Tải bản đầy đủ (.docx) (96 trang)

NGHIÊN CỨU CẤU TRÚC ĐỊACHẤT, ĐÁNH GIÁTIỀM NĂNG DẦU KHÍV À THIẾT KẾ GIẾNG KHOAN TÌM KIẾM TRÊN CẤU GT1X BỂ CỬU LONG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.29 MB, 96 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỎ - ĐỊA CHẤT

Vũ Đức Cảnh

ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP

NGHIÊN CỨU CẤU TRÚC ĐỊA CHẤT, ĐÁNH GIÁ TIỀM NĂNG DẦU
KHÍ VÀ THIẾT KẾ GIẾNG KHOAN TÌM KIẾM TRÊN CẤU GT-1X
BỂ CỬU LONG

HÀ NỘI – THÁNG 12/2015

1


MỞ ĐẦU

2


Dầu khí là sản phẩm vô cùng quan trọng không thể thiếu cho mọi quốc
gia, đồng thời là mặt hàng chiến lược trên toàn cầu. Trong các ngành công
nghiệp đang phát triển ở Việt Nam thì ngành công nghiệp dầu khí đóng một
vai trò quan trọng trong việc cung cấp và đáp ứng nhu cầu về năng lượng ngày
càng cao của đất nước trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đặc
biệt việc phát triển ngành công nghiệp dầu khí không những đảm bảo về nhu
cầu năng lượng, mang lại nguồn thu nhập lớn cho ngân sách quốc gia mà quan
trọng hơn nó còn mở ra hướng phát triển mạnh mẽ cho các ngành công nghiệp
liên quan như công nghiệp hóa chất, dịch vụ...
Các kết quả nghiên cứu từ trước đến nay cùng với hàng loạt các phát hiện mỏ


có trữ lượng thương mại được công bố trong những năm gần đây đã khẳng
định thềm lục địa Việt Nam có tiềm năng dầu khí hấp dẫn lôi kéo khá nhiều
công ty dầu khí nước ngoài đầu tư vào Việt nam. Trong các bể dầu khí của
Việt nam thì Cửu Long là bể dầu khí lớn và quan trọng nhất của Việt nam
đóng góp 30% trữ lượng và khoảng 95% sản lượng khai thác dầu khí hiện nay.
Lô 09-1 nằm về phía Tây Nam bể Cửu Long có tiềm năng dầu khí lớn và là đối
tượng quan tâm của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Hiện nay các mỏ dầu
khí lớn như Bạch Hổ, Rồng,…đã đi vào những giai đoạn khai thác cuối, vì vậy
đòi hỏi các công ty, xí nghiệp trực thuộc ngành phải đẩy mạnh việc nghiên
cứu tìm ra các mỏ mới. Sau khi phát hiện các cấu tạo mới để đánh giá xem cấu
tạo đó có khả năng đưa vào khai thác hay không cần phải khoan các giếng
khoan thẩm lượng.
Chính vì lý do đó nên em đã lựa chọn đề tài: “Nghiên cứu cấu trúc địa chất,
đánh giá tiềm năng dầu khí Lô 09-1 và thiết kế giếng khoan tìm kiếm thăm dò
GT-1X trên, cấu tạo Gấu Trắng, lô 09-1, bể Cửu Long”. Mục đích của đồ án là
từ các kết quả thu được sau khi khoan giếng khoan tìm kiếm, đánh giá và thiết
kế giếng khoan thẩm lượng cho cấu tạo. Nội dung của đồ án được chia thành các
phần sau:
PHẦN I: KHÁI QUÁT CHUNG BỂ TRẦM TÍCH CỬU LONG
3


Chương I: Đặc điểm địa lí tự nhiên , kinh tế nhân
văn Chương II: Lịch sử nghiên cứu địa chất
PHẦN II: ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC ĐỊA CHẤT LÔ
09-1

Chương I: Địa tầng
Chương II: Cấu- Kiến tạo
Chương III: Hệ thống dầu khí

PHẦN III: THIẾT KẾ GIẾNG KHOAN TÌM KIẾM TRÊN CẤU
TẠO GT-1X

Chương I:Cơ sở địa chất giếng khoan GT- 1X
Chương II: Tính toán và thiết kế giếng khoan GT-1X
Chương III: Dung dịch khoan
Chương IV: Nghiên cứu địa chất, địa vật lý giếng khoan
Chương V: Nghiên cứu địa chất, địa vật lý giếng khoan
Chương VI: Dự toán kinh tế
Chương VII: An toàn lao động và bảo vj môi trường
Chương VIII: Kết luận kiến nghị, tài liệu tham khảo
Kết luận và kiến nghị.
Sau 3 tháng nỗ lực hết mình để hoàn thành đồ án, em xin gửi lời cảm
ơn chân thành tới thầy giáo KS. Phan Anh Tuấn cùng tập thể các thầy cô
giáo trong Bộ môn Địa Chất Dầu, Trường Đại học Mỏ - Địa Chất những
người trực tiếp hướng dẫn và tạo điều kiện tốt nhất giúp em hoàn thành tốt
đồ án tốt nghiệp.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới KS. Lê Minh Hiếu – Ban
Tìm Kiếm Thăm Dò - VSP và những người giúp đỡ và tạo điều kiện cho em
trong suốt quá trình thực tập tại đây.
Do hạn chế về mặt chuyên môn cũng như về thời gian nên đồ án tốt
4


nghiệp của em không tránh khỏi những thiếu sót, vậy rất mong được sự góp
ý của các thầy cô giáo cũng như các bạn để đồ án của tôi được hoàn thiện
hơn. Em xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 05 tháng 12 năm 2015


Vũ Đức Cảnh

5


PHẦN I: KHÁI QUÁT CHUNG BỂ TRẦM TÍCH CỬU LONG
CHƯƠNG 1: ĐẶC ĐIỂM ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN – KINH TẾ NHÂN VĂN
1.1.

Đặc điểm địa lý tự nhiên

1.1.1. Vị trí địa lý

Bể trầm tích Cửu Long chiếm diện tích chủ yếu thềm lục địa Việt Nam, một
phần đất liền thuộc khu vực cửa sông Cửu Long, có tọa độ 9 o – 11o vĩ độ Bắc, 106o30’
– 109o kinh độ Đông. Diện tích phân bố của bể khoảng 36.000 km 2, bao gồm các lô 09,
15, 16,17 và một phần các lô 01, 02, 25 và 31.
Bể trầm tích Cửu Long có dạng hình bầu dục, vồng về phía biển, kéo dài thuộc
bờ biển Vũng Tàu – Bình Thuận. Bể tiếp giáp với đất liền về phía Tây Bắc, ngăn cách
với bể Nam Côn Sơn bởi đới nâng Côn Sơn, phía Tây Nam là đới nâng Khorat-Natuna
và phía Đông Bắc là đới cắt trượt Tuy Hòa ngăn cách với bể Phú Khánh. Bể được bồi
lấp chủ yếu bởi các trầm tích lục nguyên Kainozoi, chiều dày lớn nhất của chúng tại
trung tâm bể có thể đạt tới 7 – 8 km.

