Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

sáng kiến kinh nghiệm một vài kinh nghiệm trong công tác

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.92 KB, 24 trang )

ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO LONG AN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

Đề tài:
MỘT VÀI KINH NGHIỆM
TRONG CÔNG TÁC BỒI DƯỠNG
HỌC SINH GIỎI VĂN 9

Người thực hiện: ĐỖ THỊ HỒNG CẨM
Đơn vị: Trường THCS PHƯỚC LÝ
Năm học: 2015 – 2016


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Phước Lý, ngày 07 tháng 4 năm 2016

ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Tên đề tài: “Một vài kinh nghiệm trong công tác
Bồi dưỡng học sinh giỏi Văn 9”
A. SƠ LƯỢC LÝ LỊCH:
- Ông (bà): Đỗ Thị Hồng Cẩm
- Năm sinh: 03/5/1967
- Nơi thường trú: 287 ấp Tân Điền, xã Long Thượng, huyện Cần Giuộc,
tỉnh Long An.
- Chức vụ đơn vị công tác: Tổ trưởng chuyên môn Ngữ Văn - Trường
THCS Phước Lý - Cần Giuộc - Long An


- Nhiệm vụ được phân công: Tổ trưởng bộ môn Ngữ vănGiáo dục công dân-Sử- Địa; Giảng dạy Ngữ văn lớp 9; Bồi
dưỡng học sinh giỏi Ngữ văn 9.
B. NỘI DUNG:
I. Cơ sở lý luận và thực tiễn:
Tài năng là vốn quý của nước nhà. Tài năng sẽ có và đến nhờ năng khiếu
song có năng khiếu cũng không trở thành tài năng được nếu không có quá trình
giáo dục, bồi dưỡng một cách khoa học. Vì vậy để thực hiện mục tiêu đào tạo
thế hệ trẻ Việt nam trở thành con người Việt nam có tài có đức kế tục sự nghiệp
cách mạng thì nhiệm vụ của các thầy cô giáo phải kịp thời phát hiện và có kế
hoạch bồi dưỡng học sinh có năng khiếu. Giáo sư Nguyễn Cảnh Toàn đã nói:
“Không có nền có gốc thì không có cây cao bóng cả”. Nguồn lực đó là người lao
động có trí tuệ có tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp, được đào tạo bồi
dưỡng và phát huy bởi một nền giáo dục tiên tiến gắn liền với một nền khoa học
công nghiệp hiện đại. Nhận thức đầy đủ và sâu sắc về vai trò tầm quan trọng của
nhiệm vụ bồi dưỡng những học sinh có khả năng theo học bồi dưỡng các môn

1


văn hóa của nhà trường. Với trách nhiệm của người trực tiếp giảng dạy công tác
bồi dưỡng học sinh giỏi liên tục tám năm qua và đặc biệt là năm 2015 - 2016 tôi
được Ban giám hiệu trường tín nhiệm giao công tác bồi dưỡng học sinh giỏi . Đề
tài này tôi đã áp dụng hai năm trước đây và có hiệu quả cao. Bên cạnh đó tôi
cũng được đồng nghiệp ở đơn vị sở tại cũng như đồng nghiệp gần xa trong
huyện, tỉnh nhà ủng hộ. Điều đó khích lệ tôi hứng thú và tâm đắc với công việc
hơn. Bản thân muốn nhân cơ hội này tiếp tục nghiên cứu và mạnh dạn đưa ra
những kinh nghiệm đã có và mới mẽ trong công tác giảng dạy và bồi dưỡng đội
tuyển học sinh giỏi văn tại đơn vị trường THCS Phước Lý.
II. Mục đích và phương pháp nghiên cứu:
Mục đích tôi viết đề tài này nhằm cùng các đồng nghiệp chia sẻ những kinh

nghiệm giảng dạy bồi dưỡng học sinh giỏi, đồng thời tìm ra những biện pháp
thiết thực, khả thi để việc bồi dưỡng đạt được nhiều học sinh giỏi môn Ngữ văn
hơn. Đó còn là tài liệu để tôi tiếp tục làm tốt công tác bồi dưỡng học sinh giỏi ở
những năm sau.
III. Giới hạn của đề tài:
Trong phạm vi bài viết này, tôi không có tham vọng nêu hết các phương
pháp thuần túy để dạy học sinh trở thành học sinh giỏi văn mà chỉ là những trải
nghiệm qua thực tiễn làm nhiệm vụ bồi dưỡng học sinh giỏi văn của bản thân
cho học sinh do tôi phụ trách.
IV. Kế hoạch thực hiện:
- Chọn đề tài: Tháng 9/2015.
- Viết đề cương chi tiết: Tháng 9/2015.
- Tiến hành thực hiện đề tài: Tháng 10, 11, 12/2015 và Tháng 1, 2/2016.
- Viết bản thảo SKKN theo đề cương đã chuẩn bị: Tháng 3/2016.
- Hoàn chỉnh bản SKKN, đánh máy, in ấn: Tháng 4/2016.
V. Thực trạng của đề tài:
Làm thế nào để học sinh trở thành học sinh giỏi nói chung và học sinh giỏi
văn nói riêng là vấn đề toàn ngành giáo dục quan tâm. Mỗi trường học, mỗi thầy
cô, thậm chí mỗi học sinh đều có những cách thức giống nhau và những cách

2


làm đặc thù riêng biệt. Đó là sự phong phú, sáng tạo, sự đa dạng nhưng đó cũng
là sự phức tạp, sự tất yếu của khoa học và cuộc sống xã hội.
Đối với bộ môn Ngữ văn, có thể nói công tác bồi dưỡng học sinh giỏi là
việc làm rất khó trong tình hình hiện nay. Học sinh ít đọc sách. Học sinh thích
tìm thông tin trên mạng, bằng các phương tiện kỹ thuật nghe nhìn sẽ tiện lợi hơn
đọc sách. Văn trên mạng lại không phải lúc nào cũng chuẩn mực.
Mặt khác, có những phụ huynh không muốn cho con chú tâm học môn văn

mà tập trung vào học các môn khoa học tư nhiên vì học môn văn ít có cơ hội
chọn nghề. Cách dạy học môn văn từ lâu không tạo được hứng thú vì không tìm
thấy sự hấp dẫn. Hơn nữa, điểm học môn văn thường không cao (vì giáo viên
chỉ hay cho thang điểm 5 – 6 – 7, hiếm khi được điểm 8 điểm 9 cho dù học sinh
đã có những cố gắng). Còn người dạy thì cứng nhắc, rập khuôn, làm hạn chế sức
sáng tạo của học sinh, (vì em nào viết văn phải theo như đáp án mới cao
điểm).Vì những lý do trên, việc tìm học sinh có nguyện vọng học bồi dưỡng học
sinh giỏi môn Ngữ văn là công việc vô cùng khó khăn.
Theo tôi, hai yếu tố cơ bản cần có trước nhất là giáo viên phải giỏi, yêu
nghề, tin yêu học sinh và thứ hai là học sinh phải có tình yêu con người, yêu
cuộc sống, yêu thầy cô giáo. Cho nên để có hai yếu tố đó đã khó, và làm cho hai
yếu tố đó gặp nhau lại càng khó hơn. (Cứ giả sử, người dạy đã có tâm huyết, đủ
tri thức để giảng dạy nhưng người học không cùng đồng hành thì sẽ không có
kết quả như mong muốn). Có thể coi đó là hai yếu tố cần để làm nên thành công,
nhưng thiết nghĩ yếu tố thứ nhất, người thầy, vẫn là đòi hỏi trước tiên và cấp
bách hơn. Người thầy giỏi, biết cảm thụ văn chương, biết làm cho học sinh
khám phá được cái hay của hình tượng văn học và giá trị của cuộc sống sẽ giúp
cho tâm hồn các em được yêu đời, yêu người, yêu văn học. Từ đó, các em sẽ
thích học văn và từng bước các em sẽ học giỏi văn.
Muốn vậy, người thầy phải nêu cao vai trò “tự học, sáng tạo” để tích luỹ
kiến thức, bồi dưỡng nhân cách, tâm hồn cần thiết để có đủ năng lực bồi dưỡng
học sinh.
Về phía học sinh, thực tế cho thấy, hiện nay số lượng học sinh giỏi văn
không nhiều, chất lượng lại có chiều hướng giảm đi. Học sinh có khả năng lại
không muốn học. Những học sinh chấp nhận học bồi dưỡng môn văn nhưng lại

