Tải bản đầy đủ (.pdf) (47 trang)

skkn lồng ghép một số hiện tượng, vấn đề xảy ra trong thực tế vào giảng dạy môn hóa học 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1002.82 KB, 47 trang )

Lồng ghép một số hiện tượng, vấn đề xảy ra trong thực tế vào giảng dạy môn hóa học 9.

PHẦN A: LỜI NÓI ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài.
1. Cơ sở lí luận
Giáo dục thế hệ trẻ là nhiệm vụ mà tất các các quốc gia trên thế giới đều coi
là chiến lược của dân tộc mình. Vì thế đại hội lần IX, Đảng cộng sản Việt Nam
trong nghị quyết ghi rõ: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, tương lai của một dân
tộc, một quốc gia phải nhìn vào nền giáo dục của quốc gia đó.
Nói về tầm quan trọng của giáo dục cho thế hệ trẻ nhân ngày khai trường
đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Non
sông Việt Nam có trở nên vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài
vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là
nhờ một phần lớn công học tập của các cháu”
Nhằm thực hiện mục tiêu của ngành giáo dục là đào tạo thế hệ trẻ trở thành
những chủ nhân tương lai của đất nước. Bản thân là một giáo viên đứng lớp giảng dạy
bộ môn Hóa học tôi nhận thấy rằng: Hoá học là một môn khoa học gắn liền với thực
tiễn cuộc sống, do đó hóa học là môn học rất quan trọng trong nhà trường phổ thông
nói chung và trường THCS nói riêng. Môn hoá học THCS cung cấp cho học sinh một
hệ thống kiến thức phổ thông, cơ bản và thiết thực đầu tiên về hoá học, là giáo viên bộ
môn hoá học thì cần hình thành ở các em học sinh một kỹ năng cơ bản, thói quen học
tập và làm việc khoa học để làm nền tảng cho việc hình thành quá trình học tập, phát
triển năng lực nhận thức, năng lực hành động. Có những phẩm chất cần thiết như cẩn
thận, kiên trì, trung thực, tỉ mỉ, chính xác, yêu chân lí khoa học, có ý thức trách nhiệm
với bản thân, gia đình và xã hội có thể hoà hợp với môi trường thiên nhiên, chuẩn bị
cho học sinh học lên cao và đi vào cuộc sống lao động.
Tuy nhiên việc lĩnh hội kiến thức hoá học của học sinh là hết sức khó khăn.
Mặt khác, Hóa học là một môn học hoàn toàn mới lạ đối với học sinh ở THCS, mà
khối lượng kiến thức học sinh cần lĩnh hội tương đối nhiều và hơi khô khan so với
những môn học khác. Phần lớn các bài gồm những khái niệm mới, rất trừu tượng, khó


Lê Thị Thanh Thảo: Trường THCS Hưng Điền B

1


Lồng ghép một số hiện tượng, vấn đề xảy ra trong thực tế vào giảng dạy môn hóa học 9.

hiểu. Do đó, giáo viên cần tìm ra phương pháp dạy học gây được hứng thú học tập bộ
môn giúp các em chủ động lĩnh hội kiến thức một cách nhẹ nhàng, không gượng ép,
tạo cho các em một tâm lý thoải mái, thích khám phá là điều cần quan tâm. Khi học
sinh có hứng thú, niềm say mê với môn Hóa sẽ giúp học sinh phát huy được năng lực
tư duy, khả năng tự học và óc sáng tạo. Để từ đó nâng cao chất lượng bộ môn nói
riêng và góp phần nâng cao chất lượng giáo dục nói chung là vấn đề hết sức quan
trọng trong quá trình dạy học của giáo viên. Chính vì vậy, tôi nghĩ đổi mới phương
pháp dạy học phải thể hiện được ba tính chất cơ bản sau:
Một là: Phát huy tính tích cực, năng lực tư duy, óc sáng tạo và khả năng tự học
của học sinh trong quá trình học tập.
Hai là: Giảng dạy và học tập phải gắn liền với thực tế cuộc sống, học đi đôi với
hành.
Ba là: Rèn luyện được kĩ năng sống, ý thức và tinh thần trách nhiệm cho học
sinh.
Kinh nghiệm nhiều năm giảng dạy hóa học tôi nhận thấy rằng: Học sinh thấy
hứng thú và dễ ghi nhớ bài hơn nếu trong quá trình dạy và học giáo viên luôn có định
hướng liên hệ thực tế giữa các kiến thức sách giáo khoa với thực tiễn đời sống hàng
ngày. Rất nhiều kiến thức hóa học có thể liên hệ được với các hiện tượng tự nhiên
xung quanh chúng ta.
Xuất phát từ những thực tế, những vấn đề đó và một số kinh nghiệm trong
giảng dạy bộ môn hóa học, tôi thấy để góp phần cho chất lượng giáo dục bộ môn hóa
học được nâng cao, học sinh hứng thú học tập người giáo viên ngoài phát huy tốt các
phương pháp dạy học tích cực cần khai thác thêm các hiện tượng hóa học, các vấn đề

