DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
GV: Giáo viên
HS: Học sinh
GSK: Sách giáo khoa
TB: Tế bào
TLN: Thảo luận nhóm
Trang 1
PHẦN I: LỜI NÓI ĐẦU.
1. Lý do chọn đề tài:
1. 1. Cơ sở lí luận:
Sinh học là một môn học cung cấp cho chúng ta những hiểu biết quan
trọng về sự sống, mối quan hệ giữa cơ thể với môi trường. Từ đó chúng ta rút
ra những biện pháp để cải tạo tự nhiên, nâng cao năng suất vật nuôi, cải tạo
cây trồng, góp phần nâng cao tổng sản phẩm đất nước và cải thiện đời sống
con người, trong đó có chúng ta.
Vì thế, mục tiêu đào tạo của nhà trường bậc trung học cơ sở môn sinh
học giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Trong đó, phương tiện dạy học được
xem như một điểm tựa trong quá trình nhận thức “ từ trực quan sinh động đến
tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến hiện thực cuộc sống”. Khái niệm
sinh học bao giờ cũng xuất phát từ thực tiễn. Từ những biểu tượng sống cụ
thể về đối tượng nghiên cứu giúp các em có cơ sở để suy diễn hình thành nên
khái niệm. Điều này rất phù hợp với độ tuổi của các em vì khả năng tư duy
lứa tuổi này chưa cao. Mặt khác, phương tiện dạy học có nhiều điều kiện để
vận dụng vì xung quanh là một thế giới sinh vật đa dạng, phong phú. Ở đây,
học sinh quan sát độc lập dưới sự tổ chức và chỉ đạo của giáo viên để đi tới
những kết luận cũng là kiến thức cần lĩnh hội.
Như chúng ta đã biết việc phối hợp và sử dụng tốt phương tiện dạy học
sẽ giúp cho giáo viên có thể thu hút sự chú ý, say mê và phát huy tối đa tính
tích cực, năng động, sáng tạo hơn của học sinh trong học tập. Học sinh có thể
tự khám phá, lĩnh hội kiến thức và phát triển kỹ năng thực hành. Tôi cho rằng
tiết dạy của giáo viên sẽ không đạt được kết quả tốt nếu như không có sự hỗ
trợ của phương tiện dạy học bởi vì giáo viên lên lớp mà không có bất cứ
phương tiện dạy học nào thì chẳng khác nào một người lính ra trận mà không
có vũ khí. Việc sử dụng tốt phương tiện dạy học cho các môn học nói chung
và môn Sinh học nói riêng được coi là một phương tiện hỗ trợ đắc lực thể
Trang 2
hiện một phần nội dung chính của sách giáo khoa mới, đáp ứng nhu cầu học
tập theo hướng tích cực và gây hứng thú hơn trong học tập của học sinh.
1. 2. Cơ sở thực tiễn:
Việc dạy và học sinh học ở các trường đã có chuyển biến rõ rệt. Đội
ngũ giáo viên không ngừng nỗ lực học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ. Các cấp lãnh đạo luôn tạo mọi điều kiện thuận lợi để đội ngũ cán
bộ, giáo viên hoàn thành tốt công tác giảng dạy của mình với chất lượng ngày
càng cao như: Thường xuyên tổ chức các buổi tập huấn chuyên môn, không
ngừng đổi mới phương pháp dạy học, cải cách chương trình sách giáo khoa
cho phù hợp với từng cấp học, bậc học. Cung cấp tài liệu và trang thiết bị
phục vụ cho công tác dạy ngày càng hoàn thiện và hiện đại hơn: Như máy
chiếu, tranh ảnh, mô hình, tiêu bản... và đặc biệt là mẫu vật thật có trong tự
nhiên giúp cho giờ học đạt hiệu quả tốt hơn và học sinh cũng hứng thú với
môn học hơn.
Nhưng trong quá trình giảng dạy và dự giờ tiết dạy của đồng chí, đồng
nghiệp tôi phát hiện ra vẫn còn một số em học sinh ý thức học tập chưa cao,
thờ ơ, không hứng thú, thậm chí còn tỏ ra thái độ chán nãn trong học tập. Bên
cạnh đó vẫn còn không ít giáo viên lúng túng trong việc phối hợp và sử dụng
phương tiện, thiết bị, đồ dùng dạy học. Cho nên ảnh hưởng đến chất lượng là
điều không thể nào tránh khỏi.
Sinh học là môn học nghiên cứu sinh vật trong tự nhiên, kiến thức sinh
học vừa có ở kênh chữ, vừa có ở kênh hình và vật mẫu thật. Do đó, dạy học
sinh học không thể không có tranh ảnh, vật mẫu, thí nghiệm và thực hành.
Thực tế, khi học sinh học 6, các em có suy nghĩ đó là môn học bài, dễ dàng
học thuộc lòng nhưng không phải như vậy. Nếu các em không biết vận dụng,
biết quan sát thực tiễn, vật mẫu, tranh, hình thì các em không học tập tốt
được.
Trang 3
Mặt khác, học sinh cũng thường nhận dạng sai các loài thực vật trong
tự nhiên, thậm chí cả ở những thực vật các em dùng hàng ngày, ví dụ các em
nhiều lần thấy củ khoai lang nhưng không biết cây khoai lang như thế nào.
Hoặc các em cho lá me có cách mọc đối trong khi đó chỉ các lá chét của nó
mới mọc đối, nhầm cây một lá mầm, cây hai lá mầm, cây có hoa, cây không
có hoa, ...
Đối với việc thực hiện yêu cầu của giáo viên, về chuẩn bị vật mẫu học
tập, thì nhiều học sinh chuẩn bị vật mẫu cho có hay để được điểm cộng và
không bị thầy cô nhắc nhở. Các em lấy mẫu thật nhiều, nhưng không lưu ý
đến yêu cầu cần thiết khi chuẩn bị mẫu để học. Ví dụ yêu cầu quan sát rễ cây,
nhưng các em chỉ chuẩn bị mẫu lá. Học về các loại quả nhưng các em chỉ
mang đến lớp các quả để ăn, ...
