Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

NGHIÊN CỨU NĂNG SUẤT, CHẤT LƢỢNG CỦA MỘT SỐ GIỐNG CỎ TRỒNG Ở XÃ CẢNH HƢNG, HUYỆN TIÊN DU, TỈNH BẮC NINH VÀ MÔ HÌNH KHAI THÁC THỨC ĂN CHO GIA SÖC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 58 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
-----------------------------

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
-----------------------------

NGUYỄN THỊ DUYÊN

NGUYỄN THỊ DUYÊN

NGHIÊN CỨU NĂNG SUẤT, CHẤT LƢỢNG CỦA MỘT SỐ
GIỐNG CỎ TRỒNG Ở XÃ CẢNH HƢNG, HUYỆN TIÊN DU, TỈNH

NGHIÊN CỨU NĂNG SUẤT, CHẤT LƢỢNG CỦA MỘT SỐ
GIỐNG CỎ TRỒNG Ở XÃ CẢNH HƢNG, HUYỆN TIÊN DU, TỈNH

BẮC NINH VÀ MÔ HÌNH KHAI THÁC THỨC ĂN CHO GIA SÖC

BẮC NINH VÀ MÔ HÌNH KHAI THÁC THỨC ĂN CHO GIA SÖC

Chuyên ngành: SINH THÁI HỌC
Mã số: 60.42.60

LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. HOÀNG CHUNG


Thái Nguyên - 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Thái Nguyên - 2009


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




LỜI CẢM ƠN
Sau hai năm học tập và nghiên cứu, tôi đã hoàn thành luận văn. Tôi xin
bầy tỏ lòng biết ơn và kính trọng sâu sắc tới:
PGS-TS Hoàng Chung đã tận tình hướng dẫn và tạo mọi điều kiện giúp
đỡ tôi trong suốt quá trình triển khai nghiên cứu đề tài và hoàn thành luận

LỜI CAM ĐOAN

văn. Ban lãnh đạo trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, ban chủ nhiệm

Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu riêng của tôi. Các số liệu,

khoa Sinh-KTNN và các thầy cô giáo trong khoa, cán bộ nhân viên phòng thí

kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa từng ai công bố trong

nghiệm trung tâm trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, đã tạo điều kiện

bất kỳ một công trình khác nào.


giúp đỡ tôi trong học tập và hoàn thành luận văn.
Tác giả

Lãnh đạo Uỷ ban nhân dân xã Cảnh Hưng, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc
Ninh đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi trong quá trình nghiên cứu thực địa.
Tôi xin chân trọng cảm ơn sự góp ý chân thành, nhiệt tình của các nhà

Nguyễn Thị Duyên

khoa học.
Tôi xin cảm ơn sự khích lệ, động viên, tạo điều kiện của gia đình và
bạn bè trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu tại trường.
Thái nguyên, tháng 9 năm 2009
Tác giả

Nguyễn Thị Duyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




MỤC LỤC

1.9. Các loại thức ăn cho bò sữa .................................................................... 46


MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1

Chƣơng 2: ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÙNG NGHIÊN CỨU ................... 49

1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 1

2.1. Một số đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Ninh ....................... 49

2. Mục đích nghiên cứu ................................................................................... 5

2.1.1. Về vị trí địa lý và phạm vi ranh giới tỉnh ............................................. 49

Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU ........................................................... 6

2.1.2. Các yếu tố khí hậu, địa chất, thuỷ văn ................................................. 50

1.1. Tình hình nghiên cứu về cây thức ăn gia súc trên thế giới và ở Việt

2.1.3. Tài nguyên thiên nhiên - môi trường.................................................... 53

Nam........................................................................................................... 6

2.2. Một số đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội xã Cảnh Hưng ..................... 54

1.1.1. Những nghiên cứu về năng suất của đồng cỏ tự nhiên ........................... 6

2.2.1. Điều kiện tự nhiên ............................................................................... 54

1.1.2. Tình hình nghiên cứu cây thức ăn gia súc trên thế giới .......................... 8


2.2.2. Điều kiện kinh tế xã hội ....................................................................... 55

1.1.3. Những kết quả nghiên cứu về nâng cao năng suất cây thức ăn gia

Chƣơng 3: ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............. 56

súc trên thế giới ......................................................................................... 9

3.1. Đối tượng ............................................................................................... 56

1.1.4. Tình hình nghiên cứu cây thức ăn gia súc ở Việt Nam ......................... 12

3.2. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................ 56

1.2. Tình hình nghiên cứu đồng cỏ trên thế giới và ở Việt Nam .................... 19

3.3. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 56

1.3. Những nghiên cứu về sử dụng đồng cỏ Bắc Việt Nam ........................... 23

3.3.1. Các phương pháp nghiên cứu ngoài thiên nhiên .................................. 56

1.4. Vấn đề nguồn gốc và phân bố đồng cỏ trong đai nhiệt đới ...................... 24

3.3.1.1. Nghiên cứu tại Cảnh Hưng (mô hình bò sữa) .................................... 56

1.5. Vấn đề thoái hoá đồng cỏ do chăn thả .................................................... 25

3.3.1.2. Nghiên cứu tại Hiệp Hoà (mô hình bò thịt) ....................................... 57


1.6. Thành phần dinh dưỡng của thức ăn xanh ............................................. 29

3.3.2. Các phương pháp nghiên cứu trong phòng thí nghiệm ......................... 57

1.7. Một số đặc điểm sinh thái và sinh vật học của hoà thảo .......................... 33

3.3.2.5. Phương pháp phân tích đối với mẫu đất : .......................................... 65

1.7.1. Đặc tính sinh thái ................................................................................. 33

3.2.3. Điều tra qua địa phương, lãnh đạo cơ sở .............................................. 67

1.7.2. Đặc tính sinh vật học .......................................................................... 34

Chƣơng 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ........................ 68

1.7.3. Đặc tính sinh lý ................................................................................... 35

4.1. Tình hình khai thác và sử dụng đất của người dân xã Cảnh Hưng .......... 68

1.7.4. Đặc tính sinh trưởng ........................................................................... 37

4.2. Tập đoàn cây thức ăn gia súc của xã Cảnh Hưng .................................... 70

1.7.5. Sức sống cỏ hoà thảo ........................................................................... 37

4.3. Đặc điểm và năng suất các loại cỏ chính dùng làm thức ăn cho bò

1.8. Giá trị kinh tế của các loại cây dùng trong chăn nuôi bò ......................... 38


được trồng tại xã Cảnh Hưng ................................................................... 73

1.8.1. Cỏ Hoà thảo......................................................................................... 38

4.4. Tình hình chăn nuôi bò ở Bắc Ninh và xã Cảnh Hưng ............................ 76

1.8.2. Cây bộ Đậu.......................................................................................... 43

4.5. Năng suất của các loài cỏ chính .............................................................. 78

1.8.3. Cây trồng khác .................................................................................... 45

4.6. Chất lượng của của một số loài cỏ .......................................................... 82

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên






DANH MỤC CÁC CHỮ VÀ KÍ HIỆU VIẾT TẮT

4.7. Năng suất cỏ tự nhiên trên đồi xã Đông Lỗ, huyện Hiệp Hoà ................ 84
4.8. Thảm cỏ tự nhiên ở đồi xã Đông Lỗ, huyện Hiệp Hoà ............................ 85
4.9. Hiệu quả mô hình chăn nuôi bò .............................................................. 94


A

:

Ẩm sinh

4.9.1. Hiệu quả mô hình chăn nuôi bò sữa ..................................................... 94

DS

:

Dạng sống

4.9.2. Hiệu quả mô hình chăn nuôi bò thịt ..................................................... 96

Đ

:

Độc hại với gia súc

4.10. Kết luận và đề nghị ............................................................................... 98

ĐBSCL

:

Đồng bằng sông Cửu Long


PHỤ LỤC................................................................................................... 100

ĐBSH

:

Đồng bằng sông Hồng

TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................... 103

ĐV

:

Động vật

ĐVTA

:

Đơn vị thức ăn

Ho

:

Không có giá trị chăn thả

H-T


:

Hạn – Trung sinh

H

:

Hạn sinh

MNPB

:

Miền núi phía Bắc

NXB

:

Nhà xuất bản

T

:

Trung sinh

TB


:

Trung bình

T-H

:

Trung sinh - Hạn sinh

To

:

Tốt

TS

:

Tổng số

Tr

:

Trang

UBND


:

Uỷ ban nhân dân

VCK

:

Vật chất khô

TT

:

Thứ tự

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




1

DANH MỤC CÁC BẢNG

MỞ ĐẦU


Bảng 1.1: Sản lượng VCK và chất lượng những loài cỏ trên vùng đất

1. Lý do chọn đề tài

thấp vào 45 ngày cắt .......................................................................... 10

Việt Nam là một nước nông nghiệp, ngoài trồng trọt thì lĩnh vực chăn

Bảng 1.2: Sản lượng VCK của cỏ Ghinê tía cắt sau 30 ngày ......................... 11

nuôi giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. So với mức tăng bình

Bảng 1.3: Năng suất của các giống cỏ hòa thảo (tấn/ ha/ năm) ...................... 15

quân của cả ngành nông nghiệp, thì ngành chăn nuôi luôn có tốc độ tăng

Bảng 1.4: Thành phần hoá học và giá trị dinh dưỡng của một số loài cỏ chính .... 32

trưởng cao hơn. Đàn bò thịt giai đoạn 2001-2005 tăng bình quân 9,18%/năm,

Bảng 1.5 : Giá trị dinh dưỡng của cây Ngô trong các giai đoạn khác nhau .... 46

ĐBSCL 25%; ĐBSH 19,2%, Tây Nguyên 11,5%...Đàn bò sữa của Việt Nam

Bảng 4.1: Thực trạng sử dụng đất xã Cảnh Hưng tính đến ngày 1/1/2008 .... 69

có tốc độ tăng bình quân mỗi năm 26,1%. Những năm gần đây xu hướng phát

Bảng 4.2: Tập đoàn cây thức ăn gia súc xã Cảnh Hưng ................................. 71


triển nông nghiệp nói chung là theo con đường thâm canh công nghiệp đang

Bảng 4.3: Số lứa cắt và năng suất của từng lứa .............................................. 79

diễn ra mạnh mẽ. Ở nước ta ngành chăn nuôi đã được chú ý đầu tư nên phát

Bảng 4.4: Lượng phân bón hoá học cho các loài cỏ ....................................... 82

triển tương đối mạnh. Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông

Bảng 4.5: Hàm lượng các chất dinh dưỡng ở vị trí trồng cỏ .......................... 83

thôn thì tại thời điểm 1/8/2007, quy mô đàn trâu trên cả nước tăng 2,58%, đạt

Bảng 4.6: Hàm lượng các chất dinh dưỡng trong đất ở khu vực nghiên cứu ........ 84

2,996 triệu con: Trong đó đàn trâu nuôi lấy thịt tăng 7,3%, trâu cày kéo tiếp

Bảng 4.7: Năng suất của các giống cỏ Hòa thảo (tháng 6/2009) .................... 85

tục có xu hướng giảm nhẹ so với các năm trước do làm đất bằng máy tăng.

Bảng 4.8 : Thành phần loài tại các điểm nghiên cứu tại xã Đông Lỗ ............. 87

Đàn bò đạt 6,724 triệu con, tăng 3,29%; trong đó đàn bò thịt tăng 5,4%, đàn

Bảng 4.9: Khẩu phần ăn bình quân/ngày/con (kg) ngày 10.12.2008 .............. 95

bò sữa giảm 14,5 nghìn con (-12,9%) do trương trình nuôi bò sữa nhiều nơi


Bảng 4.10. Khẩu phần ăn bình quân/ngày/con (kg) ....................................... 96

không có hiệu quả. Các địa phương có tổng đàn bò tăng cao so với cùng kì
năm trước tập trung ở vùng trung du và miền núi có đồng cỏ để chăn thả. Dự
kiến đến năm 2010, Việt Nam đạt mục tiêu tổng đàn trâu 3,5 triệu con, đàn bò
7,6 triệu con. Mặt khác, nhờ áp dụng những thành tựu khoa học, kĩ thuật,
nghành di truyền học, các nhà chọn giống đã nghiên cứu lai tạo, chọn lọc rất
nhiều giống vầt nuôi có năng xuất thịt, sữa, trứng cao phần nào đã đáp ứng
nhu cầu về dinh dưỡng của số dân đang không ngừng tăng lên như hiện nay.
Với diện tích 32% và dân số chiếm 17%, cùng với khí hậu nhiệt đới gió
mùa, miền núi trung du phía Bắc là vùng sinh thái rất có điều kiện phát triển
ngành chăn nuôi, nhất là chăn nuôi đại gia súc. Giai đoạn 2001-2007, đàn trâu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




2

3

khu vực miền núi phía Bắc tăng trưởng 1,16%/năm (cao hơn tốc độ trung bình

áp dụng rộng rãi, nên năng suất và chất lượng thịt còn thấp. Giá thu mua sữa


của cả nước 1,03%/năm), đàn bò tăng 4,48%/năm, đàn bò sữa tăng

thấp đã dẫn đến tình trạng năm 2005 có khoảng 1-1,2 vạn bò sữa bị đưa vào

14,42%/năm; đặc biệt đàn ngựa ở khu vực này chiếm tới 88,60% , đàn trâu

giết thịt. Chưa có chính sách quốc gia về phát triển trâu, nên trâu vẫn hầu hết

chiếm 58,84% và đàn dê chiếm 34,81% tổng đàn trong cả nước. Các thương

thả rông kiểu quảng canh, giống như dê, cừu. Năng suất, sản lượng thịt, sữa và

hiệu của sản phẩm chăn nuôi ở MNPB ít nhiều đã được khẳng định trong thị

hiệu quả chăn nuôi chưa cao; chăn nuôi bò sữa còn nhỏ bé và bấp bênh. Việc

trường nội địa như sữa Mộc Châu, dê cỏ Hà Giang, ngựa bạch Lạng Sơn…

chăn nuôi gia súc ăn cỏ chưa tương xứng với tiềm năng.