3


học yếu. Thực trạng này đã được nhiều người tâm huyết với nghề trao. Lý do

đưa ra cũng khá phong phú, đa dạng, song tập trung chủ yếu vào các nguyên
nhân sau:
- Người dạy văn chưa làm cho học sinh cảm nhận được cái hay về cả nội
dung lẫn nghệ thuật của tác phẩm văn chương.
- Học sinh nói và viết rất ngô nghê, không đúng với mục đích diễn đạt do ít
rèn luyện.
- Một số giáo viên chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm khi chấm, trả bài nên
học sinh không nhận ra thiếu sót để sửa chữa (thậm chí đọc bài hời hợt, không
phát hiện ra những tứ văn mới, những sáng tạo (dù nhỏ) của học sinh, do đó
không có sự khuyến khích kịp thời (và đó cũng là lý do làm thui chột lòng ham
thích học văn của các em).
Tất cả những lý do trên đây đã làm hạn chế niềm đam mê học văn của
học sinh.
Từ thực tế trên, qua những việc đã làm của bản thân, tôi muốn được cùng
các đồng nghiệp chia sẻ, trao đổi để ngày càng có nhiều học sinh “chịu” học văn
hơn. Tôi mạnh dạn đề xuất một số biện pháp mà bản thân tôi đã làm trong thời
gian qua.
VI. Các biện pháp giải quyết vấn đề:
Trình tự các bước từ khâu chọn học sinh đi bồi dưỡng đến việc hướng dẫn
cách cảm thụ và rèn luyện cho học sinh kỹ năng viết văn như sau:
*Bước 1: Phát hiện những học sinh có khả năng cảm thụ văn học
a. Chọn học sinh có năng khiếu:
- Là những học sinh có năng lực tư duy tốt ở mọi vấn đề.
- Có hiểu biết và khá thông tuệ mọi vấn đề.
- Có khả năng nhớ lâu, khả năng suy diễn, giải quyết xử lý tình huống linh
hoạt hiệu quả cao.
b. Khả năng sáng tạo:
- Luôn có phát hiện mới mẻ độc đáo.

4



- Luôn chủ động độc lập trong tư duy.
- Có khả năng tự học và tự tìm tòi.
c. Tinh thần say mê ham học:
- Là những học sinh có chính kiến, biết bảo vệ chính kiến.
- Trung thực, điềm đạm và nhạy cảm.
- Khiêm tốn học hỏi . Say mê và yêu thích môn học. Có ý chí vươn lên để
khẳng định mình.
*Bước2: Tổ chức tuyển chọn
- Căn cứ vào điểm và kết quả của năm học trước, nhất là điểm qua các kỳ
thi mà nhà trường tổ chức đánh giá một cách nghiêm túc và trung thực. Tất
nhiên điểm số không phải là cơ sở và căn cứ chủ yếu càng không phải là điều
kiện quyết định để lựa chọn học sinh có năng khiếu nhưng nó vẫn là kết quả trực
quan ban đầu để đánh giá và đưa các em vào danh sách tuyển chọn.
- Xem xét kết quả của quá trình học tập ở nhà trường. Một học sinh liên tục
cả năm và nhiều năm đạt học sinh giỏi trong các kỳ thi thì đó chính là một căn
cứ tin cậy và nó cũng thể hiện đầy đủ những khả năng phẩm chất đáng quí của
một học sinh có năng khiếu.
+ Thông tin từ giáo viên đã từng giảng dạy ở các lớp.
+ Dựa vào thực tế quá trình học tập bồi dưỡng . Đây là những cơ sở thực
tiễn có chiều sâu chính xác và sát xuất cao vì qua đó các em được bộc lộ và thể
hiện đầy đủ những khả năng của mình.
- Tuyển chọn bằng cách trực tiếp phỏng vấn trao đổi đối với từng cá
nhân học sinh. Qua thực tế thì cách này mang lại hiệu quả khá cao bởi vì
người dạy sẽ phát hiện được những học trò thích và ham mê bộ môn của mình
bởi trong quá trình học tập và giảng dạy giữa thầy và trò bao giờ cũng có sự
đồng cảm và ăn ý với nhau. (Cách đặt câu hỏi có thể là: Bộ môn học trong
nhà trường mà em yêu thích nhất? Vì sao? Điều mà em thấy lý thú và hấp dẫn
ở bộ môn này? ... )

- Kiểm tra đánh giá sau thời gian bồi dưỡng và tổ chức điều chỉnh thành
đội tuyển.

5


Bước này được coi là bước cuối cùng trong khâu tuyển chọn. Cuối mỗi kỳ
các lớp đội tuyển được kiểm tra khảo sát chất lượng bằng một bài thi chuẩn bị
cho các đội tuyển của năm học tiếp theo.
* Bước 3: Lên kế hoạch bồi dưỡng học sinh giỏi
- Giáo viên trực tiếp đạm nhiệm công việc này tự lên nội dung chương trình
kiến thức với lượng kiến thức thích hợp. Tránh thích gì dạy nấy theo cảm tính.
Giáo viên phải mài mò, tìm tòi, học hỏi của đồng nghiệp và kinh nghiệm của
bản thân.
- Bố trí thời gian bồi dưỡng cần hợp lí.
*Bước 4: Rèn kỹ năng nói, viết những câu văn đúng, hay, giàu hình tượng
Trước hết, cần rèn tập học sinh nói đúng, đúng cả từ ngữ, câu văn, mục
đích và phong cách diễn đạt tiến tới nói hay, viết hay. Bồi dưỡng văn trước hết
là bồi dưỡng kiến thức, sự hiểu biết, năng lực nhận thức, tư tưởng, tình cảm,
nhân cách con người. Người có tốt văn mới hay.
Ta biết rằng, những câu văn hay không nhiều và cũng không dễ có. Văn
được viết ra từ tâm hồn và trí tuệ con người mà có khi ta phải dạy, phải rèn cả
một quá trình mới có được.
Để giúp học sinh biết viết các câu văn giàu hình tượng, trước hết tôi thường
cho học sinh nhận xét được sự khác nhau giữa hai câu văn có cùng một ý nhưng
cách diễn đạt khác nhau.
*Ví dụ 1:
1a) Mặc dù phải trải qua nhiều khó khăn thử thách nhưng cuối cùng Đảng
cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác. (Phong cách khoa học)

1b) Mặc dù cách mạng Việt Nam phải trải qua nhiều bão táp mưa sa, song
Đảng đã khéo léo chèo lái con thuyền Việt Nam vượt qua những thác ghềnh của
bão tố để cập bến vinh quang...v.v. (Phong cách nghệ thuật)
Sau khi cho học sinh đọc kỹ và so sánh 2 cách diễn đạt thì học sinh sẽ nhận
ra câu (b) có cách diễn đạt giàu hình ảnh, gợi cảm và gây ấn tượng hơn.
Vậy nhờ đâu, do cách viết như thế nào mà cách viết thứ 2 lại sinh động hơn?