Đối với việc quan sát đồ dùng học tập: Các em có thói quen quan sát đồ
dùng dạy học, tranh ảnh hay vật mẫu một cách qua loa, chiếu lệ. Các em
không tư duy, so sánh hay đối chiếu, không tự tìm tòi mà chỉ dựa vào thông
tin sách giáo khoa, cứ cho rằng ngày nào các em cũng thấy chúng, nhưng
không biết rằng giới tự nhiên, luôn chứa đựng những điều kỳ thú cần các em
khám phá như: Tại sao có màu sắc khác nhau ở các mặt của lá? Gân lá có đặc
điểm gì? Cấu tạo trong thân cây non có gì khác thân cây gỗ già? Các bó mạch
ở thân cây 1 lá mầm và 2 lá mầm?
Đối với kỹ năng hoạt động nhóm: Các em chưa thật sự tích cực và có
kỹ năng hoạt động theo nhóm, chưa quen với việc tự mình làm chủ, tìm tòi,
nghiên cứu kiến thức trên cơ sở hướng dẫn của giáo viên.
Từ thực tế đó, tôi đã tìm hiểu và đã tích lũy cho bản thân một số kinh
nghiệm sử dụng phương tiện dạy học. Đầu năm 2014 tôi đã mạnh dạn nghiên
cứu đề tài “ Một số kinh nghiệm sử dụng phương tiện dạy học có hiệu quả
môn sinh học 6 “
2. Mục đích đề tài:
Trang 4
Từ những phương tiện dạy học hiện hữu như: bảng, phấn, viết, thước,
máy chiếu, đồ dùng dạy học. Có những phương tiện dạy học tưởng chừng như
đơn giản, nhưng nếu sử dụng sai thao tác, chẳng những không mang lại hiệu
quả cho phương tiện đó mà còn ảnh hưởng đến tiết học.
Đến những phương tiện dạy học tự sưu tầm hay tự làm cũng vậy. Việc
sử dụng chúng phải chú ý tới mục đích sử dụng và thao tác sử dụng. Nói tóm
lại, việc sử dụng phương tiện dạy học phải nghiên cứu đưa ra các thao tác sử
dụng theo trình tự giống như một trình tự thiết kế giáo án
Qua nghiên cứu đề tài này giúp cho giáo viên hệ thống lại những kĩ
năng sử dụng đồ dùng dạy học, phát hiện ra những vấn đề nảy sinh trong thực
tiễn và có biện pháp khắc phục kịp thời.
Với việc nghiên cứu thành công đề tài này sẽ giúp cho giáo viên có
được những kinh nghiệm trong việc phối hợp và sử dụng tốt các phương tiện
dạy học trong môn sinh học 6.
3. Lịch sử đề tài:
Trước khi nghiên cứu đề tài này, tôi đã tham khảo rất nhiều đề tài nhằm
nâng cao kiến thức và chất lượng dạy học. Trong quá trình tìm hiểu tôi đã có
hứng thú với đề tài “ sử dụng phương tiện trực quan có hiệu quả trong dạy
học”. Nhưng theo tôi, các đề tài này chỉ chú ý đến phương tiện trực quan mà
thôi, muốn dạy học đạt được hiệu quả cao không chỉ chú ý tới phương tiện
trực quan mà còn phải chú ý tới tất cả các phương tiện dạy học trong một tiết
học và sử dụng nhuần nhuyễn, có hiệu quả.
Trong quá trình dạy học môn sinh học 6 tôi nhận thấy việc sử dụng các
phương tiện dạy học nếu không được phối hợp chặt chẽ và khai thác đúng lúc
thì sẽ dẫn đến những kết quả không như mong muốn. Mặc khác, ở lứa tuổi
đầu cấp trung học cơ sở tư duy trừu tượng còn ở mức độ thấp nên việc sử
dụng phương tiện dạy học phải được nghiên cứu kĩ trước khi sử dụng và phải
phù hợp với tư duy của học sinh. Vì vậy, đầu năm 2014 – 2015 tôi thường
xuyên sử dụng phương tiện dạy học, dạy thử nghiệm, dự giờ rút kinh nghiệm
Trang 5
với đồng nghiệp, kiểm tra, đánh giá kết quả việc nắm bài của học sinh để từ
đó có sự điều chỉnh, bổ sung hợp lý, tôi bắt đầu tìm hiểu và nghiên cứu đề tài
này.
4. Phạm vi đề tài:
Đề tài này chỉ nghiên cứu quá trình sử dụng các phương tiện dạy học
thông qua các phương pháp có thể áp dụng: Quan sát, trao đổi, thảo luận, thực
nghiệm và phương pháp điều tra: (Giáo viên tiến hành dạy thử nghiệm, dự
giờ đồng nghiệp, trao đổi, thảo luận để từ đó rút ra những kinh nghiệm cho
tiết dạy. Sau đó giáo viên đặt câu hỏi để kiểm tra việc nắm nội dung bài học
của học sinh.)
Đề tài này chỉ áp dụng cho chương trình sinh học 6
Trang 6
PHẦN II. NỘI DUNG VÀ GIẢI PHÁP.
1. Thực trạng:
1.1. Thuận lợi:
Được sự quan tâm sâu sắc về phía ngành, giáo viên được đi tập huấn để bồi
dưỡng chuyên môn. Trình độ của giáo viên đạt chuẩn và dạy đúng chuyên môn.
Học sinh trong trường đều là con em nông dân với nghề nông là chủ yếu,
các em đều ngoan, chăm chỉ học tập và lao động.