Hình 1.1: Vị trí bể Cửu Long

6


Hình1.2 Vị trí lô 09-1 trong bể Cửu Long

1.1.2. Đặc điểm địa hình
Bể Cửu Long nằm trên thềm lục địa Việt Nam theo hướng Đông Bắc – Tây
Nam, đáy biển có địa hình phức tạp, ở các vùng cửa sông giáp với biển địa hình rất đa
dạng, bao gồm các rãnh sông ngầm, bãi cát ngầm. Phần trung tâm bể Cửu Long, đáy
biển thay đổi với độ sâu từ 40 – 60m. Đổ ra thềm lục địa Việt Nam có rất nhiều con
sông, trong đó nổi bật nhất là sông Cửu Long với lưu vực khoảng 45.000 km 2, lưu
lượng trung bình khoảng 85.000 m 3/s, lưu lượng phù sa 0,25 kg/m 3. Hàng năm sông
Cửu Long đổ ra biển hàng trăm tấn phù sa, đó là nguồn trầm tích tạo nên các bể trầm
tích trên thềm lục địa.
1.1.3. Đặc điểm khí hậu


Về khí hậu:
Nhìn chung, bể Cửu Long có khí hậu đặc trưng nhiệt đới do vị trí của bể gần

với xích đạo. Ở khu vực này có sự phân ra thành hai mùa rõ rệt: mùa khô kéo dài từ
tháng 11 đến tháng 4 và mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10. Nhiệt độ trung bình
của khu vực này vào mùa mưa khoảng trên 30oC và vào mùa khô là 25oC – 35oC.


Về lượng mưa:
Trung bình vào khoảng 120 – 300 cm/năm. Tuy nhiên trong các mùa mưa lũ thì

lượng mưa cao hơn gấp nhiều lần.

7

Chế độ gió:



Từ tháng 11 đến tháng 4, hướng gió chủ yếu là hướng Đông Bắc và Bắc – Đông
Bắc. Sau đó vào tháng 12 và tháng Giêng thì hướng gió chủ yếu là hướng Đông Bắc.
Vận tốc gió vào đầu mùa thì nhỏ và sau đó tăng dần lên, đạt cực đại vào tháng 2. Tốc
độ gió trung bình vào khoảng 1,5 m/s, cực đại có thể lên đến 12,5 m/s. Từ tháng 5 đến
tháng 10 chế độ gió chịu ảnh hưởng bởi hệ thống gió mùa Tây Nam, do hướng gió chủ
yếu là Tây Nam và Tây – Tây Nam. Tốc độ gió trung bình vào khoảng 8,8 m/s, cực
đại có thể lên đến 32 m/s.


Về chế độ dòng chảy:
Khu vực thuộc Bể trầm tích Cửu Long có nhiều dòng chảy khác nhau do ảnh

hưởng bởi các yếu tố tác động khác nhau như: thủy triều, địa hình đáy, khối lượng
nước, nhiệt độ, chế độ gió,..Vận tốc dòng chảy trung bình, biển động nhẹ, gió giật
trung bình cấp 4 – 5, vận tốc dòng xoáy ở mức trung bình.


Chế độ sóng:
Trong khu vực bể cũng được chia ra thành 2 kiểu phụ thuộc vào 2 mùa trong

năm: từ tháng 5 đến tháng 10, hướng sóng chủ yếu là hướng Tây Nam, biên độ thấp và
ổn định, trung bình vào khoảng 0,5 – 2 m, cực đại có thể đạt được 5 m. Từ tháng 11
đến tháng 4 hướng gió là Đông Bắc và Bắc – Đông Bắc, sóng có biên độ từ 2 – 4 m,
đôi khi lên 6 – 8 m.
1.2. Đặc điểm kinh tế nhân văn
1.2.1. Đặc điểm giao thông vận tải
Bà Rịa – Vũng Tàu nằm ở miền Đông Nam Bộ, tiếp giáp với tỉnh Đồng Nai ở
phía Bắc, với Thành phố Hồ Chí Minh ở phía Tây, với tỉnh Bình Thuận ở phía Đông,
còn phía Nam giáp biển Đông. Vị trí này rất đặc biệt, đây chính là cửa ngõ hướng ra
biển Đông của các tỉnh trong khu vực miền Đông Nam Bộ. Vị trí này rất thuận lợi cho

tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu hội tụ nhiều tiềm năng để phát triển các ngành kinh tế biển
như: khai thác dầu khí trên biển, khai thác cảng biển, vận tải biển, đánh bắt nuồi trồng
và chế biến hả sản, phát triển du lịch biển.


Đường bộ:
Tỉnh có hệ thống giao thông khá hoàn chỉnh nối các huyện thị với nhau. Quốc

lộ 51A (4 làn xe) chạy qua tỉnh dài gần 50 km. Trong 3 năm tới (dự kiến năm 2018) sẽ
có đường cao tốc Biên Hòa – Vũng Tàu với 8 làn xe song song với Quốc lộ 51A.

8




Đường sông:
Hệ thống các cảng biển lớn tập trung chủ yếu trên sông Thị Vải.Cảng Sài Gòn

và Nhà máy Ba Son đang di dời và xây dựng cảng biển lớn tại đây.Từ Vũng Tàu có
thể đi Thành phố Hồ Chí Minh bằng tàu cánh ngầm.


Đường hàng không:
Sân bay Vũng Tàu chủ yếu tiếp nhận cho máy bay trực thăng phục vụ cho tìm

kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí. Trong tương lai, Sân bay Quốc tế Long Thành
được xây dựng cách Vũng Tàu khoảng 70km.



Đường sắt:
Hiện tại chưa có đường sắt đến tỉnh. Theo quy hoạch của ngành đường sắt đến

năm 2015, một đường sắt cao tốc khổ rộng 1,435 m sẽ được xây dựng nối Thành phố
Hồ Chí Minh và Vũng Tàu, tốc độ thiết kế: trên 300 km/h.
1.2.2. Đặc điểm kinh tế
Bà Rịa – Vũng Tàu thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Hoạt động kinh tế
của tỉnh trước hết phải nói về tiền năng dầu khí. Trên thềm lục địa Đông Nam Á tỷ lệ
các mũi khoan tìm kiếm, thăm dò gặp dầu khí khá cao. Tại đây đã phát hiện các mỏ
dầu có giá trị thương mại lớn như Mèo Trắng, Gấu Trắng.... Đương nhiên xuất khẩu
dầu đóng góp một phần quan trọng trong GDP của Bà Rịa – Vũng Tàu (ngành dầu khí
đóng góp 24% GDP cho nước nhà năm 2011).
Ngoài lĩnh vực khai thác dầu khí, Bà Rịa – Vũng Tàu còn là một trong những
trung tâm năng lượng, công nghiệp nặng, du lịch, cảng biển của cả nước. Trung tâm
điện lực Phú Mỹ và nhà máy điện Bà Rịa chiếm 40% tổng công suất điện năng của cả
nước (trên 4.000MW trên tổng số gần 10.000MW của cả nước).