thực tiễn trong đời sống đưa vào bài giảng bằng nhiều hình thức khác nhau nhằm phát
huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh, tạo niềm tin, niềm vui, hứng thú
trong học tập bộ môn. Từ những lí do đó tôi chọn đề tài: “Lồng ghép một số hiện
tượng, vấn đề xảy ra trong thực tế vào giảng dạy môn hóa học 9”.
2. Cơ sở thực tiễn

Lê Thị Thanh Thảo: Trường THCS Hưng Điền B

2


Lồng ghép một số hiện tượng, vấn đề xảy ra trong thực tế vào giảng dạy môn hóa học 9.

Môn hoá học trong trường trung học cơ sở giữ một vai trò quan trọng trong
việc hình thành và phát triển trí dục của học sinh. Mục đích của môn học là giúp
cho học sinh hiểu đúng đắn và hoàn chỉnh, nâng cao tri thức, hiểu biết về thế giới,
con người thông qua các bài học, giờ thực hành... của hoá học. Học hoá để hiểu,
giải thích được các vấn đề thực tiễn thông qua cơ sở khoa học, sự chuyển hoá của
các chất bằng các phương trình phản ứng hoá học... Đồng thời là khởi nguồn, là cơ
sở phát huy tính sáng tạo, tạo ra những ứng dụng phục vụ trong đời sống của con
người. Hoá học góp phần giải tỏa, xoá bỏ hiểu biết sai lệch làm hại đến đời sống,
tinh thần của con ngời...
Để đạt được mục đích của học hoá học trong trường thì giáo viên dạy hoá
học là nhân tố tham gia quyết định chất lượng. Do vậy, ngoài những hiểu biết về
hoá học, người giáo viên dạy hoá học còn phải có phương pháp truyền đạt thu hút
gây hứng thú khi lĩnh hội kiến thức hoá học của học sinh, cũng như phân tích, giải
thích cho học sinh rõ những vấn đề mà các em hỏi, các em quan tâm. Đó là vấn đề
rất quan trọng và cần nghiên cứu nghiêm túc. Trong sáng kiến kinh nghiệm
(SKKN) này, tôi có đề cập đến một khía cạnh “Lồng ghép một số hiện tượng, vấn
đề xảy ra trong thực tế vào giảng dạy môn hóa học 9” với mục đích góp phần làm

cho học sinh hứng thú và đam mê với môn học… Để hoá học không còn mang tính
đặc thù khó hiểu như một “thuật ngữ khoa học”.
II. Mục đích đề tài.
Xây dựng hệ thống một số hiện tượng, vấn đề xảy ra trong thực tiễn .
Vận dụng hệ thống các hiện tượng, vấn đề đã xây dựng để lồng ghép vào quá
trình dạy học trong chương trình hóa 9 nhằm giáo dục ý thức, tinh thần trách nhiệm và
tăng hứng thú học tập cho học sinh.
III. Lịch sử đề tài
Vào một ngày, đó là ngày 22 tháng 9 năm 2014 tôi đang dạy “bài 8: Một số
bazơ quan trọng” tại lớp 9/2 trường THCS Hưng Điền B sau khi dạy xong phần lý
thuyết thì từ cuối lớp có một học sinh nam giơ tay hỏi “thưa cô, cô có tin trên đời này
có ma không cô, em nghe nội em kể hồi xưa ma nhiều lắm. Đi đâu về mà ngang nghĩa
Lê Thị Thanh Thảo: Trường THCS Hưng Điền B

3


Lồng ghép một số hiện tượng, vấn đề xảy ra trong thực tế vào giảng dạy môn hóa học 9.