1.2 Khó khăn:
Các mô hình, tranh vẽ, mẫu vật ngâm tiêu bản, kính hiển vi, kính núp…. Đã
cũ và còn thiếu nhiều so với nhu cầu giảng dạy và học tập của nhà trường. Với
cơ sở vật chất còn thiếu đồ dùng dạy học nên giáo viên dạy bộ môn Sinh thường
sử dụng phương pháp dạy thuyết trình là cơ bản . Kinh tế địa phương còn gặp
nhiều khó khăn, gia đình ít quan tâm đến sự học tập của các em. Hơn nữa bộ
môn Sinh là một bộ môn khoa học thực nghiệm, đa số học sinh cho rằng: “ Môn
Sinh học không quan trọng không phải bộ môn chính” Vì vậy ít đầu tư cho môn
học này với suy nghĩ như vậy đa số các em không hiểu rõ bản chất của lí thuyết
dẫn đến việc nắm kiến thức gặp nhiều khó khăn vướng mắc do vậy kiến thức của
các em bị hổng nhiều dẫn đến bỏ bê việc học môn sinh học.
a. Về phía giáo viên : Một số tiết còn lúng túng, chưa linh hoạt trong việc phối
hợp và sử dụng đồ dùng dạy học cho từng nội dung bài học một cách hợp lý như:
Các mẫu vật ( lá cây, rễ, các loại hoa, loại quả, tiêu bản kính hiển vi...); các vật
tượng hình ( mô hình, tranh vẽ, các hình chụp, hình vẽ, các sơ đồ cấu tạo...)
b.Về phía học sinh : Một số học sinh không say mê, hứng thú, lười thảo luận, ít
tham gia đóng góp ý kiến xây dựng bài, quan sát không đúng cách...
Kết quả thăm dò thái độ học tập môn sinh học 6 thông qua bài
giảng. ( năm học 2014 – 2015 )
Trang 7
Số HS có thái
Tên lớp TS HS độ hào hứng
6/1
6/2
Số HS có thái
độ bình
Ít quan tâm
Ghi chú
thường
TS
%
TS
%
TS
%
35
12
34,2% 16
45,7% 7
20%
36
12
33,3% 16
44,4% 8
22,2%
Kết quả thăm dò quá trình tiếp thu bài của học sinh thông qua bài
giảng. ( năm học 2014 – 2015 )
- Sau khi học xong bài 20: Cấu tạo trong của phiến lá, tôi đã cho học sinh
làm kiểm tra nhanh trên giấy.
Câu hỏi: 1/ Xác định các bộ phận của phiến lá ở mô hình hình 20.4?
2/ Em hãy chọn các chức năng phù hợp với phiến lá?
Kết quả như sau:
Tên lớp
Tổng số học sinh Học sinh trên 5
Học sinh dưới 5
điểm ( % )
điểm ( % )
6/1
35
24(68,6%)
11(31,4)
6/2
36
26(72,2)
10(27,8)
Trong thực tế giảng dạy không phải lúc nào vật thật đều đáp ứng yêu cầu sư
phạm của một đồ dùng dạy học. Có những vật quá nhỏ, khó quan sát thì phải
kết hợp sử dụng các mô hình hoặc tranh vẽ, đặc biệt là loại tranh cho phép đi
sâu vào các mức độ khác nhau, cấu trúc của các cơ quan hay đi sâu vào các
chi tiết của từng bộ phận quan trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tìm hiểu
chức năng . Hình vẽ trên bảng của giáo viên cũng là một phương tiện trực
quan có giá trị sư phạm cao (nếu giáo viên vẽ đẹp và nhanh) được kết hợp
trong lúc mô tả, thuyết trình giúp các em theo dõi bài giảng một cách rõ ràng .
Sử dụng các đồ dùng trực quan trong giảng dạy phải đảm bảo tính sư phạm và
khoa học. Trong các bài giảng sinh học 6 cần sử dụng các phương tiện trực
quan:Vật thật (mẫu tươi, mẫu ngâm, mẫu khô, tiêu bản hiển vi) .Vật tượng
hình như : Mô hình , tranh vẽ (đen, trắng hoặc màu) các hình chụp, hình vẽ
Trang 8
trên bảng hoặc sơ đồ cấu tạo, phải đảm bảo tính sư phạm và khoa học như :
Khi giáo viên đưa ra các mẫu vật biểu diễn cần: đúng lúc , đúng cách , dùng
đến đâu đưa ra đến đó tránh bày la liệt; Đối tượng quan sát phải đủ lớn vừa
tầm nhìn , nếu nhỏ quá phải đưa tới từng bàn cho học sinh quan sát; Các thí
nghiệm giáo viên cần liên hệ chặt chẽ với bài giảng có đối chứng mới có sức
thuyết phục; Giáo viên phải nghiên cứu, làm thử trước khi đem ra biểu diễn
trước học sinh .
2. Nội dung cần giải quyết:
Từ những hạn chế nêu trên, tôi cho rằng vấn đề cần phải tìm hiểu
nghiên cứu để đưa ra giải pháp thực hiện sử dụng phương tiện dạy học có
hiệu quả trong môn sinh học 6.
- Giáo viên phải nắm vững phương pháp sử dụng phương tiện dạy học cơ bản.
- Hiểu rõ bản chất của phương tiện dạy học.
- Mục tiêu khi sử dụng phương tiện.
- Phải phù hợp với lứa tuổi và vùng miền.
- Phải phù hợp với phương pháp và mục tiêu bài giảng.
3. Giải pháp:
Khi dạy môn sinh học 6 tôi thấy lớp 6 là lớp đầu cấp, khả năng tư duy
còn thấp; việc sử dụng các phương tiện, đặc biệt là phương tiện trực quan để
học sinh tư duy chiếm lĩnh tri thức chúng ta cần phải hết sức lưu ý. Tôi cho
rằng để sử dụng có hiệu quả phương tiện dạy học cần phải có những phương
pháp nghiên cứu cụ thể.