Tuy vậy chăn nuôi vùng trung du và MNPB vẫn chưa thật sự phát huy đúng

Nguyên nhân cơ bản là do chăn nuôi gia súc chưa được đầu tư đúng mức,

với tiềm năng vì đồng bào chủ yếu vẫn chăn thả các giống địa phương nên

đặc biệt thiếu trầm trọng thức ăn thô xanh. Thức ăn thô xanh là nguồn dinh

năng suất thấp, do quản lý lỏng lẻo và tập quán chăn thả rông nên cận huyết


dưỡng chủ yếu cho gia súc ăn cỏ, nhưng hiện nay, nguồn thức ăn này chủ yếu là

nhiều, thoái hoá giống cao. Ngoài ra công tác xây dựng chuồng trại, thức ăn

tận dụng cỏ tự nhiên và phụ phẩm trong nông nghiệp, trong khi đồng cỏ thâm

chăn nuôi và khai thác thi trường kém nên thường bị tư thương ép giá nên thu

canh còn rất nhỏ bé. Cần có 5 yếu tố cần thực hiện đồng bộ để phát triển chăn

nhập của người chăn nuôi còn bị hạn chế nhiều.

nuôi. Đó là trang trại, tiến bộ kỹ thuật, thức ăn, thú y và thị trường.

Chăn nuôi là một mắt xích quan trọng trong sản xuất nông nghiệp bền
vững, tạo việc làm, tăng thu nhập, góp phần xoá đói giảm nghèo cho người
nông dân. Lĩnh vực chăn nuôi đã cung cấp cho chúng ta nguồn thực phẩm giá
trị có chất lượng cao (giầu nguồn protein động vật, giầu sắt,vitaminA,
vitaminB…); cung cấp nguyên liệu cho các ngành công ngiệp, cung cấp sức
kéo, phân bón cho trồng trọt. Trâu, bò, dê, cừu, thỏ có thể hoàn toàn chỉ cần sử
dụng cỏ. Chăn nuôi trâu, bò đầu tư thấp, ít gây ô nhiễm môi trường. Thịt trâu,
bò có thể coi là nguồn thịt sạch vì ít sử dụng thức ăn công nghiệp và các chất
kích thích sinh trưởng. Để chăn nuôi trở thành ngành sản xuất chính trong nông
nghiệp ngoài chăn nuôi lợn, gia cầm, thì chăn nuôi bò đóng vai trò khá quan

Đồng cỏ ở ta hiện nay còn rất hạn chế, chủ yếu là trồng xen, tận dụng
chứ chưa thành phổ biến đại trà. Các giống cỏ năng suất cao được nhập vào
nước ta từ những năm 70 của thế kỷ XX với rất nhiều giống tốt đã thích nghi
cao với điều kiện nước ta nhưng chưa phát huy được, vì đến nay diện tích

dành cho trồng cỏ còn quá nhỏ bé. Rất nhiều chương trình khuyến nông phát
triển đồng cỏ nhưng chỉ dừng lại ở quy mô nhỏ, vẫn chưa thay đổi được tập
quán người chăn nuôi, thường cho rằng việc gì phải đi trồng cỏ! Nhưng thực
tế cho thấy rõ, trồng cỏ chăn nuôi cho lợi ích hơn nhiều lần trồng lúa và nhiều
loại cây trồng khác.

trọng. Tuy nhiên cho đến nay, ngành chăn nuôi bò vẫn còn khá nhiều yếu kém,

Xu thế của xã hội ngày nay đòi hỏi phải phát triển ngành chăn nuôi để

bất cập. Chăn nuôi bò thịt vẫn dựa vào chăn thả tự nhiên, chăn nuôi chủ yếu tồn

có thể cung cấp khối lượng thực phẩm lớn với chất lượng cao nhưng giá thành

tại trong nông hộ nhỏ lẻ, phân tán, thức ăn chủ yếu là tận dụng cỏ tự nhiên và

chi phí về thức ăn thấp.Với chăn nuôi trâu bò thì thức ăn hàng ngày của chúng

phụ phẩm trong nông nghiệp, việc sử dụng thức ăn công nghiệp còn rất ít, thiếu

là cỏ. Đồng cỏ Việt Nam phân bố rải rác khắp nơi nhưng tập trung nhiều nhất

bò giống tốt, thiếu đồng cỏ và thức ăn thô xanh, quy trình kỹ thuật chưa được

vẫn là trên các đồi núi, cao nguyên của trung du và miền núi (chiếm tới 10

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên







4

5

triệu ha). Khu vực có đồng cỏ tự nhiên với diện tích lớn không nhiều lắm đại

Xuất phát từ những lý do trên chúng tôi xây dựng đề tài “Nghiên cứu

diện là đồng cỏ Mộc Châu (Sơn La), Ngân Sơn (Bắc Cạn) và một số đồng cỏ

năng suất, chất lượng của một số giống cỏ trồng ở xã Cảnh Hưng, Tiên

thuộc vùng Tây Nguyên. Các đồng cỏ khác thường có diện tích nhỏ từ vài

Du, Bắc Ninh và mô hình khai thác thức ăn cho gia súc”.

chục đến vài trăm ha. Năng suất của các giống cỏ phụ thuộc nhiều vào giống,

2. Mục đích nghiên cứu

điều kiện tự nhiên và sự chăm sóc của con người, đặc biệt là bón phân và tưới
nước. Sự chăn thả gia súc bừa bãi, khai thác mà không chăm bón chắc chắn
một ngày không xa các đồng cỏ sẽ bị thoái hoá, diện tích bị thu hẹp dẫn đến
thiếu thức ăn cho gia súc. Dự kiến trong giai đoạn 2006-2015, ngành chăn
nuôi sẽ phát triển theo hướng tập trung, công nghiệp quy mô vừa và lớn, có

năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh cao, bảo đảm vệ sinh thú y,
nuôi trồng và an toàn vệ sinh thực phẩm. Ngành phấn đấu đến 2010 đạt 30%
tỷ trọng chăn nuôi trong nông nghiệp, và 2015 là 35%. Đến năm 2010, đàn bò
sữa đạt 200.000 con, năng suất sữa 4.000-4.200 kg/con/chu kỳ, cho 350.000

- Trên cơ sở điều tra về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của xã Cảnh
Hưng để tính toán thực trạng kinh tế của từng vùng.
- Nghiên cứu năng suất, chất lượng một số giống cỏ trồng địa phương
dưới ảnh hưởng của chế độ bón phân, thu hái.
- Đánh giá về mô hình đang khai thác thức ăn của địa phương và hiệu
quả kinh tế của nó.
- Đưa ra những kết luận về năng suất và chất lượng của các giống
cỏ và đề xuất mô hình chăn nuôi góp phần phát triển kinh tế gia đình và
địa phương.

tấn sữa, đáp ứng 30% nhu cầu trong nước. Sẽ có 7,1 triệu bò thịt, tỷ lệ lai
36%, đạt 210.000 tấn thịt. Đàn trâu sẽ là 3,1 triệu con với 72.800 tấn thịt, 2,5
triệu dê, cừu.
Với mục đích không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng các giống
cỏ, trong những năm qua chúng ta đã tiến hành nhập, lai tạo một số giống cở
mới có năng suất và giá trị dinh dưỡng cao, đồng thời luôn khai thác các
giống cỏ tự nhiên, nguồn thức ăn trong trồng trọt nhằm góp phần giải quyết
vấn đề thức ăn cho gia súc ngày càng phát triển không chỉ về số lượng mà cả
chất lượng. Và để phát triển chăn nuôi nhiều địa phương đã biết khai thác các
giống cỏ có năng suất cao, thích nghi với khí hậu nước ta và đồng thời luôn
tận dụng nhiều loài cây trồng làm thức ăn cho vật nuôi.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




6

7
Sau đó nhiều công trình nghiên cứu phần trên mặt đất được tiến hành

Chương 1

cùng với phần dưới đất trong sự phụ thuộc từ những điều kiện tạo thành nó

TỔNG QUAN TÀI LIỆU

của các kiểu thực bì khác nhau: Salưt (1950), Balôchina (1950), Gorskova
1.1. Tình hình nghiên cứu về cây thức ăn gia súc trên thế giới và ở Việt Nam

(1954),

1.1.1. Những nghiên cứu về năng suất của đồng cỏ tự nhiên

Xưrokomskaia và Ponhiatopkaia (1960), Igơnachenkô (1965), Xemen-Nova-

Andreev, Lapverenko và Leonchiev (1955); Badilevich (1958),

Vấn đề nghiên cứu về năng suất sinh vật học của các thảm thực vật đã


Chiansianskaia (1966), Alekxenko (1967), Hoàng Chung (1974), Alekxeev

bắt đầu từ thế kỷ XIX, đầu tiên chủ yếu là những công trình nghiên cứu có

(1975), Uchekhin (1977) … Nghiên cứu riêng phần trên mặt đất có các tác

tính chất thống kê trong kinh tế nông nghiệp. Sang đầu thế kỷ XX, những

giả: Kalininna (1954), Xemennôva-Chian-Sanskia (1966)… Nghiên cứu riêng

công trình nghiên cứu về năng suất sinh vật học của các quần xã cỏ tự nhiên

phần dưới mặt đất có các tác giả: Baranops - Kaia (1954), Krưm (1960),

và cỏ cho chăn nuôi đã được nghiên cứu nhiều hơn, với những thí nghiệm trên

Xemennop (1966), Kharitonốp (1967), Gawood (1968), Hoàng Chung (1980).

các kiểu đất khác nhau và hình thức khác nhau, điển hình như:

Ivannop (1941), Odum (1968) và Rodin (1968); Mantranop và Siminop

Hendin (1947) làm thí nghiệm và xác định: Cách ba tuần cắt một lần sẽ
được một lượng prôtit thô, tính trên 1 ha xấp xỉ bằng khi để cỏ già cắt một lần
và cắt thêm những cỏ mọc lại. Nhưng hiệu suất tiêu hoá của cỏ cắt định kỳ lại
cao hơn (30,3% so với 17,2%). Như thể, cắt nhiều lần cỏ năng suất prôtit dễ
tiêu cao hơn. Louw (1938) đã nghiên cứu chi tiết tác dụng đối với cỏ mọc tự
nhiên của việc cắt theo những khoảng cách khác nhau, hàng tháng hoặc hai

(1967).... có những công trình nghiên cứu quá trình tích luỹ vật chất hữu cơ,

cũng như sự chuyển đổi sản phẩm là năng lượng trong các thực vật quần hay
hệ sinh thái.
Nhật Bản có các công trình nghiên cứu về năng suất sinh học của các
thảm cỏ của các tác giả như: Ogawa và cộng sự (1961); Iwaki và cộng sự
(1964, 1966); Iwaki (1979); Ở Thái Lan, Ấn Độ đã có một số nghiên cứu về
năng suất của các quần xã cỏ trong rừng thường xanh vùng ôn đới.

tháng một lần hoặc ba tháng một lần….Chính những lần cắt hàng tháng cho ít

Ở Việt Nam, đến 1955 hầu như không có công trình nào nghiên cứu về

chất khô nhất, lượng chứa lân, kali, các clorua, các protit cũng thấp hơn. Cuối

năng suất đồng cỏ. Từ 1960 đến nay nhiều công trình nghiên cứu về năng suất

cùng, những kết quả thí nghiệm về hiệu suất tiêu hoá cho thấy, chế độ tốt nhất

đã được tiến hành trong các quần xã cỏ tự nhiên và cỏ trồng (chăn thả hay

đối với những loại cỏ này là cắt hai tháng một lần trong thời gian sinh trưởng.

đồng cỏ cắt). Dương Hữu Thời (1981); Nguyễn Hữu Hiến (1985), … chỉ

Huges đã thấy : cắt cỏ sát mặt đất, đều dặn làm nhiều lần, cho năng suất cỏ

nghiên cứu một số cây có giá trị kinh tế cao trên đồng cỏ tự nhiên và chủ yếu

tươi cao hơn nhưng lại làm giảm rõ rệt của bộ rễ, vì vậy những dự trữ dưới

tính sản lượng cỏ trong một số vùng nhằm phục vụ cho kế hoạch phát triển


đất bị cạn kiệt nhanh hơn, làm cho cỏ xấu mọc nhanh hơn. Tác giả cho rằng

chăn nuôi đại gia súc của một số vùng đó. Hoàng Chung (2004) đã tiến hành

cắt ít lần hơn (tương đương với việc cho gia súc gặm cỏ điều độ) sẽ cho một

nghiên cứu năng suất các quần xã cỏ của vùng Việt Bắc và vùng Tây Bắc trên

sản lượng cỏ lớn hơn và có nhiều các chất dễ tiêu hơn [39].

hai đai (Nhiệt đới và á nhiệt đới). Trong công trình nghiên cứu của ông đã đề

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




8

9

cập đến những chỉ tiêu về khí hậu, thổ nhưỡng, thành phần loài, dạng sống

người nông dân bằng giải pháp: giảm trồng lúa, sắn, đẩy mạnh phát triển chăn


phần trên mặt đất, phần dưới mặt đất và đi đến kết luận về sự biến đổi năng

nuôi đặc biệt là gia súc nhai lại. Nông dân nuôi bò trong dự án được cấp hạt

suất trên đồng cỏ vùng núi phía Bắc Việt Nam: “Trong các điều kiện thảm

giống cỏ để trồng.

thực vật (savan – đồng cỏ) của Bắc Việt Nam, năng suất sinh vật học giảm

Ở Trung Quốc, cây thức ăn gia súc được chú ý phát triển ở khu vực

dần dần theo trình tự sau: Đồng cỏ á thảo nguyên – Đồng cỏ - Savan cỏ” [7].

phía Nam. Trong quá trình nghiên cứu đã xác định được các giống cỏ Stylo,

1.1.2. Tình hình nghiên cứu cây thức ăn gia súc trên thế giới

Brachiaria, Pennisetum, … sử dụng có hiệu quả cho gia súc. Hằng năm còn

Ở các nước có nền chăn nuôi đại gia súc phát triển, vấn đề thức ăn rất

sản xuất 20,5 tấn hạt cỏ cung cấp cho trong và ngoài nước [25].