địa là sợ phát khiếp vì có những đóm lửa lập lòe, lập lòe thấy ghê lắm”, có em khác
hỏi “lúc này em nghe rất nhiều thông tin là ở thành phố người ta thường sản xuất giá
bằng hóa chất Trung Quốc, người ta còn dùng dầu nhớt thải để kích thích rau muống
nhanh lớn, xanh non phải không cô?”.
Khi nghe được câu hỏi ấy thì tôi thấy thì ra học sinh cũng rất quan tâm đến vấn
đề thời sự cũng như là các hiện tượng xảy ra trong thực tế, đặc biệt là vấn đề “ma
quỷ” hay dị đoan. Và từ đó, tôi cũng suy nghĩ nếu trong các tiết học mà mình có nêu
một số hiện tượng hay vấn đề nào đó xảy ra trong thực tế thì hay biết mấy và nhìn lại
thời gian trước, khi chưa áp dụng đề tài tôi thấy trong quá trình giảng dạy nếu giáo
viên chỉ giảng những phần kiến thức cũng như là nội dung chỉ giới hạn trong sách
giáo khoa thì học sinh sẽ đâm ra buồn chán, không hứng thú từ đó không kích thích

được được khả năng tư duy của học sinh dẫn đến việc là không thích học môn hóa,
tiết học sẽ diễn ra một cách lặng lẽ, tẻ nhạt, học sinh chỉ mong cho tiết học kết thúc
nhanh. Nhưng nếu mà trong quá trình giảng dạy giáo viên lồng ghép một số hiện
tượng, vấn đề xảy ra trong thực tế thì trước hết là sẽ có sự tranh luận giữa giáo viên và
học sinh, giữa học sinh với học sinh và khi đó học sinh thì hiểu ra được các hiện
tượng, vấn đề đó là có cơ sở khoa học chứ không theo một yếu tố tâm linh hay dị
đoan mà người xưa truyền miệng. Sau nữa là học sinh sẽ chú ý vào những vấn đề mà
các em nhìn thấy được trong thực tế sau đó trao đổi với nhau và cuối cùng là vào lớp
hỏi giáo viên. Từ những câu hỏi nhỏ này khi được giáo viên giải thích và đã hiểu thì
các em sẽ hào hứng, thích thú học hóa hơn, mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh
gần gũi hơn, học sinh thích khám phá và tìm tòi hơn, tăng sự hiểu biết, sự tự tin cho
các em trong quá trình giao tiếp dẫn đến chất lượng học tập tốt hơn nên năm học qua
tôi đã nghiên cứu đề tài này.
IV. Phạm vi đề tài.
1. Đề tài nghiên cứu về vấn đề.
Lồng ghép một số hiện tượng, vấn đề xảy ra trong thực tế tích hợp giáo dục
môi trường, rèn luyện tinh thần trách nhiệm và kĩ năng sống cho học sinh.
2. Đối tượng nghiên cứu.
Lê Thị Thanh Thảo: Trường THCS Hưng Điền B

4


Lồng ghép một số hiện tượng, vấn đề xảy ra trong thực tế vào giảng dạy môn hóa học 9.

Học sinh lớp 91, 92, 93 trường THCS Hưng Điền B.
3. Phạm vi đề tài.
Các bài dạy trong chương trình hóa học lớp 9.

Lê Thị Thanh Thảo: Trường THCS Hưng Điền B


5


Lồng ghép một số hiện tượng, vấn đề xảy ra trong thực tế vào giảng dạy môn hóa học 9.