Các giải pháp cụ thể là:
3.1. Phương pháp nghiên cứu lí thuyết:
Từ tháng 9 năm 2014 tôi đã nghiên cứu những vấn đề có liên quan đến
việc sử dụng phương tiện dạy học để đạt hiệu quả. Tôi nhận thấy phải thông
qua các bước sau:
3.1.1. Cơ sở lựa chọn phương tiện dạy học:
- Dựa vào mục tiêu và nội dung bài giảng
Trang 9
- Dựa vào phương pháp dạy học
- Dựa vào quá trình nhận thức của học sinh
3.1.2. Các yêu cầu đối với phương tiện dạy học khi lựa chọn và sử dụng:
- Đảm bảo tính khoa học trong sư phạm.
- Phương tiện dạy học phải phù hợp với học sinh và giáo viên.
- Đảm bảo tính thẩm mĩ.
- Đảm bảo tính khoa học kĩ thuật.
3.1.3.Nguyên tắc sử dụng phương tiện dạy học:
Muốn sử dụng phương tiện dạy học có hiệu quả, chúng ta phải tuân thủ
theo 3 nguyên tắc sau:
- Sử dụng phương tiện dạy học đúng lúc.
+ Trình bày phương tiện dạy học vào lúc cần thiết, lúc học sinh mong muốn
được quan sát, gợi ý lúc tâm lí thuận lợi nhất.
+ Sử dụng phương tiện dạy học theo trình tự nội dung bài giảng, không trưng
bày hàng loạt trên bàn, giá tủ trong một tiết học sẽ làm phân tán tư tưởng của
học sinh.
+ Phải đưa ra và cất đúng lúc.
+ Cần cân đối bố trí lịch và thời gian sử dụng phương tiện dạy học hợp lý,
đúng lúc, thuận lợi.
- Sử dụng phương tiện dạy học đúng chỗ.
+ Tìm vị trí để giới thiệu phương tiện dạy học trên lớp hợp lý nhất giúp học
sinh có thể dùng nhiều giác quan để tiếp xúc với phương tiện dạy học một
cách đồng đều ở mọi vị trí trong lớp.
- Sử dụng phương tiện dạy học đúng cường độ.
+ Không nên kéo dài việc trình diễn phương tiện dạy học quá nhiều lần trong
một tiết dạy, hiệu quả sẽ giảm.
+ Việc sử dụng mọi hình thức và phương tiện khác nhau trong một tiết giảng
có ảnh hưởng đến việc tiếp thu bài của học sinh và hiệu quả sử dụng phương
tiện dạy học.
Trang 10
+ Việc áp dụng các phương tiện nghe nhìn ở trên lớp dẫn đến quá tải thông tin
và lệch mục tiêu.
3.2. Phương pháp điều tra, quan sát sư phạm và thực nghiệm sư phạm:
3.2.1 Một số phương pháp rèn luyện kỹ năng quan sát kênh hình,
mô hình cho học sinh qua môn sinh học:
a. Phương pháp quan sát kênh hình, mô hình:
Một trong những phương pháp chủ đạo để giúp học sinh có kỹ năng sử dụng
kênh hình (tranh vẽ) là người giáo viên phải có tranh và biết hướng dẫn học
sinh quan sát tranh và cần nghiên cứu một cách khoa học và có hiệu quả. Khi
muốn học sinh xác định được một bộ phận cấu tạo cơ quan nào đó giáo viên
cần phải:
+ Giới thiệu tranh vẽ, mô hình gì (tranh vẽ phải to, rõ ràng, chính xác)
+ Nêu rõ nội dung cần khai thác.
+ Xác định chính xác vị trí của từng tranh vẽ, mô hình.
* Ví dụ: Khi đưa mô hình lát cắt ngang của phiến lá ( Bài 20: Cấu tạo trong
của phiến lá ) giáo viên phải thực hiện các bước sau:
- Bước 1: Giáo viên cần giới thiệu sơ lược các góc nhìn của mô hình.
- Bước 2. Yêu cầu học sinh quan sát mô hình phải thấy được sự khác nhau
giữa 2 tế bào biểu bì (mặt trên và mặt dưới) dựa vào màu sắc, lỗ khí nằm ở tế
bào biểu bì mặt dưới.
- Bước 3. Dành thời gian cho học sinh nghiên cứu.
- Bước 4. Yêu cầu học sinh chỉ trên mô hình.
b. Phương pháp sử dụng câu hỏi gợi mở.
Cùng với việc hướng dẫn học sinh quan sát kênh hình tự tìm ra kiến thức
người giáo viên còn phải đưa ra được hệ thống các câu hỏi gợi mở để hướng
dẫn học sinh khai thác triệt để từng nội dung kiến thức chứa trong tranh. Mặt
khác nhờ câu hỏi gợi mở của giáo viên học sinh dễ định hướng được những
nội dung cần phải quan sát, từ đó kích thích trí tìm tòi, phát triển tư duy cho
học sinh giúp học sinh dễ nhớ và nhớ lâu kiến thức.
Trang 11
* Ví dụ: Khi dạy bài “cấu tạo trong của phiến lá” khi nghiên cứu tôi thấy
rằng: muốn học sinh nắm được cấu tạo trong của phiến lá được chia làm mấy
phần trước hết giáo viên cần phải có tranh vẽ “ sơ đồ lát cắt ngang của phiến
lá” to, rõ nét và mang tính khoa học.
Sau khi treo tranh giáo viên giới thiệu cho học sinh biết đây là tranh vẽ mô tả
cấu tạo trong của phiến lá và cho biết: lá được chia làm mấy phần?
Tiếp theo giáo viên để thời gian (1 phút) để học sinh quan sát.
Khi học sinh đã trả lới hết câu hỏi của giáo viên tức là các em đã nắm được
cấu tạo trong của phiến lá, lúc này giáo viên đưa tranh vẽ và yêu cầu học sinh
lên xác định các bộ phận cấu tạo trong trên tranh. Nếu học sinh trình bày
được tức là các em đã biết khai thác kiến thức từ tranh vẽ. Tiết học sau giáo
viên dùng tranh vẽ kiểm tra kiến thức của các em.
c. Phương pháp nêu vấn đề.