Công nghiệp nặng:
Gồm có sản xuất phân ure (800.000 tấn/năm), sản xuất polyetylen (100.000

tấn/năm), sản xuất clinker, sản xuất thép (hiện tải tỉnh có hàng chục nhà máy lớn đang
hoạt động gồm VinaKyoei, Pomina, Thép miền Nam (South Steel), Bluescopes, Thép
Việt, Thép Tấm (Flat Steel), nhà máy thép SMC và Posco VietNam.


Về lĩnh vực cảng biển:
Kể từ khi chính phủ có chủ trương di dời các cảng tại nội ở Thành phố Hồ

Chính Minh, Bà Rịa – Vũng Tàu trở thành trung tâm cảng biển chính của khu vực

Đông Nam Bộ. Các cảng lớn tập trung chủ yếu trên sông Thị Vải. Cảng Sài Gòn và
Nhà máy Ba Son đang di dời và xây dựng cảng biển lớn tại đây.Sông Thị Vải có luồng
sâu đảm bảo cho tàu có tải trọng trên 50.000 tấn cập cảng. Các cảng căn cứ dịch vụ
9


dầu khí như cảng VSP, cảng PTSC.


Về lĩnh vực du lịch:
Tỉnh này là một trong những trung tâm du lịch hàng đầu của cả nước. Trong

thời gian qua, chính phủ đã cấp phép và đang thẩm định một số dự án du lịch lớn như:
Saigon Atlantis (300 triệu USD), công viên giải trí Bàu Trũng và bể các nầm Nghinh
Phong (500 triệu USD), công viên bách thú Safari Xuyên Mộc (200 triệu USD)...
Năm 2011, trên địa bàn tỉnh có 295 dự án nước ngoài còn hiệu lực với tổng vốn
đầu tư đăng ký gần 28,1 tỷ USD. Trong đó, có 118 dự án trong khu công nghiệp
(KCN) với tổng vốn đầu tư hơn 11,14 tỷ USD và 177 dự án ngoài KCN với tổng vốn
đầu tư gần 17 tỷ USD. Vốn đầu tư thực hiện đến nay đạt gần 6,43 tỷ USD, chiếm
22,9% trong tổng vốn đăng ký đầu tư. Trong những năm gần đây tỉnh luôn đứng tốp
những địa phương thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài nhất tại Việt Nam. Nằm ở vị
trí thứ 3 về việc đóng góp ngân sách nhà nước, sau TP.Hồ Chí Minh và Hà Nội.
Năm 2015, thành phố Vũng Tàu trở thành đô thị loại I trực thuộc tỉnh và đạt tốc
độ tăng trưởng GDP bình quân 14%/năm, kể cả dầu khí bình quân 10,8%/năm. Về cơ
cấu kinh tế, công nghiệp xây dựng 62%, dịch vụ 35%, nông nghiệp 3%. Giảm tỉ lệ hộ
nghèo theo tiêu chuẩn tỉnh từ 21,69% xuống dưới 2,35%(theo tiêu chuẩn mới), cơ bản
không còn hộ nghèo theo tiêu chuẩn quốc gia. Mức hưởng thụ văn hóa đạt 42
lần/người/năm, 92% gia đình đạt chuẩn văn hóa, 92% thôn,ấp đạt chuẩn văn hóa, 99%
dân số nông thôn được sử dụng điện và nước hợp vệ sinh.
Định hướng đến 2020, trở thành thành phố cảng, đô thị lớn nhất cả nước cùng

với Hải Phòng, trung tâm Logistics và công nghiệp hỗ trợ, trung tâm công nghiệp quan
trọng của cả nước. Theo đó, GDP bình quân đầu người dự báo đạt 27.000
USD/người/năm (tương đương thu nhập của các nước phát triển).
1.2.3.Đặc điểm dân cư
Diện tích của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu là 1.982 km2.Mật độ bình quân dân số
khoảng 503 người/km2.Tổng số dân của tỉnh tính đến 4/2010 là 1.009.719 người.
Theo thống kê dân số tháng 4 năm 2009 thì: Dân số thành thị chiếm 49,85%
dân số toàn tỉnh. Nam giới chiếm 49,99% dân số toàn tỉnh. Tỉnh có cơ cấu dân số như
sau:
Nhóm tuổi từ 0-14: 25,46% (Nam giới là 131.886 người chiếm 52% dân số
nhóm tuổi này); Nhóm tuổi từ 15-59: 67,74% (Nam giới là 328.906 người chiếm 49%
dân số nhóm này); Nhóm tuổi từ 60 trở lên: 6,8% (Nam giới là 27.338 người chiếm
40% dân số nhóm này). Nhóm dân số trong độ tuổi lao động (15-59 tuổi) chiếm tỉ lệ
10


cao là nguồn nhân lực dồi dào cho phát triển kinh tế vì vậy cần được quan tâm đào tạo.
Thành phần dân tộc: Kinh (97,53%), Hoa (1,01%), Chơ Ro (0,76%), Khmer
(0,23%), Tày (0,14%). Các dân tộc khác chiếm 0,33% dân số tỉnh, trong đó người
nước ngoài là 59 người. Tỷ lệ số dân theo Phật giáo là 21,66% (trong đó 48,4% là
Nam); Công giáo là 25,8% (trong đó 49,6% là Nam); Cao Đài là 0,99%; Tin Lành là
0,41%; Tôn giáo khác là 4,34% và không theo bất kỳ tôn giáo nào là 46,11%.
1.2.4.Đời sống văn hóa xã hội
Theo Báo cáo của UBND tỉnh năm 2011, trong bối cảnh tình hình kinh tế xã
hội của cả nước gặp nhiều khó khăn, thách thức do lạm phát, lãi suất ngân hàng,
nguyên liệu đầu vào, giá cả các mặt hàng tăng cao nhưng kinh tế xã hội của tỉnh vẫn
tiếp tục phát triển ổn định. Lĩnh vực văn hóa-xã hội có nhiều chuyển biến tích cực, các
chỉ tiêu cơ bản đạt so với Nghị quyết:



Về giáo dục và đào tạo:
Phát triển ổn định và có nhiều mặt tích cực: Đã đưa vào sử dụng 11 trường với

300 phòng học, nâng tổng số trường trên toàn tỉnh lên 382 trường học. Số trường đạt
chuẩn Quốc gia của tỉnh là 116 trường, đạt 30,4% (NQ 34%); tỷ lệ huy động cháu đi
nhà trẻ đạt 22,2% (NQ 21%); trẻ đi mẫu giáo, đạt tỷ lệ 81% (NQ 81%); tỷ lệ tốt nghiệp
THPT đạt 97,27%; số học sinh bỏ học đầu năm học giảm 0,18% so với năm học trước.
Về xã hội hóa giáo dục, năm 2011 đã cấp giấy chứng nhận đầu tư cho 4 dự án xây
dựng trường mầm non. Tính đến nay có 25 dự án của doanh nghiệp đầu tư cho giáo
dục, trong đó có 6 dự án đã đi vào hoạt động, 1 dự án đang xây dựng, 9 dự án đã cấp
giấy chứng nhận đầu và 9 dự án đã được chấp nhận chủ trương. Bà Rịa Vũng Tàu có
trình độ văn hóa tương đối cao, cơ sở vật chất hiện đại. Tỉnh có khá nhiều trường Đại
học như: Đại học Bà Rịa, Cao đẳng Sư Phạm, Cao đẳng Cộng đồng Bà Rịa Vũng Tàu,
Cao đẳng Nghề Dầu khí, cơ sở của Đại học Mỏ-Địa chất, Đại học Dầu khí của PVN.


Về công tác dân số-y tế:
Chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân được đảm bảo. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy

dinh dưỡng còn 12% (NQ 12,5%), tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi tiêm chủng mở rộng đạt
98%. Thực hiện khám, chữa bệnh cho khoảng 2 triệu lượt người (NQ 2 triệu lượt).
Đưa vào sử dụng mới Trung tâm y tế huyện Đất Đỏ, Trung tâm chăm sóc sức khỏe
sinh sản, Trường Trung cấp y tế và 2 hệ thống xử lý rác thải tại bệnh viên Lê Lợi và
bệnh viện Bà Rịa. Hoàn tất các thủ tục đầu tư đối với 4 trung tâm y tế tuyến huyện tại
Tân Thành, Châu Đức, Long Điền và Côn Đảo. Thêm 02 xã được công nhận đạt chuẩn
quốc gia về y tế, nâng tổng số xã, phường đạt chuẩn lên 75/82, chiếm tỷ lệ 91,56%
11


(NQ 94%).



Về văn hóa-thể thao:
Công tác tuyên truyền phục vụ các nhiệm vụ chính trị được triển khai thực hiện

tốt.Tổ chức thành công chương trình kỷ niệm 20 năm thành lập tỉnh. Nhiều hoạt động
văn hóa, văn nghệ, thể thao được tổ chức nhân dịp kỷ niệm các ngày lễ lớn, cơ bản đáp
ứng được nhu cầu hưởng thụ văn hóa, vui chơi giải trí của nhân dân địa phương và du
khách. Triển khai Đề án phát triển văn hóa nông thôn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu giai
đoạn 2011 -2015. Đưa vào sử dụng đền thờ Côn Đảo và Trung tâm văn hóa tỉnh tại Bà
Rịa.
Trên lĩnh vực thể dục, thể thao đạt được những thành tích đáng khích lệ: Các
vận động viên giành được 290 huy chương các loại ở cấp quốc gia, khu vực và quốc
tế. Hoạt động thể dục, thể thao quần chúng được duy trì và mở rộng.Đã phê duyệt và
triển khai thực hiện Quy hoạch phát triển ngành thể dục, thể thao tỉnh Bà Rịa – Vũng
Tàu giai đoạn 2011-2015 và định hướng đến năm 2020.


Phát thanh-truyền hình:
Đã tổ chức tốt công tác tuyên truyền thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP của

Chính phủ về kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội; Cuộc
bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011-2016; Duy trì
thời lượng phát sóng, phát thanh 24 giờ/ngày.


Các chính sách an sinh xã hội:
Được đặc biệt quan tâm. Giải quyết việc làm cho 33.500 lượt lao động, trong đó

giải quyết việc làm mới cho 16.500 lượt lao động, tỷ lệ thất nghiệp 3%. Xét duyệt cho

1.300 dự án vay vốn giải quyết việc làm với tổng kinh phí 27 tỷ đồng. Tổ chức đào tạo
nghề cho 25.500 lao động, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 58%, đạt 100% so với NQ.
Tính đến cuối năm, dự kiến có 6.000 hộ thoát nghèo theo chuẩn tỉnh, 1.800 hộ nghèo
chuẩn quốc gia, giảm tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn tỉnh còn 9,76%, theo chuẩn quốc gia
còn 3.47%. Giải quyết cho 21.000 lượt hộ nghèo vay vốn với doanh số cho vay là 252
tỷ đồng, cấp mới 105.500 thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo, miễn giảm học phí cho
24.871 học sinh. Thực hiện nhiều chính sách hỗ trợ người nghèo, người có công, đối
tượng chính sách. Song song với công tác đảm bảo an sinh xã hội, giảm nghèo, các
hoạt động đền ơn đáp nghĩa, nhân đạo từ thiện được các cơ quan, tổ chức, doanh
nghiệp, các hộ gia đình hưởng ứng tích cực.


Công tác bảo vệ môi trường:
Có những chuyển biến đáng kể.Tỷ lệ rác thải nguy hại xử lý đạt 100%. Đã đưa

12


vào sử dụng 06 lò đốt rác thải y tế, tỷ lệ rác thải y tế được xử lý đạt 100%, rác thải sinh
hoạt đang được chôn lấp tạm tại các bãi rác trên địa bàn tỉnh, tỷ lệ rác thải sinh hoạt
được xử lý đạt 83%. Tỷ lệ rác thải công nghiệp xử lý đạt 80%, năm 2012 xử lý đạt
100%. Trên địa bàn hiện có 12 dự án xử lý rác thải, trong đó có 3 dự án đã đi vào hoạt
động; 01 dự án đang xây dựng giai đoạn 2 và 08 dự án đang hoàn tất các thủ tục đầu
tư. Có 5/8 khu công nghiệp đi vào hoạt động đã cơ bản hoàn thành nhà máy xử lý
nước thải tập trung.Về dự án hạ tầng kỹ thuật xử lý chất thải tập trung 100 ha Tóc
Tiên, huyện Tân Thành hoàn thành trong Quý I/2012. Về lâu dài, tỉnh cũng đã triển
khai xây dựng kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu tỉnh Bà Rịa-Vũng
Tàu và báo cáo hiện trạng môi trường của tỉnh, phê duyệt bản đồ quy hoạch về phân
vùng phát thải khí thải, xả nước thải theo quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường
giai đoạn 2011 -2015, đang trình Bộ Tài nguyên-Môi trường xem xét có ý kiến, hoàn