PHẦN B: NỘI DUNG VÀ GIẢI PHÁP
I. Thực trạng
1. Cơ sở lí luận.
Trước tình hình chung của giáo dục, đổi mới phương pháp dạy học đã và
đang thực sự là yếu tố quyết định hiệu quả giờ dạy. Một trong những yếu tố để đạt
giờ dạy có hiệu quả và tiến bộ là phải phát huy tính thực tế, tính tích cực, tăng
cường giáo dục về môi trường, về tư tưởng vừa mang bản sắc dân tộc mà không
mất đi tính cộng đồng, những vấn đề cũ nhưng không cũ mà vẫn có tính chất cập
nhật và mới mẻ, đảm bảo: tính khoa học – hiện đại, cơ bản; tính thực tiễn và giáo
dục kỹ thuật tổng hợp; tính hệ thống sư phạm.
2. Cơ sở thực tiễn.
Đối với học sinh trường THCS Hưng Điền B, do còn nhỏ nên suy nghĩ của các
em cũng rất đơn giản thích thầy cô nào thì học tốt môn của thầy cô đó. Do đó, người
giáo viên phải biết nắm tâm lý và đặc điểm lứa tuổi của học sinh, muốn cho các em
thích học môn mình thì mỗi thầy cô giáo phải có một chiêu gì đó hay một phương
pháp dạy học như thế nào đó để thu hút học sinh và từ đó đưa ra các phương pháp
giảng dạy cho phù hợp, kích thích sự ham học cũng như khả năng tư duy của học
sinh. Do đó, để học sinh ham thích học môn hóa thì trong các tiết dạy tôi đều có lồng
ghép một số hiện tượng, vấn đề xảy ra trong tự nhiên và trong đời sống hàng ngày vào
để kể, giải thích cho các em biết các hiện tượng, vấn đề đó xảy ra là do đâu.
Trong quá trình dạy học, dựa vào sự hướng dẫn của giáo viên học sinh thực
hiện các hoạt động chủ yếu theo một quy trình sau:
Thu thập thông tin: quan sát hiện tượng tự nhiên, các vấn đề xảy ra trong thực
tiễn, những thông tin cần thiết về các hiện tượng hóa học cần học.

Xử lí thông tin: thông qua một hệ thống câu hỏi, kiến thức giáo viên hướng dẫn
học sinh căn cứ vào thông tin đã thu thập để rút ra những kết luận cần thiết.
Vận dụng: Dựa vào kết luận đã rút ra từ bài học, học sinh vận dụng vào thực
tiễn để hiểu hơn về hiện tượng, vấn đề xảy ra đó.
Lê Thị Thanh Thảo: Trường THCS Hưng Điền B

6


Lồng ghép một số hiện tượng, vấn đề xảy ra trong thực tế vào giảng dạy môn hóa học 9.

Tuy nhiên tùy thuộc vào từng bài giảng cụ thể giáo viên có thể lồng ghép giải
thích các hiện tượng trong thực tế vào bài dạy của mình cho phù hợp như:
* Lồng ghép vào phần mở bài:
Ví dụ: Trước khi vào giảng dạy bài: Sự ăn mòn kim loại và bảo vệ kim loại
không bị ăn mòn, giáo viên có thể nêu vấn đề vào bài với câu hỏi sau: Tại sao những
đồ dùng bằng sắt hay hợp kim của sắt thường bị gỉ tạo thành gỉ sắt và dần dần đồ
vật không dùng được ?
* Lồng ghép trong quá trình giảng dạy:
Ví dụ 1: Khi dạy xong phần tính chất vật lí của axit sunfuric giáo viên có thể
cho học sinh trả lời câu hỏi: Vì sao không nên rót nước vào axit sunfuric đậm đặc
mà chỉ có thể rót từ từ axit sunfuric đậm đặc vào nước ?
Ví dụ 2: khi dạy xong phần muối natriclorua của bài 10: Một số muối quan
trọng. Mặc dù, phần muối kali nitrat giảm tải nhưng tôi cũng giới thiệu sơ qua về
muối này và lồng ghép vấn đề đang rất được quan tâm trong thời gian dài là muối kali
nitrat là hóa chất được dùng để tẩy thịt thối thành thịt tươi.
* Lồng ghép khi kết thúc bài học.
Ví dụ: Khi giảng dạy xong bài “phân bón hóa học” giáo viên có thể cho học
sinh giải thích câu ca dao sau:
“ Lúa chiêm lấp ló đầu bờ

Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên”.
Thực tế giảng dạy cho thấy: Môn hoá học trong trường THCS là một trong
những môn học khó, nếu không có những bài giảng và phương pháp hợp lý phù
hợp với thế hệ học trò thì dễ làm cho học sinh thụ động trong việc tiếp thu, cảm
nhận. Đã có hiện tượng một số bộ phận học sinh không muốn học hoá học và ngày
càng lạnh nhạt. Để áp dụng đề tài vào trong giảng dạy tôi đã thực hiện một số hoạt
động sau:
- Điều tra về mức độ, thái độ của học sinh về nội dung của đề tài.

Lê Thị Thanh Thảo: Trường THCS Hưng Điền B

7


Lồng ghép một số hiện tượng, vấn đề xảy ra trong thực tế vào giảng dạy môn hóa học 9.

- Xác định mục tiêu, chọn lọc các trường hợp cần nhận biết, xây dựng nguyên
tắc áp dụng cho mỗi trường hợp, lựa chọn các câu hỏi cần thiết liên quan đến từng nội
dung bài và dự đoán các tình huống có thể xảy ra khi thực hiện.
- Sưu tầm tài liệu và trao đổi kinh nghiệm với các đồng nghiệp.
* Số liệu thống kê:

Đối tượng nghiên cứu: 93 học sinh lớp 91, 92, 93.
Độ tuổi : 14 - 16 tuổi.
Thời gian: Từ tháng 9/2014 đến tháng 10/2015.
Kết quả nghiên cứu:
* Kết quả khảo sát việc ham thích học môn Hoá học.
Em có thích học môn
hóa không?


Rất thích

Thích

Không thích

SL

TL (%)

SL

TL (%)

SL

TL (%)

15

16,1

21

22,6

57

61,3


* Điều tra ban đầu về kết quả học tập:
Tổng

Giỏi

số
HS

SL

TL (%)

93

10

10,8

Khá
SL
26

TL (%)

SL

27,9

41


Trung

Yếu,

bình

Kém

TL (%)
44,1

SL

TL (%)

16

17,2

Trước khi thực hiện đề tài này, học sinh còn rất mơ hồ trong việc nắm bắt các
kiến thức. Học sinh chưa biết, hiểu và vận dụng… giáo viên cũng chưa đi sâu vào quá
trình giải thích, giải quyết các vấn đề nên học sinh hay nhàm chán. Những học sinh có
khả năng tư duy không cao thì có xu hướng sợ học bộ môn này. Đặc biệt là trường
chưa có phòng thực hành bộ môn nên các tiết thực hành chỉ dừng lại ở mức độ thí
nghiệm biểu diễn của giáo viên vì vậy không tạo được mục tiêu thúc đẩy ý thức học
tập cũng như sự yêu thích bộ môn cho học sinh.
II. Nội dung cần giải quyết.
Lê Thị Thanh Thảo: Trường THCS Hưng Điền B

8



Lồng ghép một số hiện tượng, vấn đề xảy ra trong thực tế vào giảng dạy môn hóa học 9.

Từ cơ sở lý luận và thực tiễn dạy học, tôi đã thấy rằng: “Lồng ghép các hiện
tượng thực tế, các vấn đề xảy ra trong thực tế vào giảng dạy hóa học 9” sẽ tạo hứng
thú, khơi dậy niềm đam mê, ý thức trách nhiệm; học sinh hiểu được vai trò và ý
nghĩa thực tiễn trong học hoá học. Để thực hiện được, người giáo viên cần nghiên
cứu kỹ bài giảng, xác định được kiến thức trọng tâm, tìm hiểu, tham khảo các vấn
đề thực tế liên quan phù hợp với từng học sinh ở trường, đôi lúc cần quan tâm đến
tính cách sở thích của đối tượng tiếp thu, hình thành giáo án theo hướng phát huy
tính tích cực chủ động của học sinh, phải mang tính hợp lý và hài hoà; đôi lúc có
khôi hài nhưng sâu sắc, vẫn đảm nhiệm được mục đích học môn hoá học. Tuy
nhiên, thời gian giành cho vấn đề này là không nhiều, “nó như thứ gia vị trong đời
sống không thể thay cho thức ăn nhưng thiếu nó thì kém đi chất lượng của món ăn.