Dạy học nêu vấn đề được hiểu là vấn đề có thể do giáo viên hoặc do chính
học sinh đặt ra. Giáo viên tổ chức tạo tình huống có vấn đề để học sinh tự lực
phát hiện, nhận dạng, phát biểu vấn đề đặt ra để cùng nhau giải quyết.
Khi dạy bằng phương pháp nêu vấn đề giáo viên và học sinh cần thực hiện
các công việc sau.
+ Tạo tình huống có vấn đề.
+ Phát hiện nhận dạng vấn đề nảy sinh.
+ Đề xuất các giả thiết giải quyết vấn đề.
+ Phát biểu kết luận.
* Ví dụ: Trong bài cấu tạo trong của phiến lá, khi hướng dẫn cho học sinh
phần 1. Biểu bì giáo viên có thể tiến hành như sau:
- Đặt vấn đề:
Giáo viên cho học sinh quan sát tranh cấu tạo trong của phiến lá nhìn cả 3 mặt
+ Biểu bì mặt trên và biểu bì mặt dưới có sự khác nhau không?
- Giải quyết vấn đề:
Trang 12
+ Lớp tế bào (TB) thịt lá phía trên và lớp tế bào thịt lá phía dưới giống nhau ở
điểm nào? Đặc điểm này phù hợp với chức năng nào?
d. Phương pháp so sánh.
* Ví dụ: Khi giảng dạy “ Cấu tạo trong của phiến lá” Khi so sánh lớp tế bào
biểu bì mặt trên và lớp tế bào biểu bì mặt dưới giáo viên cần phải đưa ra:
+ Nội dung cần so sánh.
+ Kênh hình phải chính xác, khoa học.
+ Xác định vị trí trên tranh cho học sinh quan sát.
- Bài giảng cụ thể:
BÀI 20: CẤU TẠO TRONG CỦA PHIẾN LÁ
I. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT:
1. Kiến thức:
- Nắm được những đặc điểm cấu tạo bên trong phù hợp với những chức
năng của phiến lá.
- Giải thích được những đặc điểm màu sắc của 2 mặt phiến.
2. Kĩ năng:
- Rèn luyện kĩ năng quan sát và nhận biết, nghiên cứu thông tin
3. Thái độ:
- Giáo dục lòng yêu thích và say mê môn học
II. CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HS:
1. Giáo viên:
- Mô hình phiến lá, lá cây.
- Giáo án điện tử
PHIẾU THẢO LUẬN NHÓM
Trang 13
SỐ: 1
Câu 1: Lớp tế bào (TB) thịt lá phía trên và lớp tế bào thịt lá phía dưới
giống nhau ở những điểm nào ? Đặc điểm này phù hợp với chức năng
nào ?
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
Câu 2: Hãy tìm đặc điểm khác nhau giữa chúng?
ĐẶC ĐIỂM SO
LỚP TẾ BÀO THỊT
LỚP TẾ BÀO THỊT
SÁNH
HÌNH DẠNG TẾ
LÁ PHÍA TRÊN
LÁ PHÍA DƯỚI
BÀO
CÁCH SẮP XẾP
CỦA TẾ BÀO
LỤC LẠP ( SỐ
LƯỢNG )
CHỨC NĂNG
CHÍNH
2. Học sinh:
- Nghiên cứu trước ở nhà.
III. TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG DẠY VÀ HỌC:
1. Ổn định: Kiểm tra sĩ số
2. Kiểm tra :
- Những đặc điểm nào chứng tỏ lá rất đa dạng?
- Câu hỏi phụ: 1/ Hãy chú thích các bộ phận của lá ở hình bên?
Trang 14
2/ Cho biết chức năng quan trọng nhất của lá là gì?
3 Bài mới: Đặt vấn đề vào bài.
Hoạt động của GV
*Hoạt động 1
Hoạt động của HS
Nội dung
GV: cho Hs quan sát sơ
đồ cắt ngang của phiến
Hs: quan sát
lá kết hợp với mô hình.
Gv: Qua sơ đồ trên cho
Hs: trả lời
biết lá được chia làm
mấy phần?
* Cấu tạo phiến lá gồm
-Gv: Giới thiệu nội dung Hs: trả lời
3 phần:
bài dạy.
Biểu bì, thịt lá, gân lá
Hs: Nhận xét, bổ sung
1. Biểu bì
Gv: Cho HS đọc thông
Hs: Đọc thông tin
tin SGK.
Gv yêu cầu hs quan sát
Hs: quan sát
hình 20.2 và trả lời câu
hỏi:
Hs: trả lời
Gv: Những đặc điểm
Hs: Nhận xét, bổ sung
nào của lớp tế bào biểu
bì phù hợp với chức
năng bảo vệ phiến lá và
cho ánh sáng chiếu vào
những tế bào bên trong?
Gv: Cho HS quan sát
Trang 15
hình 20.3
Hs: trả lời
Gv: Hoạt động nào của
Hs: Nhận xét, bổ sung
lỗ khí giúp láTĐK và
thoát hơi nước?
- Gv: Vậy biểu bì có cấu Hs: trả lời
tạo và chức năng gì?
Hs: Nhận xét, bổ sung
Hs: ghi
- Lớp tế bào biểu bì có
vách phía ngoài dày
dùng để bảo vệ, có
nhiều lỗ khí giúp lá trao
đổi khí và thoát hơi
* Hoạt động 2:
nước.
- Gv: Cho HS nghiên
Hs: đọc thông tin, quan
cứu thông tin, quan sát
sát
hình 20.4 + mô hình
phiến lá cắt ngang (*
chú y: hướng dẫn cho
Hs cách quan sát mô
hình )
- Gv: Yêu cầu HS TLN
thời gian 5 phút ( phiếu
thảo luận trang 13,14 )
Câu 1: Yêu cầu HS trả
lời
Hs: TLN ( thời gian 5
Câu 2: Yêu cầu HS lên
phút
bảng điền vào bảng phụ
)
- Gv: Nhận xét
- Phần thịt lá có cấu tạo
Hs: Trả lời
và có chức năng gì?