6


Giáo viên giúp học sinh thấy: do sử dụng linh hoạt, nhuần nhuyễn các biện
pháp tu từ; do sử dụng hợp lý các hình ảnh,...
Đặc biệt, dạy văn hay thơ, giáo viên cần chú ý khai thác đúng dụng ý nghệ
thuật của từng thể loại, từng bài cụ thể. Chẳng hạn, phép tu từ được sử dụng
trong thơ. Đây là lúc để cho học sinh bước đầu thực hành.
*Ví dụ 2:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.”(Viếng Lăng Bác)
Giáo viên cho học sinh nhận biết các “tín hiệu” cần thiết (có thể có các ý kiến
khác nhau) sau đó cùng các em thống nhất và chốt lại một số dấu hiệu như sau:
- Cách dùng từ thật đắt: Cặp từ xưng hô (con/Bác) và từ “thăm” để thể
hiện tình cảm thân thiết gia đình của đứa con đi xa trở về thăm lại người thân.
- Cách sử dụng các biện pháp tu từ:
Biện pháp sóng đôi: Hiện thực (hàng tre ở lăng Bác) và hình ảnh ẩn dụ
“hàng tre” biểu tượng cho làng quê, dân tộc Việt Nam đứng bảo vệ giấc ngủ
ngàn thu của Bác. Sau đó cho học sinh tập phân tích để làm rõ cái hay của đoạn
thơ.
Tương tự như thế, giáo viên chọn những đoạn thơ hay để học sinh tập tìm

hiểu (trước hết là những đoạn quen thuộc ở trong các bài như: Mùa xuân nho
nhỏ, Đồng chí...) khi học sinh đã quen thì mình lại yêu cầu cao hơn (đưa ra
những đoạn thơ hay mà lạ - kể cả ca dao - để vừa làm giàu vốn văn thơ, vừa rèn
kỹ năng phân tích).
*Bước 5: Cung cấp kiến thức- kĩ năng cho học sinh
- Cung cấp đầy đủ những kiến thức lí thuyết định hướng thực hành.Không
có lí thuyết định hướng học sinh sẽ rơi vào tình trạng nói, viết tuỳ tiện. Có
những giờ bồi dưỡng chỉ nhằm rèn luyện một thao tác, khẳng định một phần
kiến thức nhưng có giờ giáo viên nhằm vào việc củng cố, làm rõ nhiều vấn đề lí
thuyết và nhiều kĩ năng.Những lí thuyết này có thể học sinh chưa học trong
7


chương trình chính khoá, có thể giáo viên củng cố, khẳng định, nâng cao hơn lí
thuyết học sinh đã học. Bởi vậy, khi cung cấp giáo viên luôn quan tâm đến từng
đối tượng tiếp nhận để học sinh thấy tầm quan trọng của lí thuyết và ý nghĩa của
lí thuyết đối với thực hành.
*Ví dụ: Khi ôn học sinh giỏi lớp 7 phần văn nghị luận - học kì II, việc đầu
tiên giáo viên cung cấp kiến thức đơn giản có trong sách giáo khoa như: Thế nào
là văn nghị luận? Đặc điểm của luận điểm, luận cứ, lập luận và phương pháp lập
luận trong văn nghị luận. Sau đó, giúp học sinh hiểu cách làm bài văn nghị luận
chứng minh, nghị luận giải thích, nghị luận chứng minh kết hợp với giải thích.
Tiếp theo, giáo viên cung cấp kiến thức về văn bản như “Tinh thần yêu
nước của nhân dân ta” - Hồ Chí Minh; “Sự giàu đẹp của tiếng Việt” - Phạm Văn
Đồng... học sinh hiểu kiến thức nội dung, nghệ thuật của văn bản và khắc sâu
hơn kiến thức về đặc điểm của văn nghị luận.
Từ lí thuyết đã cung cấp, học sinh có cơ sở để thực hành.
- Chuẩn bị tốt nội dung viết.
Chỉ có kiến thức lí thuyết về các kiểu bài văn và các thao tác làm văn,
học sinh chưa thể tạo ra một bài văn tốt. Học sinh sẽ không biết viết gì trong

bài làm của mình khi chưa có hiểu biết đầy đủ về đối tượng trình bày.Bởi vậy
tư liệu, kiến thức càng sâu, rộng, phong phú, đa dạng thì nội dung càng hàm
súc, chặt chẽ. Giáo viên cần cung cấp thêm kiến thức sâu, rộng của vấn đề từ
đó học sinh có cái nền vững chắc cho bài viết.Giáo viên cũng cần hướng dẫn
học sinh, không phải tất cả hiểu biết đều đưa vào bài mà cần biết chọn lọc,
lựa chọn cái gì trong vốn hiểu biết của mình cho phù hợp với đề bài. Do vậy
việc chuẩn bị tốt những nội dung cho học sinh lựa chọn là điều không thể
thiếu trước khi làm bài.
Chẳng hạn, với đề văn “Hãy phân tích tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn
Trãi thể hiện trong đoạn trích “Nước Đại Việt ta” - Ngữ Văn 8, tập II, ít ra
học sinh phải nắm các nội dung cụ thể: Thế nào là tư tưởng nhân nghĩa và có
thêm kiến thức như thời đại, thân thế và sự nghiệp thơ văn của Nguyễn trãi…
càng nhiều càng tốt.

8


Thiếu những hiểu biết đó, đặc biệt những kiến thức phục vụ trực tiếp cho
đề bài, học sinh không thể không tránh khỏi lúng túng khi triển khai bài viết
của mình.
- Bồi dưỡng về kĩ năng làm bài.
Với kĩ năng làm bài, thầy Nguyễn Duy Tú cho rằng, cần bồi dưỡng cho học
sinh kĩ năng xác định nội dung, yêu cầu của đề bài và phương hướng triển khai
bài viết; kĩ năng lập luận; kĩ năng hành văn và kĩ năng hoàn thiện bài viết.Để
xác định nội dung, yêu cầu của đề bài và vạch ra phương hướng triển khai bài
viết một cách đúng đắn, học sinh cần phải đọc kĩ đề bài, chú ý tới các dữ kiện đề
bài đưa ra và những yêu cầu mà đề bài đòi hỏi. Khi đề có lời dẫn thì hết sức thận
trọng, tìm hiểu cẩn thận từng từ ngữ, từng mối quan hệ giữa các thành phần câu
để có thể hiểu một cách chính xác nội dung mà đề được nêu.
*Ví dụ: Lời dẫn là một câu tục ngữ, châm ngôn hoặc lời nói có ngụ ý sâu