được quan tâm và đầu tư nghiên cứu như: Úc, Mỹ, Brazin,Anh … Chăn nuôi

Ở Philippiin, với 90% gia súc nhai lại nuôi tại vườn nhà hoặc ở các

là một bộ phận quan trọng trong hệ thống sản xuất của vùng đồi núi ở Đông


trang trại nhỏ được trồng các giống Stylo 184, Panicum maxinum, Paspalum

Nam Á, có rất nhiều tác giả đã tiến hành nghiên cứu về cây thức ăn cho gia

atratum, … đều phát triển tốt cung cấp nguồn thức ăn cho gia súc. Ngoài ra,

súc như: Tác giả T. Kanno và M. C. M. Macedo [56] đã tiến hành thí nghiệm

các giống cỏ trên còn được trồng theo đường đồng mức ở đất dốc, cải tạo đất

gieo hạt của các giống cỏ Brachiaria decumbens, B .brizantha, B.

trống đồi núi trọc, trồng dưới tán cây ăn quả. Hằng năm sản xuất được trên 1

dictyoneura, B. humidicola, Andropogon gayanus, Setaria anceps và
Paspalum atratum đầu mùa mưa tại các cánh đồng ở khu vực đầm lầy. Các
tác giả thấy không có loài nào có thể sống sót trong mùa mưa ở khu vực đất
lầy. Còn khi gieo hạt và giữa mùa mưa thì chỉ còn một lượng nhỏ cây giống
con còn tồn tại vào cuối mùa mưa, tuy nhiên cũng không thể sống sót cho đến
hết mùa mưa. Những kết quả chỉ rõ rằng giai đoạn cây con phù hợp nhất ở
khu vực đầm lầy là bắt đầu của mùa khô, khi đất trở nên cứng có thể sử dụng
được máy kéo. Theo John W. Miles 2004 [59] Chi Brachiaria là giống lớn
được sử dụng làm thức ăn cho vật nuôi vùng nhiệt đới châu Mĩ.
Ở Inđonêxia, trong tình hình thức ăn của trâu, bò chiếm 56% là cỏ tự
nhiên, 21% là rơm, 16% là cây lá khác và 7% là phụ phẩm thì trong 4 giải
pháp để giải quyết thức ăn là thâm canh, trồng giống cỏ tốt (cỏ Voi và cây

tấn hạt cỏ (E.F. Lating, F. Gagunada, 1995).
Một số nước khác như Malaysia, Lào, … cũng đã chú trọng đầu tư phát
triển cây thức ăn cho gia súc từ những năm 1985. Cho đến nay một số giống

cỏ Hoà thảo và cỏ họ Đậu được chọn lọc, đang phát huy hiệu quả cao trong
sản xuất. Hằng năm sản xuất được 2-3 tấn hạt cỏ các loại.
Có thể nói, phong trào trồng cây thức ăn xanh để chăn nuôi gia súc
đang được nhiều nước quan tâm. Nó thực sự là động lực thúc đẩy ngành chăn
nuôi đại gia súc ngày một phát triển.
1.1.3. Những kết quả nghiên cứu về nâng cao năng suất cây thức ăn gia
súc trên thế giới
Trên thế giới hiện nay ngoài việc tuyển chọn, lai tạo, di nhập các giống
cỏ tốt từ vùng này sang vùng khác, người ta còn tập trung giải quyết vấn đề
năng suất, chất lượng cỏ.Theo Quilichao, Colombia CIAT, (1978) [58], giống

Đậu) [21]. Ở Thái Lan, với 70% dân liên quan đến sản xuất nông nghiệp, sản

cỏ Brachiaria decumbens có thể đạt năng suất chất khô trên 40.000kg/ha/năm

phẩm trồng trọt có giá trị thấp, thịt bò và sữa chưa đủ cung cấp theo nhu cầu

với thí nghiệm không có bón đạm nhưng bón đủ lân và nó là một giống cỏ tốt

tiêu dùng. Theo FAO, Chính phủ Thái Lan có chủ trương tăng thu nhập của

nhất trong điều kiện bón lân và đạm thấp.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên







10

11

Tại Samford, Queensland năng suất hàng năm của giống Paspalum

nhau về sản lượng giữa khoảng cách thu cắt 45 ngày và 65 ngày ở mùa mưa

dilatatum là 15 000 kg VCK (Davies, 1970) [50] . Tại Fiji năng suất trung bình

đầu tiên. Còn ở mùa mưa thứ hai Paspalum atratum sản xuất 30 tấn/ha VCK

là 5.313 kg VCK/ha với mức prôtein thô là 9,9% trong thời gian trên 3 năm.

lớn hơn 10tạ/ha so với B. multica

Tại Redland Bay, Queensland, Riveros và Wilson, 1970 [49] thông báo

Tại Trung tâm nghiên cứu nuôi dưỡng động vật tỉnh Petchaburi (Thái

năng suất cỏ Setaria sphacelata đạt từ 23.500 – 28.000 kg/ha qua mùa sinh

Lan) cỏ Ghinê tía được trồng và cắt 30 ngày một lần, với mật độ trồng là 50 x

trưởng 6 tháng trong điều kiện cỏ được tưới nước và cung cấp 225 kg đạm

50cm và được bón phân hỗn hợp (15-15-15) trước khi trồng ở mức 300 kg/ha


ure/ha/năm trên nền đất baza mầu mỡ .

tương đương 18 tấn phân bón / 1ha. Lượng cỏ thu hoạch khoảng 8,9 tấn/ha ở

Tại Thái Lan, sản lượng vật chất khô của các giống cỏ Digitaria
decumbens, Paspalum atratum, Brachiaria mutica và Paspalum plicatulum
khoảng từ 15-20, 18-25, 9-15 và 6-10 tấn/ha (bảng 1.1).

lứa đầu (70 ngày sau trồng) và khoảng 2,6 đến 7,1 tấn/ha cắt sau 30 ngày
[42]. Sản lượng này được thể hiện ở bảng 1.2.
Bảng 1.2: Sản lƣợng VCK của cỏ Ghinê tía cắt sau 30 ngày

Bảng 1.1: Sản lƣợng VCK và chất lƣợng những loài cỏ

Thời gian cắt

Năng suất VCK (tấn/ha)

trên vùng đất thấp vào 45 ngày cắt

11/8/2000

8,9

Tên khoa học

Brachiaria mutica
Digitaria
decumbens
Paspalum atratum


Tên Việt Nam

Năng suất (tấn/ha)

Prôtêin (%)

11/9/2000

7,1

Cỏ lông Para

9 - 15

6 – 10

11/10/2000

6,9

Pangola

15 – 20

7 – 11

11/11/2000

6,8


11/12/2000

4,6

Cỏ đắng

18 – 25

6–7

11/01/2001

2,6

6 – 10

5-6

11/02/2001

4,1

11/03/2001

4,3

11/04/2001

5,8


11/05/2001

3,7

Paspalum
plicatulum

Nguồn: Division of Animal Nutrition, Anon (2000) [41]
Ngoài ra, hai giống cỏ là cỏ Paspalum atratum và Paspalum plicatulum
là những loài cho sản lượng hạt giống lớn, có thể tới trên 600kg/ha. Do vậy,
hai giống này đã được phân bố rộng rãi ở Thái Lan.Theo M.D. Hare và cộng
sự [60] cho biết các cỏ Brachiaria multica và Paspalum atratum khi không
có cây bộ đậu và dưới điều kiện cằn cỗi, nằm thấp, đất khô ở vùng tây bắc
Thailand phát triển tốt ở năm đầu, sản xuất trung bình là 20tạ/ha VCK .
Không có sự sai khác có ý nghĩa về sản lượng giữa hai loài và không khác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



Nguồn: Annual Report on Animal Nutrition Division (2001) [42].
Theo Quilichao (Colombia CIAT, 1978) [41], giống Brachiaria
decumbens có thể đạt năng suất chất khô trên 42.000 kg/ha/năm với thí
nghiệm không bón đạm nhưng bón đủ lân và nó là một giống cỏ tốt nhất trong
điều kiện bón lân và đạm thích hợp. Thí nghiệm cắt hàng năm cho năng suất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





12

13

chất khô đạt 36.700 kg/ha, kết quả này cao hơn so với cỏ Pangola (Digitaria

tới 5000 – 6000 ha, nhiều cơ sở như Mộc Châu, Sao Đỏ, Đồng Giao, Phú

decumbens), Para (Brachiaria mutica) và Ghinê (Panicum maximum)

Mãn, … đã xây dựng được hàng nghìn ha đồng cỏ chăn thả luân phiên (Báo

(Barnard, 1969) [51].

cáo của tổng cục chăn nuôi, 1976). Nhiều khu vực chăn nuôi tập thể đã tiến

Tại Purertorico, Vieente – Chandler Silva và Figarella (1959) [46]
thông báo năng suất giống Panicum maximum Cv Makueni đạt 26.846 kg

hành cải tạo bãi cỏ thiên nhiên, đồng cỏ cho trâu bò và lợn, nhiều hợp tác xã
đã sử dụng đất ven bờ sông nhỏ, ven đê trồng cỏ cung cấp cho gia súc.

VCK/ha với mức bón 440 kg đạm/ha và cứ 40 ngày cắt 1 lần khi trồng cỏ.

Nông trường Mộc Châu với sự giúp đỡ tận tình và toàn diện của Chính

Middleton và Micosker, (1975) [45] cho biết vào năm 1973 và 1974 tại miền

phủ và chuyên gia Cu Ba, đã xây dựng thành công hệ thống đồng cỏ kết hợp


Nam Johnstone, vùng Queensland, vẫn giống Panicum maximum Cv Makueni

chặt chẽ với kết cấu chuồng trại thể hiện rõ một phương thức chăn nuôi đồng

đã sản xuất được 60.000 kg VCK/ha với điều kiện cung cấp 300 kg đạm/ha.

bộ trên đồng cỏ thâm canh.

Tại Samford, Queensland năng suất hàng năm của giống Paspalum rinatatum

Nông trường Đồng Giao từ năm 1969 việc xây dựng đồng cỏ chuyển
sang hướng mới, thâm canh đồng cỏ bằng trồng các giống mới, chăm sóc và

là 15.000 kg VCK/ha (Davies, 1970) [43].
Đối với giống cỏ Setaria sphacelata các kết quả nghiên cứu của

sử dụng thích hợp. Nếu năm 1969 ở đây chỉ có 3 ha cỏ trồng thì tới năm 1975

Riveros và Wilson (1970) [49] tại Redlanbay, Queensland, thông báo năng

đã có tới 1179 ha (Báo cáo của nông trường Đồng Giao, 1976). Bên cạch việc

suất đạt từ 23.500- 28.000 kg/ha qua mùa sinh trưởng 6 tháng trong điều kiện

xây dựng và cải tạo đồng cỏ, vấn đề dự trữ, phơi khô và ủ xanh được thực

cỏ được tưới nước và cung cấp 225 kg đạm/ha/năm trên nền đất đỏ Bazan

hiện có kế hoạch, có chất lượng như ở Sao Đỏ, Mộc Châu. Song song với


mầu mỡ.

những cố gắng trên việc nghiên cứu các giống cỏ nhập nội và cỏ địa phương

1.1.4. Tình hình nghiên cứu cây thức ăn gia súc ở Việt Nam

có năng suất và giá trị dinh dưỡng cao đã được chú ý, nhiều giống cỏ tốt đã

Đồng cỏ của ta hiện nay còn rất hạn chế, chủ yếu là trồng xen, tận

được đưa vào sử dụng ở các cơ sở nghiên cứu và trung tâm chăn nuôi trong cả

dụng... chưa thành phổ biến đại trà. Ở nước ta cũng đã có rất nhiều cố gắng

nước như Mộc Châu, Ba Vì, Đồng Giao, Tân Sơn Nhất, Hưng Lộc, Thủ Đức,

mở rộng diện tích gieo trồng, vừa đảm bảo lương thực cho người vừa đảm

Khánh Dương, Nha Bố, ….

bảo thức ăn cho gia súc. Từ năm 1960, chúng ta đã có chủ trương phát triển

Những năm gần đây nước ta đã nhập nhiều đợt các giống cỏ họ Đậu và

đồng cỏ cho trâu bò ở những vùng thiếu cỏ. Nếu như năm 1960 ở miền Bắc

cỏ hoà thảo nhiệt đới (chủ yếu từ Oxtrâylia và Cuba) và đã tiến hành trồng thí

chỉ có 96 ha trồng cỏ thì qua năm 1961 và 1962 diện tích này đã tăng lên 323


nghiệm ở một số địa phương. Một số giống đã được đưa vào sản xuất như cỏ

và 687 ha. Sang năm 1963, theo số liệu ở 6 tỉnh đồng bằng, diện tích trồng cỏ

Pangola (Digitaria decumbes) cỏ đậu Stylo (Stylosanthes) ... Nhiều nông

và ngô đay làm thức ăn cho trâu bò đã đạt tới 3585 mẫu Bắc bộ [12]. Năm

trường và hợp tác xã cũng đã trồng cỏ Voi, cỏ Xuđăng, cỏ Pangola ... Kết quả

1976 Bộ Nông nghiệp đã phát hành bản dự thảo “Quy phạm, xây dựng, sử

thu hoạch các loại cỏ đó cho biết, nếu mỗi năm cắt được 3-4 lứa thì có thể đạt

dụng, dự trữ và quản lý đồng cỏ ”, từ đó đến nay diện tích đồng cỏ trồng có

năng suất 50-60 tấn/ha, trồng qua 3-4 năm cỏ vẫn phát triển tốt [2].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên






14


15

Nguyễn Ngọc Hà và CTV (1985) đã tiến hành nghiên cứu, tuyển chọn

/ha/năm. Nhóm thân bụi có cỏ Ghinê với hai chủng Uganda và Australia là tốt

tập đoàn cỏ nhập nội và đưa ra nhận xét: Nhóm cỏ thân cụm Panicum

hơn, năng suất 70-100 tấn/ha/năm. Nhóm thân bò thì cỏ Pangola Pa 32 là tốt

maximum Liconi và K280 cho năng suất trung bình 17-18 tấn VCK/ha/năm

hơn năng suất 60-80 tấn/ha/năm.

với 7-8 lứa cắt [14].