Hs: Đại diện nhóm điền
Trang 16
2. Thịt lá.
bảng phụ
Hs: Đại điện nhóm khác
nhận xét bổ sung.
Hs: ghi
-Hs: trả lời
- Lớp tế bào thịt lá phía
trên là những tế bào xếp
sát nhau, có nhiều lục
lạp có chức năng thu
nhận ánh sáng để tổng
hợp chất hữu cơ.
- Trắc nghiệm thực tế:
- Lớp tế bào biểu bì
cho Hs quan sát một lá
phía dưới là những tế
thật, yêu cầu xác định
bào không sát nhau
mặt lá phía trên và phía
chứa ít lục lạp có chức
dưới.
năng chứa và trao đổi
- Gv: Nếu trồng cây ở
khí.
nơi thiếu ánh sáng lá cây
sẽ có hiện tượng gì? Vì
sao lại có hiện tượng
đó?
- Gv: Giáo dục học sinh
Hs: Trả lời
cách chăm sóc cây.
* Hoạt động 3:
- Gv: Cho HS quan sát
hình và hướng dẫn HS
quan sát
- Gv: Vị trí của gân lá
Hs: Quan sát
nằm ở đâu?
+ Em hãy cho biết chức
3. Gân lá
Hs: Trả lời
Trang 17
năng của gân lá? ( GV
Hs khác nhận xét bổ
có thể gợi ý )
sung
Hs: Ghi bài
- Đặc điểm cấu tạo:
Nằm xen giữa phần thịt
lá
- Chức năng:
+ Vận chuyển các chất
IV. CỦNG CỐ, HƯỚNG DẪN HS TỰ HỌC Ở NHÀ:
1/ Củng cố:
a) Yêu cầu Hs xác định các bộ phận ở mô hình hình 20.4
b) Yêu cầu Hs chọn các chức năng phù hợp với cấu tạo trong của lá.
2/ Hướng dẫn HS tự học ở nhà:
- Học thuộc bài, trả lời câu hỏi SGK, ( Không trả lời câu 4 )
- Đọc mục “ Em có biết”
-
Xem bài “quang hợp”
+ Đọc trước các thông tin trong SGK
+ Chất khí nào duy trì sự cháy?
* Khi dạy bài 20: Cấu tạo trong của phiến lá, chúng ta cần chú ý một số
điểm khi sử dụng phương tiện dạy học như sau:
- Phương tiện dạy học để đúng vị trí, ngăn nắp.
- Nếu sử dụng giáo án điện tử tránh dùng tranh quá nhiều sẽ bị lệch mục tiêu.
- Trước khi quan sát mô hình phải hướng dẫn cách quan sát.
- Chú ý tới góc nhìn của học sinh.
- Phương tiện dạy học phải phù hợp với nội dung và phương pháp dạy.
- Thao tác sử dụng phải chuẩn, khoa học.
3.2.2. Rèn luyện kĩ năng sử dụng mẫu vật:
a) Đối với việc chuẩn bị vật mẫu:
Ví dụ1: Bài 9 “Các loại rễ, các miền của rễ”. Học sinh cần chuẩn bị
được vật mẫu thật hai loại rễ chính: rễ cọc và rễ chùm. Để giúp học sinh
Trang 18
chuẩn bị tốt, giáo viên cần yêu cầu cụ thể mẫu cây lúa, cây lục bình, cây
chanh hay nhãn, bưởi con, ... có đủ rễ và đã rửa sạch, như thế các em sẽ dễ
quan sát và so sánh hai loại rễ để từ đó tìm ra đặc điểm và tên cây có loại rễ
đó.
Cũng cần phân công học sinh gieo một số hạt đậu hay để củ hành nơi
ẩm để quan sát các miền của rễ.
Ví dụ2: Bài 13 “ Cấu tạo ngoài của thân” , các em cần chuẩn bị đủ các
dạng thân chính: thân đứng, thân leo, thân bò và cần có đầy đủ các bộ phận
của thân như: thân chính, cành, chồi ngọn, chồi nách (chồi hoa, chồi lá). Lưu
ý lấy các mẫu dễ quan sát như ở hoa mai, bông bụt, ...
Tuy nhiên khi lấy vật mẫu chú ý kích thước cây, cành phù hợp và có ý
thức bảo vệ thực vật, cảnh quan như lấy những cành cần tỉa thưa cho cây phát
triển tốt.
b) Việc sử dụng vật mẫu trong giờ học: Trước hết hướng dẫn học sinh
quan sát vật mẫu, đối chiếu ghi chú sách giáo khoa, tìm hiểu các kiến thức
liên quan, thông qua các câu hỏi gợi ý hay lệnh sách giáo khoa, tiếp theo trình
bày các ý kiến nhận xét cá nhân hay nhóm trên vật mẫu thật, tranh ảnh hay
mô hình, thí nghiệm nhằm tìm ra và nắm chắc điểm chủ yếu của kiến thức cần
đạt.
Ví dụ : Bài 42 “Lớp Hai lá mầm, lớp Một lá mầm”
Phần chuẩn bị vật mẫu: sau bài 41, giáo viên hướng dẫn cụ thể việc
chuẩn bị vật mẫu cho bài 42. Lưu ý học sinh lấy mẫu có đủ rễ, thân, lá, hoa,
quả càng tốt. Lấy mẫu các các cây mọc dại hoặc nhà trồng trên cơ sở tỉa thưa
hay có thể xin từ nhà người quen hoặc lấy mẫu từ rau ăn mua ở chợ.
