Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

sáng kiến kinh nghiệm một số biện pháp góp phần nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh lớp một

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.33 MB, 33 trang )

UBND HUYỆN TÂN THẠNH
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO


MỘT SỐ BIỆN PHÁP GÓP PHẦN
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHỮ VIẾT
CHO HỌC SINH LỚP MỘT

Tên tác giả: Cao Thị Khánh Linh
Đơn vị: Trường Tiểu học Kiến Bình

Tân Thạnh, năm 2016

1


NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC GIÁO DỤC
- Cấp cơ sở:

..............................................................................................................
..............................................................................................................
..............................................................................................................
..............................................................................................................
..............................................................................................................
..............................................................................................................
..............................................................................................................
..............................................................................................................
..............................................................................................................
..............................................................................................................
..............................................................................................................
- Cấp huyện:


..............................................................................................................
..............................................................................................................
..............................................................................................................
..............................................................................................................
..............................................................................................................
..............................................................................................................
..............................................................................................................
..............................................................................................................
..............................................................................................................
..............................................................................................................
- Cấp tỉnh:
..............................................................................................................
..............................................................................................................
..............................................................................................................
.............................................................................................................
..............................................................................................................
..............................................................................................................
..............................................................................................................
..............................................................................................................
..............................................................................................................
2


LỜI NÓI ĐẦU
Chữ viết là một công cụ dùng để giao tiếp và trao đổi thông tin, là
phương tiện để ghi chép và tiếp nhận tri thức văn hóa, khoa học và đời sống…
Do vậy, ở trường Tiểu học, việc dạy học sinh biết chữ và từng bước làm chủ
công cụ chữ viết để phục vụ cho học tập và giao tiếp là yêu cầu quan trọng
hàng đầu của môn Tiếng Việt.
Vấn đề chữ viết và dạy viết chữ được cả xã hội quan tâm. Học sinh viết

đúng, rõ ràng, đẹp, nhanh sẽ giúp cho các em có điều kiện ghi chép bài của tất
cả các môn học khác tốt hơn. Chữ viết còn là biểu hiện của nết người. Việc
rèn luyện kĩ năng viết được, viết đúng, viết đẹp, viết nhanh cho học sinh lớp 1
là nền tảng, là cơ sở để các em tiếp tục rèn luyện chữ viết ở các lớp trên.
Trong quá trình giảng dạy, có nhiều giáo viên đã không ngừng cải tiến,
đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng chữ viết của học
sinh. Thế nhưng qua quan sát tập vở và bài viết của học sinh từ nhiều năm
nay, tôi nhận thấy chữ viết của nhiều học sinh còn chưa đạt yêu cầu. Các em
viết chưa đúng mẫu chữ viết, chữ viết không rõ ràng, viết thiếu dấu, thiếu nét,
đặt dấu thanh tùy tiện, trình bày bẩn,… Điều này không chỉ thể hiện chất
lượng của riêng bài tập viết mà còn ảnh hưởng đến chất lượng học tập các
môn học khác của học sinh.
Năm học 2014 – 2015, tôi đã chọn nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp
góp phần nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh lớp Một” và đã vận dụng
có hiệu quả ở lớp mình phụ trách. Năm học 2015 – 2016, tôi lại được phân
công giảng dạy lớp 1. Với thực trạng về chữ viết của học sinh chưa được như
mong muốn, tôi ý thức được tầm quan trọng của việc rèn luyện kĩ năng viết
cho học sinh ngay từ lớp học nền tảng này. Vì thế, tôi tiếp tục chọn đề tài:
“Một số biện pháp góp phần nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh

3


lớp Một” để vận dụng thực hiện ở lớp 1B, Trường Tiểu học Kiến Bình. Do
năm học 2015- 2016 là năm học đầu tiên trường tôi thực hiện giảng dạy
chương trình Tiếng Việt 1 – Công nghệ giáo dục nên tôi có nghiên cứu điều
chỉnh, cải tiến và bổ sung một số giải pháp nhằm phù hợp hơn với tình hình
thực tế, góp phần nâng cao chất lượng chữ viết của học sinh.
Tôi nghĩ nâng cao chất lượng chữ viết của học sinh là đề tài có nhiều giáo
viên cũng như nhà giáo dục quan tâm. Tuy nhiên, ở từng khối lớp, từng địa

phương có điều kiện phục vụ cho việc dạy và học khác nhau sẽ có những giải
pháp và vận dụng thực hiện khác nhau. Ở đề tài này, tôi chỉ nghiên cứu và đề
xuất những giải pháp góp phần giúp học sinh lớp 1 rèn luyện chữ viết rõ ràng,
trình bày bài viết sạch đẹp, bồi dưỡng cho các em tính cẩn thận, tôn trọng chữ
viết của mình, làm nền tảng để các em tiếp tục rèn luyện chữ viết ở lớp trên.

4


Phần I: THỰC TRẠNG
Qua nhiều năm quan tâm và theo dõi chất lượng chữ viết của học sinh,
đặc biệt là học sinh lớp 1 ở Trường Tiểu học Kiến Bình, tôi nhận thấy về cơ
bản học sinh biết cách viết chữ ghi âm Tiếng Việt, nắm được quy trình viết
chữ, biết nối nét các chữ ghi vần, ghi tiếng, tốc độ viết đa số đạt yêu cầu.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn không ít học sinh có chữ viết chưa đúng
theo mẫu, chưa rõ ràng, chưa đẹp, trình bày dơ, hay gạch xóa chữ. Một số lỗi
về chữ viết mà các em học sinh lớp 1 thường mắc phải phổ biến như:
- Chữ viết không đúng về cỡ chữ, về độ cao, độ rộng, khoảng cách giữa
các con chữ có khi hẹp quá, có khi rộng quá làm cho chữ không đẹp hoặc
không rõ nét.
- Một số chữ viết chưa thể hiện đúng, đủ các nét theo mẫu như: những
chữ u, i, t,… thiếu nét hất; kết thúc các nét móc những chữ a, d, n,… chưa
đúng; điểm giao nhau của các nét khuyết chưa chính xác. Trong một chữ cái,
có khi nét này đúng nhưng nét kia lại không đúng về độ cao.
- Chữ viết có dấu phụ và dấu thanh chưa hợp lí: thường các em viết các
dấu phụ ở những chữ cái ơ, ư to quá. Một số em đặt dấu thanh không đúng vị
trí chữ ghi âm chính, dấu thanh đặt quá xa chữ hoặc chạm vào chữ, dấu thanh
to so với cỡ chữ,…
- Chữ viết thể hiện các nét chưa ngay ngắn, có lúc nét thẳng đứng, có lúc
nét nghiêng trái hoặc nghiêng phải tùy tiện.