Lê Hòa Bình và cộng sự (1992), khảo sát năng suất cây thức ăn mới

Trong thời gian 10 năm trở lại đây, thông qua hoạt động hợp tác quốc
tế và từ nhiều nguồn khác nhau, chúng ta đã nhập trên 100 giống cây thức ăn

nhập nội ở một số vùng và ứng dụng trong hộ chăn nuôi đã cho kết quả như
trình bày ở bảng 1.3 [5].

hoà thảo và họ đậu có nguồn gốc nhiệt đới (CSIRO, CIAT, Philippin,

Bảng 1.3: Năng suất của các giống cỏ hòa thảo (tấn/ ha/ năm)

Inđônêsia, Thái Lan), nhằm phát triển khả năng sản xuất thức ăn xanh cho
chăn nuôi. Một số giống cỏ nhập nội đã được đánh giá, kết quả tốt và ứng


Long Mỹ
TT

Sơn Thành

Ba Vì

Thụy Phƣơng

Tên giống
Xanh

VCK Xanh

VCK

Xanh

VCK Xanh

VCK

Panicum maximum Hamil

56.91

9.73

92.9


17.6

86.3

16.5

90.5

17.3

2

Panicum maximum Liconi

40.57

8.11

-

-

99.96

18.9

97.5

17.5


3

Panicum maximum Trichoglumen 40.89

8.21

62.4

12.6

44

10.1

68.2

15.7

4

Panicum maximum Makueni

59.96 11.92

77.1

15.1

60.8


12.4

108

19.4

5

Pennisetum King grass

-

-

170.1

22.3

207

23.6

6

Pennisetum purpureum

99.73 16.95

176


22.9

169.5

20.4

198

21.8

7

Setaria splendida

28.13

5.56

-

-

75.1

14.1

80.4

12.6


năng sống qua đông của một số giống cỏ trồng nhập nội trên đất đồi Thái

8

Brachiaria mutica

28.42

7.61

68.9

12.7

42.6

10.2

86.6

15.9

Nguyên trong đó có giống cỏ Tây Nghệ An (Panicum maximum), Mộc Châu

9

Brachiaria decumbens

44.16


8.77

72.6

13.7

56.7

11.2

73.8

11.8

dụng vào sản xuất ở một số vùng. Tuy nhiên, do không có sự quản lý, chỉ đạo

1

thống nhất cho nên một số giống sau khi đánh giá đã bị thất lạc, mất đi hoặc
chưa có điều kiện thử nghiệm ở các vùng khác để có cơ sở chắc chắn mở rộng
ra sản xuất.
Kết quả những công trình nghiên cứu về cây thức ăn chăn nuôi cũng
chưa nhiều. Trong những năm gần đây, một số nhà khoa học mới tập trung
vào nghiên cứu một số giống cây thức ăn hòa thảo, họ Đậu nhập nội ở một số
vùng như: Lục Văn Ngôn, 1970 [30], đã nghiên cứu so sánh năng suất và khả

(paspalum urvillei), cỏ xu đăng (Sorglum xudannens), Goatemala (Trypsacum

119


19.02

Nguồn: Lê Hòa Bình, Nguyễn Ngọc Hà và CTV, 1992.

laxum), cỏ voi, Pangola, cỏ lông qua thí nghiệm cho thấy các cỏ voi, Tây

Trương Tấn Khanh và CTV, năm 1999 [31] đã nghiên cứu tập đoàn cây

Nghệ An có tổng số đơn vị sản xuất ra lớn và có khả năng phát triển trong

thức ăn gia súc tại Đắc Lắc. Bùi Thế Hùng trồng thử nghiệm một cây thức ăn

mùa đông. Tác giả cũng cho thấy năng suất tỉ lệ thuận lượng phân bón nitơ.

gia súc trong các trại vùng trung du miền núi phía bắc. Vũ Thị Kim Thoa

Nông trường Ba Vì, 1983 [32] có báo cáo kết quả nghiên cứu tuyển

1999 [29] nghiên cứu khả năng sinh trưởng, năng suất của một số giống cỏ sả

chọn tập đoàn cây hòa thảo nhập nội tại Nông trường Ba Vì. Trong 28 giống

trên vùng đất xám Bình Dương. Dương Quốc Dũng và CTV, 1999 [13]

cỏ được nghiên cứu thì các tác giả cho thấy: trong những giống thuộc thân

nghiên cứu nhân giống hữu tính cỏ Ruzi và phát triển chúng vào sản xuất một

đứng thì cỏ Kingrass và voi selection 1 là tốt hơn cả, năng suất 150-180 tấn


số tỉnh phía Bắc và miền Trung. Lê Hòa Bình, Nguyễn Phúc Tiến, Hồ Văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên






16

17

Núng, Đặng Đình Hanh, 1997,[234] đã nghiên cứu giống cỏ Para, các tác giả

Nguyễn Thị Mùi, Lương Tất Nhợ, Hoàng Thị Hấn, Mai Thị Hướng

cho biết cỏ Para có năng suất 89-98tấn/ha với khối lượng xanh thu trong mùa

2004 [33] đã nghiên cứu đánh giá hiện trạng nguồn thức ăn cho gia súc ăn cỏ

đông 35-45 tấn/ha tương đương 39-47% khi trồng trên đất có độ ẩm cao và có

và bước đầu xây dựng mô hình trồng cây thức ăn gia súc tại huyện Đồng Văn

ngập nước. Nguyễn Tuấn Hảo, 1999 đã trồng thử nghiệm một số loài cây


– Hà Giang. Qua nghiên cứu điều kiện Sinh thái nơi đây, các tác giả đưa vào

thức ăn gia súc nhập nội và cải tạo đất, trong đó tác giả đưa vào nghiên cứu

trồng thử nghiệm giống cỏ : P. Purpureum kingrass, P. p. Malagasca, P.

24 loại cây họ đậu và 18 loài hòa thảo nhằm mục đích tìm ra một số cây vừa

maximum TD58, paspalum atratum, B. ruzizinensis được trồng trong vụ đông,

làm thức ăn gia súc, vừa có tác dụng chống xói mòn và cải tạo đất, phù hợp

kết quả cho thấy các giống đều sống được qua mùa đông lạnh có tuyết và

với khí hậu vùng trung du Bắc Bộ. Trong các loài thử nghiệm tác giả đã kết

sương muối.

luận ưu điểm của các giống cỏ Brachiria brizantha CIAT 16835 và cỏ

Tại Trung tâm nghiên cứu và phát triển chăn nuôi miền núi Thái

Brachiria ruziensis ex. Thái lan là hai loài cỏ mọc khỏe nhất , cho sinh khối

Nguyên, tác giả Nguyễn Văn Quang (2002) khi nghiên cứu so sánh về tốc độ

cao (năng suất khoảng 30-40 tấn/ha) và có khả năng chịu hạn. Ngoài ra, tác
giả đề cập đến 2 giống cỏ triển vọng là Paspalum atratum BRA 9610 và
Paspalum guenoarum BRA 3824.
Phan Thị Phần và CTV (1998) [20] khi nghiên cứu cỏ Ghinê TD58 ở

khu vực miền Nam và miền Bắc cho kết quả:
+ Khu vực miền Nam, địa điểm nghiên cứu tại vùng đất xám Bình
Dương với 20 tấn phân chuồng, 80 kg P2O5, 80 kg K2O và 500 kg vôi/ha/năm.
Lượng phân đạm bón từ 60 – 90 kg N/ha / năm, năng suất chất xanh cỏ
Panicum maximum TD 58 đạt 64,59 – 83,33 tấn /ha/ năm. Tỷ lệ lá cao 51,48 –
60,44%, năng suất hạt 287 – 323 kg/ha/năm. Khoảng cách lứa cắt thích hợp là
40 ngày/ lứa.
+ Khu vực miền Bắc trên 2 loại đất của vùng đồng bằng và vùng đất

sinh trưởng, năng suất, chất lượng, tính ngon miệng của 5 giống cỏ nhập nội
cho biết: Cả 5 giống cỏ đều có tốc độ sinh trưởng khá cao từ 1,45 – 1,82 cm/
ngày. Trong đó 2 giống cỏ Paspalum astratum và Panicum maximum TD 58
có tốc độ sinh trưởng cao nhất (1,82 và 1,70 cm/ngày) [20]. Nguyễn Văn
Quang và cộng sự, 2002 [19] đã nghiên cứu khả năng sản xuất chất xanh và
ảnh hưởng của phân bón đến năng suất của một số giống cỏ trong mô hình
xen với cây ăn quả trên đất đồi Bá Vân – Thái Nguyên, trong đó có 3 giống cỏ
là Brachiaria decumbens, Setaria splendida, Panicum maximum TD58. Kết
quả cho thấy 3 giống cỏ trồng xen lẫn với cây ăn quả ở đất đồi Bá Vân đạt
60,1-79,3 tấn/ha/năm. Năng suất VCK 10,2-12,2 tấn/ha, năng suất protein 11,3 tấn/ha; khi đầu tư phân chuồng ở mức 10-20 tấn/ha. Lê Hòa Bình, Hồ Văn

đồi trong điều kiện trung tính, đất tốt, đất chua nghèo lân và kali cỏ đều có tốc

Núng 1987 – 1989 [37] cho biết thảm có voi xen canh với các cây họ đậu

độ sinh trưởng khá tốt (1,96 – 2,01 cm/ngày). Năng suất chất xanh đạt 90 –

trong các điều kiện phân bón hạn chế đạt năng suất chất xanh 139-142 tấn/ha,

100 tấn/ ha/ năm. Cỏ Ghinê có khả năng cho thu hạt, năng suất đạt 450 kg/ha,


tăng 24-27 tấn/ha so với đối chứng cỏ voi thuần.

tỷ lệ sử dụng của gia súc đối với cỏ cao: Trâu 94%, bò sữa 77% và ngựa 85%.

Nguyến Văn Lợi, Nguyễn Văn Quang, Nguyễn Thị Mùi , Lê Hòa Bình,

Tỷ lệ tiêu hóa của dê đối với cỏ Panicum maximum TD 58 cao, khả

Đặng Đình Hanh, 2004, đã nghiên cứu xây dựng mô hình thử nghiệm thâm
canh, xen canh cỏ hòa thảo, họ đậu làm thức ăn cho gia súc tại Thái Nguyên,

năng sử dụng của gia súc đều tốt từ 86 – 100%.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




18

19

năng suất các giống cỏ đạt từ 90-179 tấn/ha trong điều kiện trồng thuần; 93-

cấu chiến lược, cụ thể là đẩy mạnh phát triển chăn nuôi gia súc ăn cỏ được coi

138,5 tấn /ha trong điều kiện xen với cây ăn quả; 17-18,9 tấn /ha trong điều


là hướng chính. Muốn vậy cần có sự chuyển biến mạnh và đột phá trong khâu

kiện trồng theo băng ; 28,5-36,9 tấn/ha trong kiều kiện trồng theo đường đi.

thức ăn. Đối với những vùng phát triển mạnh chăn nuôi gia súc ăn cỏ, cỏ phải

Tháng 7/2004, viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp miền Nam thuộc bộ

được coi là cây trồng chính và trồng cỏ phải được coi là hướng chuyển dịch

Nông nghiệp và PTNT đã triển khai thực hiện dự án “Trồng thử nghiệm tập

hướng tới thâm canh[36].

đoàn giống cỏ nhập nội nuôi bò” tại xã Cam Sơn, An Thạch (Mỏ Cày), Hữu

1.2. Tình hình nghiên cứu đồng cỏ trên thế giới và ở Việt Nam

Định (Châu Thành) và An Đức (Ba Tri) đã đưa ra kết luận: Cỏ Voi chiếm ưu

Cỏ là loại thức ăn chủ yếu của trâu bò, vì trong cỏ có đầy đủ chất dinh

thế hơn cả, nếu trồng chuyên canh trên nền đất trống, năng suất đạt 29,04

dưỡng, như bột, đường, đạm, khoáng, vitamin mà các loại gia súc nhai lại có

tấn/ha/lứa; trồng xen vườn dừa là 15,18 tấn/ha, trồng xen vườn ăn trái là 25-

khả năng sử dụng và hấp thụ tốt. Mặt khác, các chất dinh dưỡng trong cỏ


27 tấn/ha. Đứng thứ hai là cỏ Sả lá lớn, trồng thâm canh là 23,11 tấn/ha, trồng

không những rất cần thiết mà lại có tỉ lệ thích hợp đối với nhu cầu sinh lý của

xen vườn dừa là 11,77 tấn/ha, trồng xen vườn cây ăn trái là 20,4-21,4 tấn/ha.

trâu bò. Ví dụ: nếu tỉ lệ đường - đạm thích hợp nhất cho khẩu phần thức ăn

Tiếp theo là cỏ Ruzi, cỏ Sả lá nhỏ và cỏ lông tây... [3]. Nguyễn Thu Hồng,

của bò sữa là 1:1 thì tỉ lệ đó trong cỏ non thay đổi từ 1:1 đến 1.4 :1 [2]. Cỏ

Nguyễn Ngọc Tấn, Đinh văn Cải, 2006 [33] đã tiến hành thí nghiệm trồng cỏ

còn là loại cây thức ăn dễ sản xuất, có năng suất cao, tương đối ổn định và là

tại vùng khô hạn tỉnh Ninh Thuận. Các tác giả cho biết các giống cỏ hòa thảo

nguồn thức ăn rẻ tiền góp phần làm giảm giá thành sản phẩm chăn nuôi, chưa

như voi, sả, cỏ Ruzi và Paspalum đều có thể sinh trưởng và phát triển trong

kể ưu thế của các giống cỏ lâu năm là thường chỉ cần gieo trồng một lần mà

điều kiện khô nóng tại Ninh Thuận. Trong điều kiện tưới nước phân bón

sử dụng được nhiều năm. Ở bãi cỏ tự nhiên với điều kiện thổ nhưỡng tốt thì

năng suất có thể đạt 100-150 tấn/ha/năm.


1kg cỏ tươi cung cấp được 16g Prôtêin tiêu hoá và 32g lipit, 8 kg loại cỏ này

Hoàng Chung, Giàng thị Hương (2006) tại Mai Sơn - Sơn La đã tiến hành
tưới nước và bón phân cho cỏ trồng (voi, cỏ ghinê), tăng 1-2 lứa / năm, năng suất
tăng từ 1,9 đến 2,16 lần, năng suất tăng từ (100 tấn -120 tấn/ha) [24].

tương đương 1 đơn vị thức ăn [27].
Muốn phát triển chăn nuôi, một trong những vấn đề cơ bản đầu tiên cần
phải giải quyết là nguồn thức ăn gia súc. Trong 2 hệ thống nuôi dưỡng: a) dựa

Định hướng phát triển diện tích trồng cỏ từ 45.000 ha hiện nay lên

vào thức ăn tinh (trên 40% nhu cầu dinh dưỡng được thỏa mãn bằng thức ăn

290.000ha vào năm 2010. Diện tích trồng cỏ của cả nước hiện nay chỉ đáp

tinh), b) dựa vào thức ăn thô (trên 60% nhu cầu dinh dưỡng được thỏa mãn

ứng được 7,6% nhu cầu thức ăn thô xanh của gia súc ăn cỏ. Nguyên nhân chủ

bằng thức ăn thô) thì hệ thống (b) được đặc biệt chú ý nhất là ở các nước có

yếu của tình trạng này do các địa phương chưa quy hoạch đất trồng cỏ, chưa

khả năng phát triển đồng cỏ. ở những nước này việc sử dụng đồng cỏ không

khai thác hết diện tích đất chưa sử dụng và chưa mạnh dạn chuyển đổi một

chỉ để chăn thả mà còn cung cấp thức ăn xanh và dự trữ cho đàn gia súc nuôi


phần đất nông nghiệp sang trồng cỏ thâm canh. Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và

nhốt. Ở Úc, sản phẩm chăn thả tới 50% sản phẩm xuất khẩu, tỉ lệ này còn cao

Phát triển Nông thôn nhấn mạnh ngành chăn nuôi phải có sự điều chỉnh cơ

hơn: 90% ở Tân Tây lan [9]. Theo Davies (1960) đồng cỏ tự nhiên cung cấp

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên






20

21

gần một nửa gia súc chăn thả, tạo ra một phần ba lượng thịt và một phần sáu

cây cỏ hoà thảo, cây đậu, cây thân thảo hay thân gỗ mà có thể được sử dụng

sản lượng sữa trên thế giới [11] ...Ước tính thế giới , gia súc sử dụng khoảng

làm thức ăn cho gia súc.