Trong giờ học: giáo viên kiểm tra việc chuẩn bị mẫu, hướng dẫn các
em thực vật Hạt kín được chia làm hai lớp: lớp Hai lá mầm và lớp Một lá
mầm. Vậy thực vật trong hai lớp này khác nhau như thế nào? Để phân biệt
chúng dựa trên các đặc điểm nào?
Trang 19
Trước hết cho học sinh dựa trên vật mẫu nhắc lại các kiến thức đã học
về kiểu rễ, dạng thân, kiểu gân lá của một số thực vật các em mang đến lớp.
Kết hợp giữa vật mẫu thật, kênh hình, kênh chữ sách giáo khoa, cho
học sinh tìm các đặc điểm, phân biệt cây thuộc hai lớp trên theo nhóm và cho
các đại diện nhóm, trình bày trên vật mẫu theo gợi ý của sách giáo khoa. Sau
khi chuẩn bị đủ điều kiện, học sinh có thể nắm được các đặc điểm phân biệt
cây Hai lá mầm và cây Một lá mầm theo kiểu rễ, gân lá, số cánh hoa, ...
Để giúp học sinh củng cố kiến thức đã học, giáo viên cho các em hoạt
động độc lập hay nhóm để chia các vật mẫu vào hai nhóm cây. Cũng có thể
thực hiện hoạt động này dưới dạng trò chơi tiếp sức, sau đó cho học sinh nêu
lại kiến thức vừa ghi nhận trên vật mẫu đã chọn, các học sinh khác nhận xét,
giáo viên ghi điểm nhóm làm tốt. Từ đó, học sinh hoạt động tích cực và ghi
nhớ kiến thức cơ bản tốt hơn.
Cho bài tập trắc nghiệm, bài tập dựa trên các vật mẫu được học sinh thu
thập và bổ sung thêm các thực vật mà các em thường gặp nơi ở hay sân
trường, lưu ý các cách phân biệt nhanh hai lớp dựa vào đặc điểm bên ngoài
như dạng thân, gân lá, cánh hoa và cần kết hợp nhiều đặc điểm phân biệt, chứ
không chỉ lấy riêng một đặc điểm nào do sự đa dạng của thực vật Hạt kín.
c) Đối với những bài có sử dụng thí nghiệm thì việc chuẩn bị phải tuân
thủ theo qui trình và nguyên tắc thí nghiệm.
c.1) Qui trình thiết kế thí nghiệm:
- Bước 1: Xác định mục tiêu thí nghiệm.
Mục tiêu thí nghiệm là những dự kiến về sản phẩm cần đạt được trong
thí nghiệm.
- Bước 2: Phân tích nội dung thí nghiệm trong SGK
- Bước 3: Phát hiện những khó khăn, các tình huống và đề ra các biện pháp
khắc phục các thí nghiệm.
- Bước 4: Thực hiện thí nghiệm.
c.2) Những nguyên tắc khi thiết kế thí nghiệm:
Trang 20
- Nguyên tắc 1: Đảm bảo mục tiêu
- Nguyên tắc 2: Phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo, hứng thú học tập,
phát triển năng lực nhận thức, rèn kỹ năng kỹ xảo thực hành.
- Nguyên tắc 3: Đảm bảo tính khoa học, phù hợp với đặc trưng bộ môn.
Ví dụ: Khi dạy thí nghiệm về sự vận chuyển nước và muối khoáng hòa tan ở
bài: ” Vận chuyển các chất trong thân” để thí nghiệm thành công cần chú ý
các bước sau:
+ Cắt cành hoa ở trên cây xuống hoặc hoa mua đã ngâm nước cần để ráo nơi
thoáng.
+ Cắt ngắn cành hoa làm giảm khoảng cách vận chuyển.
+ Chọn mực đỏ nên lọc cặn.
+ Nên làm trước giờ học ít nhất 12 giờ.
+ Để thí nghiệm nơi có ánh sáng và thoáng.
- Bên cạnh đó, giáo viên cần chuẩn bị các câu hỏi gợi mở để học sinh phát
hiện vấn đề cần giải quyết.
4. Kết quả:
Ở khối lớp 6, tôi nghiên cứu thử nghiệm một số tiết dạy theo phương
pháp sử dụng phương tiện dạy học có hiệu quả ở môn sinh học lớp 6 nhằm để
phát huy tính tích cực của học sinh, giúp học sinh tiếp thu bài tốt hơn. Sau
một năm nghiên cứu tôi được kết quả sau:
- Chất lượng kiểm tra 1 tiết ( sinh học 6 )
Lớp thí
Lớp đối
Sĩ
Giỏi
Khá
nghiệm
chứng
số
( 8- 10 )
( 7,5-6,5) bình ( 6-
( năm 2015-
( năm 2014-
2016)
2015)
6/1
35
8
Trang 21
16
Trung
Yếu,
kém
5)
( dưới
9
4)
2
6/2
6/1
6/2
36
(22,9%)
9
(45,7%)
15
(25%)
10
(5,7%)
2
25
(25%)
10
(41,7%)
8
(27,8%)
6
(5,6%)
1
26
(40%)
11
(32%)
9
(24%)
5
(4%)
1
(42,3%) (34,6%) (19,2%) (3,8%)
- Qua kiểm tra thái độ học tập của học sinh ( năm học 2015 – 2016 )
Số HS có thái
Tên lớp TS HS độ hào hứng
Số HS có thái
độ bình
Ít quan tâm
Ghi chú
thường
TS
%
TS
%
TS
%
6/1
25
13
52%
9
36%
3
12%
6/2
26
15
57,7% 9
34,6% 2
7,7%
Kết quả thăm dò quá trình tiếp thu bài của học sinh thông qua bài giảng.
( năm học 2015 – 2016 )
- Sau khi học xong bài 20: Cấu tạo trong của phiến lá, tôi đã cho học sinh
làm kiểm tra nhanh trên giấy.
Câu hỏi: 1/ Xác định các bộ phận của phiến lá ở mô hình hình 20.4?