III. Giải pháp.
Trong quá trình thực hiện tôi đã lựa chọn những nội dung, hiện tượng trong
thực tế có liên quan đến các bài học trong chương trình hóa học 9 và phân bố chúng
vào cụ thể từng bài học như sau:
Bài 1: Tính chất hóa học của Oxit, khái quát về sự phân loại oxit.
Ví dụ: “Hiện tượng mưa axit” là gì ? Tác hại như thế nào ?
Giải thích: - Khí thải công nghiệp và khí thải của các động cơ đốt trong (ô tô,
xe máy) có chứa các khí SO2, NO, NO2,…Các khí này tác dụng với oxi O2 và hơi
nước trong không khí nhờ xúc tác là các oxit kim loại (có trong khói, bụi nhà máy)
hoặc ozon tạo ra axit sunfuric H2SO4 và axit nitric HNO3.
2SO2 + O2 + 2H2O → 2H2SO4
2NO + O2 → 2NO2
4NO2 + O2 + 2H2O → 4HNO3
Axit H2SO4 và HNO3 tan vào nước mưa tạo ra mưa axit. Trong đó H2SO4 là

nguyên nhân chính gây ra mưa axit.

Lê Thị Thanh Thảo: Trường THCS Hưng Điền B

9


Lồng ghép một số hiện tượng, vấn đề xảy ra trong thực tế vào giảng dạy môn hóa học 9.

- Hiện nay mưa axit là nguồn ô nhiễm chính ở một số nơi trên thế giới. Mưa
axit làm mùa màng thất thu, làm mất cân bằng sinh thái, thay đổi độ pH trong đất,
trong nước và phá hủy các công trình xây dựng, các tượng đài làm từ đá cẩm thạch, đá
vôi, đá phiến (các loại đá này thành phần chính là CaCO3):
CaCO3 + H2SO4 → CaSO4 + CO2 + H2O
CaCO3 + 2HNO3 → Ca(NO3)2 + CO2 + H2O
Áp dụng: Nêu vấn đề khi vào học bài mới.
Bài 2: Một số oxit quan trọng.
Ví dụ 1: Tại sao khi cho vôi sống vào nước, ta thấy khói bốc lên mù mịt, nước
vôi sôi lên và nhiệt độ hố vôi rất cao có thể gây nguy hiểm cho tính mạng của người
và động vật. Do đó, cần tránh xa hố đang tôi vôi hoặc sau khi tôi vôi ít nhất 2 ngày.
Giải thích: Khi tôi vôi đã xảy ra phản ứng tạo thành canxi hiđroxit:
CaO + H2O  Ca(OH)2
Phản ứng này tỏa rất nhiều nhiệt nên làm nước sôi lên và bốc hơi đem theo cả
những hạt Ca(OH)2 rất nhỏ tạo thành như khói mù trắng. Do nhiệt tỏa ra nhiều nên
nhiệt độ của hố vôi rất cao. Do đó người và động vật cần tránh xa hố vôi để tránh rơi
xuống hố vôi tôi sẽ gây nguy hiểm đến tính mạng.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần đặt vấn đề vào bài.
Ví dụ 2: Khoảng thời gian gần đây ở thành phố Hồ Chí Minh vào sáng sớm
hay gặp hiện tượng gọi là “mù khô”. Vậy mù khô là gì? Nó gây ảnh hưởng như thế
nào đến sức khỏe con người và cách phòng chống ra sao?