3,4 tỷ ha đất dùng cho chăn thả và dùng cho sản xuất thức ăn gia súc.
Sau cuộc “Cách mạng về thức ăn gia súc” ở Tây âu mà đặc biệt là ở
Anh đã tạo điều kiện thuận lợi cho chăn nuôi phát triển, đồng cỏ ngày càng
được chú ý và sử dụng đúng với vai trò của nó.

Những cây này cũng có thể được sử dụng vào những mục đích khác
như bảo vệ đất, chống xói mòn, làm tăng độ màu mỡ của đất và hạn chế cỏ
dại [1].
Theo Meilroy (1972) cần chọn cỏ để làm thức ăn gia súc là khi thu

Ở Pháp (1842) chỉ có 4 triệu ha trồng cỏ và 15 triệu ha ngũ cốc thì hiện
nay tỷ số ấy đã thay đổi: 12 triệu ha trồng cỏ và 8 triệu ha ngũ cốc [17].
Ở Anh các diên tích ngũ cốc giảm đi và diện tích trồng cỏ, các loại cây
thức ăn gia súc khác tăng lên và được thâm canh một cách đáng kể.
Ở Liên Xô, diện tích trồng cỏ tăng từ 2,1 triệu ha năm 1913 lên 7,3
triệu ha năm 1933 và đến năm 1961 diện tích này đã lên tới 51,9 triệu ha [12].
Không những diện tích trồng cỏ tăng lên, việc nghiên cứu chọn lọc các
giống cỏ có năng suất và giá trị dinh dưỡng cao đã được chú trọng, nhiều loài
cỏ như cỏ Voi, cỏ Ghinê, cỏ Bermuda, cỏ Pangola, v.v … đã được sử dụng ở

hoạch dưới dạng này hay dạng khác phải đảm bảo các yêu cầu sau [44]:
- Cỏ phải có khả năng tái sinh qua mầm chồi còn lại sau mỗi lần
thu hoạch.
- Các tế bào sinh trưởng phải tập trung phần lớn ở các gốc là nơi khi
thu hoạch ít bị ảnh hưởng tới.
- Cần sinh trưởng liên tục với khả năng chịu hạn và chịu lạnh cao.
- Cần có thân ngầm để tạo điều kiện phát triển cả trên và dưới mặt đất.
- Có hệ thống rễ phát triển để cho phép chịu đựng sự thu hoạch và đảm
bảo lấy được dinh dưỡng đã được giải phóng hay phân huỷ từ dưới đất.


nhiều nước trên thế giới. Lai tạo những giống cỏ mới có năng suất và giá trị

Tuy nhiên, để chọn làm cỏ chăn thả hay thu cắt cần phải dựa vào các

dinh dưỡng cao như Coastcross (Cỏ Bermuda lai), cỏ Ghinê từ một loài đã

nhân tố sau để xét và quyết định hướng sử dụng cho từng loại cỏ như: độ ngon

tạo ra nhiều giống mới, cỏ Voi cũng vậy, ... đây là thành tựu khoa học đáng

miệng cao, nhất là cỏ thu cắt phải có giá trị dinh dưỡng cao để đáp ứng nhu cầu

kể để góp phần giải quyết thức ăn cho gia súc ngày càng phát triển.

gia súc về các mặt; có khả năng cạnh tranh điều kiện sinh tồn và khả năng được

Việc phát triển đồng cỏ không chỉ cung cấp thức ăn tươi xanh mà còn

trồng kết hợp; có khả năng chịu đựng sự dẫm đạp liên tục của gia súc và cỏ thu

dùng để dự trữ cho gia súc nuôi nhốt. Cùng với việc phát triển của nghề chăn

cắt phải chịu được sự cắt và nén của máy thu hoạch; cỏ chăn và cỏ cắt đều phải

nuôi động vật nhai lại, đòi hỏi người chăn nuôi nhiều nước trên thế giới phải

có năng suất cao để đảm bảo nhu cầu gia súc và giảm diện tích gieo trồng. Ở

nhập nhiều giống cỏ khác nhau từ các nước khác nhau. Quê hương lâu đời của


Việt Nam, diện tích cỏ tự nhiên chưa được đánh giá đầy đủ và khai thác hợp lý

cỏ Voi là Uganda nhập vào Mĩ năm 1913, Australia năm 1914, Cuba 1917,

và hiệu quả. Hiện nay nước ta có 5.026.400 ha đồng cỏ tự nhiên trong đó tính

Braxin 1920….[38]. Cỏ Pangola xuất hiện ở bên bờ song Pangola thuộc Nam

cả cỏ mọc ở ven đê, ven sông, bờ ruộng. Nhiều đồng cỏ tự nhiên ở Tây bắc,

phi nhập về Mĩ năm 1935, Cuba 1950, Australia 1954… và các nước nhiệt

Tây nguyên đã bị thu hẹp lại do nạn phá rừng, đốt rừng ngay khi chưa được

đới, cận nhiệt đới. Cây thức ăn xanh bao gồm sản phẩm cây mùa vụ còn lại,

khai thác cho chăn nuôi. Những nghiên cứu về đồng cỏ tự nhiên ở nước ta còn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên






22

23


rất hạn chế…Từ 1990 với các chương trình nghiên cứu hợp tác quốc tế, hàng

trâu, bò cũng đã đạt 3,5 triệu tấn đủ nuôi được 1,7 triệu trâu và bò. Nhiều

trăm giống cây cỏ được nhập từ Úc, Philippin, Thái lan,Trung quốc, Đức... Qua

vùng trồng mía chuyên canh cây mía như Thanh hoá (diện tích và sản lượng

khảo sát đã chọn và phát triển được một số cây cỏ có năng suất chất lượng cao,

chiếm gần 1/10 diện tích và sản lượng toàn quốc), Tây ninh (diện tích và sản

thích hợp với khí hậu và đất đai Việt nam như Cỏ Ghinê TD58 (Panicum

lượng chiếm khoảng 7% diện tích và sản lượng toàn quốc) , từ đó bước đầu

maximum), Ruzi (Brachiaria ruziziensis), cỏ Voi (Pennisetum purpureum)

hình thành những hệ thống chăn nuôi mía-bò như Thanh hoá.

Paspalum atratum thích hợp với sản xuất trong điều kiện thâm canh cho năng
suất 16-36 tấn chất khô/ha, cỏ Brachiaria decumbens, cỏ Brachariaria brizantha

Cả nước có khoảng 25 triệu tấn rơm lúa, 2 triệu tấn thân cây ngô già và
gần 1,5 triệu tấn dây lạc, dây lang, ngọn lá sắn, lá mía (tính theo chất khô).

sản xuất trong điều kiện khô hạn và ít đầu tư cho năng suất 8-20tấn chất

Đẩy mạnh chăn nuôi bò sữa, bò thịt, trâu ở những vùng chuyên canh


khô/ha. Cây Flemingia, Keo dậu (Leucaena leucocephala),và Stylo

ngô, mía. Hình thành những vùng chăn nuôi trâu bò gắn với hệ thống cây mía,

(Stylosanthes guianesis), Arachis pintoi sử dụng để phủ đất, cải tạo đất và làm

cây ngô như vùng ngô Sơn la, vùng mía Thanh Hoá, Tây Ninh. Mở rộng việc

nguồn thức thô giầu protein cho loài nhai lại .

sử dụng rơm sử lý urê để khai thác tốt hơn hệ thống chăn nuôi trâu bò-rơm lúa

Ở nước ta đã hình thành những hệ thống thức ăn chăn nuôi phù hợp với
những vùng sinh thái nông nghiệp khác nhau như:

ở vùng đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu long; mở rộng việc sử
dụng phụ phẩm thuỷ sản chế biến để đẩy mạnh chăn nuôi lợn, gia cầm ở vùng

- Hệ thống cây lúa: Hệ thống cây lúa là hệ thống truyền thống của Việt
Nam, sản lượng thóc hàng năm đạt tới 32,5 triệu tấn, cung cấp khoảng 4,5

Duyên hải.
1.3. Những nghiên cứu về sử dụng đồng cỏ Bắc Việt Nam

triệu tấn tấm và cám, 25 triệu tấn chất khô của rơm. Số lượng tấm và cám là

Đồng cỏ phía Bắc Việt Nam chủ yếu là có nguồn gốc thứ sinh do hoạt

lượng thức ăn quan trọng để nuôi 20 triệu con lợn và hàng trăm triệu gia cầm.


động khai phá rừng mà thành, nên diện tích đồng cỏ ngày nay được mở rộng

Riêng rơm thì còn ít được sử dụng cho trâu bò mà chủ yếu dùng làm chất đốt.

có thể chiếm tới 1/3 diện tích lãnh thổ. Hiện nay, đồng cỏ được sử dụng với

- Hệ thống cây ngô: Diện tích trồng ngô của cả nước là 687 ngàn ha, sản
lượng 1,75 triệu tấn/năm, 80% ngô dùng vào chăn nuôi. Có những vùng trồng

nhiều mục đích khác nhau như làm bãi chăn thả, trồng cây lương thực, cây ăn
qủa, cây công nghiệp, trồng rừng...

ngô chuyên canh như: Sơn la, Hà giang, diện tích trồng ngô của những vùng

Trong thực tế hiện nay, tại các vùng có sử dụng đồng cỏ vào mục đích

này chiếm 12% diện tích ngô toàn quốc, sản lượng ngô chiếm tới 20% sản

chăn nuôi, hầu như chưa có phương thức sử dụng hợp lý, khai thác một cách

lượng ngô toàn quốc. Ngô hạt được đưa về đồng bằng để phục vụ chăn nuôi,

cạn kiệt làm cho thảm cỏ ngày càng thoái hoá mạnh. Cho đến nay, những

tuy nhiên thân cây ngô sau khi thu bắp còn ít được sử dụng trong chăn nuôi.

nghiên cứu về sử dụng hợp lý đồng cỏ vẫn còn là mới mẻ, tài liệu còn qúa ít.

Đàn trâu bò của hai tỉnh trên chỉ chiếm 5,4% số lượng trâu bò toàn quốc.


Những công trình nghiên cứu dành cho việc sử dụng hợp lý đồng cỏ rải

- Hệ thống cây mía: Diện tích trồng mía cả nước là 302,9 ngàn ha,

rác ở một số công trình như: Nguyễn Vũ Hùng, Bùi Văn Minh (1968), có

sản lượng đạt 17,76 triệu tấn., chỉ tính riêng ngọn lá mía dùng cho chăn nuôi

nghiên cứu về sử dụng luân phiên đồng cỏ ở Ba Vì và đề nghị chia thành 6 ô,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên






24

25

mùa hè sử dụng 5 ô. Trong một đàn gia súc số lượng nên là 100-150 con, diện

ở đây sẽ được gieo trồng các loại cây trồng nông nghiệp. Trải qua nhiều lần

tích đồng cỏ là 50 - 80 ha.


như vậy đất sẽ được bỏ hoang, trên nó lại phục hồi dần rừng thứ sinh và lại

Dương Hữu Thời (1981) có đề cập đến một số vấn đề sử dụng hợp lý
như: luân phiên đồng cỏ, trồng cỏ, diệt trừ cây bụi.

tiếp tục bị chặt hạ để trồng trọt. Kết quả dẫn đến rửa trôi mạnh lớp đất mặt,
cây gỗ không có điều kiện tái sinh nữa, hình thành nên lớp cỏ hay có lẫn một

Võ Văn Trị (1983) đã chia đồng cỏ trồng ra thành những ô nhỏ, sự luân
phiên mùa hè theo ông có khoảng cách 40 - 50 ngày, mùa đông là 60 ngày.
Hoàng Chung (1988) nghiên cứu về vấn đề sử dụng hợp lý đồng cỏ Bắc
Việt Nam. Trên cơ sở tương đối đầy đủ những tư liệu về đồng cỏ vùng này đã
chia đồng cỏ Bắc Việt Nam thành 3 hệ thống (3 loại theo độ dốc)
0

Loại 1: đồng cỏ có độ dốc sườn dao động từ 0 - 7 .

số loài cây thảo và cây bụi hạn sinh. Về ngoại mạo nó gần giống thảo nguyên
vùng ôn đới. Vì nguồn gốc thứ sinh như thế nên đồng cỏ phân bố rải rác ở các
vành đai khác nhau, tồn tại dạng đồng cỏ thấp hay cao tùy thuộc vào mức độ
sử dụng của con người.
Đối với vùng núi Bắc Việt Nam tồn tại nhiều kiểu savan, đồng cỏ và
các dạng trung gian. Trong đai nhiệt đới, trên những vùng đã bị chặt phá, khi

0

Loại 2: đồng cỏ có độ dốc sườn dao động từ 7 - 25 .

mà đất còn khá tốt, độ ẩm còn khá cao, thì sẽ hình thành ở đây loại hình đồng


0

Loại 3: đồng cỏ có độ dốc sườn dao động từ 25 - 30 trở lên.

cỏ vì thảm cỏ ở đây gồm các cây cỏ có thân rễ dài, búi thưa thuộc nhóm trung

Từ việc phân chia này ông đã đề xuất các biện pháp sử dụng hợp lý

sinh sống lâu năm ngừng sinh trưởng vào mùa đông. Trong quá trình tác động

đồng cỏ ở từng nhóm.

tiếp theo con người sẽ làm cho lớp đất mặt bị bào mòn, khả năng giữ nước

Vấn đề cải tạo đồng cỏ Bắc Việt Nam ông đã đề cập đến 2 vấn đề lớn:

của đất kém, đất có độ chua cao, trong thảm cỏ tỉ lệ cây hạn sinh tăng lên,

cải tạo điều kiện môi trường sống, cải tạo lớp đất mặt. Qua những nghiên cứu

cuối cùng chỉ tồn tại ở đây các loài cỏ, cây bụi hạn sinh và cây đoản mệnh,

trên ông đề xuất 1 số ý kiến về vấn đề sử dụng hợp lý đồng cỏ của vùng núi

hình thành savan cỏ, savan cây bụi hoặc thảm cây bụi hạn sinh. Có thể tóm tắt

phía Bắc Việt Nam.

quá trình trên như sau: Rừng nguyên sinh - rừng thứ sinh - đồng cỏ - savan


1.4. Vấn đề nguồn gốc và phân bố đồng cỏ trong đai nhiệt đới

cỏ hoặc savan bụi - thảm cây bụi hạn sinh [7].