- Học sinh còn lúng túng khi trình bày bài viết ở chữ cỡ nhỏ: viết một
dòng, bỏ một dòng trong vở ô li; trình bày không cân đối tên phân môn, tên
bài học; kẻ hàng trong vở không ngay ngắn.

5


- Học sinh viết được các chữ viết hoa nhưng chưa đúng các nét theo mẫu.
Các em thường viết chưa đạt ở những chỗ uốn lượn của các nét; độ rộng, độ
cao của chữ cũng không đều nhau.
Điều tra về kết quả xếp loại vở sạch chữ đẹp của học sinh lớp 1B, Trường
Tiểu học Kiến Bình ở những năm qua vào thời điểm cuối năm học, tôi thống
kê như sau: (Chỉ thống kê phần xếp loại chữ đẹp)
Năm học
2012-2013
2013-2014
2014-2015

Số học

Loại A
SL
TL
23,5%
4
25,0%
4
47,3%
9


sinh
17
16
19

Loại B
SL
TL
58,8%
10
56,2%
9
47,3%
9

Loại C
SL
TL
17,7%
3
18,8%
3
5,3%
1

Điều tra về chất lượng ở bài kiểm tra môn Tiếng Việt phần viết của học
sinh lớp 1B, kết quả như sau:
Năm học
2012-2013
2013-2014

2014- 2015

Số học Điểm 9–10
sinh
17
16
19

Điểm 7 – 8

Điểm 5 - 6

Điểm dưới 5

SL

TL

SL

TL

SL

TL

SL

TL


5
6
14

29,4%

7
5
4

41,2%

3
4
1

17,6%

2
1
0

11,8%

37,5%

73,7%

31,2%


21,0%

25,0%

5,3%

6,3%

Như vậy, khi chưa vận dụng đề tài này, năm học 2012-2013, ở lớp 1B, số
học sinh có chữ viết xếp loại C là 17,7%; kiểm tra môn Tiếng Việt phần viết ở
cuối năm, số bài điểm dưới 5 chiếm 11,8%. Năm học 2013-2014, số học sinh
có chữ viết xếp loại C là 18,8%; kiểm tra môn Tiếng Việt phần viết ở cuối
năm, số bài điểm dưới 5 chiếm 6,3%.
Từ bảng thống kê trên cho thấy số học sinh viết chưa đạt yêu cầu không
nhiều hơn so với số học sinh viết đúng, viết đạt nhưng nếu chữ viết của các
em không đúng, không rõ ràng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng những
môn học khác cũng như kết quả rèn luyện chữ viết sau này của các em ở các
lớp trên.

6


Qua tìm hiểu và quan sát học sinh từ thực tế giảng dạy, tôi nhận định thực
trạng về chữ viết của học sinh là do các nguyên nhân:
- Giáo viên còn ít chú trọng đến việc rèn chữ viết cho học sinh. Do
chương trình của môn Tiếng Việt 1- Công nghệ giáo dục có một số bài nội
dung hơi nhiều, mỗi bài học phải theo quy trình bốn việc, có đôi lúc giáo viên
còn chú trọng nhiều hơn ở việc 1 và việc 3, giúp học sinh chiếm lĩnh ngữ âm
và luyện đọc. Phần việc 2 và việc 4 giáo viên còn hối thúc học sinh viết nhanh
để hoàn thành bài viết cho kịp thời gian của tiết dạy. Vì vậy, giáo viên cũng

chưa quan tâm uốn nắn, sửa sai tỉ mỉ cho học sinh khi các em luyện viết.
Trong quá trình dạy học, giáo viên còn hướng dẫn chung chung, chưa phân
loại đối tượng học sinh để đặt ra yêu cầu rèn luyện phù hợp. Đôi khi giáo viên
viết chữ cũng chưa chân phương nên chưa đáp ứng được yêu cầu trực quan
cho học sinh. Khi hướng dẫn viết chữ, có lúc giáo viên cũng ngại kẻ ô li trên
bảng lớp vì mất thời gian, giáo viên chỉ viết mẫu “độ chừng” làm cho học sinh
không nắm chắc vị trí đặt bút, dừng bút, độ cao chữ,… Giáo viên cũng chưa
chú trọng hướng dẫn học sinh ở giai đoạn chuyển từ chữ cỡ vừa sang chữ cỡ
nhỏ vì nghĩ học sinh đã viết được chữ rồi. Do đó, học sinh dễ bị lẫn lộn về độ
cao của các nét trong một chữ cái.
- Học sinh chưa nắm vững các nét cơ bản, quy trình viết chữ cái, cách
viết nối nét giữa các chữ cái trong chữ ghi tiếng. Bên cạnh một số học sinh
ham học, thích viết vẫn còn không ít học sinh chưa tập trung chú ý nghe cô
hướng dẫn, không quan tâm chữ viết của mình đẹp hay xấu mà chỉ muốn viết
nhanh để lấy “thành tích” với bạn. Mặt khác, tâm lí học sinh lớp 1 chóng nhớ
mau quên, nếu không được rèn luyện thường xuyên và uốn nắn tỉ mỉ, các em
sẽ không nhớ quy trình viết cũng như cấu tạo chữ. Đặc biệt, với những chữ cái

7


viết hoa, học sinh ít được ứng dụng luyện viết hơn các chữ cái viết thường nên
có khi các em còn lẫn lộn, không nhớ mẫu chữ hoặc quy trình viết.
- Phụ huynh học sinh chưa chuẩn bị chu đáo về dụng cụ học tập cho con
em như bảng con, phấn, bông lau, bút chì, bút mực, gôm,… Chất lượng giấy
vở, bút, bảng con cũng ảnh hưởng rất lớn đến chữ viết của học sinh. Có khi
đầu năm phụ huynh mua đầy đủ dụng cụ học tập theo yêu cầu nhưng trong
thời gian học tập, phụ huynh thiếu quan tâm, kiểm tra nên xảy ra trường hợp
học sinh quên mang dụng cụ học tập, bút nghẹt mực, bảng con bị trơn nhẵn
hoặc bị gãy,… làm cho các em không có dụng cụ thực hành luyện viết ở lớp.

Phụ huynh học sinh cũng thiếu sự phối hợp với giáo viên để cùng đánh giá
động viên bài viết của con em mình.
Từ những thực trạng nêu trên, bản thân tôi đã nghiên cứu, tìm những giải
pháp cụ thể nhằm giúp học sinh trong việc rèn luyện chữ viết đạt kết quả tốt
hơn, góp phần nâng cao chất lượng chữ viết nói riêng và chất lượng học tập
các môn học nói chung ở lớp mình phụ trách.

