loại trong Truyện Kiều ........................................................... 26
2.1 Chất trữ tình trong truyện Kiều .......................................................................... 26
2.1.1 Đặc trưng chất trữ tình ......................................................................... 26
2.1.2 Chất trữ tình trong Truyện Kiều ........................................................... 27
2.1.2.1 Thể thơ........................................................................................... 27
2.1.2.2 Giọng điệu trữ tình ........................................................................ 31
2.1.2.3 Trữ tình thiên nhiên ....................................................................... 36
2.2 Chất tự sự trong Truyện Kiều ........................................................................................ 42


2.2.1 Đặc trưng chất tự sự ............................................................................. 42
2.2.2 Chất tự sự trong Truyện Kiều............................................................... 43
2.2.2.1 Cốt truyện ...................................................................................... 43
2.2.2.2 Nhân vật ........................................................................................ 49
2.2.2.3 Ngôn ngữ tự sự .............................................................................. 58
2.3 Chất kịch trong Truyện Kiều ......................................................................................... 69
2.3.1 Đặc trưng chất kịch ............................................................................... 69
2.3.2 Chất kịch trong Truyện Kiều ................................................................ 71
2.3.2.1 Xung đột kịch ................................................................................ 71
2.3.2.2 Ngôn ngữ đối thoại ........................................................................ 76
2.3.2.3 Ngôn ngữ độc thoại ....................................................................... 80
Chương 3: Ý nghĩa sự tương tác thể loại trong Truyện Kiều đối với người đời sau .......... 88
C. KẾT LUẬN ............................................................................................................. 97
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 100


LỜI CẢM ƠN

Đầu tiên, tôi xin bày tỏ lòng tri ân sâu sắc đến PGS.TS Lê Thu Yến, giảng viên khoa

Ngữ Văn, ĐH Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, người đã tận tình hướng dẫn, quan tâm và thương
mến trong suốt quá trình thực hiện luận văn này. Những lời hướng dẫn, góp ý và động viên
của cô là kinh nghiệm cũng như động lực giúp tôi hoàn thành khóa luận.
Tôi xin chân thành cảm ơn các các bộ của Thư viện trường Đại học Sư Phạm TP. Hồ
Chí Minh và Thư viện Khoa học tổng hợp Tp,Hồ Chí Minh đã hỗ trợ tận tình trong việc tìm
kiếm tư liệu nghiên cứu để hoàn thành luận văn.
Bên cạnh đó, tôi chân thành cảm ơn cô Phạm Thị Thanh Nga, giáo viên hướng dẫn
thực tập trường THPT Chuyên Lê Hồng Phong, cô đã tạo điều kiện thuận lợi và giúp đỡ tôi
để hoàn thành luận văn đúng thời hạn và hoàn thiện nhất.
Tôi cũng vô cùng cảm ơn sự quan tâm và ủng hộ của gia đình, bạn bè. Đó chính là
nguồn động viên tinh thần rất lớn để tôi theo đuổi và hoàn thành luận văn này.
Cuối cùng tôi muốn gửi lời cảm ơn đến toàn bộ quý thầy cô khoa Ngữ Văn trường
Đại học Sư Phạm TP.Hồ Chí Minh, những người có vai trò to lớn trong suốt quá trình tôi
theo học tại trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn.


A. DẪN NHẬP
1. Lí do chọn đề tài
Nói tới văn học trung đại Việt Nam, ta không thể không nhắc đến đại thi hào
Nguyễn Du và kiệt tác Truyện Kiều. Viết Truyện Kiều, Nguyễn Du chỉ khiêm
nhường coi đó là những “…lời quê góp nhặt dông dài”. Nhưng thực tế đã cho thấy,
bất chấp qui luật và sự sàng lọc nghiệt ngã của thời gian, Truyện Kiều đã khẳng định
sức sống bất tử của một tác phẩm bất hủ. Được viết trong “chồng chất những khối
lỗi ở trong lòng” và được viết bằng tâm huyết “như có máu chảy ở đầu ngọn bút”,
“như có nước mắt thấm ở trên tờ giấy”. Tác phẩm là sự thể hiện “nỗi đau nhân tình”
của Nguyễn Du tập trung, xúc động và thành công nhất.
Truyện Kiều đã sống trong đời sống của văn học Việt Nam, con người Việt
Nam biết bao năm nay. Người ta đọc Kiều, thuộc Kiều, lẫy Kiều, vịnh Kiều, bói Kiều,
… Truyện Kiều khơi nguồn cảm hứng sáng tác cho nhiều nhà thơ, nhà văn, nhà phê

bình. Truyện Kiều được dịch ra nhiều thứ tiếng là sự minh chứng cho khả năng giao
lưu, hòa nhập của văn học Việt Nam, góp phần làm giàu đẹp và lớn mạnh và phong
phú thêm kho tàng văn hóa chung của nhân loại
Truyện Kiều là một kiệt tác của văn học Việt Nam. Tác phẩm đã đặt ra nhiều vấn
đề sâu sắc, ám ảnh về thân phận của con người trong xã hội phong kiến. Bằng tài năng
bậc thầy và sự sáng tạo độc đáo, Nguyễn Du đã biến Kim Vân Kiều Truyện của Thanh
Tâm Tài Nhân – một cuốn tiểu thuyết Trung Quốc xa lạ thành một câu chuyện dễ hiểu
và gần gũi với nhân dân Việt Nam. Từ khi ra đời cho đến nay, trải qua một thời gian
dài với bao biến cố thăng trầm của lịch sử dân tộc, Truyện Kiều vẫn sống mãi và luôn
được đón nhận nồng nhiệt
Đã có nhiều nghiên cứu về Truyện Kiều trên nhiều phương diện khác nhau. Nhìn
chung, ở phương diện nào nhà nghiên cứu cũng phát hiện được những điểm sâu sắc và
độc đáo của tác phẩm. Đã từng có nhận xét cho rằng: “Truyện Kiều là một cuốn tiểu
thuyết bằng thơ”, trong Truyện Kiều có sự kết hợp giữa thi – ca – nhạc – họa, tác
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