2/ Em hãy chọn các chức năng phù hợp với phiến lá?
Kết quả như sau:
Tên lớp
Tổng số học sinh Học sinh trên 5
Học sinh dưới 5
điểm ( % )
điểm ( % )
6/1
25
22(88%)
11(12%)
6/2
26
24(92,3%)
10(7,7%)
Như vậy, việc áp dụng sáng kiến “ Một số kinh nghiệm sử dung
phương tiện dạy học có hiệu quả trong môn sinh học 6” ở trường trung học cơ
sở Hưng Hà tôi đã thấy tốt hơn, học sinh học tích cực hơn, chất lượng được
nâng lên.
Trang 22
PHẦN III. KẾT LUẬN.
1. Tóm lược giải pháp:
Qua quá trình giảng dạy, vận dụng đề tài “Một số kinh nghiệm sử dụng
phương tiện dạy học có hiệu quả môn sinh học 6”, bản thân rút ra một số bài
học kinh nghiệm như sau:
Với sự hướng dẫn của giáo viên học sinh tập trung vào bài học, chuẩn
bị tốt các hoạt động về nhà, tranh ảnh, vật mẫu liên quan đến bài. Cùng sự
hướng dẫn của giáo viên và không khí thoái mái của lớp học, học sinh cảm
thấy hứng thú, tự tin khi trình bày trước đám đông, nhất là học sinh tìm được
vật mẫu tốt, hiếm (dây tơ hồng, rễ cây bần, địa y hình cành, tầm gửi, …)
Trang 23
Đa số bài trong chương trình sinh học 6 đều có chuẩn bị vật mẫu: các
loại rễ - các miền của rễ, rễ biến dạng, cấu tạo ngoài của thân, thân dài ra do
đâu, cấu tạo ngoài của lá, …các em có thể giữ lại mẫu để làm tập bách thảo,
chuẩn bị cho việc tìm hiểu thiên nhiên và thực hành cuối năm học.
Giáo viên cần luôn khuyến khích, động viên các em khi trình bày trước
lớp, rèn kỹ năng vận dụng ngôn ngữ, biết sắp xếp hợp lí, khoa học các vật
mẫu sưu tầm được, nắm bài và vận dụng tốt kiến thức vào bài mới cũng như
trong đời sống một cách linh hoạt.
Giáo viên cần luôn cập nhật kiến thức, tự tìm tòi các tư liệu mới,
nghiên cứu, ứng dụng các phương pháp giảng dạy phù hợp, có tinh thần cầu
tiến, học hỏi các kinh nghiệm từ đồng nghiệp và cần luôn kiên nhẫn trong
việc hướng dẫn, giúp đỡ học sinh học tập.
Đối với tranh ảnh, mô hình giáo viên cần chuẩn bị đúng cách, khoa
học, cẩn thận, phù hợp với tư duy của học sinh.
Trong quá trình giảng dạy tôi nhận thấy sử dụng phương tiện dạy học
đúng cách, khoa học nó quyết định thắng lợi 1/2 của bài giảng, giúp cho học
sinh phát huy tính tích cực của học sinh làm cho các em chú ý nghe giảng,
quan sát và hăng hái xây dựng bài. Như vậy phương tiện dạy học là cơ sở, là
xương sống cho một bài giảng. Qua quan sát các đồ dùng trực quan học sinh
phát triển óc sáng tạo từ đó hình thành các biểu tượng và khái niệm đúng đắn.
Phương tiện dạy học còn chứng minh cho quan điểm biện chứng, nhưng khi
sử dụng các đồ dùng trực quan cần phối kết hợp với nhiều phương pháp khác
mới đem lại hiệu quả cao.
2. Phạm vi áp dụng:
Với sự vào cuộc của các cấp quản lí giáo dục, sự hợp tác của tập thể sư
phạm các nhà trường, sự hứng thú học tập của học sinh, tôi tin tưởng đề tài sẽ
mang lại hiệu quả giảng dạy tốt.
Trang 24
Bên cạnh đó sự hỗ trợ của công nghệ thông tin, mạng Internet ngày
càng phát triển cũng là điều kiện tốt giúp giáo viên trao đổi kinh nghiệm, thu
thập tư liệu dễ dàng.
Để có sự thành công đòi hỏi người giáo viên phải chịu khó tìm tòi tư
liệu liên quan, những hình ảnh, câu chuyện minh họa thiết thực gần gũi nhất
để giúp học sinh dễ hiểu, nhận biết, nếu có được những ví dụ, những mẫu vật
có sẵn ở địa phương, thì hiệu quả giáo dục sẽ càng cao.
Giáo dục học sinh luôn luôn chuẩn bị đầy đủ những hiểu biết cần thiết
cho nội dung bài sắp học có liên quan, đặc biệt là sưu tầm tư liệu, mẫu vật,
hình ảnh... có liên quan.
Đề tài này chỉ nghiên cứu kĩ năng sử dụng phương tiện dạy học trong
môn sinh học 6 trong trường trung học cơ sở Hưng Hà và có thể áp dụng hiệu
quả đối với các trường trung học cơ sở trong toàn tỉnh Long An.
3. Kiến nghị, đề xuất:
Rất mong các cấp lãnh đạo tạo điều kiện thuận lợi để giáo viên có thể
giao lưu, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau. Cung cấp phương tiện, đồ dùng dạyhọc hiện đại, chất lượng hơn ( Máy chiếu, phần mềm vi tính….) Để thực hiện
đề tài này tôi đã cố gắng hết sức mình, tốn rất nhiều thời gian và công sức
nhưng chắc chắn sẽ không tránh khỏi thiếu sót. Rất mong sự đóng góp ý kiến
chân tình của quý lãnh đạo, quý thầy, cô cùng các bạn đồng nghiệp để công
việc giảng dạy của tôi được tốt hơn, ngày càng hoàn thiện hơn.
Trang 25