Phần II: GIẢI PHÁP

8


1. Quan tâm hướng dẫn việc chuẩn bị và sử dụng đồ dùng học tập
của học sinh:
Chất lượng chữ viết của học sinh có sự tác động rất lớn của yếu tố khách
quan như các phương tiện phục vụ cho việc dạy và học tập viết. Do vậy, muốn
rèn cho học sinh viết chữ rõ ràng, sạch đẹp, tôi đã quan tâm đến việc chuẩn bị
và hướng dẫn sử dụng đồ dùng học tập của học sinh.
Đầu năm học, ngay sau khi thu nhận học sinh lớp 1, tôi chủ động họp
phụ huynh học sinh sớm để hướng dẫn phụ huynh học sinh chuẩn bị dụng cụ
học tập cho con em. Tôi chọn và đưa ra một số loại vở, bút, bảng con để phụ
huynh tham khảo. Tôi phân tích những ưu điểm, hạn chế của một số loại vở,
bút để phụ huynh so sánh, cân nhắc khi lựa chọn đồ dùng học tập cho con em
mình.
Bảng con là công cụ thực hành tiện lợi và hiệu quả nhất với học sinh. Các
em sẽ chuyển biểu tượng chữ viết trong đầu thành sản phẩm nhìn thấy và đánh
giá được. Viết chữ trên bảng con, học sinh dễ điều chỉnh, sửa chữa những chỗ
chưa đạt của chữ viết, giáo viên cũng dễ dàng nắm thông tin phản hồi trong
quá trình dạy tập viết để kịp thời xử lí, uốn nắn.
Tôi yêu cầu học sinh cả lớp mua bảng con giống nhau để thuận tiện trong

việc hướng dẫn đồng loạt cả lớp. Tôi gợi ý phụ huynh nên chọn bảng Thiên
Long vừa phổ biến dễ tìm mua, vừa phù hợp túi tiền người dân vùng nông
thôn. Bảng có bề mặt nhám vừa phải, một mặt có dòng kẻ li nhỏ, đồng dạng
với dòng kẻ li trong vở Em tập viết, mặt này tôi hướng dẫn học sinh sử dụng
khi viết chữ cỡ vừa. Mặt kia có kẻ ô vuông to hơn và đều nhau, học sinh dùng
để luyện viết chữ cỡ nhỏ.
Học sinh sử dụng bảng con một thời gian, các đường kẻ trên bảng sẽ mờ

9


đi, mặt bảng sẽ nhẵn bóng ở vị trí thường viết. Khi đó, phụ huynh cần thay
bảng mới cho các em. Tôi đề nghị mỗi em có một hộp đựng phấn để tránh làm
phấn gãy vụn khó viết, lại giữ vệ sinh cho cặp sách.
Mỗi sáng trước khi vào học, tôi tập cho học sinh có thói quen rửa sạch
đôi tay, giặt sạch bông lau bảng, vắt ráo để đến lúc luyện viết, bông bảng sẽ có
độ ẩm vừa phải, các em lau bảng sạch sẽ hơn.
Tôi khuyên phụ huynh chọn cho con em mình loại vở có trang giấy dày
để khi viết không bị hằn dấu hay thấm mực qua trang bên kia. Với học sinh
lớp 1, phụ huynh nên chọn cho các em vở ô li có cả đường kẻ ngang và đường
kẻ dọc nhằm giúp học sinh dễ xác định độ cao, độ rộng chữ. Tôi thống nhất cả
lớp phải sử dụng loại vở có bốn ô li, vì loại vở này đồng dạng với vở Em tập
viết (Mẫu vở theo chương trình Tiếng Việt 1- Công nghệ giáo dục), học sinh
sẽ không bị lẫn lộn khi xác định thứ tự các đường kẻ và loại vở này cũng được
sử dụng phổ biến hơn loại vở có năm ô li.
Tùy phụ huynh lựa chọn mua bút cho các em. Tuy nhiên, tôi cũng gợi ý
phụ huynh nên chọn bút bi mực nước để học sinh dễ bảo quản, loại bút này dễ
viết, nét chữ gọn, rõ, không bị nhòe mực. Chỉ riêng những học sinh trong quá
trình học tập được tôi chọn bồi dưỡng viết chữ đẹp thì mới mua thêm bút máy
bơm mực để tôi hướng dẫn viết nét thanh nét đậm.

Tôi yêu cầu phụ huynh hàng ngày cần giúp các em kiểm tra dụng cụ học
tập. Ví dụ như xem các dụng cụ học tập quy định có đủ không, bút chì đã gọt
chuốt chưa, bút mực có bị tắt nghẹt mực không,.. Tất cả những dụng cụ học
tập nhỏ nên giữ trong hộp bút để vừa được bảo quản, vừa dễ dàng tìm thấy khi
cần.
Bản thân tôi cũng chuẩn bị ở lớp vài chiếc bảng con, vài cây bút mực, bút
chì để phòng khi học sinh quên mang, tôi cho các em mượn sử dụng tạm vì

10


những dụng cụ này không thể thiếu lúc luyện viết.
Đầu năm học, tôi hướng dẫn học sinh bao bìa dán nhãn cẩn thận các
quyển vở. Những quyển nào chưa dùng đến, tôi giữ lại đến khi cần mới phát
ra cho học sinh. Quyển vở Em tập viết có bìa hơi mỏng nên rất dễ bị sút bìa,
tôi dùng kim bấm lớn bấm chặt lại để giúp các em dễ bảo quản hơn.
Trường tôi thực hiện dạy học hai buổi/ ngày nên hầu hết thời gian trong
ngày học sinh phải ở lại trường. Tôi khuyến khích học sinh để tất cả sách vở ở
lớp, chỉ đến chiều thứ sáu hàng tuần mới mang về cho cha mẹ xem. Làm như
vậy học sinh đỡ phải mang nặng mà sách vở cũng được bảo quản tốt hơn.
Tôi thường xuyên giáo dục học sinh phải yêu quý, tôn trọng sách vở của
mình, sử dụng và bảo quản cẩn thận để sách vở luôn mới, không bị nhàu nát,
quăn góc.
Nhờ sự quan tâm chuẩn bị chu đáo đồ dùng học tập phù hợp và hướng
dẫn kĩ cho học sinh cách sử dụng, giáo viên gặp nhiều thuận lợi hơn khi
hướng dẫn học sinh viết đồng loạt cả lớp, giúp học sinh có điều kiện rèn luyện
chữ viết rõ ràng, sạch đẹp theo mẫu quy định.
2. Xây dựng nền nếp học tập cho học sinh ở hai tuần học đầu tiên:
Trong hai tuần học đầu tiên (hai tuần 0), học sinh lớp 1 không học một
chữ nào nhưng lại có giá trị định hướng cho mọi việc về sau. Tôi tranh thủ

giúp các em rèn những thói quen cần thiết cho việc học viết.
Đầu tiên, tôi tập cho học sinh làm quen với các kí hiệu như: lấy bảng con,
xóa bảng, lấy vở, cất vở,… và tập thao tác thật nhanh, thật dứt khoát trên các
đồ dùng học tập. Điều đó sẽ tạo cho học sinh nền nếp học tập khoa học sau
này.
Quá trình hình thành kĩ năng viết chữ thường trải qua hai giai đoạn: Giai
đoạn nhận biết, hiểu về chữ viết và giai đoạn điều khiển vận động để tập viết.