1


phẩm vừa kể chuyện đời, vừa kể chuyện lòng. Truyện Kiều đã là nguồn cảm hứng cho
vô số công trình nghiên cứu, tác phẩm được nhìn nhận dưới cái nhìn Phật giáo, được
phân tích về ngôn ngữ, giọng điệu kể chuyện, bút pháp trữ tình,… Góp phần tạo nên
sự thành công của Truyện Kiều còn có sự tương tác về thể loại. Tuy nhiên, vấn đề này
còn ít được đề cập đến, hầu như chưa có công trình nghiên cứu cụ thể nào.
Truyện Kiều là một tác phẩm được đưa vào giảng dạy trong trường phổ thông. Vấn
đề luận văn nghiên cứu có ý nghĩa thực tiễn cho việc giảng dạy sau này. Truyện Kiều
của Nguyễn Du là một truyện thơ. Bằng một tình cảm nồng cháy, nhà thơ đã kể lại một
câu truyện trọn vẹn, có cốt truyện, có nhân vật, các nhân vật có quá trình phát triển.
Chính vì thế, đặc điểm của chủ thể kể chuyện ở truyện thơ sẽ có những điểm khác biệt
so với chủ thể kể chuyện trong tác phẩm văn xuôi tự sự. Khảo sát Truyện Kiều, chúng

ta thấy Nguyễn Du xuất hiện trong tác phẩm với hai tư cách: chủ thể kể chuyện vô
hình và tư cách chủ thể trữ tình. Nguyễn Du không phải là người đầu tiên phân thân
thành chủ thể tự sự và chủ thể trữ tình trong tác phẩm nhưng ông là người thể hiện sự
phân thân này hoàn chỉnh nhất. Với đề tài “Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn
tương tác thể loại”, người viết muốn đóng góp một cách nghiên cứu mới mẻ về một
tác phẩm đã quá quen thuộc và được nhiều người nghiên cứu. Thông qua đó có thể
hiểu thêm về con người, cũng như cái nhìn đối với con người và cuộc đời của vị đại thi
hào dân tộc Nguyễn Du.
2. Lịch sử vấn đề
Đã có nhiều ý kiến, nhận định và công trình nghiên cứu về chất tự sự cũng như
chất trữ tình trong Truyện Kiều. Tuy nhiên về chất kịch, cũng như sự tương tác thể loại
của tác phẩm hầu như chưa có nghiên cứu cụ thể nào về vấn đề.
Đỗ Minh Tuấn trong chuyên luận “Nghệ thuật trữ tình của Nguyễn Du trong
Truyện Kiều” (14) đã nhận xét về cách xây dựng nhân vật của Nguyễn Du:

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

2


“Nếu như có thể tách ra một cách tương đối tính chất tiểu thuyết và tính chất
thơ ca thì có thể quan niệm rằng trong tác phẩm của Nguyễn Du các nhân vật được
xây dựng từ hai lối thể hiện khác nhau:
1. Con người được vẽ ra trong những diện mạo, những hành động và những quan
hệ xã hội của nó. Lối thể hiện này thuộc phạm vi bút pháp tự sự
2. Con người (kể cả người kể chuyện) được vẽ lên trong tâm trạng cá biệt của
mình. Lối thể hiện này thuộc phạm vi bút pháp trữ tình.” [tr.6,14]
Nguyễn Lộc trong cuốn Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII, nửa đầu thế kỉ
XIX, (tập II), đã có ý kiến về cốt truyện trong Truyện Kiều:
“Nguyễn Du viết Truyện Kiều đã dựa khá sát vào cốt truyện của Thanh Tâm Tài

Nhân, có nghĩa là Nguyễn Du đã giữ lại của tác phẩm này những tình tiết chính,
những biến cố quan trọng, chứ không phải mọi tình tiết của tác phẩm đều được giữ
lại. Thực tế thì nhà thơ đã bỏ đi khoảng một phần ba những chi tiết trong tác phẩm
của Thanh Tâm Tài Nhân, và thêm một khối lượng cũng khá lớn” [tr.65, 23]
Trong Truyện Kiều và thể loại Truyện Nôm [24], tại chương III: Nghệ thuật xây
dựng nhân vật Truyện Kiều, Đặng Thanh Lê đã nhận định về nghệ thuật kể chuyện của
Nguyễn Du: “Là tác phẩm tự sự, Truyện Kiều đã tập trung vào vận mệnh nhân vật
trung tâm” [tr.262,24]
“Trên cái nền chung tự sự, … có thể nói Truyện Kiều là một bước phát triển hoàn
chỉnh, thành công của thể loại tiểu thuyết cổ điển Việt Nam” [tr.250, 24]
“Nguyễn Du chú trọng miêu tả nội tâm con người ở những chặng đường có ý
nghĩa bước ngoặt đổi mới vận mệnh nhân vật, ở những trường hợp kịch tính cao của
tình huống, của sự bộc lộ tính cách. Ở những đỉnh điểm ấy của tình tiết sự kiện,
Nguyễn Du có phác họa một vài dòng miêu tả nội tâm thông qua ngôn ngữ tự sự của
tác giả nhưng thường nhà thơ để nhân vật tự bộc lộ là chính” [tr.83,24]

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

3


“Truyện Kiều phảng phất mà rất đậm đà đằm thắm một “bản sắc trữ tình”. Thấp
thoáng trên những trang Kiều ra thấy bóng dáng của ca dao, của Chinh phụ ngâm,
của thơ Đường,…” [tr.248,24]
Phan Ngọc trong cuốn “Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều” [25],
có một chương bàn về phương pháp tự sự của Nguyễn Du. Phan Ngọc đã khẳng định:
“Truyện Kiều là tiểu thuyết phân tích tâm lý” [tr.120,25], “Truyện Kiều đã được bố
cục như một vở bi kịch lớn” [tr.184, 25]. Ngoài ra, ông đã nhận định bước đầu về
Truyện Kiều với tính chất tương tác nhiều thể loại: “Truyện Kiều là tác phẩm tổng hợp
được các thành tựu nghệ thuật của nhiều thể loại của thời đại. Ở đây có những thành

tựu của thể truyện Nôm, của thể ngâm khúc, thể kịch” [tr.197,25]
Trong các thao tác của Nguyễn Du, Phan Ngọc có bàn đến thao tác “đặt sự việc
vào thế đối lập” và khẳng định “tự thân Nguyễn Du không thể nghĩ ra thao tác này,
bởi vì đó là thao tác của kịch. Ông học tập nó ở kịch Trung Quốc và nhất là ở tuồng”
[tr.84,25]
Bàn về nhiều vấn đề liên quan đến nghệ thuật tự sự của Truyện Kiều, trong bài Tư
tưởng nhân vật và cách kể chuyện của Nguyễn Du, Trần Đình Sử có viết: “Người kể
chuyện Truyện Kiều là một người được cá tính hóa, hơn thế được kịch tính hóa”
[tr.349, 26]
“Đặc biệt người kể chuyện Truyện Kiều đồng thời là một nhà thơ trữ tình (…)
Nguyễn Du đã sử dụng chủ yếu không phải là kinh nghiệm tự sự Trung Hoa mà là
truyền thống trữ tình lâu đời. Nguyễn Du huy động tối đa các thủ pháp trữ tình để
miêu tả tình cảm nhân vật” [tr.349 và 350, 26]. Cuối bài, Trần Đình Sử viết: “Nguyễn
Du đã sáng tạo lại Truyện Kiều (…) đưa vào người kể chuyện mới, tổng hợp các
truyền thống văn học Việt Nam và Trung Quốc, truyền thống tự sự và nhất là trữ tình,
để tạo ra kiệt tác vô song trong văn học Việt Nam và văn học thế giới”
[tr.351, 26]