Nguồn gốc của đồng cỏ trong đai nhiệt đới, giữa các tác giả có ý kiến

Có thể nói nguồn gốc của đồng cỏ là không đồng nhất, có nhiều loại

khác nhau. Đa số cho rằng trong điều kiện khí hậu nhiệt đới không có đồng cỏ

hình đồng cỏ được hình thành bằng con đường tự nhiên, nhưng cũng có

tồn tại, các quần xã cỏ ở đây là loại hình savan [7].

những đồng cỏ được hình thành do hoạt động của con người trên vùng đất

Khi nghiên cứu về nguồn gốc thứ sinh của các thảm cỏ trong các vùng

rừng, thảo nguyên hay đầm lầy … làm thay đổi điều kiện môi trường và hình

nhiệt đới khác nhau, các nhà nghiên cứu đã đi đến kết luận rằng: Các đồng cỏ

thành ra đồng cỏ [8].

và cây bụi trong vùng nhiệt đới đều hình thành trên những quần xã rừng bị

1.5. Vấn đề thoái hoá đồng cỏ do chăn thả

chặt hạ. Con người khi chặt phá và đốt rừng làm nương rẫy đã làm đất bị cháy


Hiện nay, chăn nuôi bò ở nước ta đang trên đà phát triển mạnh. Giải

và khô đi, những tác động này được kết thúc vào cuối mùa khô. Đầu mùa mưa

quyết thức ăn và kỹ thuật nuôi dưỡng là những yếu tố có tính quyết định đến

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên






26

27

năng suất, chất lượng và hiệu quả của chăn nuôi bò. Trong thực tế hiện nay

V.V. Alekhin (1934) nghiên cứu ở vùng Kursk thuộc đới phụ (phía

đồng cỏ luôn luôn bị thay đổi do tác động thường xuyên của con người, vì

Bắc) của thảo nguyên đồng cỏ đã xác định được các giai đoạn thoái hoá do

đồng cỏ đã và đang là đối tượng hoạt động kinh tế nông nghiệp của loài

chăn thả ở đây như sau: “Khi chăn thả nặng nề thì Stipa sẽ mất đi và thành


người. Làm sáng tỏ nguồn gốc của đồng cỏ và những quy luật biến đổi của nó

phần hệ thực vật trở nên nghèo nàn hơn, đồng thời rất nhiều loài có số lượng

do tác động của loài người, là điều kiện cần thiết làm cơ sở cho những biện

cá thể không nhiều, thường đơn độc, rồi cũng mất dần đi, bắt đầu trội hẳn lên

pháp sử dụng hợp lý đồng cỏ.

là Bromus. Sau nữa còn lại chủ yếu là cây thuộc thảo và trên thảo nguyên phát

Hiện nay, trên thế giới có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề thoái
hoá của đồng cỏ do chăn thả cũng như thảo nguyên của các vùng khác nhau.

triển mạnh ở tầng trên là cây Bromus riparius, tầng thấp là Festuca đồng thời
trong vùng đó biểu hiện hai tầng rất rõ ràng; Bromus - Festuca ; cuối cùng chỉ

Vyxochki G.N (1908-1909, 1915) và Pachoxki I.K (1917-1921) là

còn lại Festuca, những sự chèn ép sau này của thảm Cỏ qua hàng loạt những

những người đầu tiên đã nêu những đặc điểm rõ rệt nhất của ảnh hưởng chăn

trạng thái nhỏ nhặt sẽ dẫn đến giai đoạn phân bố rộng rãi của bào tử thực vật

thả đến thảm thực vật và đất đồng cỏ bị khô hạn. Chăn thả có ảnh hưởng trực

trên thảo nguyên” [7]. Cũng trong thời kỳ này,Gordiagin, Taliep, Keller đã


tiếp đến đất, mới chăn thả đất chặt dí lại và khi chăn thả nhiều, đất bị nát vụn

nói rất nhiều về khả năng hình thành của thảm thực vật thảo nguyên đồng cỏ

ra. Hai ông đã xác định 4 giai đoạn thoái hoá của thực bì thảo nguyên dưới

trên đất rừng bị chặt hạ hay đất trống.

tác động của chăn thả. Pachoxki (1917) nghiên cứu đới nam của thảo nguyên

Scaetta (1938) cũng đã nhận xét ở vùng núi cao thuộc Côngô và

Stipa longifolia, ông phân chia một số giai đoạn thoái hoá khác nhau. Nó bao

Uganđa là sự giẫm đạp vừa phải của một đàn gia súc (dù trên những đồng cỏ

gồm cả giai đoạn chăn thả hay không chăn thả được. G.I.Popov (1931) khi

họ Hoà thảo thân cao từ 3-5m) đã làm cho những đồng cỏ thân cao được thay

nghiên cứu thảm thực vật trong đới phụ thảo nguyên Stipa, thuộc thảo nguyên

thế bằng những đồng cỏ thân thấp, những cỏ thân thấp này thường từ vùng

nam Varonhet cho thấy các giai đoạn thoái hoá của thảm thực vật do chăn thả.

núi lan xuống và thành thích hợp với súc vật và có giá trị dinh dưỡng cao hơn

Trong thí nghiệm của Rômaxep P.I (1934) làm ở đồng cỏ trồng thuộc viện


nhiều so với những loài mọc trên đá ở vùng nhiệt đới .Trái lại, nếu gặm cỏ và

nghiên cứu thức ăn gia súc, khi ném gậy từ cách mặt đất 1m xuống đồng cỏ,

giẫm đạp quá nặng nề thì đất sẽ bị xói mòn do nước chảy xiết. Như Scaetta đã

gậy ngập sâu 32,2mm và ném xuống bãi chăn thả gậy ngập sâu 24,7mm.

nhận xét, nhất là ở vùng núi, một thảm cỏ xanh tốt có thể biến thành một bãi

Trong thí nghiệm của Lyupxcaya A.F (1935) làm ở bãi đất ven sông thấy các

khô cằn. Những khóm cây ngày càng thưa nên đất bị bào mòn và thành rãnh.

số liệu tương ứng là 39,0 và 33,6mm và làm ở đồng cỏ ven sông thấy tương

“Hầu như bao giờ hiện tượng này cũng đi theo sự phá rừng dữ dội, không

ứng là 28,8mm và 23,9mm. Ông kết luận rằng khi chăn thả trong năm sinh

những làm cản trở mọi cải tiến đối với nghề chăn nuôi, mà còn gây nên nạn

trưởng đầu tiên, trung bình có đến 5% cỏ hàng năm bị bật rễ. Gia súc không

đói và chết chóc cho những vùng trước đây phồn thịnh”. Như vậy phải thay

làm bật rễ cỏ lâu năm đã thành thục và cũng không làm hại những bộ phận

thế sự chăn thả tự do bằng sự chăn thả có kỷ luật. Koechlin J (1962) khi


dưới mặt đất của những cỏ này [40].

nghiên cứu về đồng cỏ và vấn đề thức ăn gia súc ở cộng hoà Trung Phi đã

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




28

29

nhận xét : Hiện tượng thoái hoá đồng cỏ là do chăn thả gia súc diễn ra trên

nghiên cứu đồng cỏ Bắc Việt Nam. Những nghiên cứu về sự thoái hoá của

những diện tích lớn làm sản xuất bị giảm sút nghiêm trọng. Hơn nữa sự thoái

đồng cỏ do chăn thả ở Việt Nam hiện nay đã được Dương Hữu Thời (1981) đề

hoá của thực vật đồng cỏ thường làm cho hiện tượng xói mòn sâu sắc hơn.

cập trong cuốn “ Đồng cỏ Bắc Việt Nam” khi phân tích thành phần loài và các


Jacques Felix H (1961) nói về đặc điểm của đồng cỏ rẻo cao ở Tây Phi:
Những đồng cỏ này có giá trị không những chỉ do phẩm chất cỏ mà vì khí hậu

điều kiện sinh thái của đồng cỏ đã đề cập đến 2 nguyên nhân của sự thoái hoá
đồng cỏ Bắc Việt Nam là do cường độ chăn thả và điều kiện khí hậu.

ở đó trong lành, ít dịch bệnh. Những đồng cỏ này là những nơi phải được coi

Hoàng Chung (1981, 1983, 2003) sau hơn 10 năm nghiên cứu tại đồng

trọng, phải được giữ gìn cẩn thận và cải tạo vì diện tích chỉ có hạn. Thực tế

cỏ ở vùng Thôm Luông (Ngân Sơn) đã phân tích ảnh hưởng của sự chăn thả

chúng tôi thấy những đồng cỏ này bị hai nguyên nhân làm thoái hoá : xói mòn

không có kế hoạch lên sự thay đổi thành phần loài, cấu trúc và năng suất của

do bị chăn thả quá đáng ở những sườn núi; cháy rừng làm cho hệ thực vật chỉ

thảm cỏ và đã đưa ra kết luận về quá trình thoái hoá đồng cỏ Bắc Việt Nam

còn một vài loài chịu lửa, những loài này là thức ăn gia súc xấu và không bảo

như sau: “Những thay đổi đầu tiên của lớp phủ thực vật đã dẫn đến sự hình

vệ được đất [40].

thành các quần xã cỏ ở đây, những thảm cỏ này dưới sự tác động thường xuyên


B.D.Andreev (1958) khi nghiên cứu các giai đoạn hình thành và thoái

nhưng không thật nặng nề của con người như chăn thả, đốt nương rẫy, sẽ dẫn

hoá của thực bì thảo nguyên ở nam Nga đã chia thành 8 giai đoạn: Giai đoạn

tới hình thành loại hình đồng cỏ khô, á thảo nguyên và đồng cỏ. Khi chăn thả

đầu là sự chặt hạ và cuối cùng là sự hình thành thảm bào tử thực vật.

nặng nề hơn sẽ dẫn đến sự thay đổi phức tạp của thành phần loài ở từng quần

A.V.Abramtruk, P.L Gortriakopski (1980) khi đánh giá mức độ thoái hoá của

xã, đó là sự thay đổi các loài đang mọc bằng những loài từ ngoài đi vào, loài

các quần xã cỏ do tác động của con người ông đã đề ra bảng thang bậc riêng

bản địa bị thay thế bởi loài phổ biến rộng rãi, đồng thời đơn giản hoá cấu trúc

gồm có 3 mức, sự khác nhau giữa các mức là phụ thuộc vào mức độ thoái hoá

quần xã, giảm bớt khoảng không phân bố của lớp phủ thực vật, giảm năng suất

do con người tạo ra (1 - ít; 2 - trung bình; 3 - nhiều).

của nó”. Trên cơ sở đó đã chia quá trình thoái hoá đồng cỏ do sử dụng thành 5

Sự biến đổi các thảm thực vật (đồng cỏ) dưới tác động của yếu tố do


giai đoạn: Bắt đầu từ trạng thái đồng cỏ đến giai đoạn hình thành savan cây bụi

con người tạo ra ở vùng nhiệt đới đã từ lâu trở thành vấn đề nóng bỏng cho

[7]. Trương Tấn Khanh (2003) với công trình đánh giá hiện trạng đồng cỏ tự

nền kinh tế và cho chăn nuôi ở xứ nhiệt đới. Nhưng những nghiên cứu về vấn

nhiên huyện M’drak- Daklak, Hoàng Chung, Trần Thị Hương Lam (2006) với

đề này cho đến nay vẫn còn rất ít: Cooper I.P, Taiton N.M và Pleming G

công trình điều tra, đánh giá tập đoàn cây thức ăn gia súc hiện có của xã Hà

(1968), Dương Hữu Thời (1981), Hoàng Chung (1981, 1983)......

Hiệu - Bắc Kạn. Các tác giả đều xác định các đồng cỏ tự nhiên hiện có đang bị

Đồng cỏ vùng núi phía Bắc Việt Nam là loại hình đồng cỏ thứ sinh. Đặc
biệt trong điều kiện khí hậu nhiệt đới đồng thời đồng cỏ ở đây phân bố chủ yếu
0

chăn thả nặng nề dẫn tới thoái hoá ở mức độ nghiêm trọng ...
1.6. Thành phần dinh dƣỡng của thức ăn xanh

ở vùng núi, các sườn đồi có độ dốc khá lớn (15 - 40 ), nên vấn đề thoái hoá của

Thành phần và giá trị dinh dưỡng của các loại thức ăn cho bò sữa thay

đồng cỏ do chăn thả là một trong những vấn đề nan giải hiện nay của các nhà


đổi rất lớn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như giai đoạn thu hoạch, thời gian và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên






30

31

quá trình bảo quản, công nghệ chế biến, phụ thuộc vào giống cây trồng, điều

 Thành phần hoá học của thực vật:

kiện khí hậu, kỹ thuật canh tác... Chất lượng của các giống cỏ được đánh giá

Thành phần hóa học quyết định trực tiếp đến nguồn dinh dưỡng có

bằng thành phần hoá học có trong giống cỏ đó. Đây là một chỉ tiêu hết sức

trong hòa thảo. Theo tài liệu của Viện chăn nuôi quốc gia, 1995[35], đối với

quan trọng không thể thiếu khi nghiên cứu, đánh giá một giống cây thức ăn,


cây cỏ ngoài tự nhiên thì hàm lượng dinh dưỡng rất khác nhau như:

trên cơ sở đó giúp các nhà chăn nuôi tính toán khẩu phần ăn cho gia súc một
cách hợp lý, để chúng sinh trưởng và phát triển tốt.

Đối với cây rong, bèo,…rau ở dưới nước thì hàm lượng chất khô
thường thấp, chiếm tư 1-6% VCK, ví dụ bèo ong 9,6% VCK, 0,9% prôtin thô;

* Độ ăn được:

0,2% lipit thô; 1,6 % xơ thô; 6,4 dẫn xuất không đạm, 1,8 % khoáng tổng số.