11


Không chỉ có cơ, xương bàn tay mà một số bộ phận khác của cơ thể như cổ,
vai, lưng, mắt,… cũng tham gia vào quá trình tập viết. Vì vậy, tôi quan tâm
hướng dẫn kĩ cho học sinh những thói quen vận động đúng khi viết như:
Tư thế ngồi viết: Học sinh cần ngồi viết với tư thế lưng thẳng, không tì
ngực vào bàn, đầu hơi cúi, mắt cách vở khoảng 25 – 30 cm.
Cách cầm bút: Học sinh nên cầm bút bằng tay phải, dùng ba ngón tay
(ngón cái, ngón trỏ, ngón giữa) để cầm bút với độ chắc vừa phải, khi viết dùng
ba ngón tay di chuyển bút nhẹ nhàng. Cổ tay, khuỷu tay, cánh tay cử động
theo mềm mại, thoải mái.
Cách để vở, xê dịch vở khi viết: Học sinh để vở ngay ngắn trước mặt, tay
trái tì nhẹ lên mép vở để vở không bị xê dịch. Khi viết sang trang bên phải,
cần xê dịch vở sang trái để mắt nhìn thẳng vào nét chữ, tránh nhoài người về
bên phải để viết tiếp.
Học sinh thực hiện đúng các quy định trên, chẳng những giúp cho vở viết
không bị quăn góc, nhàu nát, chữ được điều khiển theo ý muốn dễ dàng hơn
mà còn giúp học sinh tránh những bệnh học đường về sau.
Để tiện cho việc học viết sau này, tôi hướng dẫn học sinh quan sát, so
sánh các dòng kẻ ở bảng con, vở ô li và vở Em tập viết. Tôi giúp các em nhận
biết và gọi tên các đường kẻ. Dòng chữ luôn luôn được viết thẳng hàng trên

đường kẻ đậm hơn, còn gọi là đường kẻ 1. Từ đó, các em đếm lên: đường kẻ
2, đường kẻ 3, đường kẻ 4,…
ĐK5
ĐK4
ĐK3
ĐK2
ĐK1

Trong quá trình hình thành biểu tượng về chữ viết và hướng dẫn học sinh
viết chữ, giáo viên thường sử dụng tên gọi các nét cơ bản để mô tả hình dạng,

12


cấu tạo và quy trình viết một chữ cái. Vì vậy, ngay từ những tiết học ở tuần 0,
tôi đã quan tâm giúp học sinh nắm vững tên gọi các nét cơ bản và cho học
sinh luyện viết kĩ các nét này.
Ở lớp 1B, tất cả học sinh đều đã được học Mẫu giáo nên cũng đã biết qua
5 nhóm nét cơ bản. Tất cả các chữ viết đều được cấu tạo từ các nét nên học
sinh có viết đúng, đẹp các nét cơ bản thì chữ viết mới đúng và đẹp. Tuy chỉ là
những nét tưởng như đơn giản, nhưng đòi hỏi học sinh phải được rèn viết
nhiều lần mới đúng, mới chuẩn. Tôi quan tâm hướng dẫn kĩ về độ cao, độ
rộng, điểm đặt bút, dừng bút của một số nét khó.
Ví dụ: - Nhóm nét cong: gồm nét cong kín, nét cong hở phải, nét cong hở
trái: cao 2 li, rộng 1 li rưỡi. Điểm bắt đầu dưới đường kẻ 3 một chút, nét cong
hở kết thúc ở giữa đường kẻ 1 và đường kẻ 2; nét cong kín kết thúc ở điểm bắt
đầu.
- Nét khuyết: cao 5 li, rộng 1 li. Khi viết nét khuyết phải thon đều, tròn
đầu. Nét khuyết trên: điểm bắt đầu ở đường kẻ 2, kết thúc ở đường kẻ 1, điểm
cắt nhau ở đường kẻ 3. Nét khuyết dưới: điểm bắt đầu ở đường kẻ 3, kết thúc

ở đường kẻ 2, điểm cắt nhau ở đường kẻ 1.

Đặc biệt với nhóm nét khuyết, học sinh thường viết không thẳng mà có
xu hướng nghiêng trái hoặc bị gãy ở chỗ cắt nhau. Vì vậy, tôi phải kiên trì
hướng dẫn mẫu và giúp đỡ các em tập luyện.
Với nhóm nét móc tuy không khó nhưng học sinh thường sai ở điểm kết
thúc của nét móc ngược và nét móc hai đầu. Vì vậy, tôi phải hướng dẫn, điều
chỉnh cụ thể để giúp học sinh kết thúc đúng ở đường kẻ 2.

13


- Nhóm nét thẳng (đứng, ngang, xiên trái, xiên phải) không khó với học
sinh, tôi chỉ chú ý giúp các em viết sao cho thẳng; đúng, đủ về độ cao.
- Các nét khác như nét hất, nét thắt, học sinh sẽ luyện tập kết hợp khi
luyện viết chữ.
Học sinh nắm chắc cách viết các nét cơ bản, các em sẽ dễ dàng nắm được
cấu tạo chữ cái và việc nối chữ cái thành chữ ghi tiếng để làm cơ sở viết đúng,
viết đẹp sau này.
3. Sử dụng các phương tiện trực quan khi hướng dẫn học sinh tập
viết:
Đồ dùng dạy học có tác dụng trực quan tích cực trong việc hình thành
biểu tượng chữ viết, là công cụ cần thiết trong quá trình hướng dẫn học sinh
các kĩ thuật viết chữ.
Bảng lớp đóng vai trò quan trọng trong quá trình dạy học sinh tập viết.
Tôi dùng bảng lớp để treo chữ mẫu, để viết minh họa cho học sinh xem và để
học sinh tham gia viết trên bảng lớp.
Tôi nghĩ hướng dẫn cho học sinh tập viết ở việc 2 trong tiết Tiếng Việt là
rất quan trọng vì đây là lần đầu tiên học sinh phải tri giác về biểu tượng chữ
cái và điều khiển vận động để tập viết chữ cái đó. Do đó, trong những lần dạy

viết các chữ cái mới học này, tôi phải hướng dẫn học sinh thật tỉ mỉ trên dòng
kẻ li. Tôi trình bày sẵn những dòng kẻ li trên bảng lớp, riêng đường kẻ tương
ứng với đường kẻ đậm trong vở và bảng con, tôi kẻ bằng phấn màu để học
sinh dễ phân biệt. Khi hướng dẫn học sinh viết chữ trên dòng kẻ li ở bảng lớp,
tôi giúp học sinh dễ dàng nhận ra điểm đặt bút, điểm kết thúc, độ cao chữ, vị
trí và độ lớn của các dấu phụ, dấu thanh,…
Tôi cũng ý thức được chữ viết của giáo viên như là một tấm gương của
học sinh, đặc biệt là với học sinh lớp 1. Các em sẽ quan sát và bắt chước cô