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

4


Nói tóm lại, nhiều nhà nghiên cứu trong những ý kiến và công trình của mình đã
khẳng định Nguyễn Du rất xuất sắc, là bậc thầy trong nghệ thuật tự sự và nghệ thuật
trữ tình. Tuy nhiên, nghệ thuật kịch trong Truyện Kiều vẫn được nhắc đến khá ít ỏi,
nhất là nhìn tác phẩm dưới góc nhìn tương tác thể loại, hầu như vẫn chưa có công trình
nào đi sâu vào vấn đề này
3. Phương pháp nghiên cứu
a)


Đọc tác phẩm Truyện Kiều và các bài nghiên cứu về Nguyễn Du để có một cái

nhìn toàn diện, thống nhất.
b)

Phương pháp thống kê: Thống kê các đoạn thơ câu thơ trong tác phẩm tính

tương tác thể loại để làm dẫn chứng cho các luận điểm trong bài tiểu luận
c)

Phương pháp phân tích: để làm rõ những luận điểm được nêu trong tiểu luận

d)

Phương pháp chứng minh: để khẳng định vấn đề được nêu trong tiểu luận là

đúng đắn và có cơ sở thuyết phục.
e)

Phương pháp so sánh: so sánh Truyện Kiều của Nguyễn Du với Kim Vân Kiều

Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân
f)

Phương pháp tổng hợp: rút ra những nét chung mang tính khái quát, tiêu biểu

về tác dụng của sự tương tác thể loại đối với tác phẩm
4. Phạm vi nghiên cứu
Truyện Kiều là một tác phẩm vĩ đại của Nguyễn Du. Xoay quanh Truyện Kiều

là vô vàn khía cạnh để người đọc khám phá và khai thác: những câu chuyện tình yêu
trong Truyện Kiều, giọt nước mắt nàng Kiều, tiếng đàn nàng Kiều, tính nhạc trong
Truyện Kiều, cách sử dụng điển cố điển tích trong Truyện Kiều, … Phạm vi nghiên
cứu của đề tài “Truyện Kiều dưới góc nhìn tương tác thể loại” chỉ tập trung chủ yếu
vào vấn đề tương tác thể loại trong tác phẩm với ba đặc trưng thể loại chủ yếu: tự sự trữ tình – kịch , qua đó thể hiện tài năng sáng tạo cũng quan niệm của Nguyễn Du về
cuộc đời, về số phận con người.

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

5


5. Cấu trúc luận văn
A. DẪN NHẬP
1. Lí do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Phương pháp nghiên cứu
4. Phạm vi nghiên cứu
5. Cấu trúc luận văn
B. NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lí luận và giới thiệu Truyện Kiều
1.1 Cơ sở lí luận
1.1.1 Khái niệm thể loại
1.1.2 Hiện tượng tương tác thể loại trong văn học
1.2 Giới thiệu về Nguyễn Du và Truyện Kiều
1.2.1 Nguyễn Du và Truyện Kiều
1.2.2 Đối sánh Truyện Kiều của Nguyễn Du với Kim Vân Kiều Truyện của
Thanh Tâm Tài Nhân
Chương 2: Sự tương tác thể loại trong Truyện Kiều
2.1 Chất trữ tình trong Truyện Kiều

2.1.1 Đặc trưng chất trữ tình
2.1.2 Chất trữ tình trong Truyện Kiều
2.1.2.1 Thể thơ
2.1.2.2 Giọng điệu trữ tình
2.1.2.3 Trữ tình thiên nhiên
2.2 Chất tự sự trong Truyện Kiều
2.2.1 Đặc trưng chất tự sự
2.2.2 Chất tự sự trong Truyện Kiều
2.2.2.1 Cốt truyện
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

6


2.2.2.2 Nhân vật
2.2.2.3 Ngôn ngữ tự sự
2.3 Chất kịch trong Truyện Kiều
2.3.1 Đặc trưng chất kịch
2.3.2 Chất kịch trong Truyện Kiều
2.3.2.1 Xung đột kịch
2.3.2.2 Ngôn ngữ đối thoại
2.3.2.3 Ngôn ngữ độc thoại
Chương 3: Ý nghĩa sự tương tác thể loại trong Truyện Kiều đối với người đời sau
C. KẾT LUẬN
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

7



B. NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ GIỚI THIỆU VỀ TRUYỆN KIỀU
1.1.1

Khái niệm thể loại

Mọi tác phẩm văn học đều tồn tại trong các hình thức thể loại nhất định: một cuốn
tiểu thuyết, một truyện ngắn, một bài thơ, một vở kịch, một kí sự...Không có tác phẩm
văn học nào được xây dựng ngoài những hình thức quen thuộc đó. Vì vậy, bên cạnh
nhan đề tác phẩm, tác giả thường ghi tên thể loại: Những người khốn khổ- tiểu thuyết;
Dấu chân người lính - Tiểu thuyết; truyện ngắn của Guy de Maupassant; Từ ấy - thơ;
Bài thơ Màu tím hoa sim; Lão hà tiện- kịch... Nhiều khi tên thể loại gắn liền với nhan
đề tác phẩm: Hoàng lê nhất thống chí, Bình Ngô đại cáo, Tam quốc chí diễn nghĩa,
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc,…
Ðiều gì đã tạo nên sự giống nhau về hình thức tồn tại của tác phẩm văn học
trong khi nội dung nhiều khi rất khác nhau đó ? Chính là qui luật loại hình tác phẩm,
tức là sự tổng hợp các phương thức tổ chức, phương thức tái hiện đời sống của những
đặc trưng cơ bản gần gũi với nhau.
Mỗi thể loại đều có các phương thức tổ chức gần gũi với nhau và chính điều đó
cũng qui định sự tiếp nhận văn học. Nhà văn cũng như người đọc đều hiểu mình sáng
tác hay tiếp nhận loại tác phẩm này chứ không phải loại tác phẩm khác. Lí luận văn
học đã khái quát các tác phẩm khác nhau thành một số loại thể nhất định dựa theo
những qui luật loại hình. Những qui luật này chi phối, qui định các yếu tố khác nhau
của tác phẩm văn học. Mỗi loại thể khác nhau có các loại nhân vật, kết cấu, lời văn
khác nhau. Chẳng hạn khi nói đến loại tác phẩm trữ tình, ta có thể nhắc đến nhân vật
trữ tình, kết cấu trong thơ trữ tình, lời thơ, câu thơ, đoạn thơ, luật thơ.. Nói đến tác
phẩm tự sự, có thể nói đến nhân vật tự sự, kết cấu trong tác phẩm tự sự, lời văn tự sự.
Qua tác phẩm kịch, có thể nói đến nhân vật kịch, kết cấu kịch, lời đối thoại, hành động
kịch...