thiện đề án xử lí chất rắn đảm bảo hợp vệ sinh trên địa bàn tính đến năm 2020.
Cùng với sự phát triển kinh tế, các vấn đề an sinh xã hội trong vùng cũng có
những bước tiến đáng kể. Về công tác giáo dục, việc đào tạo nguồn nhân lực ngày
càng phát triển và có chất lượng cao, tăng cả về mặt số lượng và chất lượng. Trong đó,
thành phố Vũng Tàu có đội ngũ cán bộ khoa học kĩ thuật vừa đông vừa có chất lượng
cao đến từ các tỉnh thành trong cả nước.
1.3. Các yếu tố thuận lợi và khó khăn với công tác TKTD dầu khí
1.3.1.Thuận lợi
Do điều kiện tự nhiên và lịch sử, Vũng Tàu nằm trên giao điểm nối Miền Đông
và miền Tây Nam Bộ, có hệ thống giao thông đường biển, đường bộ, đường thủy và
đường hàng không phát triển. Nguồn nhân lực dồi dào hầu hết tập trung từ các tỉnh
thành trong cả nước nên có trình độ học vấn, kỹ thuật cao.
Vũng Tàu nằm ở vị trí thuận lợi cho việc mở rộng xây dựng các cảng dịch vụ
dầu khí phục vụ cho việc khai thác dầu ở thềm lục địa phía Nam.
Là một thành phố trẻ, Vũng Tàu có nguồn cung cấp nhân lực dồi dào, được đào
tạo bài bản.Giao thông vận tải đáp ứng nhu cầu di chuyển cũng như vận chuyển hàng
hóa.Vị trí của thành phố thuận lợi cho việc giao lưu xuất khẩu dầu thô với các nước
trong khối Đông Nam Á cũng như quốc tế.
Mặt khác, chính trị tỉnh ổn định, tạo điều kiện và thu hút đầu tư của các tập
đoàn , các Công ty nên rất thuận lợi cho công tác thăm dò và khai thác Dầu khí cũng
như các ngành nghề khác. Vì vậy, Bà Rìa – Vũng Tàu thu hút được rất nhiều các Tập
13


đoàn, Công ty trong và ngoài nước vào lĩnh vực dầu khí như: PVEP, Vietsopetro,
PVD, PTSC, DMC, BP, Total, ConocoPhiilip, Petronas...
1.3.2.Khó khăn
Từ tháng 5 đến tháng 10 là vào mùa mưa nên gây khó khăn cho công tác tìm
kiếm, thăm dò Dầu khí. Bão tố xảy ra gây khó khăn cho các tàu thuyền ngoài khơi
cũng như các công trình Dầu khí trên biển. Mùa khô cũng cần để ý đến gió mùa thổi

mạnh, gió mùa Đông Bắc – Tây Nam thổi theo hai chiều ngược nhau trong hai mùa
cũng gây trở ngại cho việc thăm dò và khai thác Dầu khí.
Các mỏ dầu và khí nằm ở xa bờ, độ sâu nước biển tương đối lớn do đó chi phí
cho công tác tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí tương đối cao.
Việc đào tạo và tuyển dụng đội ngũ có trình độ kỹ thuật cao chưa đáp ứng được
nhu cầu. Nguyên do là việc đào tạo vẫn thiếu rất nhiều công nghệ, thiết bị hiện đại nên
phải mất một thời gian dài đào tạo lại.
Tuy trong khu vực đã phát triển các ngành công nghiệp như sửa chữa tàu, sửa
chữa và đóng mới giàn khoan...nhưng đó mới chỉ là bước đầu.Phần lớn các tàu và thiết
bị hỏng vẫn phải gửi ra nước ngoài sửa chữa gây tốn kém.Các phương tiện hiện đại
vẫn phải nhập khẩu với chi phí cao.
Vấn đề phòng chống ăn mòn các công trình Dầu khí ngoài biển cũng là một khó
khăn lớn trong công tác tìm kiếm, thăm dò, khai thác và vận chuyển Dầu khí.
Vấn đề bảo vệ và cải tạo môi trường là vấn đề bức xúc đặt lên hàng đầu do rác
thải của cồng nghiệp Dầu khí, công nghiệp đóng tàu,....
Chúng ta phải thuê các thiết bị hiện đại để bảo vệ vùng biển và vùng khai thác
Dầu khí, thuê các chuyên gia về Dầu khí với chi phí cao.

14


CHƯƠNG 2: LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU ĐỊA CHẤT
2.1. Lịch sử tìm kiếm thăm dò dầu khí
Lịch sử tìm kiếm thăm dò dầu khí bể Cửu Long gắn liền với lịch sử tìm kiếm
thăm dò dầu khí của thềm lục địa Nam Việt Nam. Công tác khảo sát địa vật lý tại bể
đã được tiến hành từ thập niên 70, cho đến nay đã phát hiện, thăm dò và đưa vào khai
thác rất nhiều mỏ lớn như Bạch Hổ, Rồng, Rạng Đông, Hồng Ngọc, Sư Tử Đen….
Căn cứ vào quy mô, mốc lịch sử và kết quả thăm dò, lịch sử tìm kiếm thăm dò
dầu khí của bể Cửu Long được chia thành 4 giai đoạn:
2.1.1.