xa cần phải xem xét cả nghĩa đen và nghĩa bóng để có thể hiểu đúng hướng,
tránh sự hiểu lầm hoặc suy diễn thiếu cơ sở.Cùng với đó, xác định những yêu
cầu chính của đề: Nội dung, giới hạn, dạng đề, mức độ cần giải quyết…
Để có thể định được phương hướng triển khai bài viết, học sinh cần trả lời
được các câu hỏi: Viết cái gì? Viết để làm gì? Viết cho ai? Viết theo cách nào?
Việc trả lời các câu hỏi này càng rõ ràng, cụ thể, chính xác thì hiệu quả của bài
viết càng cao, đặc biệt câu hỏi “Viết cái gì?”. Nếu không xác định rõ sẽ dẫn tới
chỗ lạc đề, loãng đề hoặc phá vỡ nội dung bố cục bài viết.
Kĩ năng lập dàn ý: Lập dàn ý là cách sắp xếp nội dung chủ yếu của bài viết
theo một chiến lược nhất định. Đó là cách tổ chức các luận điểm của bài sao cho
bộc lộ được nội dung và lô gíc vấn đề, có tác động tới tư tưởng, tình cảm và
hành động của người đọc.
Giáo viên nên hướng dẫn học sinh chia nội dung các ý thành những nhóm
nhỏ theo quy định của tiểu chủ đề. Mỗi chủ đề thể hiện một ý riêng không trùng
lặp với ý chủ đề khác. Cũng cần lưu ý học sinh nhất thiết phải vạch ra dàn ý.
Không cần quá chi tiết, song việc dành ra 5- 10 phút cho xác định ý là điều
không thể thiếu.

9


- Kĩ năng viết đúng theo dàn ý: Hiện nay, nhiều học sinh khi làm bài có lập
dàn ý nhưng khi viết không điều khiển được ngòi bút, suy nghĩ nên bài viết
không bám sát dàn ý, hoặc thoát li hoàn toàn dàn ý. Việc này làm cho dàn ý mất
hết ý nghĩa nên việc lập dàn ý trở thành hình thức, máy móc. Bởi vậy, việc rèn
kĩ năng viết đúng dàn ý là điều cần thiết với học sinh.
Để học sinh viết đúng dàn ý, giáo viên hướng dẫn học sinh lập dàn ý sát
với đề bài, chu đáo, có như vậy khi viết mới liên tục, chủ động. Khi làm bài
không có dàn ý chẳng khác nào người đi trong rừng rậm hoặc đi biển mà không
có la bàn, học sinh sẽ viết lung tung, phá vỡ sự tập trung của chủ đề, thiếu ý

hoặc loãng ý.
Khi viết bài, học sinh có thể bổ sung ý vào bài viết của mình khi cần thiết
song phải đảm bảo mạch lạc sự phát triển của vấn đề, không được tạo ra sự gãy
khúc trong khi trình bày văn bản.
- Kĩ năng lập luận: Lập luận là cách thức đưa vấn đề, trình bày vấn đề sao
cho có tính thuyết phục và luôn luôn đảm bảo sự nhất quán trong suốt quá trình
trình bày.
Luận điểm, luận cứ, luận chứng là những yếu tố quan trọng của lập luận.
Luận điểm là mội dung quan trọng mà người viết muốn đề cập đến, phục vụ cho
việc làm sáng rõ nội dung của bài viết. Luận điểm được coi là một tiểu chủ
đề.Còn luận cứ là những lí lẽ mà người viết đưa ra nhằm thuyết minh, làm sáng
tỏ luận điểm. Đây chính là những ý phụ của luận điểm. Một luận điểm có thể
chia làm nhiều luận cứ.Như vậy luận điểm không cùng bậc với luận cứ, nó thuộc
bậc trên, bậc lớn hơn. Còn luận chứng là những tài liệu, dẫn chứng minh hoạ…
làm sáng tỏ luận cứ. Chính vì vậy lập luận chính là sự xâu chuỗi các luận cứ,
luận chứng sao cho hợp lí, thuyết phục người đọc nhất, giúp người đọc nhận ra
luận điểm, tin ở luận điểm.
Để lập luận chặt chẽ, yêu cầu học sinh sử dụng một số cách triển khai đoạn
văn như liệt kê, quy nạp, móc xích, song hành, hỏi đáp, tương phản.
- Kĩ năng hành văn: Trong thực tế ôn luyện, nhiều học sinh lầm tưởng rằng
khi viết văn càng dùng nhiều hình ảnh, nhiều sự ví von, so sánh hoặc nhiều từ
ngữ sinh động bài viết càng đạt kết quả cao. Vì sự ngộ nhận này mà nhiều lúc
các em cố tình dùng từ ngữ sáo mòn, diễn đạt vòng vèo, cầu kì, không phù hợp
10


với phong cách của bài viết. Vì vậy trong khi ôn luyện cần rèn cho học sinh viết
đúng phong cách, phù hợp với nội dung bài viết.Muốn viết đúng phong cách, bài
hay cần có vốn từ, nắm vững các kiểu kết cấu ngữ pháp của câu, thường xuyên
vận dụng, luyện tập. Muốn vậy giáo viên phải luôn kiểm tra, sửa chữa bài viết

của mỗi học sinh thì bài làm của các em mới đạt đến cái đích: trong ý và sáng
trong lời.
- Kĩ năng hoàn thiện bài viết: Giáo viên ôn luyện phải thường xuyên đòi
hỏi học sinh có năng lực biết tự nhận xét, tự đánh giá, điều chỉnh bài viết của
mình. Biết tìm ra chỗ mạnh, chỗ yếu; phân tích để thấy đâu là cái đúng, đâu là
cái sai… trong bài viết.Việc hoàn thiện, điều chỉnh có thể tiến hành ngay sau khi
học sinh thực hành viết xong, cũng có thể ở buổi ôn sau rồi giáo viên mới thu,
chấm và nhận xét, chỉ ra những lỗi để học sinh điều chỉnh cho đúng, dựa theo sự
gợi ý của giáo viên.
*Bước 6: Cách ra đề
- Đề ra không rập khuôn, máy móc mà là dạng đề mở để học sinh có cơ hội
thể hiện mình; cơ hội sáng tạo, linh hoạt trong việc giải quyết vấn đề.
- Thường xuyên sưu tầm các bộ đề thi các cấp trong tỉnh và các nơi khác
thông qua báo chí hoặc các phương tiện truyền thông đa dạng nhằm giúp các
em tiếp xúc làm quen với các dạng đề, luôn tìm đọc, tham khảo các tài liệu
hay để định hướng cho học sinh tự tìm tòi, khám phá, tự học.
*Bước 7: Tiến hành viết bài
Hàng buổi, sau khi đưa những đoạn thơ hay, giáo viên giúp học sinh định
hướng cách phân tích qua những dấu hiệu nghệ thuật để học sinh biết cảm
thụ.Từ những gì đã thu lượm được, học sinh vận dụng để viết tại lớp.Những bài
viết này là những bài văn ngắn (chỉ yêu cầu viết trong khoảng thời gian 45 phút)
rồi giáo viên đọc và trực tiếp sửa ngay cho từng em.Khi sửa phải tuỳ từng bài,
tuỳ từng lỗi nhưng phải trân trọng những ý tưởng mà các em đã đưa ra,rồi từ đó
mình biết cách khơi gợi, mở rộng, (tránh trường hợp chỉ cho học sinh viết bài
mà giáo viên không hướng dẫn hoặc hướng dẫn thật ít-vì như thế thì quá lãng
phí thời gian). Thường viết bài ở lớp chất lượng không cao, vì thời gian có hạn
nhưng vẫn phải rèn (đặc biệt là cần cho học sinh làm quen với lượng thời gian
tương ứng với dung lượng đề bài để khi đi thi các em có thói quen chủ động).
11