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

8


Tuy nhiên cũng cần chú ý bên cạnh qui luật loại hình, thực tiễn văn học bao giờ
cũng phong phú và đa dạng hơn nhiều. Nhà văn sáng tác tác phẩm là nhằm diễn đạt
một cách đúng đắn và đầy đủ nhất những vấn đề đời sống mà họ quan tâm, những rung
động thẩm mĩ độc đáo. Chính vì vậy, khi nghiên cứu về loại thể, cần nắm vững tính
lặp lại của qui luật nhưng đồng thời cũng phải nhận ra sự độc đáo trong sự vận dụng
và sáng tạo của tác giả.
Tác phẩm văn học là một chỉnh thể thống nhất toàn vẹn giữa các yếu tố tạo thành,
trong đó thể loại quy định loại hình của tác phẩm. Tùy thuộc vào đặc trưng, mỗi thể
loại sẽ có quy luật, cách tổ chức và phản ánh hiện thực riêng. Thể là khái niệm nhỏ
hơn loại, nằm trong loại hay còn gọi là thể loại. Thể loại văn học là một hình thức tổ
chức ngôn từ theo một dạng thức nhất định nào đó thể hiện cảm xúc, tư tưởng của con
người trước các hiện tượng đời sống. Thể loại giữ vai trò quan trọng trong văn học.
Bakhtin đã từng khẳng định: “Đằng sau cái mặt ngoài sặc sỡ và đầy tạp âm ồn ào của
tiến trình văn học, người ta không nhìn thấy vận mệnh to lớn và cơ bản của văn học và
ngôn ngữ, mà những nhân vật chính nơi đây trước hết là các thể loại, còn trào lưu,
trường phái chỉ là những nhân vật hạng nhì hoặc hạng ba”.
Vị trí của thể loại trong văn học quan trọng đến mức nhiều khi tên tác phẩm văn
học trung đại gắn liền với tên thể loại: Thiên đô chiếu, Hịch tướng sĩ, Bạch Đằng
giang phú, Bình Ngô đại cáo,… Hiện tượng này đã cho thấy tên thể loại đã xác định
tính quy phạm về chức năng và hình thức thể loại của tác phẩm. Đây là định hướng
cho việc phân tích tác phẩm từ góc nhìn thể loại.
Trong quá trình phát triển lâu dài của văn học, loại thể là một yếu tố mà bên cạnh
mặt biến động đổi thay lại có những yếu tố tương đối ổn định. Có rất nhiều tiêu chí
phân loại thể loại: phân loại về ngôn ngữ, về phương thức cấu tạo hình tượng, về dung
lượng dài ngắn. Các tiêu chí làm cho việc phân loại mang tính chất tương đối.

Cho đến nay phổ biến vẫn tồn tại cách chia ba có từ thời cổ đại. Từ cổ xưa, ở
phương Tây người ta đã có ý thức phân loại văn học. Aristote là người đề xuất phân
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

9


loại văn học thành ba loại hay còn gọi là ba phương thức “mô phỏng” thực tại. Trong
“Nghệ thuật thi ca” ông từng viết: “Hoặc có thể như Hôme kể về sự kiện như một cái
gì ở ngoài mình hoặc người mô phỏng vẫn là bản thân anh ta, hoặc là trình bày mọi
vật được miêu tả như những người hành động và hoạt động”. Theo Aristole, văn học
được chia làm ba loại theo phương thức, phương tiện biểu đạt của chúng: tự sự, trữ
tình và kịch. Vào thế kỉ XIX, nhà phê bình văn học người Nga V.g Belinski (18111848), nhà cải cách vĩ đại của văn học Nga trên cơ sở ghi nhận cách phân loại của
những người đi trước đã phân tích chi tiết các loại một cách cụ thể, thuyết phục hơn.
Theo ông, loại tự sự bao gồm: tiểu thuyết, ngụ ngôn,., loại trữ tình bao gồm: thơ trữ
tình và văn xuôi trữ tình, loại kịch bao gồm: bi kịch, hài kịch, chính kịch.
Vào thế kỉ XIX, nhà lí luận văn học Nga là Belinski cũng chia tác phẩm văn học
thành ba loại: tự sự, trữ tình, kịch. Ông cho rằng, “chia thơ ca (văn học) làm ba loại:
tự sự, trữ tình, kịch là xuất phát từ ý nghĩa của việc nhận thức chân lí, cũng tức là trên
tinh thần nhận thức - xuất phát từ mối quan hệ qua lại giữa chủ thể với đối tượng khách thể nhận thức. Thơ trữ tình biểu hiện phương diện chủ quan của một con người,
đem con người bên trong phơi bày ra trước mắt chúng ta, do đó toàn bộ là cảm xúc,
tình cảm, âm nhạc. Thơ tự sự là miêu tả khách quan một sự kiện đã hoàn thành, là nhà
nghệ sĩ đã chọn cho chúng ta một điểm thích hợp nhất để bày tỏ tất cả mọi phương
diện, làm thành một bức tranh cho chúng ta xem. Thơ kịch là sự điều hòa hai phương
diện trên, chủ quan, trữ tình và khách quan, tự sự. Trình bày ra trước mắt chúng ta,
không phải là sự kiện đã hoàn thành, mà là đang thực hiện; không phải nhà thơ đang
thông báo sự việc cho ta, mà là từng nhân vật xuất hiện nói với chúng ta”.
Nhìn chung, có các tiêu chí cơ bản để phân chia thể loại như sau:
- Hình thức lời văn: dùng để phân biệt thơ văn vần, truyện văn xuôi hay truyện
thơ, kịch thơ hay kịch nói,…

- Dung lượng tác phẩm: là căn cứ quan trọng để phân biệt thơ với trường ca, khúc
ngâm, phân biệt truyện vừa, truyện dài, truyện ngắn,..
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

10


- Cảm hứng, cảm xúc: là một trong những cơ sở để phân biệt bi kịch, hài kịch,
chính kịch, ngụ ngôn và truyện cười….
- Nội dung thể loại: tiêu chí này được các nhà nghiên cứu Xô Viết như Pospelov,
Sernhext đề xuất nhằm phân loại văn học dựa tên đặc trưng loại hình lặp lại có hệ
thống của đề tài, theo đó có 3 nhóm nội dung thể tài chủ yếu là thể tài lịch sử, thể tài
đời tư, thể tài thế sự.
Có thể nói không một tiêu chí phân loại văn học nào có thể loại trừ được các tiêu
chí khác. Các thể loại và các loại văn học không ngừng xâm nhập vào nhau, tạo thành
các loại trung gian. Chính vì vậy, các tiêu chí này cũng chỉ hợp lý ở một mức độ nhất
định.
Như vậy, ta có thể nghiên cứu đề tài này theo hướng phân chia tác phẩm văn học
thành ba loại lớn:
Loại trữ tình: lấy suy nghĩ, tình cảm, tâm trạng con người làm đối tượng chủ yếu.
Loại tự sự: dùng lời kể, lời tả để miêu tả, xây dựng cốt truyện, khắc họa tính cách
nhân vật.
Loại kịch: dùng mâu thuẫn, xung đột kịch, ngôn ngữ kịch để phản ánh cuộc sống.
1.1.2 Hiện tượng tương tác thể loại văn học
Theo từ điển từ và ngữ Tiếng Việt thì tương tác là sự tác động qua lại, có ảnh
hưởng lẫn nhau giữa các đối tượng người hoặc vật.
Tương tác thể loại là sự xâm nhập, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau giữa hai hay
nhiều thể loại của một hoặc nhiều hệ thống thể loại khác nhau nhằm tạo nên sự vận
động và phát triển của cấu trúc thể loại văn học. Tương tác thể loại là sự thể hiện tập
trung nỗ lực sáng tạo và đổi mới của văn học. Do vậy, tương tác thể loại là hiện