Giai đoạn trước năm 1975

Đây là khoảng thời gian đầu tiên thực hiện các công tác khảo sát địa vật lý khu
vực như từ, trọng lực và địa chấn để phân chia các lô, chuẩn bị cho công tác đấu thầu,
ký các hợp đồng dầu khí.
Năm 1967, US Nauy Oceanographic Office đã tiến hành khảo sát từ hang
không gần như khắp lãnh thổ Miền Nam. Năm 1967 – 1968, hai tàu Ruth và Maria của
Alpine Geophysical Corporation đã tiến hành đo 19.500 km tuyến địa chấn ở phía
Nam Biển Đông trong đó có tuyến cắt qua bể Cửu Long.
Năm 1969, công ty Ray Geophysical Mandrel đã tiến hành đo địa vật lý biển
bằng tàu N.V.Robray I ở vùng thềm lục địa Miền Nam và vùng phía Nam của Biển
Đông với tổng số 3.482 km tuyến trong đó có tuyến cắt qua bể Cửu Long.
Trong năm 1969 US Nauy Oceanographic cũng tiến hành đo song song 20.000
km tuyến địa chấn bằng 2 tàu P/V E.V Hunt ở vịnh Thái Lan và phía Nam Biển Đông,
trong đó có tuyến cắt qua bể Cửu Long.
Đầu năm 1970, công ty Ray Geophysical Mandrel lại tiến hành đo đợt hai ở
Nam Biển Đông và dọc bờ biển 8.639 km, đảm bảo mạng lưới cỡ 30 km x 50km, kết
hợp giữa các phương pháp từ, trọng lực và hang không, trong đó có tuyến cắt qua bể
Cửu Long. Năm 1973-1974 đã đấu thầu trên 11 lô, trong đó có 3 lô thuộc bể Cửu Long
là 09, 15 và 16.
Năm 1974, công ty Mobil trúng thầu trên lô 09 đã tiến hành khảo sát địa vật lý,
chủ yếu là địa chấn phản xạ, từ và trọng lực, với khối lượng là 3.000 km tuyến.
Vào cuối năm 1974 và đầu năm 1975 công ty Mobil đã khoan giếng khoan tìm
kiếm đầu tiên trong bể Cửu Long BH-1X, nằm ở phần đỉnh của cấu tạo Bạch Hổ. kết
quả thử vỉa đối tượng cát kết Mioxen dưới ở chiều sâu 2.755-2.819 m đã cho dòng dầu
công nghiệp, lưu lượng dầu đạt 342 m3/ngày. Kết quả này đã khẳng định triển vọng và
tiềm năng dầu khí của bể Cửu Long.
15



2.1.2.

Giai đoạn từ năm 1976 – 1979

Năm 1976, công ty địa vật lý CGG của Pháp khảo sát 1.210,9 km tuyến địa
chấn 2D dọc theo các con sông của đồng bằng song Cửu Long và vùng ven biển Vũng
Tàu – Côn Sơn. Kết quả của công tác khảo sát địa chấn đã xây dựng được các tầng
phản xạ chính: từ CL20 đến CL80 và khẳng định sự tồn tại của bể Cửu Long với một
mặt cắt trầm tích Đệ Tam dày.
Năm 1978 công ty Geocco (Na Uy) thu nổ địa chấn 2D trên lô 10, 09, 16, 19,
20, 21 với tổng số 11.898,5 km và làm chi tiết trên cấu tạo Bạch Hổ với mạng lưới
tuyến 2 x 2 km và 1 x 1 km. riêng đối với lô 15, công ty Deminex đã hợp đồng với
Gecco khảo sát 3.221,7 km tuyến địa chấn với mạng lười 3,5 x 3,5 km trên lô 15 và
cấu tạo Cửu Long(nay là Rạng Đông). Căn cứ vào kết quả minh giải tài liệu địa chấn
này Deminex đã khoan 4 giếng khoan tìm kiếm trên các cấu tạo triển vọng nhất Trà
Tân (15-A-1X), Sông Ba (15-B-1X), Cửu Long (15-C-1X) và Đồng Nai(15-G-1X). kết
quả khoan các giếng này đều gặp các biểu hiện dầu khí trong cát kết tuổi Miocen sớm
và Oligocen, nhưng dòng dầu khí không có ý nghĩa công nghiệp.
2.1.3.

Giai đoạn từ năm 1980 – 1988

Công tác tìm kiếm, thăm dò dầu khí ở thềm lục địa Việt Nam trong giai đoạn
này được triển khai rộng khắp, nhưng tập trung chủ yếu vào một đơn vị, đó là Xí
nghiệp liên doanh Vietsovpetro. Năm 1980 tàu nghiên cứu POISK đã tiến hành khảo
sát 4057 km tuyến địa chấn điểm sâu chung, từ và 3250 km tuyến trọng lực. kết quả
của đợt khảo sát này đã phân chia ra được tập địa chấn B (CL4 – 1, CL4 – 2), C (CL5
– 1), E(CL5 – 3) và F (CL6 – 2), đã xây dựng được một số sơ đồ cấu tạo dị thường từ
và trọng lực Bouguer.

Năm 1983 – 1984 tàu viện sĩ Gamburxev đã tiến hành khảo sát 4000km tuyến
địa chấn để nghiên cứu phần sâu nhất của bể Cửu Long.
Trong thời gian này XNLD Vietsovpetro đã khoan 4 giếng trên các cấu tạo
Bạch Hổ và Rồng: R – 1X, BH – 3X, BH – 4X, BH – 5X và TĐ – 1X trên cấu tạo
Tam Đảo. Trừ TĐ – 1X tất cả các giếng còn lại đều phát hiện vỉa dầu công nghiệp từ
các vỉa cát kết Miocen dưới và Oligocen.
Cuối giai đoạn 1980 – 1988 được đánh dấu bằng việc Vietsovprtro đã khai thác
những tấn dầu từ hai đối tượng khai thác Miocen, Oligocen dưới của mỏ Bạch Hổ vào
năm 1986 và phát hiện dầu trong móng nứt nẻ vào tháng 9 năm 1988.
2.1.4.

Giai đoạn từ năm 1989 đến nay

Đây là giai đoạn phát triển mạnh mẽ nhất công tác tìm kiếm, thăm dò và khai
16


thác dầu khí ở bể Cửu Long. Với sự ra đời của luật đầu từ nước ngoài và luật dầu khí,
hàng loạt công ty dầu khí nước ngoài đã ký hợp đồng phân chia sản phẩm hoặc cùng
đầu tư vào các lô mở và có triển vọng ở bể Cửu Long. Đến năm cuối 2003 đã có 9 hợp
đồng được ký kết trên các lô: 09-1, 09-2, 09-3, 10&02, 01&02/96, 15-1, 15-2, 16-1,
16-2 và 17.
Triển khai các hợp đồng đã ký về công tác khảo sát địa vật lý thăm dò, các công
ty dầu khí đã ký hợp đồng với các công ty dịch vụ khảo sát địa chấn có nhiều kinh
nghiệm trên thế giới như: CGG, Gecco – Prakla, Western Geophysical Company,
PGS,…hầu hết các lô trong bể đã đạt được khảo sát địa chấn tỉ mỉ không chỉ phục vụ
cho công tác thăm dò mà cả cho công tác chính xác mô hình vỉa chứa. Khối lượng
khảo sát địa chấn trong giai đoạn này, 2D là 21408km và 3D là 7340,6km2. Khảo sát
địa chấn 3D được tiến hành trên hầu hết các diện tích có triển vọng và trên tất cả các
vùng mỏ đã phát hiện. cho đến hết năm 2003, tổng số giếng khoan thăm dò, thẩm