Những loài trong đồng cỏ Bắc Việt Nam có giá trị chăn thả khá tốt,

Đối với cây trên cạn hàm lượng dinh dưỡng cũng khác nhau như: Cỏ

theo thành phần loài thì trên 95% là thuộc nhóm hoà thảo, trong đồng cỏ tồn

bạc hà (cỏ vừng) có 11,9% VCK, 1,8% protein thô; 0,5% lipit thô; 2,7% xơ

tại một số loài cây bụi và cây thuộc thảo khác, phần lớn những loài này cũng

thô; 5,1% dẫn xuất không đạm; 1,8% khoáng tổng số. Cỏ thài lài 10% CVK;

được gia súc ăn. Tuy nhiên, giá trị chăn thả của đồng cỏ cũng thay đổi theo

1,7% protein thô; 0,9 lipit thô; 10% xơ thô;13,7 dẫn xuất không đạm 1,6

thời gian và theo từng kiểu thảm, điều này có quan hệ mật thiết với đặc điểm


khoáng tổng số. Trong khi đó một số cỏ khác từ 18-24% VCK như cỏ Mộc

sinh thái, với các giai đoạn sinh trưởng, với thành phần thực vật, với chiều

Châu mọc tự nhiên có 23,88% VCK; 2,54% protein thô; 0,51% lipit thô;

cao thảm cỏ và thành phần hoá học của nó cùng các hình thức tác động của

8,67% xơ thô; 10,13 dẫn xuất không đạm 2,03 khoámg tổng số [2] Tùy theo

con người vào thảm cỏ. Ở một số loài giá trị chăn thả hầu như không thay đổi

từng thời vụ và thu cắt theo từng thời điểm hợp lí thì tỉ lệ nước 82%; 0,95%

trong suốt cả thời kì sinh dưỡng như: Ischaemum indicum, Paspalum

protein tiêu hóa; 0,67% lipit tiêu hóa và 3,4% xơ tiêu hóa. Một số cỏ có hàm

scrobiculatum, Paspalum conjugatum và một số loài một năm. Một số loài

lượng VCK cao(trên 30%) như cỏ sâu róm 30,2% VCK và tỉ lệ các chất khác

khác thì giá trị chăn thả giảm dần theo thời gian, ở những loài này tuổi càng
tăng thì tỉ lệ phần thân tăng và phần trăm chất xơ trong thân và lá tăng lên. Lá
nhiều loài trở nên cứng và sắc như cỏ Tranh, Chè vè, ...
Thành phần họ Đậu trong đồng cỏ Bắc Việt Nam rất ít, một số loài
trong đó giá trị chăn thả kém, lá cứng, có nhiều lông cứng như: Desmodium
triquetum, một số loài khác thì năng suất lại rất thấp – sinh khối tập trung chủ
yếu ở phần thân như: Desmodium microphyllum. Trong thành phần cỏ của
một số quần xã có nhiều cây họ Cói, những loài này lá cứng và sắc như

Carex, Rhynchospora, ... một vài loài khác năng suất rất thấp [7].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



là 2,3% protein thô; 1,6% lipit thô; 9,7 % xơ thô; 14,7% dẫn xuất không đạm
1,9% khoáng tổng số.
Đối với các cây cỏ trồng:
Trong các cây cỏ hòa thảo trồng thì tỉ lệ chất khô và các thành phần
dinh dưỡng khác trong cỏ cũng dao đông khá lớn. Theo tài liệu của viện chăn
nuôi quốc gia thì [37] chúng có thể biến động về vật chất khô từ 11 đến dưới
35% và phụ thuộc vào giống, loài và tuổi thu cắt. Có những loại cỏ như chè
khổng lồ có hàm lượng chất khô là 13,68% và các thành phần dinh dưỡng
khác như protein thô là 2,08%; 0,6% lipit thô; 1,72% xơ thô; 6,07% dẫn xuất
không đạm; 3,21% khoáng tổng số. Cỏ voi có tỉ lệ VCK là 11,8% và các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




32

33

thành phần dinh dưỡng khác như sau: protein thô 2,2%; 0,4% lipit thô;3,2%
xơ thô; 4,3% dẫn xuất không đạm; 1,7% khoáng tổng số.

Trong thực tế khi chăn thả bình thường giá trị thức ăn cao nhất trong
thời gian đầu khi cỏ mọc nhanh ra nhiều lá mới, giá trị thức ăn giảm khi cỏ


Theo Đoàn Ân, Võ Văn Trị, 1976 [2], cỏ Voi tuổi càng nhỏ thì hàm

bắt đầu đâm bông và tiếp tục giảm khi cỏ càng già. Khi chăn thả liên tục theo

lượng Protein càng cao, tuổi càng lớn thì tỉ lệ chất xơ càng cao (tỉ lệ nghịch

những khoảng thời gian liên tiếp gần nhau, giá trị dinh dưỡng của cỏ có thể ở

với hàm lượng protein và nước) cục thể là 2 tuần tuổi tỉ lệ nước là 89,56%;

mức tương đối cao nhưng như vậy năng suất bị giảm nhiều.

2,67% xơ thô; protein cỏ khô là 18,42%, khi cỏ 4 tuần nước là 87,4%; 3,7%

1.7. Một số đặc điểm sinh thái và sinh vật học của hoà thảo

xơ; 11,49% protein trong cỏ khô. Thành phần hoá học có trong các giống cỏ

Cỏ hoà thảo chỉ có một họ duy nhất là họ hoà thảo (Poaceae) và có 28

tập trung chủ yếu vào 4 chỉ tiêu đó là: vật chất khô (VCK), Protein, đường,

họ phụ, 563 chi, 6802 loài [43]. Cỏ hoà thảo thường chiếm phần lớn trong

chất béo và xơ. Hoàng Chung và cộng sự (2004) đã tiến hành nghiên cứu và

đồng cỏ 95 - 98% và trong khẩu phần ăn của gia súc nhai lại chiếm 70 - 80%.

theo dõi một số chỉ tiêu về thành phần hoá học của một số loài chính trong

đồng cỏ Bắc Việt Nam. Kết quả được thể hiện ở bảng 1.4 [7].

Thuộc vào đặc điểm sinh thái học là các mối quan hệ riêng biệt của thực

Những giống cây thức ăn tốt là giống cho năng suất vật chất khô,
Protein, đường cao, tỉ lệ xơ trong thức ăn thấp, tỉ lệ lá/thân cao, trong đó chỉ
tiêu Protein được chú ý nhiều hơn cả.
Bảng 1.4: Thành phần hoá học và giá trị dinh dƣỡng của một số loài cỏ chính
TT

Tên khoa học

%

%

%

Cỏ hòa thảo có vị trí quan trọng trong thảm cỏ do cỏ hoà thảo có khả
năng phân bố rộng rãi, có thể thích ứng được ở nhiều vùng và trong những
điều kiện đất đai khí hậu khác nhau.
Cỏ hoà thảo có thể sinh trưởng được ở vùng nóng đất khô khan mùa

%

Việt Nam

nƣớc

Cỏ lông


76.7 1.954

7.86

1.379

1

8.8

0.19

thấp, nhưng chúng vẫn có thể sinh trưởng và phát triển được như cỏ xương cá,

77.4 1.976

9.94

1.744

0.3

7.9

0.18

cỏ lông đồi, cỏ Andropogon, cỏ Brachiaria decumbens,...

70.4 2.306


9.61

1.686

1.9

9.3

0.25

9.747

1.71

1.1

8.8

0.25

2.1

1.6

10.3

0.27

TS


Prôtêin

đạm
amin

%

vật với từng yếu tố sinh thái, cũng như ảnh hưởng của thực vật trên nơi sống.

Tên

Đạm

%

1.7.1. Đặc tính sinh thái

lipit

chất

ĐVTA

khô kéo dài, độ ẩm trung bình 20 - 30%, hoặc những vùng mùa đông nhiệt độ



1


Ischaemum indicum

2

Arundinella nepalensis Cỏ xương

3

Cymbopogon caesius

Cỏ sả

4

Imperata cylindrica

Cỏ Tranh

5

Setaria viridis

6

Chrysopogon aciculatus

Cỏ may

64.4


3.1

0.6

8.3

0.3

môi, cỏ bấc, cỏ lông para,...Như vậy, có thể nói thực vật trong đồng cỏ tồn tại

7

Digitaria longiflora

Cỏ chỉ

73.6

3.4

0.5

7.4

0.21

trong những điều kiện khác nhau của các yếu tố sinh thái cơ bản trong vùng,

8


Digitaria decumbens

Pangôla

9

Paspalum urvillei

10 Fimbristylis annua

74

Cỏ sâu róm 67.5

1.945

2.295

8.88

1.558

Mộc châu

2.6

10.48

1.839


Họ cói

0.979

4.288

0.747

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Đa phần các loài cỏ sinh trưởng tốt ở vùng có độ ẩm từ 60 - 80%. Có
loài lại có khả năng sinh trưởng được ở những nơi đất lầy, ngập nước như cỏ

và khác nhau ở cả hai phần trên và dưới đất (ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm, muối
0.1



khoáng, CO2...). Nó biểu thị rõ rệt về phân bố sinh khối theo chiều thẳng đứng
và chiều nằm ngang.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




34

35


Trên cơ sở những hiểu biết về đặc tính sinh thái của các loài cỏ mà ta

1.7.3. Đặc tính sinh lý

có thể chọn và trồng các loài thích nghi với những điều kiện khí hậu địa chất

Nhu cầu về nước:

tương tự như vùng gốc của chúng.

Nước đóng góp vào sự phong hoá, giữ vai trò quan trọng cho sự phát

1.7.2. Đặc tính sinh vật học

triển của thực vật cũng như các vi sinh vật đất. Cỏ hoà thảo yêu cầu nước cao

Cỏ hoà thảo là cây thân tròn hoặc bầu dục (tuỳ theo giống), lá mọc
thành hai dãy, phần lớn không có cuống nhưng bẹ to, có thìa lìa, phiến lá dài,

do bộ lá lớn, hệ số toả hơi nước lớn hơn họ đậu. Hệ số toả hơi nước của cỏ
này vào khoảng 400 - 500 gram, trong khi của cỏ họ Đậu 214 - 216 gram.

gân lá song song, thân cỏ thuộc loại thân rạ, rỗng (trừ mấu đốt). Cũng có loài

Theo N.G. Andreép (1974), với đồng cỏ có độ ẩm đất khoảng 70%, một

thân đặc như cỏ voi, rễ thuộc loại rễ chùm, hoa phần lớn là lưỡng tính thích

tháng 10m2 cỏ bay hơi khoảng 1m3 nước, trong 5 tháng sẽ có 50 tạ cỏ khô/1ha.


ứng với lối thụ phấn nhờ gió (Võ văn Chi và Dương Đức Tiến, 1976) [38].

Trên cơ sở đó ta có thể xác định công thức tưới nước trong mùa đông .

Căn cứ vào hình dáng của thân và đặc điểm sinh trưởng, người ta chia
cỏ hoà thảo thành các loại sau:
+ Loại thân rễ: Đối với loại này có đặc điểm đặc trưng là than bò dưới
mặt đất và chia nhánh dưới mặt đất, đại diện là cỏ tranh (Imperata
cylindrica). Loại này yêu cầu đất tơi xốp, mật độ cỏ thưa, độ che phủ thưa,
thích hợp với chăn thả nhẹ, không thích hợp với giẫm đạp và vùng đất dí chặt.
+ Loại thân bụi: Loại thân này từ gốc đẻ ra nhiều nhánh tạo thành búi như
khóm lúa, bộ rễ phát triển mạnh, nhánh có thể đẻ ra từ dưới mặt đất hoặc trên
mặt đất. Cỏ này cho năng suất cao ở những nơi đất tốt, tơi xốp và thoáng khí. Do
tốc độ đẻ nhanh, cao nên đòi hỏi phải trồng thưa, có thể trồng thu cắt hoặc chăn
thả. Đại diện là cỏ Ghine (Panicum maximum), cỏ Mộc Châu, cỏ xả…
+ Loại thân bò: Cỏ này thân nhỏ và mềm, chính vì vậy thường nằm ngả
trên mặt đất. Do thân bò lan nhanh nên chúng có khả năng tạo thành một thảm

Như vậy, chế độ nước của các sinh địa quần lạc cỏ trong một vùng khí
hậu xác định phụ thuộc địa thế của đồng cỏ và thành phần cơ giới của đất như
đất bằng, đất trũng, đất dốc, đất thấp hay bãi bồi,...
Độ ẩm của đất cũng yêu cầu theo từng giai đoạn trong đời sống của cây:
- Từ nảy mầm đến lúc chia nhánh: 25 - 30 %
- Giai đoạn phát triển cành

: 75 %

- Cuối thời kỳ sinh trưởng nhu cầu nước giảm dần.
Nhu cầu về dinh dưỡng:
Cỏ hoà thảo đòi hỏi đất tốt, giàu mùn, đạm, lân và kaly. Nhu cầu về

dinh dưỡng cũng chia theo từng giai đoạn.
- Giai đoạn 1 (nẩy mầm - phân nhánh) cần nhiều đạm, lân, kaly.
- Giai đoạn 2 (phân nhánh) cần nhiều đạm, lân.

cỏ dày đặc, che phủ kín mặt đất. Đại diện là cỏ pangola, lông Para, cỏ xích lô

- Giai đoạn 3 (ra hoa hình thành hạt) cần nhiều lân và kaly.

cỏ thân bò cho năng suất thấp, thường dùng để chăn thả hoặc cắt làm cỏ phơi

Cỏ càng cho năng suất cao thì yêu cầu lượng phân bón càng lớn
(Nguyễn Đăng Khôi, Dương Hữu Thời, 1981) [41].

khô, dự trữ cho gia súc vào mùa đông.
+ Loại thân đứng: Loại này mọc mầm từ phần gốc ở dưới mặt đất hoặc

Trong đồng cỏ, người ta thấy có sự quan hệ rõ rệt giữa việc bón đạm và

hom trồng, mầm vươn thẳng nên giống cây mía, thân cao to, cho năng suất

số chồi có hoa. Trong điều kiện có bón đạm vào mùa xuân, số chồi sinh sản

cao. Đại diện loại này là cỏ voi .

tăng lên. Bón phân, tưới nước cũng làm tăng số chồi của cây cỏ loại nhiều

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




36

37

chồi. Thí dụ (Festuca pratensis): Không tưới nước số chồi là 3,5 (Festuca

1.7.4. Đặc tính sinh trưởng

pratensis), tưới ẩm 40 - 60% có 11,5 và 80% có 14,8 chồi. Quan hệ với phân

Cỏ hoà thảo sinh trưởng và tái sinh qua 3 giai đoạn :

cũng vậy, cỏ Pleum pratens không có phân bón có 605 chồi trên đơn vị diện

 Giai đoạn 1: Cỏ mới gieo trồng hoặc sau khi cắt, lúc này tốc độ sinh

tích, có 19% số chồi có hoa, nếu bón phân NPK có 790 chồi trong đó có 35%
chồi có hoa [48].

trưởng chậm.
 Giai đoạn 2: Sau khi gieo trồng hoặc thu cắt 15 - 20 ngày, cỏ sinh

Trên đất nghèo không có phân bón thì đời sống thường kéo dài không
quá 3 - 5 năm. Trên đất phì nhiêu hay thường xuyên có phân bón có thể kéo
dài 10 năm, có khi hơn.


trưởng và phát triển nhanh.
 Giai đoạn 3: Sau khi gieo trồng hoặc thu cắt 40 - 70 ngày, cỏ sinh
trưởng chậm hoặc ngừng hẳn (Đoàn Ẩn, Võ Văn Trị - 1976)[2].