tượng hết sức sinh động đa chiều. Xét về cấp độ, sự tương tác thể loại thể hiện trên
nhiều cấp độ: loại/loại, thể/loại, thể/thể, yếu tố/yếu tố,… Xét về hình thức tương tác
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

11


bằng nhiều hình thức khác nhau. Nhìn chung, vẫn chưa có nghiên cứu cụ thể, sâu sắc
nào về hiện tượng tương tác thể loại. Ta có thể hiểu rằng, hiện tượng tương tác thể
loại là sự tương tác giữa các thể loại với nhau trong một tác phẩm. Sự tương tác này
giúp các thể loại trong tác phẩm bổ sung, hỗ trợ cho nhau để cùng hướng tới đích đến
là tư tưởng của tác giả, giá trị của tác phẩm.
Trong công trình “Lí luận văn học”, chương “Thể loại của tác phẩm văn học”,
do Trần Đình Sử phụ trách đã đưa đến người đọc những khái niệm ban đầu về sự
tương tác thể loại văn học. Trần Đình Sử đã đề cập đến khái niệm thể loại văn học và
phân chia loại thể văn học. Ông cũng nhận định về “đặc trưng kép” của thể loại văn
học: “Thể loại vừa có các yếu tố ổn định, truyền thống; lại vừa có các yếu tố vận
động, đổi mới do sự phát triển văn học và tài năng sáng tạo của nhà văn”. Chính
nhờ sự “vận động” của văn học đã tạo nên sự tương tác thể loại.
1.2 Giới thiệu về Truyện Kiều
1.2.1 Nguyễn Du và Truyện Kiều
Nguyễn Du sinh ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu (tính ra dương lịch là ngày 3 tháng
1 năm 1766) tại kinh đô Thăng Long và lớn lên ở đấy. Ông mất ngày 16 tháng 9 năm
1820 tại Huế. Nguyễn Du xuất thân trong một gia đình phong kiến đại quý tộc, trí
thức, tài hoa và có danh vọng vào bậc nhất đương thời. Không những thế, gia đình này
còn có một truyền thống về văn học. Hoàn cảnh gia đình đã có những tác động rõ rệt
đối với sự hình thành thiên tài văn học ở Nguyễn Du. Gia đình Nguyễn Du có nhiều
người đậu đạt cao và làm quan lớn trong triều đình: Thân sinh của Nguyễn Du đậu
tiến sĩ, từng làm tể tướng trong triều đình. Nguyễn Khản, anh cùng cha khác mẹ với
Nguyễn Du đậu tiến sĩ giữ chức lớn dưới cả hai thời Trịnh Sâm và Trịnh Tông

.Nguyễn Huệ, bác ruột Nguyễn Du, đậu tiến sĩ. Theo Phạm Ðình Hổ thì dòng họ này
có mười hau tiến sĩ và năm quận công. Dòng họ này còn có truyền thống văn học, thân
sinh của ông là Nguyễn Nghiễm là một sử gia cũng là một nhà thơ. Nguyễn Khản giỏi
thơ Nôm, tương truyền có dịch Chinh phụ ngâm. Nguyễn Hành, Nguyễn Thiện (cháu
gọi Nguyễn Du bằng chú) đều là những nhà thơ, nhà văn nổi tiếng đương thời.
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

12


Xuất thân trong một gia đình phong kiến đại quý tộc có danh vọng vào loại bậc
nhất đương thời nhưng Nguyễn Du sống trong cuộc sống nhung lụa không được bao
lâu. Bởi vì nhà thơ lớn lên giữa lúc gia đình đang sụp đổ nhanh chóng theo đà sụp đổ
của tập đoàn phong kiến thống trị Lê - Trịnh. Nguyễn Du phải sớm đương đầu với
những biến cố lớn lao của gia đình và xã hội. Có lúc nhà thơ cũng bị hất ra giữa cuộc
đời, đã từng chịu nhiều nỗi bất hạnh. Ông có một thời gian dài khoảng 16 năm sống
lưu lạc ở quê vợ ở Thái Bình, quê cha Hà Tĩnh. Những năm tháng bất hạnh này có ảnh
hưởng trực tiếp quyết định đến sự hình thành con người nghệ sĩ vĩ đại ở ông.
Hoàn cảnh gia đình đã để lại những dấu ấn vàng son trong tâm hồn nhà thơ và
cũng chắc chắn rằng qua thực tiễn của gia đình, ông cũng đã nhận thức được nhiều
điều về giới quan lại đương thời.
Thời đại
Thời đại Nguyễn Du là thời đại khổ đau, bế tắc và đầy những biến động dữ dội.
Xã hội phong kiến Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX khủng hoảng
trầm trọng. Đời sống nhân dân vô cùng cực khổ, điêu đứng. Phong trào nông dân khởi
nghĩa nổ ra liên tục mà lớn nhất là cuộc khởi nghĩa Tây Sơn. Là người có hiểu biết sâu
rộng, có vốn sống phong phú, Nguyễn Du đã sống nhiều năm lưu lạc tiếp xúc với
nhiều cảnh đời và thân phận con người trong thời đại loạn lạc, dâu bể. Khi làm quan
bất đắc dĩ dưới triều Nguyễn, ông đã từng đi sứ sang Trung Quốc, qua nhiều vùng đất
rộng lớn, tiếp xúc với nền văn hóa rực rỡ ở Trung Hoa. Tất cả những điều đó đã ảnh

hưởng lớn đến sáng tác của Nguyễn Du. Là người có một trái tim giàu tình yêu
thương, chính ông đã từng viết trong Truyện Kiều : “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ
tài”. Sự nghiệp văn học của Nguyễn Du rất phong phú và đồ sộ, ba tập thơ chữ Hán
với 243 bài, sáng tác chữ Nôm xuất sắc nhất là “Truyện Kiều”.
Nhà thơ sống vào giai đoạn lịch sử xã hội Việt Nam có nhiều biến động dữ dội,
nhất là khoảng ba mươi năm đầu của cuộc đời nhà thơ. Nguyễn Du đã có dịp chứng
kiến những biến cố lịch sử trọng đại nhất: Sự sụp đổ thảm hại của tập đoàn phong kiến
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