lượng và khai thác đã khoan ở bể Cửu Long khoảng 300 giếng, trong đó riêng
Vietsovpetro chiếm trên 70%.
Đặc trưng nổi bật của Việt Nam là sự hiện diện các mỏ dầu trong móng
granitoit nứt nẻ trước Đệ tam, mà tiêu biểu là mỏ Bạch Hổ đã được phát hiện năm
1986 và đưa vào khai thác từ tháng 9 năm 1988. Sau Bạch Hổ đã phát hiện và đưa vào
khai thác hàng loạt mỏ dầu khác trong móng ở bể Cửu Long như Đông Rồng, Đông
Nam Rồng, Nam Rồng – Đồi Mồi, Phương Đông, mỏ Sư Tử Đen, mỏ Sư Tử Vàng,
mỏ Rạng Đông, mỏ Cá Ngừ Vàng, mỏ Sư Tử Nâu, mỏ Thăng Long, mỏ Hải Sư Đen,
mỏ Hổ Xám…với trữ lượng dầu và sản lượng dầu khai thác, tính đến 01/01/2012,
chiếm trên 80% tổng trữ lượng dầu đã xác minh và tổng sản lượng dầu đã khai thác
của Việt Nam.
2.2. Lịch sử tìm kiếm thăm dò cấu tạo GT, lô 09-1
Trên cơ sở kết quả minh giải tài liệu địa chấn 3D của Viện Dầu khí Việt Nam
thực hiện năm 2009, đã phát hiện cấu tạo triển vọng GT tại khu vực phía Đông Nam
bể Cửu Long (phía Nam mỏ Bạch Hổ)
Kết quả nghiên cứu cấu trúc địa chất cấu tạo GT đã chỉ ra sự tương đồng với
vòm Nam mỏ Bạch Hổ về cấu-kiến tạo cũng như về môi trường lắng đọng trầm tích và
thành tạo đá.
Giếng khoan nghiêng GT-1Х được bắt đầu khoan vào ngày 24.11.2010 bằng
17


giàn tự nâng «Мurmanskaia» nhằm mục đích tìm kiếm các thân dầu khí trong trầm
tích lục nguyên và trong móng của cấu tạo GT với đáy thiết kế là 4837 m. Khi đạt độ
sâu 4110 m đã xảy ra sự cố khoan do bị rơi dụng cụ khoan, vì vậy đã phải tiến hành
khoan cắt thân mới từ độ sâu 3838 m. Giếng khoan kết thúc ngày 05.06.2011 với đáy
giếng khoan thực tế là 4990 m (CSTĐ 4803 m).
Kết quả thử vỉa giếng này đã thu được dòng dầu tự phun từ trầm tích Mioxen
dưới.


18


PHẦN 2: ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC ĐỊA CHẤT LÔ 09-1
Chương 1: ĐỊA TẦNG
Khu vực nghiên cứu thuộc lô 09-1, nằm trong đới lún chìm Đông Nam Cửu
Long (Đông Bạch Hổ).Địa tầng của lô cũng tương tự như địa tầng của bể trầm tích
Cửu Long. Trên cơ sở các kết quả tài liệu minh giải địa chấn, ĐVLGK, tài liệu mẫu
lõi…cho thấy khu vực nghiên cứu nói riêng và bể Cửu Long nói chung gồm các phân
vị địa tầng có tuổi từ trước Kainozoi cho tới đệ tứ.
Đặc điểm địa tầng các trầm tích Kainozoi và đá móng trước Kainozoi được
minh họa trên cột địa tầng tổng hợp của bể trầm tích Cửu Long.

19


Hình 1.1. Mặt cắt địa tầng tổng hợp mỏ Gấu Trắng
j

20


Hình 1.1: Cột địa tầng tổng hợp bể Cửu Long

LIÊN KẾT ĐỊA TẦNG CÁC GIẾNG KHOAN GT-1Х, BH-1202 VÀ BH-7
Tầng phản xạ địa chấn

Chiều sâu theo carota (m)
Chiều sâu tuyệt đối (m)


21


22

GK GT-1X

GK BH-1202

SH-3

2245.0/-2208.2

2272.0/-2154.1

SH-5

2676.0/-2638.6

2826.0/-2700.0

SH-7

2940.0/-2902.3

3090.0/-2963.1

SH-8

3250.0/-3206.7


3340.0/-3213.0

SH-10

3620.0/-3558.7

3533.0/-3405.0

SH-11

4140.0/-4047.5

3786.0/-3658.0

SH-móng

4800.0/-4623.7

4060.0/-3932.1


Trong lát cắt GK GT-1X gồm các trầm tích sau:

1.1 Đá móng trước Kainozoi
Đá móng gồm đá macma kết tinh hoàn toàn với các đai mạch diabaz và pooсfia
bazan andezit, đặc trưng bởi mức độ bất đồng nhất cao về thành phần thạch học. Trong
phạm vi lô 09-1, theo tài liệu mẫu lõi, đá móng chủ yếu là granit biotit và granit
haimica, chứa nhiều monzolit thạch anh, monzodiorit thạch anh và diorit á kiềm, granit
(GK BH-8), granodiorit (GK BH-17) và monzodirit thạch anh (GK BH-7). Đá móng

chịu sự thay đổi bởi quá trình biến đổi thứ sinh ở các mức độ khác nhau. Trong số các
khoáng vật thứ sinh phát triển nhiều nhất là zeolit và canxit. Theo phương pháp phóng
xạ xác định tuổi, tuổi tuyệt đối của đá móng từ 245+7 triệu năm (Triat muộn) đến 89+3
(Creta muộn) triệu năm.
Đá granitoid có độ nứt nẻ và hang hốc. Phần lát cắt đá macma thường gặp các
đai mạch có thành phần đá khác nhau từ axit đến thành phần kiềm trung tính, kiềm
thạch anh.
Tại giếng khoan GT-1X, đá móng được phát hiện ở khoảng độ sâu 4800-4990
m (CSTĐ4623,7-4803 m), tổng chiều dày khoan vào móng là 196 m. Theo tài liệu
minh giải giữa các chỉ số độ rỗng nơtron (ННК) và gamma xạ tự nhiên (ГК), đá móng
ở đây là đá macma có thành phần axít. Theo tài liệu carota khí, phần đá móng có chỉ số
khí thấp (<1%) và không có sự mất dung dịch khoan. Kết quả minh giải tài liệu
ĐVLGK cho thấy có một số khoảng đá có độ rỗng thứ sinh, tuy nhiên khi thử vỉa đã
không nhận được dòng.
1.2 Oligoxen dưới
Điệp Trà Cú (E31)
Trầm tích của điệp Trà Cú gồm chủ yếu là sét kết, bột kết, cát kết, xen kẹp với
các vỉa than mỏng và sét vôi được thành tạo trong môi trường sông–hồ. Trong điệp này
thi thoảng bắt gặp thành tạo nguồn gốc núi lửa, thành phần của nó chủ yếu gồm diabaz
pooсfia, tuf bazan và gabro-diabaz. Chiều dày cực đại của điệp đạt 500 m ở những
phần lún chìm sâu của bể.
Trên mặt cắt địa chấn, điệp Trà Cú nằm trong khoảng giữa các tầng phản xạ
SH-11 và SH-móng. Tuổi của điệp được xác định theo sự tồn tại của dạng đa hình
23