*Bước 8: Chấm chữa bài của học sinh
- Khâu chấm chữa bài cho học sinh giỏi vô cùng quan trọng. Chấm kỹ từng
phần và trân trọng tất cả những cảm nhận, tìm tòi của các em (kể cả những ý
kiến ngược lại với hướng dẫn của giáo viên)
+ Nhận xét, đánh giá khách quan; biết thẩm thơ, thẩm văn của học sinh
đối với tấm lòng chân thành, với tâm trạng thư thái, cân bằng, bao dung, độ
lượng, hiểu từng con người học sinh qua bài chấm. Tránh áp đặt học sinh trong
quá trình nhận thức, cảm thụ văn học, nghệ thuật ngôn từ.
+ Theo kinh nghiệm bản thân, việc chấm chữa bài của học sinh phải
khuyến khích những mặt mạnh của bài làm; đồng thời phải chỉ rõ những mặt
non yếu trong diễn đạt, dùng từ, đặt câu – bằng lời nhận xét một cách cụ thể
rõ ràng. Khi cần thiết,viết lại một vài câu hoặc một đoạn để học sinh so sánh,
đối chiếu.
+ Tránh kiểu nhận xét chung chung như “Có cố gắng”; “Có nhiều tiến
bộ”… Có thể nói khâu chấm, chữa bài, đánh giá kết quả bài làm của học sinh là
một công việc đầy lao lực nhưng cũng đầy trách nhiệm của giáo viên trong quá
trình “đãi cát tìm vàng” trong bài làm của học sinh…
*Những công việc mà giáo viên trực tiếp làm công tác bồi dưỡng học
sinh giỏi văn cần làm:
- Công việc 1: Giúp học sinh nhận biết một số “tín hiệu”để có cơ sở hiểu
các tầng nghĩa mà người viết muốn gửi gắm
Để có quan điểm đúng khi tiếp cận tác phẩm, giáo viên cần cho học sinh
thấy được các tầng nghĩa mà người viết muốn gởi gấm: Như có người phân tích
bài Bánh trôi nước của thi sĩ Hồ Xuân Hương chỉ tập trung phân tích hình tượng
chiếc bánh trôi nước, từ đó làm nổi bật phẩm chất cao đẹp và thân phận chìm nổi
của người phụ nữ Việt Nam. Phân tích như vậy là đúng nhưng vẫn chưa đủ vì
người phân tích chưa chú ý đến tính trữ tình của bài thơ.Tức là chưa thấy tình
cảm và tấm lòng của nữ thi sĩ.
Một ví dụ khác: trong “Ông đồ” của Vũ Đình Liên, để khắc hoạ đậm nét

thời tàn tạ của Nho học (khi mà xu hướng Tây học đang dần dần lấn át xu hướng
Hán học), tác giả chỉ cần sử dụng một lát cắt của cuộc sống qua hình ảnh ông đồ

12


cùng “mực tàu, giấy đỏ” vào những ngày tết đến xuân về, nhưng ở những khổ
thơ khác nhau thì ông đồ cũng hiện lên khác nhau. Người đọc sẽ nhận thấy thời
hoàng kim của ông đồ khi mà “Bao nhiêu người thuê viết/ Tấm tắc ngợi khen
tài/ Hoa tay thảo những nét / Như phượng múa rồng bay” và cũng dễ dàng nhận
ra cái thời huy hoàng đó đang dần lùi xa, nhường chỗ cho sự tàn lụi (Ông đồ vẫn
ngồi đấy/ Qua đường không ai hay/ Lá vàng rơi trên giấy/ Ngoài trời mưa bụi
bay) qua hình ảnh “lá vàng rơi”, “mưa bụi bay” cùng với sự thời ơ, vô cảm của
dòng người đang hối hả đi sắm tết (Ông đồ vẫn ngồi đấy/ Qua đường không ai
hay/ Lá vàng rơi trên giấy/ Ngoài trời mưa bụi bay).
Tóm lại: giữa “cảnh” và “tình” có mối quan hệ mật thiết, hữu cơ với nhau,
cho nên qua “cảnh” ta có thể hiểu “tình” và ngược lại qua “tình” ta cũng có thể
hiểu “cảnh” để từ đó khi bồi dưỡng học sinh giỏi, người giáo viên giúp học sinh
nhận biết một số “tín hiệu”để có cơ sở hiểu các tầng nghĩa mà người viết muốn
gửi gắm.
- Công việc 2: Yêu cầu học sinh nắm chắc tiểu sử tóm tắt của các tác giả và
cung cấp một số kiến thức lịch sử liên quan để có cơ sở hiểu đúng tác phẩm
Nếu không nắm được tiểu sử tác giả và hoàn cảnh sáng tác thì khi phân
tích dễ có sự lệch lạc, không hiểu đúng tác phẩm và nhất là không có kiến thức
để viết phần mở bài (nếu không nhớ năm sinh –năm mất thì cũng phải nhớ được
thời đại tác giả sống). Còn nếu không nắm được các mốc lịch sử thì sẽ không có
cơ sở để hiểu một số tác phẩm.
*Ví dụ 1:
Nếu không nắm được nhân dân ta phải trải qua cuộc kháng chiến chống
Pháp trường kỳ từ 1946-1954 thì cũng không hiểu tại sao người chiến sĩ vệ

quốc lại:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá

13


Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”.
*Đối với các tác giả: tương tự như vậy, nếu ta không hiểu về quá trình hoạt
động; về thời đại tác giả sống; về phong cách, thể loại viết; về những đóng góp
cho nền văn học nước nhà thì cũng hạn chế đến việc hiểu đúng tác phẩm.
*Ví dụ 2: Nếu ta không thấu hiểu cuộc đời đầy bất hạnh và những nỗi khó
khăn khi hoạt động nghệ thuật thì ta khó lòng thông cảm cho nhà thơ mù
Nguyễn Đình Chiểu đã có câu thơ: “Khoan khoan ngồi đó chớ ra – Nàng là phận
gái ta là phận trai”. Tóm lại, muốn có kiến thức để viết bài và hiểu đúng tác
phẩm thì việc hiểu tác giả và nắm chắc các mốc lịch sử là điều không thể thiếu.
- Công việc 3: Cho học sinh tiếp cận với những bài thơ, đoạn thơ hay
Mục đích của việc này là tạo hứng thú và niềm đam mê học văn cho các em
(giáo viên nên phân tích và chỉ cho học sinh thấy cái hay của những bài đó). Đặt
ra cho học sinh câu hỏi: Bài thơ hay là do đâu? Những hình ảnh, những câu từ
nào đã góp phần làm nổi bật cái hay? Nhờ biện pháp tu từ nào mà họ làm cho ta
thấy được cái hay của bài thơ, đoạn thơ đó... Muốn thế, khi tiếp cận đoạn thơ, ta
hãy chú ý đến: màu sắc, hình khối, đường nét, âm thanh mà tác giả đã sử dụng.
Gọi tên được các biện pháp tu từ và thấy được tác dụng của biện pháp tu từ đó,
đồng thời chú ý đến nhịp thơ: cách ngắt nghỉ, nhịp thơ dài hay ngắn; cách dùng
các từ láy (từ láy tượng hình hay tượng thanh)...