14


giáo từ những nét chữ đơn giản đầu tiên đến những bài viết sau này. Vì vậy,
khi được phân công dạy lớp 1, tôi luôn cố gắng rèn luyện chữ viết cho mình.
Mỗi khi viết bảng hay viết lời nhận xét của giáo viên vào vở học sinh, tôi phải
hết sức cẩn thận, viết thật rõ ràng và chân phương để học sinh noi theo.
Danh mục đồ dùng dạy học có bộ chữ dạy tập viết gồm 39 tờ bìa in các
chữ cái và chữ số trong khung ô li. Sử dụng bộ chữ cái này giúp tôi minh họa
hình dạng, cấu tạo, quy trình viết chữ,…làm cho quá trình hướng dẫn cụ thể,
sinh động hơn. Nhờ đó, học sinh khắc sâu hơn về biểu tượng các chữ cái.
Ngoài ra, đầu năm học tôi còn chuẩn bị một bảng phụ được kẻ ô li cố
định giống như trang vở của học sinh. Bảng này có thể dùng phấn viết và sử
dụng hàng ngày khi hướng dẫn học sinh viết vào vở Em tập viết. Nhờ tấm
bảng này, tôi giúp học sinh xác định khoảng cách các chữ ghi tiếng và điểm
đặt bút để viết chữ ghi âm, vần, tiếng tiếp theo trong vở.
Không gian lớp học cũng được tôi tận dụng để phát huy hiệu quả của các
phương tiện trực quan. Phía cuối lớp tôi treo bảng chữ cái theo mẫu chữ viết
thường, chữ viết hoa và các chữ số. Tôi hướng dẫn học sinh cách xác định độ
cao, độ rộng chữ trong khung ô li. Hàng ngày, nếu học sinh có quên về cấu tạo
hoặc độ cao chữ, các em có thể tự quan sát và nhớ lại để viết.

Tôi sưu tầm các bài viết chữ đẹp đã đạt giải cao trong các hội thi, photo
lại rồi đính vào góc học tập, học sinh có thể tham khảo thêm và lấy đó làm
mục tiêu phấn đấu, rèn luyện cho mình.
4. Hướng dẫn học sinh trong quá trình tập viết, lưu ý khắc sâu ở
những chỗ học sinh thường gặp khó khăn:
4.1. Hướng dẫn đặc điểm cấu tạo chữ:

15


Sai

Theo quy định của chương trình Tiếng Việt lớp 1, cùng với việc dạy học
sinh cách đọc các chữ in thường, giáo viên dạy cho học sinh tập viết những
chữ cái, vần, từ ứng dụng bằng chữ viết thường.
Khi dạy tập viết, tôi thường mô tả đặc điểm, cấu tạo chữ và quy trình viết
từng chữ cái cỡ vừa theo dòng kẻ li để học sinh dễ hiểu hơn dùng thuật ngữ
“đơn vị chữ”.
Ví dụ: Dạy học sinh viết chữ cái d
Giáo viên cho học sinh nhận xét về đặc điểm, cấu tạo: cao 4 li, gồm một
nét cong kín và một nét móc ngược.
Giáo viên hướng dẫn quy trình viết: đặt bút dưới đường kẻ 3 một chút,
viết nét cong kín cao 2 li; lia bút lên đường kẻ 5, viết nét móc ngược cao 4 li
sát mép nét cong kín, đến đường kẻ 2 thì dừng lại.
Với những chữ cái khó viết như: b, k, v, s,… tôi cho học sinh viết lại
nhiều lần trên bảng con. Khi nào học sinh viết đạt yêu cầu, tôi mới cho viết
vào vở.
4.2. Hướng dẫn nối chữ:
Khi dạy viết chữ ghi vần, chữ ghi tiếng, tôi thường quan tâm hướng dẫn
học sinh kĩ thuật nối chữ để đảm bảo yêu cầu liên kết chữ cái và nâng dần tốc

độ viết chữ.
Đối với các trường hợp nối chữ, sau khi hướng dẫn mẫu cho học sinh, tôi
thường lưu ý kĩ những chỗ khó, những lỗi học sinh có thể mắc phải, giúp các
em chú ý điều chỉnh cho đúng.
Ví dụ: - Trường hợp nét móc của chữ cái trước nối với nét móc hoặc nét
hất đầu tiên của chữ cái sau: Học sinh thường mắc lỗi kéo dài chỗ nối làm cho

16


hai chữ cái cách xa nhau quá, chữ sẽ không đẹp. Tôi hướng dẫn học sinh điều
chỉnh “độ doãng” sao cho vừa phải, hợp lí.
Chưa đúng

Đúng

- Trường hợp nét móc, nét khuyết, nét cong của chữ cái trước nối với nét
cong đầu tiên của chữ cái sau: Đây là trường hợp khó đòi hỏi học sinh phải
biết ước lượng khoảng cách khi lia bút qua chữ cái thứ hai. Một số em không
cân đối được khoảng cách làm cho hai chữ cái có khi chồng nét lên nhau, tạo
ra chữ viết không rõ ràng. Tôi hướng dẫn, giúp học sinh điều chỉnh khoảng
cách sao cho hợp lí, phải nhìn thấy được rõ ràng các nét của mỗi chữ cái. Như
vậy, nét nối phải kéo dài ra để tạo khoảng cách giữa hai chữ cái độ chừng nửa
ô li dọc.
Chưa đúng

Đúng

- Trường hợp nét cong kín của chữ cái trước nối với nét móc hay nét hất
đầu tiên của chữ cái sau: Một số học sinh hay mắc lỗi vòng nét nối xuống thấp

quá làm cho chữ cái o giống a, ô giống â. Tôi quy ước với trường hợp này học
sinh không được vòng nét nối xuống thấp hơn đường kẻ 2.
Chưa đúng