13


thống trị Lê - Trịnh, vận mệnh ngắn ngủi nhưng rạng rỡ của phong trào Tây Sơn và
triều đại Quang Trung, công cuộc trung hưng của nhà Nguyễn. Thời đại là một cơ sở
sâu xa tạo nên sự xuất hiện gương mặt thiên tài văn học Nguyễn Du. Ông đã sống
trong một thời đại mà truyền thống nhân văn và tinh thần dân tộc được kết tinh một
cách rực rỡ. Những biến cố xã hội, truyền thống nhân văn và tinh thần dân tộc của thời
đại đã để lại những âm hưởng, những màu sắc trong nhân cách cũng như sáng tác của
nhà thơ.
Sự nghiệp văn chương
Xét về văn học, sự thăng tiến trên đường làm quan của Nguyễn Du khá thành đạt.
Nhưng ông không màng để tâm đến công danh. Trái tim ông đau xót, buồn thương,
phẫn nộ trước “những điều trông thấy” khi sống lưu lạc, gần gũi với tầng lớp dân đen
và ngay cả khi sống giữa quan trường. Ông dốc cả máu xương mình vào văn chương,
thi ca. Thơ ông là tiếng nói trong trái tim mình. Đấy là tình cảm sâu sắc của ông đối
với một kiếp người lầm lũi cơ hàn, là thái độ bất bình rõ ràng của ông đối với các số
phận con người. Xuất thân trong gia đình quý tộc, sống trong không khí văn chương
bác học, nhưng ông có cách nói riêng, bình dân, giản dị, dễ hiểu, thấm đượm chất dân
ca xứ Nghệ
 Thơ chữ Hán: Nhà thơ đã để lại nhiều tác phẩm nổi tiếng bằng chữ Hán và

chữ Nôm. Ông có ba tập thơ:
-

Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh Hiên) 1786-1804.

-

Nam trung tạp ngâm: 1805-1812.

-

Bắc hành tạp lục: 1813-1814.

Cả ba tập thơ đã được tập hợp lại thành tập Thơ chữ Hán của Nguyễn Du do nhóm
Lê Thước và Trương Chính giới thiệu, xuất bản năm 1965 gồm 243 bài thơ. Nguyễn
Du có nhiều tác phẩm. Thơ chữ Hán như Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm,
Bắc hành tạp lục. Cả ba tập này, nay mới góp được 250 bài nhờ công sức sưu tầm của
nhiều người. Lời thơ điêu luyện, nhiều bài phản ánh hiện thực bất công trong xã hội,
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

14


biểu lộ tình thương xót đối với các nạn nhân, phê phán các nhân vật chính diện và
phản diện trong lịch sử Trung Quốc, một cách sắc sảo..
 Thơ chữ Nôm
-

Ðoạn trường tân thanh (tên Truyện Kiều là do quần chúng đặt cho tác phẩm).


-

Văn chiêu hồn (còn gọi là Văn tế thập loại chúng sinh).

-

Sinh tế Trường Lưu nhị nữ.

-

Thác lời trai phường nón.

Tác phẩm tiêu biểu cho thơ chữ Nôm của thiên tài Nguyễn Du là “Đoạn trường
tân thanh” và “Văn tế thập loại chúng sinh”, đều viết bằng quốc âm. “Đoạn trường
tân thanh” được gọi phổ biến là “Truyện Kiều”, là một truyện thơ lục bát. Cả hai tác
phẩm đều xuất sắc, tràn trề tinh thần nhân đạo chủ nghĩa, phản ánh sinh động xã hội
bất công, cuộc đời dâu bể. Tác phẩm cũng cho thấy một trình độ nghệ thuật bậc thầy.
“Truyện Kiều” đã là đầu đề cho nhiều công trình nghiên cứu, bình luận và những cuộc
bút chiến. Ngay khi “Truyện Kiều” được công bố (đầu thế kỷ XIX) ở nhiều trường học
của các nho sĩ, nhiều văn đàn, thi xã đã có trao đổi về nội dung và nghệ thuật của tác
phẩm.
1.2.2 Đối sánh Truyện Kiều của Nguyễn Du và Kim Vân Kiều truyện
của Thanh Tâm tài nhân
Thanh Tâm Tài Nhân tên thật là Từ Văn Trường, tức Từ Vị, ông còn có một số bút
danh khác là Thiện Tri, Thanh Đằng, Điền Thủy Nguyệt, là một nhà văn Trung Quốc
đời nhà Thanh (khoảng thế kỷ XVII). Ông học giỏi, hiểu biết rộng nhưng lận đận chốn
quan trường, bèn làm mặc khách của Hồ Tôn Hiến. Sinh thời đã có lần Thanh Tâm Tài
Nhân thảo tờ biểu “Dâng hươu trắng” cho vua nên trở thành nổi tiếng. Ngoài Kim
Vân Kiều truyện, ông còn viết bộ kịch Tứ thanh viên gồm bốn vở.


Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

15


Kim Vân Kiều truyện là một trong vô vàn tiểu thuyết tài tử giai nhân cuối Minh
đầu Thanh. Kim Vân Kiều truyện là một bộ tiểu thuyết chương hồi có lối kết cấu
truyền thống theo kiểu văn xuôi cổ điển Trung Quốc kể lại cuộc đời của một cô gái đời
Minh nổi danh về tài sắc mà chẳng may bị lưu lạc khổ sở. Sách gồm 20 hồi, trước mỗi
hồi đều có phần giới thiệu, tóm lược nội dung, lời bình phẩm. Kết cấu của tác phẩm
được miêu tả theo tuyến tính thời gian, trình tự diễn biến của sự kiện và quá trình hoạt
động của nhân vật chính. Chủ đề của Kim Vân Kiều truyện là tình và khổ.
Truyện Kiều của Nguyễn Du và Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân có
mối quan hệ mật thiết với nhau. Nói cho đúng hơn thì Truyện Kiều có nguồn gốc từ
Kim Vân Kiều truyện đời Thanh. Thế nhưng hai tác phẩm này lại có hai số phận hoàn
toàn khác nhau. Truyện Kiều của Nguyễn Du được nhiều người ưa chuộng và được
dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau (khoảng 30 bản dịch ra 20 tiếng nước ngoài). Ngoài
ra đã có những công trình nghiên cứu so sánh Truyện Kiều với một số tác phẩm của
một số nền văn học dân tộc khác như văn học Nga, văn học Đức, văn học Hàn Quốc,
...). Kim Vân Kiều truyện lại phải bị vùi lấp hàng mấy thế kỉ trong văn học sử Trung
Quốc. Nó thất truyền và gần như không tồn tại trong lịch sử văn học Trung Quốc.
Không có Thanh Tâm Tài Nhân thì ắt hẳn không thể có Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Thế nhưng, Truyện Kiều nổi tiếng và sống mãi trong lòng người đọc chính nhờ công
lao to lớn của Nguyễn Du,
Hai tác phẩm có cùng một cốt truyện, cùng một hệ thống nhân vật và cả kết cấu tự
sự. Thế nhưng Nguyễn Du đã dùng tài năng của mình để thay đổi số phận của tác
phẩm. Truyện Kiều có những cái mới mà Kim Vân Kiều truyện không có được. Hai tác
phẩm với hai thể loại khác nhau mang đến những cảm nhận khác nhau cho người đọc.
Truyện thơ đã giúp tác giả thể hiện cảm xúc một cách chân thật nhất, đồng thời nó
cũng dễ chạm vào trái tim bạn đọc hơn là ngôn ngữ của một cuốn tiểu thuyết. Không