*Ví dụ 1: Thử đọc khổ đầu của bài “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải:
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.
Ta như thấy trước mắt ta là một bức tranh của mùa xuân xứ Huế với hoa
nở, chim hót, sông xanh, trời rộng cùng với những “giọt âm thanh long lanh”
của con chim chiền chiện đang chao liệng trên bầu trời thanh bình, yên ả. Vẻ
14


đẹp nao lòng đó chính là lời mời gọi tha thiết của những người con xứ Huế dành
cho những ai chưa một đặt chân đến mảnh đất thơ mộng này.
Ngoài ra, giáo viên cần gợi cho học sinh biết liên tưởng: nếu có óc liên
tưởng sẽ dễ dàng giúp ta biết “huy động” những kiến thức mà ta đã có để vận
dụng vào việc phân tích và chứng minh cho vấn đề mình vừa phân tích. Ở phần
này đòi hỏi học sinh vận dụng nhiều kiến thức đã học và đặc biệt biết chọn lọc
kiến thức để đưa vào bài viết phù hợp và bật được ý trọng tâm . Thường sử dụng
cho các dạng đề mở mang tính chất chủ đề.
*Ví dụ 2: Dạy văn học thơ hiện đại Việt Nam về đề tài người lính. Học
sinh ngoài nắm kiến thức từng bài về hình ảnh người lính có trong chương trình
như văn bản Đồng chí, Bài thơ về tiểu đội xe không kính, bài Ánh trăng . Học
sinh còn phải biết chọn lọc điểm giống và khác nhau về nghệ thuật cũng như
nội dung mỗi bài để bật lên chủ đề chung về hình ảnh người lính . Tóm lại: Sự
độc đáo của liên tưởng sẽ giúp nhiều cho ta trong việc khơi gợi trí nhớ; vì thế,
nếu có óc liên tưởng thì bài viết ý sẽ phong phú, minh chứng sẽ xác đáng, diễn
đạt sẽ linh hoạt, cho nên giúp ích rất nhiều cho việc viết văn.
Nói chung, công việc bồi dưỡng học sinh giỏi không thể có một giáo án

nhất nhất được vì những tình huống xảy ra trong từng buổi học sẽ khác nhau.
Nghĩa là người dạy phải linh hoạt, tuỳ từng em, tuỳ từng buổi học phát sinh ra
tình huống nào để mà chọn dạy cái gì, dạy như thế nào.
+ Tiếp theo, chúng ta cần bồi đắp cho các em lòng say mê, hứng thú với
môn học. Chỉ khi trong các em có lửa nhiệt tình, có lòng đam mê yêu thích thì
các em mới có thể theo đuổi và hết lòng vì môn học. Chính những trang văn
hay, những lời thơ thấm đẫm tình người, tình đời; những bài học sâu sắc về cuộc
sống; sự thành thạo am hiểu về vốn ngoại ngữ để có thể giao lưu mở rộng sự học
sau này những điều hấp dẫn, lôi cuốn các em có thiện cảm say mê với các môn
học xã hội.
+ Với giáo viên phụ trách đội tuyển phải luôn luôn học tập tích lũy kinh
nghiệm, trau dồi phương pháp, thường xuyên tiếp cận các tác phẩm, cập nhật
những tin tức thời sự về văn học, đọc các bài viết, các dạng đề, tích luỹ các đề
thi... Mặt khác, cần học hỏi kinh nghiệm từ các giáo viên dạy trong trường hay

15


những giáo viên có kinh nghiệm ở các đơn vị khác. Có những vấn đề khó, hãy
thảo luận với giáo viên trong tổ để tìm hướng đi.
+ Trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần khái quát, hệ thống kiến thức
để đưa ra những yêu cầu riêng về phương pháp làm bài của từng phần trong cấu
trúc đề thi.
- Với môn Ngữ văn:
*Ví dụ: Với phần Tiếng Việt, kiểu bài thường gặp là tác dụng của biện
pháp tu từ. Từ đó giáo viên định hướng cho các em phương pháp làm bài: tập
trung vào giá trị gợi hình và gợi cảm của các biện pháp tu từ. Sự chắc chắn về
kiến thức Tiếng Việt như dùng từ, câu, dựng đoạn giúp các em rất nhiều trong
khi làm văn.
Với phần nghị luận xã hội, học sinh cần thuần thục các ý cơ bản cần triển

khai ở các dạng đề khác nhau để xử lí linh hoạt trước sự đa dạng của vấn đề nghị
luận. Phân biệt được giọng văn của nghị luận xã hội và nghị luận về tác phẩm
văn học. Cũng cần lưu ý rằng một bài nghị luận xã hội thì tính vận dụng vào
thực tế phải được thể hiện rõ nét thông qua phần rút ra bài học nhận thức và
hành động.
Với phần nghị luận về tác phẩm văn học là nội dung cần quan tâm nhiều
hơn cả. Ngoài việc yêu cầu các em nắm vững nội dung và nghệ thuật của từng
tác phẩm cụ thể; giáo viên còn hướng dẫn cho các em những lưu ý khi làm bài
đối với tác phẩm truyện và tác phẩm thơ. Tác phẩm truyện thường chú ý về tình
huống, cốt truyện, nhân vật, các chi tiết đắt. Còn tác phẩm thơ lại chú trọng về
cảm hứng, nhân vật trữ tình và từ ngữ, hình ảnh, biện pháp tu từ... Để bài làm
sắc sảo, cũng cần trang bị cho học sinh kiến thức về lí luận văn học giúp các em
biết đánh giá, khái quát, nâng cao. Giáo viên còn hướng dẫn cho học sinh cách
làm bài so sánh tác phẩm này với tác phẩm kia ở cấp độ từ, hình ảnh, chi tiết,
nhân vật hay chủ đề tư tưởng... để từ đó rút được sức hấp dẫn, lôi cuốn của từng
tác phẩm và những đặc trưng của từng giai đoạn văn học.
+ Trong quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi, cũng cần tổ chức cho các em
thảo luận, trao đổi những vấn đề còn thắc mắc, chưa tường tận. Các em có thể tự
giải đáp cho nhau hoặc những vấn đề nào khó thì giáo viên sẽ giúp các em. Đây
là lúc các em sử dụng hiểu biết của mình, rèn kĩ năng tư duy nhạy bén, khả năng
16


diễn đạt... thuyết phục người khác, làm các em tự tin hơn, vững vàng hơn. Khi
luyện đề, các em cũng nên được tham khảo bài làm của nhau, tự chấm chữa để
học hỏi lẫn nhau đồng thời rút được kinh nghiệm cho bản thân.
+ Bài làm của học sinh giỏi phải thể hiện được sự sáng tạo, phải có dấu
ấn cá nhân. Vì thế giáo viên phải phải được định hướng cho học sinh việc tự
học, tham khảo tài liệu, bổ sung kiến thức từ thấp đến cao.
* Những điều cần thiết trong việc bồi dưỡng:

1. Đối với giáo viên:
a. Người thầy phải tạo được niềm tin cho học sinh.
Điều này rất quan trọng, bởi vì nếu học sinh có niềm tin ở người thầy của
mình thì mới tự nguyện, cố gắng đem hết sức mình để học tập, phấn đấu. Muốn
vậy người thầy cần phải chứng tỏ năng lực thực sự của mình trong mọi mặt, nhất
là về chuyên môn. Không thể là sự khoe khoang, tâng bốc mình mà phải bằng
một quá trình học hỏi, tìm tòi, sáng tạo, say mê, hy sinh bền bỉ, bằng uy tín của
mình trước học sinh, phụ huynh và đồng nghiệp.
b. Lòng nhiệt tình, sự say mê sáng tạo và đức hy sinh của người thầy.
c. Thầy giáo cần phải gần gũi với học sinh, tôn trọng và biết cách động
viên kích thích lòng say mê, sáng tạo của học sinh.
Nếu người thầy mà rời xa học sinh, không gần gũi để hiểu từng em học
sinh thì rất khó thành công trong dạy học. Bởi vậy người thầy không nên đặt
mình ở một vị thế để rồi học sinh rất ngại gặp thầy hoặc trao đổi với thầy. Phải
làm sao để học sinh nghĩ thầy như một người anh, người bạn trong học tập.
Người thầy biết khơi dậy niềm tin trong bản thân mỗi em học sinh niềm tin vào
chính bản thân mình.
2. Đối với học sinh:
- Xác định hướng đi cho mình khi quyết định đi sâu vào môn Ngữ văn với
sự hướng dẫn, khích lệ của giáo viên, của gia đình…
- Đọc sách, tài liệu từ nhiều nguồn cung cấp và tự viết những suy nghĩ,
cảm nhận về một bài thơ, một đoạn văn, một nhân vật theo yêu cầu của giáo
viên.

17


- Một khi học sinh say mê thì việc đọc sách, viết bài là do sự thôi thúc ở
bên trong. Công việc này có tác dụng “tập thể dục” cho bộ não, tránh được sự
chai lỳ trong cảm xúc khi tiếp cận tác phẩm văn học.

- Tham gia tích cực các “Câu lạc bộ văn học”, các bút nhóm sáng tác vừa
để thử sức, vừa để rèn luyện cách viết.
- Học sinh phải rèn luyện đức tính nhẫn nại, kiên trì, chịu khó; có ý thức
chọn lọc tích lũy kiến thức.
*Tóm lại:
- Muốn học tốt bộ môn Ngữ văn, cần có các yếu tố: có năng khiếu văn
chương, có vốn sống và có vốn văn học.
- Vốn sống, vốn văn học có được nhờ đọc sách. Do đó, cần rèn luyện thói
quen đọc sách, đọc có suy nghĩ, có sự đồng sáng tạo…
- Mặt khác, giữa người dạy và người học cần tạo không khí học tập, trao
đổi thân thiện, cởi mở, khơi gợi vấn đề để thầy trò cùng “ giải mã , đưa ra cách
hiểu sâu sắc nhất”.
VII. Hiệu quả áp dụng
Có thể nói dạy học cũng là một nghệ thuật, vì thế mỗi người sẽ có một “con
đường đi” khác nhau nhưng cái đích để đến thì đều giống nhau, đó là “thước đo”
từ kết quả của các kỳ thi học sinh giỏi các cấp do Huyện, Tỉnh tổ chức. Tuy
nhiên kết quả đó chưa phải là tất cả nhưng cũng là một minh chứng để có cơ sở
đánh giá công sức của người dạy và người học (và tất nhiên ta cũng không loại
trừ có những trường hợp là nhờ may mắn). Riêng bản thân tôi, từ thực tế trong
công tác giảng dạy cũng như công tác bồi dưỡng học sinh giỏi mà tôi đã trình
bày ở trên; hằng năm, nếu có học sinh “chịu” đồng hành với mình thì đều gặt hái
được những thành quả đáng khích lệ.
Qua mỗi kỳ thi, khi mà các em đạt giải thì trong mỗi giáo viên niềm vui
cũng nhân lên gấp bội, nhờ thế mà mình càng tận tụy với nghề hơn. Ngoài ra,
những em chưa có may mắn để đạt giải thì cũng sẽ có những trưởng thành nhất
định, kết quả của môn học khá hẳn lên, đặc biệt là góp phần làm giàu về các mặt
từ kiến thức đến kỹ năng để giúp các em thêm hành trang vào đời cũng như làm
bệ phóng để học lên các lớp trên.

18



VIII. Kết quả đạt được:
Thực tế giảng dạy và bồi dưỡng học sinh giỏi trong mấy năm qua giúp tôi
nhận ra rằng, "thiên bẩm" hết sức quan trọng. Song trên thực tế, không có một
tài năng thiên bẩm nào tự nó có thể đi đến thành công. Bởi thế, vai trò người
thầy là hết sức quan trọng. Những hệ thống tri thức, con đường tiếp nhận văn
chương, và cả những hứng thú, không ai có thể làm thay được người thầy. Tâm
hồn, tri thức, và những gợi mở của người thầy sẽ được cụ thể hoá qua từng trang
viết của học trò. Vì vậy, muốn có học sinh giỏi, trước hết người thầy phải luôn
có ý thức tích luỹ tri thức và kinh nghiệm giảng dạy một cách nghiêm túc. Trong
đó, sự nhảy cảm trong phát hiện năng khiếu học sinh, phương pháp bồi dưỡng
luôn là yếu tố hàng đầu để có được thành công.

 Bảng thống kê kết quả học sinh giỏi dự thi các cấp qua từng năm
học:
Năm học

Số HS dự thi

Cấp trường

Cấp huyện

Cấp tỉnh

2007-2008

1


1

1

0

2008-2009

1

1

1

0

2010-2011

3

3

2

1

2011-2012

3


3

2

1

2012-2013

3

3

2

0

2013-2014

4

4

4

2

2014-2015

3


3

1

1

2015-2016

4

4

2

2

C. PHẦN KẾT LUẬN
I. Ý nghĩa của đề tài đối với công tác:
Có thể nói công tác bồi dưỡng học sinh giỏi nói chung và giỏi môn văn nói
riêng là việc làm rất khó. Dù khó nhưng công việc bồi dưỡng học sinh giỏi rất
cần cho việc nâng cao chất lượng giáo dục và giúp cho những em có năng khiếu
về văn chương phát huy hơn nữa tài năng của mình để cống hiến, để phục vụ

19


cho sự phát triển của đất nước. Đối với đề tài, nó sẽ là tài liệu có hệ thống để tôi
tiếp tục làm tốt công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, ươm mầm cho những tài năng
trẻ sau này.
II. Khả năng áp dụng:

Tôi đã áp dụng đề tài này cho việc bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ
Văn của nhà trường trong nhiều năm qua và gặt hái được thành tích đáng kể
như đã trình bày trên. Một phần nào đã đóng góp cho phong trào nhà trường
đi lên, tạo hưng phấn và lòng tin yêu trong đồng nghiệp, học sinh, phụ huynh
học sinh. Đề tài này, tôi đã được các đồng nghiệp khác trong tổ thảo luận,
nhận xét và cùng tôi thực hiện. Năm nay, bản thân tiếp tục mạnh dạn đưa
sáng kiến kinh nghiệm này quảng bá trong đồng nghiệp gần xa, thông qua
hình thức dự thi chiến sĩ thi đua cấp Tỉnh. Nếu đề tài này được công nhận tôi
hy vọng nó sẽ là một ý kiến nho nhỏ cho các đồng nghiệp khác tham khảo và
học tập điều gì đó trong đề tài này nhằm nâng cao chất lượng bồi dưỡng học
sinh giỏi môn Ngữ văn hơn.
III. Bài học kinh nghiệm, hướng phát triển:
Tôi nhận thấy việc bồi dưỡng học sinh giỏi văn không có một phương
pháp nào chung, một giáo án cụ thể nào. Nó tùy thuộc vào từng đối tượng
mà ta có một phương pháp cụ thể. Tuy nhiên, kết quả việc bồi dưỡng này là
gì? Là kết quả thành tích của trường, của ngành hay sao? Chất xám mà giáo
viên làm ra sao này sẽ được sử dụng như thế nào? Những em học giỏi bộ
môn văn có điều kiện tiếp tục học chuyên sâu môn văn nữa hay không? Tôi
nghĩ rằng, sau các đề tài bồi dưỡng học sinh giỏi này sẽ có những đề tài của
cấp quản lý về việc sử dụng, phát triển những em học sinh giỏi cấp THCS
một cách căn cơ và khoa học hơn. Đừng để các em học sinh giỏi này chỉ như
những đóa hoa rực rỡ màu sắc một thời rồi sẽ héo tàn theo sự khắc nghiệt
của thời gian.
IV. Đề xuất, kiến nghị:
Để chỉ đạo có hiệu quả công tác bồi dưỡng học sinh giỏi trước hết cần có
kế hoạch rõ ràng, cụ thể chi tiết và phù hợp với điều kiện từng trường.

20



- Kế hoạch tuyển chọn học sinh phải được phát hiện và chọn ngay từ cấp
học, những em có thiên hướng đặc biệt về Toán, Lý, Hóa, Văn, Âm nhạc...
- Thực hiện biên soạn tài liệu cho công tác bồi dưỡng học sinh năng khiếu
do những giáo viên đã có kinh nghiệm bồi dưỡng, tài liệu biên soạn cần đảm bảo
tính hệ thống, khoa học từ dễ đến khó và bao quát được chương trình mà cấp
học giới hạn.
- Công tác thi đua khen thưởng
+ Cần có sự tham mưu với cấp ủy chính quyền địa phương, phối hợp
với gia đình, hội khuyến học các đoàn thể xã hội để nâng cao nhận thức vai
trò của các tổ chức này đối với nhiệm vụ đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài cho địa phương. Tranh thủ các nguồn quỹ để có hỗ trợ đắc lực cho giáo
viên trực tiếp giảng dạy. Có phần thưởng xứng đáng cho những giáo viên,
học sinh có giải và giải cao trong các kỳ thi. Không làm tốt công tác này thì
rất khó để động viên khích lệ họ nhiệt huyết và toàn tâm toàn ý. Kế hoạch
này cần dân chủ công khai và tập trung chỉ đạo để trở thành hiện thực và có
hiệu quả.
- Môn Ngữ văn là môn ngoài việc dạy cho học sinh về kiến thức về văn
chương mà còn rèn luyện kỹ năng hành văn và khả năng cảm thụ văn chương,
nên đào tạo phát hiện một em có năng khiếu là rất khó. Thường các em hội tụ
đủ các điều kiện này là các em giỏi đều các môn. Tôi đề xuất với Ban giám
hiệu là nên ưu tiên bộ môn Ngữ văn trong việc lựa chọn học sinh để bồi dưỡng
học sinh giỏi.
Việc bồi dưỡng học sinh giỏi ở các trường thường là việc mạnh ai nấy
làm, chưa có một định hướng rõ ràng. Tôi kiến nghị với Phòng giáo dục và
đào tạo nên có một chuẩn về kiến thức và kỹ năng của học sinh giỏi để cho
học sinh và giáo viên bồi dưỡng phấn đấu đạt được, tránh tình trạng may rủi
trong thi cử.
Trên đây là một số kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy của tôi được
đúc rút từ thực tế giảng dạy và bồi dưỡng học sinh giỏi suốt trong nhiều năm
qua. Có thể những điều này không còn mới mẻ với những đồng nghiệp có bề

dày kinh nghiệm, nhưng với tôi, đó là những điều tôi tâm đắc và đã có được
những thành công nhất định. Rất mong nhận được sự đóng góp chân thành
21


của các đồng nghiệp để tôi có thể tiếp tục làm tốt công việc này trong những
năm học tiếp theo. Tôi chân thành lắng nghe sự đóng góp ý kiến quý báu của
Hội đồng khoa học trường, của Ngành và của các đồng nghiệp. Xin chân
thành cảm ơn!
Thủ trưởng đơn vị xác nhận, đề nghị
(Ký, đóng dấu)

Người viết
(Ký, ghi rõ họ tên)

Đỗ Thị Hồng Cẩm

22


BẢNG CHẤM ĐIỂM ĐỀ TÀI, SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
- Tên đề tài, SKKN: “Một vài kinh nghiệm trong công tác

bồi dưỡng học sinh giỏi Văn 9”
- Tên tác giả: ĐỖ THỊ HỒNG CẨM
- Đơn vị: Trường THCS Phước Lý, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An
Điểm
Điểm
Điểm
Tiêu chuẩn

chuẩn

1. Đề tài sáng kiến có yếu tố mới và sáng tạo:
- Hoàn toàn mới, được áp dụng lần đầu tiên
- Có cải tiến so với giải pháp trước đây với mức
độ khá
- Có cải tiến so với giải pháp trước đây với mức
độ trung bình
- Có cải tiến so với giải pháp trước đây với mức
độ ít
- Không có yếu tố mới hoặc sao chép từ các giải
pháp đã có trước đây
2. Đề tài sáng kiến có khả năng áp dụng:
- Có khả năng áp dụng trong toàn tỉnh hoặc ngoài
tỉnh
- Có khả năng áp dụng trong đơn vị và có thể
nhân ra ở một số nơi trong tỉnh
- Có khả năng áp dụng ở mức độ ít trong đơn vị
- Không có khả năng áp dụng trong đơn vị
3. Đề tài sáng kiến có tính hiệu quả:
- Có hiệu quả trong phạm vi toàn tỉnh
- Có hiệu quả trong phạm vi cấp sở, ngành,
huyện, thành phố
- Có hiệu quả trong phạm vi cấp trường, phòng,
ban, tổ, khối
- Không có hiệu quả cụ thể
Tổng cộng
Xác nhận của Hội đồng khoa học cơ sở:
(Ký tên, đóng dấu)


Xác nhận của Hội đồng khoa học cấp…..
(Ký tên, đóng dấu)

3
3
2
1,5
1
0
3
3
2
1
0
4
4
3
2
0
10

của HĐ
cơ sở

của HĐ
cấp
huyện
(Đối với
GV
MN,

TH và
THCS)

Điểm
của HĐ
ngành
GD

Điểm
của HĐ
cấp
tỉnh



×