Đúng

Ngoài việc hướng dẫn học sinh nối chữ trên bảng kẻ li, tôi còn phải kiên
trì theo dõi, giúp học sinh sửa chữa, điều chỉnh cụ thể ở các bài viết để các em
dần dần tránh được những lỗi sai.
4.3. Hướng dẫn đặt dấu phụ, dấu thanh:

17


Dấu phụ, dấu thanh viết hợp lí sẽ tạo được vẻ đẹp của chữ viết. Các dấu
phụ cần viết nhỏ vừa phải, đặt gọn trong dòng li phía trên liền kề dòng li viết
chữ, tức là nằm gọn giữa đường kẻ 3 và đường kẻ 4.
Đối với các chữ cái, độ cao được xác định chỉ dành cho các hình nét cơ
bản, không kể dấu phụ. Tôi lưu ý học sinh viết dấu phụ ư, ơ đặt nghiêng về
bên phải, còn các dấu phụ khác như ă, â, ô, ê thì phải viết ngay ngắn trên hình
nét cơ bản, không cách xa quá, cũng không được chạm vào hình nét cơ bản.
Ví dụ:
Với các dấu thanh, tôi cũng hướng dẫn học sinh tập viết nhỏ gọn trong
phạm vi 1 ô li vuông đối với chữ cỡ vừa và nửa ô li vuông đối với chữ cỡ nhỏ.
Những lúc dạy học sinh phân tích tiếng, tôi đã lưu ý về vị trí của dấu thanh,
đến khi viết các em được củng cố thêm lần nữa. Dấu thanh luôn được đặt phía
trên hoặc dưới chữ cái ghi âm chính. Khi âm chính là một âm đôi, dấu thanh
luôn được đặt phía trên hoặc dưới chữ cái chữ cái đầu của nguyên âm đôi, nếu
tiếng đó không có âm cuối; đặt phía trên hoặc dưới chữ cái thứ hai của nguyên
âm đôi, nếu tiếng đó có âm cuối.

Ví dụ:

Khi dấu huyền, dấu sắc được đặt trên chữ cái có dấu mũ (â, ê, ô) thì dấu
thanh được đặt về bên phải của dấu mũ.
Ví dụ:

Dấu phụ, dấu thanh được viết đúng, cân đối mới thể hiện được sự hài
hòa, mềm mại của chữ viết. Chữ viết rõ ràng hơn, đẹp hơn.

18


4.4. Hướng dẫn viết từ ứng dụng:
Dạy viết các từ ứng dụng ngoài việc giúp học sinh thực hiện các yêu cầu
về viết chữ ghi tiếng như viết nối chữ, viết liền mạch, đặt dấu thanh đúng, tôi
còn quan tâm nhắc nhở học sinh lưu ý khoảng cách chữ sao cho đều đặn hợp
lí. Khoảng cách chữ ghi tiếng thường được ước lượng bằng chiều rộng một
chữ cái o viết thường. Điều này tuy không khó nhưng đối với học sinh lớp 1,
các em hay quên cho nên trong một bài viết, có khi khoảng cách chữ của các
em không đều nhau. Có bài khoảng cách chữ gần nhau quá, không tách bạch
được chữ ghi tiếng, làm cho bài viết không rõ ràng, khó đọc, thiếu đi tính
thẩm mĩ. Vì vậy, tôi phải thường xuyên nhắc nhở điều này khi học sinh viết từ
ứng dụng. Với những em thường mắc phải lỗi như thế, khi viết bài vào vở, tôi
đến bên cạnh để chỉ dẫn thêm, giúp học sinh điều chỉnh kịp thời.
Nhờ quan tâm khắc sâu ở những chỗ học sinh thường gặp khó khăn trong
quá trình hướng dẫn học sinh tập viết, theo dõi giúp học sinh điều chỉnh kịp
thời những lỗi sai, tôi nhận thấy học sinh đã có sự tiến bộ rõ rệt về chữ viết.
Các em viết đúng các chữ cái, nối nét hợp lí, đặt dấu thanh đúng vị trí khi viết
chữ ghi tiếng, khoảng cách chữ đều đặn hơn khi viết từ ứng dụng.
5. Hướng dẫn học sinh viết chữ viết hoa:

Mẫu chữ cái viết hoa có nhiều nét cong, nét lượn, thường được “biến
điệu” từ các nét cơ bản. Điều đó làm học sinh khó nhớ; hoặc có khi bằng mắt
nhìn, các em đã xác định được hình dáng của chữ viết hoa nhưng bàn tay non
trẻ của các em chưa điều khiển được ngòi bút đúng theo ý định mình. Vì vậy,
các chữ viết hoa của các em thường không đều nét, độ rộng, độ cao của chữ
không cố định. Nắm bắt những khó khăn của học sinh, tôi luôn cố gắng quan
tâm và kiên trì giúp đỡ các em trong lúc luyện viết.

19


Theo chương trình phần tập viết ở môn Tiếng Việt1- Công nghệ giáo dục,
từ tuần 20 đến tuần 26 là nội dung “hướng dẫn viết chữ cái hoa”. Tôi luôn
nhắc cho học sinh nhớ là các chữ cái viết hoa đều có độ cao 2 li rưỡi, ngoại trừ
chữ G, Y viết hoa cao 4 li. Khi dạy viết ở việc 2, tôi giúp học sinh nhận biết
về độ cao, độ rộng, điểm đặt bút, điểm chuyển hướng, điểm kết thúc và quy
trình viết của một chữ cái viết hoa. Mục đích tôi hướng dẫn là để học sinh
nhận diện chữ cái viết hoa để phục vụ cho yêu cầu thực hành luyện viết chứ
không sa vào phân tích lý thuyết cấu tạo nét chữ vì các nét ở chữ viết hoa đã
có nhiều biến điệu. Khi viết mẫu chữ trên bảng lớp, tôi viết thật chậm kết hợp
nêu quy trình viết chữ. Sau đó, tôi cho học sinh luyện viết nhiều lần ở bảng
con để rút kinh nghiệm. Tôi đặc biệt chú ý giúp học sinh điều chỉnh các nét
cong hoặc các đường uốn lượn, hướng cho các em viết được các nét theo chữ
viết hoa mẫu, phải mềm mại và hợp lí. Trường hợp dạy chữ cái hoa thứ hai có
nhiều điểm giống chữ cái hoa thứ nhất, tôi không tập trung hướng dẫn nữa để
đỡ mất thời gian mà chỉ cho học sinh so sánh để nhận ra điểm giống nhau và
khác nhau giữa hai chữ cái viết hoa, bổ sung thêm nét để hoàn chỉnh chữ mới.
Ví dụ: Học sinh viết chữ A viết hoa, thêm dấu

thì được Ă, hoặc thêm


dấu ^ thì được Â. (Tương tự với các chữ cái viết hoa D-Đ, E-Ê, O-Ô-Ơ, U-Ư).
Từ tuần 27 về sau là nội dung “hướng dẫn viết ứng dụng chữ cái viết
hoa”. Giai đoạn này, học sinh được ôn lại kĩ thuật viết chữ cái viết hoa một lần
nữa. Tuy nhiên, điều tôi tập trung hơn là chỗ nối nét từ chữ cái viết hoa sang
chữ cái viết thường. Ngoài 29 chữ cái viết hoa, học sinh còn được học các chữ
hoa ghi âm có hai, ba chữ cái như: Ch, Gh, Gi, Kh, Ng, Ngh, Nh, Ph, Th, Tr.
Lúc này, tôi giúp các em ghi nhớ quy tắc viết hoa: chỉ viết hoa chữ cái đầu
tiên của chữ ghi tiếng. Tôi kết hợp dạy viết chữ hoa với việc dạy luật chính tả
về viết hoa,; giúp học sinh hiểu rõ yêu cầu viết đúng ở môn Tiếng Việt là viết