chỉ khác biệt về thể loại, điểm đặc biệt trong Truyện Kiều là Nguyễn Du đã đem thiên
nhiên vào trong tác phẩm của mình – một thiên nhiên thực nhưng cũng có khi là thiên
nhiên của cảm xúc. Trong khi đó Kim Vân Kiều truyện hoàn toàn vắng bóng thiên
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

16


nhiên. Nhân vật của Kim Vân Kiều truyện đã được Nguyễn Du xây dựng theo một
cách riêng, không rập khuôn nguyên tác.
“Nguyễn Du đã viết Truyện Kiều trên cơ sở vay mượn cốt truyện của Kim Vân
Kiều truyện, Truyện Kiều là một kiệt tác văn chương, Truyện Kiều là một công trình
sáng tạo văn hóa” [tr12, 6]
Kim Vân Kiều truyện ra đời vào thời Khang Hy nhà Thanh. Đây là thời kì tiểu
thuyết Trung Quốc phát triển rực rỡ. Không thể không nhắc đến “Tứ đại kì thư”:
“Tam quốc diễn nghĩa” (La Quán Trung), “Hồng Lâu Mộng” (Tào Tuyết Cần), “Thủy
Hử” (Thi Nại Am), và “Tây Du Kí” (Ngô Thừa Ân). Sau này, không thể không nhắc
đến “Đông Chu Liệt Quốc” (Phùng Mộng Long), “Kim Bình Mai”, hay “Liêu trai chí
dị” (Bồ Tùng Linh). Ta có thể thấy được có rất nhiều tác phẩm được nhắc đến, nổi
tiếng và sống mãi với thời gian, tuy nhiên, trong đó không thấy cái tên Kim Vân Kiều
truyện. Điều đó cho ta thấy rằng Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân cũng
chỉ là một tác phẩm “thường thường bậc trung”, dường như bị lãng quên ngay trên
chính quê hương của nó.
Trần Đình Sử khi nghiên cứu Thi pháp Truyện Kiều đã nhận xét: “Thanh Tâm Tài
Nhân quả là làm phong phú thêm rất nhiều cho Kim Vân Kiều truyện…, là một truyện
mới, vượt hẳn lên nội dung lịch sử cụ thể để nói một cái gì đó bất hủ muôn đời theo
quan niệm tác giả. Nhưng tác giả trọng lý hơn tình, nhân vật của ông cũng sống hợp lý
hơn tình, nên ít sống động, thuyết phục đáng nhớ,…” [75, 7]
Các học giả Trung Quốc trong công trình “So sánh văn học Trung Quốc và văn
học nước ngoài” đã viết “Truyện Kiều tuy vay mượn đề tài của tiểu thuyết Kim Vân

Kiều truyện, nhưng quyết không phải là một tác phẩm dịch, cũng không phải là tác
phẩm mô phỏng máy móc giản đơn, mà là một thành quả lớn của việc cấu tứ lại một
cách tinh vi, và tái tạo lại trên cơ sở di thực” [tr317, 5]

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

17


Giống nhau
Nguyễn Du đã dựa vào cốt truyện của Kim Vân Kiều truyện sáng tạo nên Truyện
Kiều. Ông đã lấy lại hầu hết các nhân vật và tình tiết, từ thằng bán tơ, Đạm Tiên, Thúy
Vân, Thúy Kiều, Vương Quan, Từ Hải, Hồ Tôn Hiến, Tú Bà, Bạc Bà, Bạch Hạnh, Mã
Giám Sinh, Sở Khanh, …
Khác nhau
Nếu chỉ nhắc đến cốt truyện thì ta vẫn chưa thấy được nét sáng tạo của Nguyễn Du
với Truyện Kiều. Trên cơ sở cốt truyện ấy, Nguyễn Du đã sáng tạo và tinh tế biến nó
thành Truyện Kiều vừa phù hợp với không gian, thời gian, thể loại truyện thơ, chất
Việt Nam và quan niệm của tác giả.
Một bên là văn xuôi kể chuyện theo lối cổ của Kim Vân Kiều truyện, một bên là
truyện thơ của Truyện Kiều. Hay nói rõ hơn về ngôn ngữ một bên là ngôn ngữ văn
xuôi, một bên là ngôn ngữ thơ. Nói đến ngôn ngữ văn xuôi kể chuyện theo lối cổ như
Kim Vân Kiều truyện là nói đến cái ngữ nghĩa thông báo đơn nhất mà ngôn từ chứa
đựng, cụ thể ở đây là nội dung của câu chuyện được kể lại. Còn nói đến ngôn ngữ thơ
như Truyện Kiều thì ngoài ngữ nghĩa ra từ ngôn bản, còn phải nói đến tiết tấu, vần và
nhịp điệu, nói đến khả năng ảnh hưởng của tất cả những thứ ấy. Trong lúc trữ tình, nhà
thơ đã gửi gắm vào đó cả thể nghiệm cuộc đời của mình, nên những đoạn đó chân thực
tha thiết, làm cảm động lòng người.
Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân là tác phẩm tiểu thuyết chương hồi
thuộc thể tài văn xuôi, kết cấu theo thời gian, theo trình tự diễn biến của các sự kiện,

theo quá trình hành động của các nhân vật. Nó thiên về mô tả sự kiện, đi sâu miêu tả
thực tại, khắc họa chân dung nhân vật một cách cụ thể. Cũng như các tiểu thuyết
chương hồi khác, tác phẩm gần như không đề cập đến diễn biến tâm lý nhân vật mà
chỉ có các biến cố, hành động của nhân vật. Tác phẩm lại đặc biệt coi trọng mâu thuẫn
xung đột, tập trung mô tả nhiều chi tiết để tô đậm một tính cách nào đấy của nhân vật.
Diện mạo nhân vật gần như chỉ là những nét chấm phá chứ không miêu tả cụ thể.
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