Nhu cầu về không khí :

Căn cứ vào đặc điểm sinh trưởng của từng giống để chúng ta định thời

Các loại cỏ thân đứng, thân bụi, thân rễ phân chia nhánh dưới mặt đất

gian thu hoạch hợp lý. Tiêu chuẩn thu hoạch căn cứ vào điều kiện sinh trưởng

đòi hỏi phải tơi xốp, thoáng khí. Các loại thuộc thân bụi chia nhánh trên mặt

của giống cỏ. Thu hoạch non, năng xuất sẽ thấp, thu hoạch già, giá trị dinh

đất và thân bò thì có thể chịu được đất kém thoáng khí và độ ẩm thấp hơn.

dưỡng sẽ kém, ảnh hưởng đến tái sinh lần sau, giảm số lứa cắt/năm. Nếu bộ

Tính chịu sương giá và kháng xuân:

phận trên đất quá mau lứa thì dự trữ đường bột tích luỹ ở gốc để phát triển

Tính kháng xuân hay còn gọi là khả năng chịu đựng của cỏ mùa đông.

thành lá sẽ bị suy kiệt, đồng cỏ chóng bị tàn lụi.

Nó thể hiện khả năng chịu đựng của cỏ về sự chênh lệch nhiệt độ không khí


Đối với cỏ Ghinê, thu hoạch khi thảm cỏ cao 60 - 90 cm; Cỏ lông Para,

và nhiệt độ trong đất, sự chênh lệch này làm cho sự vận chuyển các chất dinh

thu hoạch khi cao khoảng 40 - 50 cm; Cỏ Pangola, thu hoạch khi cao khoảng

dưỡng trong thân cỏ và quá trình đồng hóa, dị hóa của cỏ mất điều hòa nên có

35 - 50 cm (L. Rham phrây, 1980).

tính kháng xuân kém sẽ bị chết. Tuy nhiên tính kháng xuân của cỏ còn phụ

Theo Điền Hưng 1964 [17] cho biết :

thuộc vào các yếu tố như: Cỏ địa phương kháng xuân tốt hơn cỏ nhạp nội, cỏ

+ Cỏ thân bò thu hoạch lứa đầu sau trồng 60 ngày, lứa sau khi cắt 30 -

mọc riêng rẽ thấp bé kháng xuân mạnh, cỏ thân rễ, cỏ sinh trưởng phát triển
chậm kháng xuân tốt. Loại mùa xuân phục hồi nhanh kháng xuân kém hơn
loại phục hồi chậm, cỏ có hàm lượng vật chất khô cao thì kháng xuân tốt và
ngược lại. Loại có bộ phận trên mặt đất bị chết trong vụ đông thì kháng xuân
mạnh và ngược lại.

45 ngày.
+ Cỏ thân bụi thu hoạch lứa đầu sau trồng 60 ngày, lứa sau khi cắt 35 45 ngày.
+ Cỏ thân đứng thu hoạch sau trồng hoặc sau khi cắt trên 60 ngày.
1.7.5. Sức sống cỏ hoà thảo


Loại cỏ chịu sương giá tốt thì trong giai đoạn cuối thu đầu đông nó vẫn

Sức sống của cây hoà thảo không giống nhau, có loài sống lâu năm,

phát triển bình thường, còn loại chịu giá yếu kém thì ngừng sinh trưởng hoặc

có loài chỉ sống được một năm. Vì vậy, người ta chia cỏ hoà thảo thành 4

chết vào mùa đông.

loại sau:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




38

39

 Loại cỏ sống một năm thì tàn lụi và chết gọi là cỏ hàng năm như cỏ

axit amin và nhiều loại vitamin, trong cỏ khô hàm lượng protein 18,46%,
protein tinh 16,86%, đường tổng số 8,3%, tỷ lệ lá cao, lá màu xanh, ít nhám


Xu Đăng, cỏ lồng vực,...
 Loại cỏ có sức sống ngắn (2 - 3 năm) như cỏ Giầy, cỏ Mật (Melinis

và mềm hơn cỏ Voi. Cỏ VA 06 có thể làm thức ăn tươi, thức ăn ủ chua, thức
ăn hong khô, bột cỏ để chăn nuôi. Thu hoạch lứa đầu sau khi trồng 70-80

minutiflora).
 Loại cỏ sức sống vừa (4 - 6 năm) như cỏ Pangola, cỏ Voi, cỏ Ghine,

ngày, lứa tiếp theo là 35-40 ngày. Ở miền Bắc trồng vào vụ xuân khi bắt đầu
có mưa và nhiệt độ >100C, ở miền Nam có thể trồng vào bất kì vụ nào trong

Paspalum, Brachiara.
 Loại cỏ có sức sống lâu (6 - 10 năm) như cỏ mạch tước không râu

năm [3].
Cỏ Voi (Pennisetum purpureum)

(Quang Ngọ, Sinh Tặng, 1976)[37].
Căn cứ vào sức sống của các loài cỏ, người ta dự tính thời gian trồng lại

Cỏ Voi có nguồn gốc ở Nam Phi, thuộc họ hoà thảo sống lưu niên,

để đảm bảo năng suất.

phân bố rộng ở các nước nhiệt đới trên thế giới. Ở miền Nam Việt Nam được

1.8. Giá trị kinh tế của các loại cây dùng trong chăn nuôi bò

Nguyên Văn Tuyền (1973) coi là 1 trong 4 loài cỏ tốt. Cỏ Voi là cỏ lâu năm,


1.8.1. Cỏ Hoà thảo

thân rễ cứng, hoá gỗ, mang nhiều rễ khoẻ và ăn sâu; thân đứng giống cây mía,

Cỏ hoà thảo có vai trò cực kì quan trọng trong chăn nuôi và có giá trị

cao 3-4m, mọc thành bụi dầy, rỗng ruột, có nhiều đốt. thuộc nhóm thực vật

kinh tế lớn không chỉ vì nó phân bố rộng, chiếm tỷ lệ cao trong thảm cỏ, mà

C4 có khả năng thâm canh cao. Trong điều kiện thuận lợi có thể đạt 25 – 30

còn có rất nhiều ưu điểm tốt như: Cho năng suất và giá trị dinh dưỡng cao;

tấn chất khô/ha; một năm cắt 7 – 8 lứa. Đôi khi có thể đạt năng suất cao hơn

khi chế biến, dự trữ ít rơi rụng lá, ít bị thối; tỷ lệ cỏ độc ít; chịu đựng chăn dắt

nếu đáp ứng đủ phân bón và nước. Hàm lượng prôtêin thô ở cỏ Voi trung bình

cao. Cỏ tự nhiên cho 10 - 20 tấn (chất xanh)/ha/năm, cỏ trồng thân bò cho 30

100g/kg chất khô. Khi thu hoạch ở 30 ngày tuổi, hàm lượng prôtêin thô đạt tới

- 40 tấn/ha/năm, thân bụi cho 50 - 60 tấn/ha/năm, thân đứng cho 80 - 100

127g/ kg chất khô, lượng đường trung bình 70 – 80 g/kg chất khô. Thường thì

tấn/ha/năm, nếu thâm canh có thể cho 160 - 260 tấn/ha/năm. 1 kg cỏ tươi cho


cỏ Voi thu hoạch 28 – 30 ngày tuổi làm thức ăn xanh cho lợn và thỏ; khi sử

từ 0,1- 0,2 đơn vị thức ăn tương đương với 250 - 500 KcalME. Cỏ hoà thảo

dụng cho bò có thể thu hoạch ở 40 – 45 ngày tuổi, trong trường hợp làm

có giá trị dinh dưỡng cao. Ở những nơi đất tốt, nhiều mùn, ẩm, loài cỏ tốt nhất

nguyên liệu ủ chua có thể cắt ở 50 ngày tuổi.

có thể chứa 16g prôtêin tiêu hoá và 32g lipit trong 1kg cỏ tươi, 8kg cỏ có thể

Ở Việt Nam thường sử dụng các giống cỏ Voi thân mềm như cỏ Voi
Đài Loan, Solection I, các giống King gras.

tương đương 1đơn vị thức ăn [26]
Một số giống cỏ dùng trong chăn nuôi gia súc :

Cỏ Sả hay Cỏ Ghinê (Panicum maximum)

Theo kết quả nghiên cứu của Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt

Cỏ Sả Mọc thành bụi như cây sả, còn gọi là cỏ Ghinê vì có nguồn gốc

Nam,cỏ VA 06 là giống cỏ được lai tạo giữa giống cỏ Voi và cỏ đuôi sói của

từ Ghi – Nê được nhập vào nước ta từ 50-60 năm nay và đã trở thành cỏ mọc

Châu Mỹ, năng suất 450-600 tấn/ha/năm. Chất lượng tốt, trong cỏ có 17 loại


tự nhiên ở nhiều địa phương trong cả nước. Cỏ sả được trồng làm thức ăn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên






40

41

xanh cho trâu, bò, ngựa ở dạng tươi ngoài bãi chăn nuôi hoặc ủ xanh và phơi

Cỏ Sweet Jumbo và Superdan

khô dự trữ. Cỏ sả có khả năng chịu hạn tốt, thích hợp với nhiều loại đất. Cỏ

Do Công ty Cổ phần Giống cây trồng miền Nam nhập từ Australia. Cả

thu hoạch 7 – 8 lứa /năm với năng suất từ 10 – 14 tấn chất khô/ ha, có thể

2 giống cỏ này đều có độ ngọt cao hơn cỏ Sả, cỏ Voi, lại dễ để dành nên rất

trồng để chăn thả hay thu cắt cho ăn tại chuồng. Nếu thu hoạch ở 30 ngày tuổi


thuận tiện cho đàn bò vỗ béo và các vùng có thời gian nắng kéo dài trong

giá trị dinh dưỡng cao (139g prôtêin thô, 303g chất xơ và 1920-2000 kcal/kg

năm. Đây là giống cỏ lai F1 nên tăng trưởng mạnh, thu hoạch sớm. Lần đầu,

chất khô). Cỏ Ghinê nhanh ra hoa và ra hoa nhiều lần trong năm, vì vậy nếu

thu hoạch 5 tuần sau gieo. Sau đó cứ 4 tuần cắt một lần. Cỏ trổ hoa muộn nên

để cỏ già giá trị dinh dưỡng giảm mạnh. Ở Việt Nam hiện có tập đoàn cỏ

dinh dưỡng dồn hết cho lá. Cứ 12kg hạt cỏ gieo được cho 1 ha đất.

Ghinê khá phong phú: Dòng K280 chịu hạn tốt, dòng I429 lá to thích hợp với
chế độ thu cắt trong vườn gia đình chăn nuôi nhỏ.

Năng suất khoảng 50 - 55 tấn/ha cỏ tươi, rất thích hợp cho gia súc. Nếu
trường hợp cần dự trữ, cỏ Sweet Jumbo ủ chua rất tốt, còn giống cỏ Superdan

Cỏ Pangola (Brachiaria decumbens)

lại có lợi thế trong chế biến sấy hoặc phơi khô.

Cỏ Pangola xuất hiện ở bờ sông Pangola thuộc Nam Phi. Nhập vào
Việt Nam từ trung quốc (8/1967). Đây là giống cỏ lâu năm, thấp, thân cành
nhỏ. Tốc độ sinh trưởng của Pangola nhanh, biên độ sinh thái rộng với nhiệt
lạnh (5-60C) và nóng (420C). Sau 2 tháng trồng cỏ cao 47,8cm đạt năng suất
20tấn/ha, với chế độ canh tác tốt, bón phân nhiều năng suất lên tới 100-120
tấn/ha. Pangola trồng và sử dụng để chăn thả hay thu cắt làm cỏ khô.

Cỏ Pát (Paspalum Atratum)
Thuộc loại cỏ bụi thân cao. Có thể sinh trưởng tốt ở những chân đất
nghèo dinh dưỡng và đất chua, có độ pH < 4. Cỏ Pát thích hợp với khí hậu
ẩm, thích nghi với những vùng thường bị ngập lụt. Lượng chất xanh cao, bò
rất thích ăn. Có thể trồng bằng thân hom hoặc gieo hạt với lượng 5-6 kg/ha.

Cả 2 giống cỏ đều có cách trồng như nhau và dùng để vỗ béo bò, dê,
cừu thịt hoặc lấy sữa... Gieo cỏ theo hàng với khoảng cách 60-80cm. Vườn
ươm chuẩn bị thật tốt bằng cách bón lót 60 - 80kg Urê/ha hay 50kg DAP +
50kg Urê ngay trước khi trồng hoặc sau mỗi lần cắt.
Do các loại cỏ này có bộ rễ phát triển mạnh ở tầng đất mặt nên sau mỗi
đợt cắt và bón phân, cần xới xáo, lấp phân và vun gốc để tạo bộ rễ mới thật tốt.
Điều này sẽ giúp tăng năng suất cỏ và số lần cắt. Chỉ bắt đầu cắt hay thả gia súc
vào đồng cỏ khi thấy cỏ cao khoảng 80cm. Nếu sớm quá, cỏ còn non, năng suất
giảm, dinh dưỡng kém. Còn cỏ già quá, chất dinh dưỡng cũng mất đi.
Người trồng cỏ cần lưu ý: Đây là những giống cỏ lai nên không được
để giống trồng đợt 2, ở những thế hệ sau ưu thế lai của loài bị giảm nên năng

Trồng một lần thu hoặc liên tục 3 năm mới trồng lại.
Cỏ Signal (Brachiaria dicumben)

suất, và chất lượng cỏ không đảm bảo. Sau 5 - 6 đợt cắt, nếu thấy sức tái sinh

Thích nghi rộng với nhiều điều kiện khí hậu, đất đai nhiều nơi ở nước

của cỏ yếu đi (dưới 50 tấn/ha) thì phải cày xới, gieo trồng lại đợt mới.

ta. Cỏ Signal có thể sinh trưởng tốt ở những vùng đất nghèo dinh dưỡng và

Cỏ Vetiver


vùng đất chua phèn (pH<4). Những nơi có mùa khô kéo dài chúng vẫn giữ

Còn gọi là cỏ Hương bài, được trồng với mục đích bảo vệ tài nguyên

được màu xanh, cạnh tranh với cỏ dại, chịu được sự dẫm đạp của gia súc nên

đất và nguồn nước. Mặc dù lá của cây cỏ này cũng là một loại thức ăn mang

thích hợp cho xây dựng đồng cỏ chăn thả thường xuyên.

lại nguồn dinh dưỡng cao cho gia súc nhưng cỏ Vetiver lại có bộ rễ rất hữu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên






×