20


đúng con chữ, đúng kiểu chữ, đúng kích cỡ và đúng chính tả, khi các em thấy
xuất hiện luật chính tả về viết hoa chỗ nào thì phải viết hoa ở chỗ ấy, chứ
không được tùy tiện viết chữ hoa.
Khi luyện viết chữ viết hoa ở vở Em tập viết, học sinh có thể quan sát
mẫu ở đầu trang nhưng khi viết chính tả hoặc viết ở những vở khác thì một số
em lại lúng túng do quên mẫu chữ, vì chữ viết hoa ít được ứng dụng hơn chữ
viết thường. Để giúp học sinh nhớ kĩ các mẫu chữ viết hoa, tôi làm tấm bìa có
chiều rộng 3cm, chiều dài khoảng 15cm, trên đó, tôi ghi 29 chữ cái viết hoa
nằm trên đường kẻ li (viết cả hai mặt), rồi pho to bằng giấy cứng phát cho mỗi
học sinh. Khi viết bài, học sinh có thể đặt tấm bìa chữ sát lề vở, nhìn chữ mẫu
khi viết và đối chiếu lại khi viết xong để rút kinh nghiệm.
Từ khi quan tâm hướng dẫn học sinh viết chữ hoa, tôi nhận thấy học sinh
đỡ lúng túng hơn khi gặp luật chính tả viết hoa, các em ít sai chính tả về lỗi
viết hoa, các chữ viết hoa của các em dần dần được cải thiện, đúng mẫu quy
định, trông mềm mại và đẹp hơn trước.
6. Đánh giá bài viết của học sinh:

Qua việc đánh giá, tôi giúp học sinh nhận ra những thành công của mình
để phát huy và những chỗ mình còn thiếu sót để khắc phục, điều chỉnh. Đồng
thời qua việc đánh giá, tôi còn thống kê được những lỗi còn sai phổ biến ở học
sinh để kịp thời tìm biện pháp giúp các em sửa chữa.
Khi đánh giá bài viết ở bảng con, tôi thường tạo điều kiện cho học sinh
tham gia nhận xét chữ viết của bạn. Tôi gợi ý cho học sinh nhận xét về hình
dạng, độ cao, độ rộng chữ, về cách ghi dấu thanh, nối nét,… để giúp học sinh
có thói quen nhận xét cụ thể.
Tôi còn tập cho học sinh thói quen tự đánh giá bài viết của mình. Sau khi
viết xong, các em có thể tự so sánh bài viết của mình với chữ mẫu in sẵn hoặc

21


chữ trên bảng lớp để phát hiện những lỗi sai cần sửa chữa. Tuy học sinh có thể
chưa nhận ra hết những hạn chế về chữ viết của mình nhưng các em sẽ nhớ kĩ
hơn những lỗi sai mà tự mình phát hiện để không phạm phải nữa.
Đối với bài viết trong vở Em tập viết, khi xem, tôi thường gạch chân
những chữ học sinh còn viết chưa đúng để các em nhận ra và điều chỉnh. Tôi
cố gắng ghi lời nhận xét thật cụ thể, dễ hiểu, giúp học sinh dễ dàng thấy được
mình viết chưa đạt chỗ nào và vì sao mình viết chưa đạt. Ví dụ: “Chữ viết
đúng về độ cao nhưng khoảng cách chữ hơi hẹp.”; “Chữ viết rõ ràng, em cần
luyện viết dấu thanh nhỏ lại”, …
Ở giai đoạn đầu năm, tôi ưu tiên đánh giá nhận xét bằng lời nói vì học
sinh chưa đọc được chữ. Khi đó, tôi không thu bài viết mà đến tận nơi, vừa
nhận xét, vừa chỉ cụ thể những nét chữ đúng, đẹp; những nét chữ chưa đúng
cần điều chỉnh, sửa chữa.
Tôi không chỉ quan tâm đánh giá về chất lượng chữ viết mà còn đánh giá
về tốc độ viết. Thời gian đầu, khi học sinh mới học âm và chữ ghi âm, tôi
thường dành thời gian cho học sinh viết thật kĩ, nhớ cấu tạo chữ cái, thuộc và

viết đúng các nét. Về sau, khi viết các chữ ghi vần, ghi tiếng, học sinh chỉ cần
ghép những chữ cái và lưu ý kĩ thuật nối nét, đặt dấu thanh. Vì vậy, ở mỗi bài
viết tôi đều đặt yêu cầu về thời gian để học sinh tập viết nhanh dần.
Không chỉ đánh giá chữ viết ở vở Em tập viết, tôi còn quan tâm nhận xét
chữ viết của học sinh ở tất cả các môn học khác, đặc biệt là Chính tả. Sự
nghiêm khắc về chất lượng chữ viết ở tất cả các môn học là cần thiết vì như
thế học sinh mới được củng cố đồng bộ và thường xuyên.
Tôi thường xuyên liên hệ với phụ huynh học sinh, giúp phụ huynh hiểu rõ
về quan điểm đánh giá mới. Từ đó, phụ huynh cũng tham gia đánh giá kết quả
học tập của con em mình. Cũng nhờ thế, phụ huynh có sự quan tâm hơn đến