Oculopollis, Magnastriatites thuộc vào Oligoxen sớm và Paleogen.
Theo đặc trưng tướng đá, lát cắt điệp Trà cú được chia ra thành 2 phần: trên và
dưới. Phần trên gồm thành tạo hạt mịn, còn phần dưới gồm thành tạo hạt thô.
Tại GK GT-1X, trầm tích điệp này nằm ở khoảng 4140-4800 m (CSTĐ 4047,54623,7 m) theo kết quả minh giải tài liệu ĐVLGK. Theo tài liệu carota khí chỉ số khí

tổng tăng trong các khoảng chiều sâu 4273-4285, 4338-4342 và 4390-4395 m. Trong
phạm vi điệp Trà Cú có mặt các vỉa cát kết sau: 4227-4234, 4267-4287, 4337-4348,
4364-4399, 4403-4411, 4455-4458, 4467-4499 và 4519-4529 m. Những vỉa này có
tính thấm chứa khá tốt, tuy nhiên khi thử vỉa đã không nhận được dòng.
1.3 Oligoxen trên
Điệp Trà Tân (E32)
Trầm tích điệp Trà Tân nằm bất chỉnh hợp trên trầm tích điệp Trà cú và nằm
giữa 2 tầng phản xạ địa chấn SH-7 và SH-11. Trầm tích điệp này gồm các phân lớp sét,
bột và cát kết xen kẽ, được thành tạo trong môi trường châu thổ, vũng-vịnh, sông-hồ
và bồi tích ven bờ.
Trong sét của điệp Trà Tân, hàm lượng chất hữu cơ có giá trị từ cao đến rất cao,
đặc biệt ở phần giữa của lát cắt. Đây là tập đá mẹ sinh dầu và cũng đóng vai trò chắn
tốt cho các thân dầu trong đá móng bể Cửu Long. Tuy nhiên, các vỉa cát kết trong điệp
xen kẽ với sét kết có tính chất thấm chứa trung bình, đây là các đối tượng triển vọng để
tìm kiếm và thăm dò dầu khí trong bể Cửu Long.
Tại giếng khoan GT-1X, trầm tích điệp Trà Tân nằm ở khoảng 2940-4140 m
(CSTĐ 2902,3-4047,5 m) theo tài liệu ĐVLGK. Theo thành phần thạch học, trầm tích
của điệp này có thể chia thành 3 phần với các thành phần thạch học khác nhau.
Phần trên: nằm giữa SH7 - SH8, phân bố ở khoảng chiều sâu 2940-3250 m
(CSTĐ 2902,3-3206,7 m), trầm tích gồm chủ yếu là sét nâu, nâu-tối, nâu đan xen lẫn
cát kết-bột. Theo ĐVLGK, phần này có mặt một vài vỉa chứa, tuy nhiên không có dấu
hiệu khí trong khi khoan.
Phần giữa: nằm giữa SH8 - SH10, phân bố ở khoảng 3250-3620 m (CSTĐ
3206,7-3558,7 m), trầm tích gồm chủ yếu nhất là sét đen, nâu đen xen kẽ các phân lớp
mỏng bột kết và cát kết. Trong lát cắt thỉnh thoảng gặp các phân lớp mỏng đá vôi và
than. Trong phần này không thấy các vỉa có triển vọng chứa dầu khí.
24


Phần dưới: trong khoảng SH10 - SH11, phân bố ở khoảng 3620-4140 m (CSTĐ

3558,7-4047,5 m), gồm chủ yếu là cát kết từ hạt mịn đến thô màu nâu tối đến nâu đen,
thỉnh thoảng gặp đá cuội. Hàm lượng khí tăng lên không đáng kể ở khoảng này trong
khi khoan (giá trị cực đại đạt 10,6% tại độ sâu 3664 m).
1.4 Mioxen dưới
Điệp Bạch Hổ (N11)
Trầm tích điệp Bạch Hổ có tổng chiều dày đạt đến 1500 m phân bố rộng khắp
trong lô 09-1 và khu vực nghiên cứu, bắt gặp ở hầu hết các giếng khoan của mỏ Bạch
Hổ và Rồng. Trầm tích của điệp này nằm bất chỉnh hợp góc rõ rệt lên trên trầm tích
của điệp Trà Tân. Theo tài liệu địa chấn, lát cắt của điệp này phân bố giữa các tầng
phản xạ SH-3 và SH-7. Trầm tích điệp Bạch Hổ được thành tạo trong môi trường đồng
bằng châu thổ, vũng vịnh, sông hồ và bồi tích ven biển. Theo tài liệu phân tích sinh địa
tầng, trầm tích của điệp Bạch Hổ thuộc Mioxen dưới.
Tại giếng khoan GT-1X, trầm tích điệp Bạch Hổ gặp ở khoảng chiều sâu 22452940 m (CSTĐ 2208-2902,3 m). Trầm tích này gồm các lớp cát kết và sét xen kẽ có
màu xám, vàng đỏ. Hàm lượng khí tăng cao đáng kể (đến 12%) trong quá trình khoan
ở các khoảng 2672-2683 m và 2705-2718 m. Theo thành phần thạch học trầm tích điệp
Bạch Hổ chia thành 2 phần: trên và dưới.
Phần trên của điệp (2152-2662 m) chủ yếu gồm sét màu xám, xanh-xám xen kẽ
và tăng lên khi đi từ phía trên xuống dưới, hàm lượng cát kết và bột kết chiếm đến
50%. Ở phần trên nhất của lát cắt gặp tập sét rotali phân bố hầu khắp diện tích của bồn
trũng Cửu Long. Trong phần này bắt gặp các vỉa cát kết thuộc tầng 21 và 22 có tính
chất thấm chứa tương đối tốt.
Phần dưới của điệp (2662-2940 m chủ yếu gồm cát kết và bột kết chiếm trên
60%, xen kẹp các lớp sét mỏng màu xám, vàng đỏ. Theo kết quả minh giải tài liệu
ĐVLGK trong phần lát cắt này có các vỉa cát kết thuộc tầng 23 (2673-2738 m), tầng
24 (2741-2783 m), tầng 25 (2785-2822 m) và tầng 26 (2830-2877 m), tính chất thấm
chứa các vỉa này khá tốt. Kết quả thử vỉa các tầng 23 và 24 đã cho dòng dầu công
nghiệp với lưu lượng 300 m3/ng.đ, nhận được dòng dầu không ổn định khi thử vỉa các
tầng 25 và 26.
1.5 Mioxen trung


25


×