18


Trong tác phẩm, tác giả cũng đã đưa vào những đoạn thơ, bài phú miêu tả thiên nhiên,
nhưng thiên nhiên ấy lại bị tách rời khỏi cốt truyện và đôi khi lại không gắn bó gì với
tâm trạng của nhân vật.
Trong khi đó, Truyện Kiều lại là một cuốn truyện thơ, một tác phẩm văn học vừa
cổ điển vừa hiện đại, có sự hài hòa giữa hình thức và nội dung. Các nhân vật trong tác
phẩm, các vấn đề xã hội không đợi tác giả tự thuật lại nhiều mà tự nó có thể tự hiện
diện, tự bộc lộ một cách tinh tế nhất.
Thanh Tâm Tài Nhân đã sáng tạo nên một hệ thống nhân vật mới: Kim Trọng,
Thúy Vân, Hoạn Thư, Thúc Sinh, Tú Bà, Sở Khanh, Mã Giám Sinh, Giác Duyên, Tam
Hợp đạo cô. Đến Truyện Kiều, Nguyễn Du đã giữ lại hệ thống nhân vật này. Tuy
nhiên, các nhân vật của Truyện Kiều không thể là các nhân vật cũ như trong Kim Vân
Kiều truyện. Nhân vật đã được sống một cách khác, nghĩ một lối nghĩ khác bởi sự khác
biệt giữa văn hóa Trung Hoa và Việt Nam, và hơn cả là sự khác biệt trong quan điểm
giữa Thanh Tâm Tài Nhân và Nguyễn Du. Tác phẩm của Nguyễn Du ăm ắp nỗi đau
đời, thương con người, tiếc cho cái đẹp thường mong manh bất trắc. Nguyễn Du nhìn
con người với bản chất của chính nó, ông muốn khám phá con người ở chiều sâu tâm
lý, ở số phận, kiếp người,… “Con người trong con mắt Nguyễn Du là con người bình
đẳng trước tạo hóa, con người của đời thường nhìn ở nhiều góc độ, là con người nhân
tính phổ biến với tất cả những mong manh may rủi dễ hư nát, hạnh phúc và bất

hạnh,..” [tr.36, 6]
Nhân vật của Nguyễn Du sống một cuộc đời thường, rất gần gũi. Hoài Thanh từng
viết: “Thúy Kiều như một con người có thật, con người ấy từ lâu sống trong lòng hàng
triệu người và được quí trọng, được âu yếm, nâng niu, được yêu mến say mê…”
Từ Hải của Thanh Tâm Tài Nhân được giới thiệu rõ ràng lai lịch, gốc gác: “Trước
cũng theo nghề nghiên bút, thi hỏng mấy khóa, sau mới xoay qua thương mại, tiền có
của thừa, lại thích kết giao với giang hồ hiệp khách”, Nguyễn Du lại để Từ Hải xuất
hiện như một vị anh hùng
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

19


Trong một bài biên khảo đăng trong tuyển tập Nguyễn Du, Tác Giả và Tác Phẩm
do Nhà Xuất bản Giáo Dục ấn hành năm 1999 tại Việt Nam, các tác giả Nguyễn Thạch
Giang, Triệu Ngọc Lan, và Lô Úy Thu đã nghiên cứu những phần trong Kim Vân Kiều
truyện mà Nguyễn Du đã lược bỏ. Khi so sánh hai tác phẩm, các tác giả nhận thấy
Nguyễn Du đã loại bỏ 142 trang trên tổng số 214 trang, tức khoảng hai phần ba tác
phẩm, giữ lại 72 trang và dùng các chi tiết trong số trang này để viết thành 1313 câu
thơ trong tổng số 3254 câu của Đoạn Trường Tân Thanh.
Nguyễn Du đã lược bỏ những bài thơ xướng họa, những bài ghi lời thề thốt trong
Kim Vân Kiều truyện. Nguyễn Du đã khéo léo dẫn dắt độc giả vào một lối đi khác
Thanh Tâm Tài Nhân, đó chính là đi vào đường tài và đường tình của các nhân vật một
cách tự nhiên, không màu mè. Thể hiện điều này rõ nhất ở nhân vật Thúy Kiều,
Nguyễn Du đã làm cho độc giả phải bất bình với những cái xấu, cái ác đã chà đạp lên
cái “tài” và cái “tình” của nhân vật.
Ở đoạn ba chị em Thúy Kiều đi hội đạp thanh, lúc đi ngang mộ Đạm Tiên, nếu
Kiều trong Truyện Kiều chỉ:
Lầm rầm khấn vái nhỏ to
Sụp ngồi đặt cỏ trước mồ bước ra.

Thì Kiều trong Kim Vân Kiều truyện lại vừa khấn vái, vừa lạy, lại vừa đề thơ:
Sắc hương đâu đó tá?
Thăm viếng não lòng thay!
Chăn gấm, trăng soi lạnh,
Đài gương, bụi phủ nhòa.
Đất tuy vùi ngọc ấy,
Tuyết chưa lấp danh này.
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

20


Rượu nhiều như sông đó,
Nào ai tưới chôn đây?
Hay như sau khi gặp Kim Trọng về, ở Kim Vân Kiều truyện, Kiều nhớ nhung, suy
nghĩ miên man về Kim rồi làm thơ:
Trời quang mây lặng không vương bụi,
Khác gì bình ngọc chứa lòng băng.
Nếu bạn đa tình săn sóc hỏi,
Tấm thân đau đớn biết cho chăng?
Thì hành động này ta không bắt gặp lại trong Truyện Kiều.
Nguyễn Du cũng đã lược bỏ những lời đối đáp rườm rà. Ở hồi một và hồi hai,
những lời đối thoại qua lại của ba chị em Thúy Kiều lúc thấy mộ Đạm Tiên và khi gặp
Kim Trọng đều được Nguyễn Du rút lại một cách ngắn gọn.
Cũng nhờ đó, bố cục của cốt truyện trong Đoạn Trường Tân Thanh rất chặt chẽ,
phát triển rất tự nhiên và cân đối, không hề luộm thuộm, rườm rà. Có thể thấy rằng
Nguyễn Du chỉ giữ lại những chi tiết nào gọi là đặc trưng, điển hình, ảnh hưởng đến
tâm lý, tính cách nhân vật.
Ngoài ra, những gì gây hại đến tính cách, nhân phẩm của các nhân vật như Thúy
Kiều, Kim Trọng, Từ Hải; bao gồm cả những lời lẽ dụ hàng của các thuyết khách của

Hồ Tôn Hiến (quan đốc phủ phái Hoa Nhân, trung quân họ La), lời Từ Hải đáp lại tên
Lợi Sinh, … cũng được Nguyễn Du lược bỏ.
Cuộc xử oán dông dài và man rợ trong Kim Vân Kiều truyện được cụ Nguyễn Du
tóm tắt qua 42 câu thơ. So sánh hai đoạn trích Kiều báo oán trong Kim Vân Kiều
truyện và Đoạn Trường Tân Thanh, ta nhận thấy những điểm nổi bật sau:

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

21


×