22


chữ viết của các em, bổ sung cho các em đầy đủ dụng cụ học tập và có những
biện pháp riêng để khích lệ học sinh cố gắng rèn chữ viết tiến bộ hơn.
Thông qua việc đánh giá, tôi nhận ra những cố gắng, nỗ lực của học sinh,
từ đó kịp thời động viên các em tiếp tục rèn luyện. Việc đánh giá nhận xét cụ
thể, rõ ràng, đồng bộ đã giúp học sinh điều chỉnh chữ viết rõ ràng hơn, đẹp
hơn.
7. Hướng dẫn học sinh trình bày bài viết trên vở ô li:
Tôi dùng vở ô li để giúp học sinh luyện viết vào các tiết buổi chiều. Giai
đoạn đầu năm, tôi phải viết mẫu đầu dòng cho học sinh để giúp các em xác
định dòng viết và nhìn mẫu viết theo. Dần dần, tôi để các em tự viết, chỉ viết
mẫu cho những em viết còn chậm hoặc còn sai.
Giai đoạn mới chuyển từ chữ cỡ vừa sang chữ cỡ nhỏ học sinh thường
gặp khó khăn do lẫn lộn về độ cao chữ. Lúc này, chữ viết của học sinh thường
mắc phải các lỗi sai như: nét này là chữ cỡ vừa nhưng nét kia là chữ cỡ nhỏ.
Vì vậy, tôi phải hướng dẫn tỉ mỉ cho học sinh trong những bài viết đầu tiên để
các em không bị lẫn lộn. Trước khi viết bài, tôi đều hỏi lại độ cao chữ cái, độ

cao các nét có trong chữ cái nhằm giúp học sinh nhớ và viết đúng.
Từ tuần học thứ 23, tôi tập cho học sinh đề thứ, ghi bài hàng ngày bằng
chữ cỡ nhỏ vào vở ô li. Lúc này, tôi phải sử dụng bảng phụ kẻ li như một trang
vở để hướng dẫn. Tôi giúp học sinh trình bày thứ, tên phân môn, tên bài học
cân đối trên trang vở. Đối với những em tiếp thu chậm, tôi phải đến bên cạnh
hướng dẫn từng phần.
Do một thời gian dài học sinh quen viết chữ cỡ vừa trên vở ô li, trình bày
viết một dòng, bỏ một dòng vở. Chuyển sang chữ cỡ nhỏ, học sinh vẫn có thói
quen trình bày như vậy. Vì thế, mỗi khi học sinh viết bài, tôi dùng bảng có kẻ
li để hướng dẫn các em viết từng dòng.

23


Trong một buổi học, tôi không cho học sinh viết nhiều quá, vì như thế các
em sẽ bị mỏi tay, viết không đẹp nữa. Tôi tập cho học sinh thói quen: trước
khi viết phải đọc nhẩm chữ để nhớ trong đầu, sau khi viết xong cũng phải đọc
nhẩm lại để kiểm tra xem mình đã viết đúng, viết đủ nét, đủ dấu phụ, dấu
thanh chưa.
Lúc học sinh tập viết bằng bút chì hay luyện viết ở bảng con, chữ nào
không đúng hoặc không vừa ý, học sinh có thể bôi xóa đi rồi viết lại dễ dàng.
Đến khi sử dụng bút mực, một số em quen bôi xóa làm cho bài viết dơ, nhòe
mực, không đẹp. Tôi luôn nhắc nhở học sinh cố gắng cẩn thận khi viết, không
để bị sai. Nếu đã lỡ viết sai cũng không được bôi xóa mà cũng dùng viết mực
gạch ngang một đường giữa chữ bỏ đi.
Trang vở muốn sạch sẽ, học sinh phải biết gạch hàng ngay ngắn. Đầu
tiên, tôi hướng dẫn học sinh cầm thước và bút chì tập kẻ những đoạn thẳng
trên giấy nháp. Những học sinh kẻ chưa đẹp, chưa thẳng, chưa ngay đường kẻ
đậm, tôi cho các em tập kẻ lại. Một số học sinh không biết tì đầu bút chì vào
thước kẻ, tôi phải đến tận nơi cầm tay tập cho các em kẻ. Khi học sinh đã kẻ

được những đường thẳng trên đường kẻ đậm, tôi mới cho các em tự kẻ hàng,
trình bày trong vở theo quy định.
Những việc làm trên, giáo viên chịu khó theo dõi giúp đỡ học sinh một
thời gian. Khi các em đã quen, các em sẽ tự thực hiện, không còn sai nữa. Tập
vở học sinh nhờ thế mà sạch sẽ hơn, các em cũng có tình cảm yêu quý, trân
trọng bài viết của mình hơn.
8. Quan tâm động viên học sinh rèn chữ và chú ý đến các đối tượng
học sinh trong lớp:
Để động viên khích lệ học sinh ham thích rèn luyện chữ viết, tôi thường
tạo ra những phong trào thi đua trong lớp như: Ai viết đẹp nhất? Ai viết nhanh

24


nhất? Ai có cố gắng nhiều hơn? Cuối tuần, người được các bạn bình chọn
nhiều nhất sẽ được tuyên dương trước lớp.
Tôi không xem việc xếp loại vở sạch chữ đẹp hàng tháng là một hình
thức để cập nhật kết quả mà là một phong trào thi đua thường xuyên, kích
thích sự phấn đấu trong học sinh. Cuối mỗi tháng, sau khi xếp loại vở sạch
chữ đẹp, tôi luôn tuyên dương những em có vở và chữ được xếp loại A. Làm
như vậy, học sinh thích thú và hăng say hơn trong việc rèn luyện chữ viết.
Những em chưa được khen cũng cố gắng luyện viết để lần sau mình được
khen. Nhờ đó, chữ viết của học sinh ngày càng tiến bộ rõ rệt.
Vào lúc rảnh rỗi, tôi kể cho học sinh nghe các câu chuyện về những tấm
gương luyện chữ như: Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn Ngọc Ký,…
Qua đó, tôi giáo dục học sinh cố gắng hơn trong việc rèn luyện chữ viết rõ
ràng, sạch đẹp.
Trong lớp học, không phải khả năng học tập của học sinh nào cũng giống
nhau. Với đối tượng học sinh viết chưa đạt, viết chậm luôn luôn cần sự giúp
đỡ của giáo viên. Vì vậy, tôi thường xuyên quan tâm tới các em trong giờ học.

Khi học sinh gặp khó khăn, tôi phải đến tận nơi hỗ trợ cầm tay tập viết. Giáo
viên tuyệt đối không được nóng vội, cũng không nên quá cầu toàn vì như thế
sẽ làm cho các em căng thẳng, chịu áp lực, không thích viết. Với các em học
sinh này, tôi thường yêu cầu giảm số lần viết khi tập viết để các em tập trung
nhớ chữ, viết đúng chữ theo yêu cầu.
Ví dụ: Bài viết ở vở Em tập viết quyển 2, trang 28, tôi yêu cầu học sinh
trong lớp viết một dòng “ai”, một dòng “trai”, hai hoặc ba dòng “giải nhất”
trong vở Em tập viết, còn những em viết chậm, tôi chỉ yêu cầu viết một dòng
“ai”, một dòng “trai”, một dòng “giải nhất”.

25


×