Giải thích: Mù khô hiện tượng không khí bị ô nhiễm nặng do lượng khí thải và
bụi khói của các nhà máy, xí nghiệp, các vụ cháy rừng gây ra được tích tụ ở tầng
không khí thấp, sát mặt đất không thể khuếch tán được. Khoảng thời gian gần đây có
một vụ cháy rừng ở Inđônêsia làm cho các khu vực ở thành phố Hồ Chí Minh bị ảnh
hưởng bởi hiện tượng này. Việc giám sát môi trường cho thấy hàm lượng khí SO2
trong không khí rất cao. Khí SO2 quyện vào với sương mù buổi sáng gây ra, khí SO2
không màu, độc. Khí này ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe con người như: gây ho,
viêm đường hô hấp, viêm nhiễm mắt, viêm giác mạc...Cách phòng chống là ra đường
Lê Thị Thanh Thảo: Trường THCS Hưng Điền B

10


Lồng ghép một số hiện tượng, vấn đề xảy ra trong thực tế vào giảng dạy môn hóa học 9.

phải luôn đeo kính chắn bụi, đeo khẩu trang. Về đến nhà thì phải tắm gội liền, thay
quần áo, vệ sinh mắt, mũi bằng nước muối sinh lý, hạn chế ra đường nếu không cần
thiết.
Áp dụng: Giáo viên có thể lồng ghép vấn đề trên sau khi học xong phần tính
chất vật lí của SO2.
Bài 3: Tính chất hóa học của axit.
Ví dụ 1: Vì sao nước rau muống đang xanh khi vắt chanh vào thì chuyển sang
màu đỏ ?
Giải thích: Có một số chất hóa học gọi là chất chỉ thị màu, chúng làm cho màu
của dung dịch thay đổi khi độ pH của dung dịch thay đổi. Trong rau muống (và vài
loại rau khác) có chất chỉ thị màu này, trong chanh có 7% axit xitric. Vắt chanh vào
nước rau làm dung dịch có tính axit, do đó làm thay đổi màu của nước rau. Khi chưa
vắt chanh nước rau muống màu xanh là chứa chất kiềm.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần mở rộng tính chất hóa học
của axit khi tác dụng với chất chỉ thị màu.

Ví dụ 2: Axit clohiđric có vai trò như thế nào đối với cơ thể ?
Giải thích: Axit clohiđric có vai trò rất quan trọng trong quá trình trao đổi chất
của cơ thể. Trong dịch dạ dày của người có axit clohiđric với nồng độ khoảng chừng
0,0001 đến 0,001 mol/l (có độ pH tương ứng là 4 và 3). Ngoài việc hòa tan các muối
khó tan, nó còn là chất xúc tác cho các phản ứng phân hủy các chất gluxit (chất
đường, bột) và chất protein (đạm) thành các chất đơn giản hơn để cơ thể có thể hấp
thụ được.
Lượng axit trong dịch dạ dày nhỏ hơn hay lớn hơn mức bình thường đều gây bệnh
cho người. Khi trong dịch dạ dày có nồng độ axit nhỏ hơn 0,0001 mol/l (pH>4,5)
người ta mắc bệnh khó tiêu, ngược lại nồng độ axit lớn hơn 0,001 mol/l (pH<3,5)
người ta mắc bệnh ợ chua.
Áp dụng: Giáo viên có thể đưa vấn đề này trong phần củng cố

Lê Thị Thanh Thảo: Trường THCS Hưng Điền B

11


Lồng ghép một số hiện tượng, vấn đề xảy ra trong thực tế vào giảng dạy môn hóa học 9.

Ví dụ 3: Giáo viên đặt ra câu hỏi “các em thường nói câu không có lửa thì sao
có khói”. Ngày hôm nay cô sẽ chứng minh cho các em biết được sự thật là “ không có
lửa cũng có thể có khói”.
Giải thích: Giáo viên giải thích hiện tượng này bằng thí nghiệm: Lấy hai đũa
thủy tinh ở đầu có quấn một ít bông. Nhúng một đũa vào axit clohiđric đậm đặc và
nhúng đũa thứ hai vào dung dịch amoniac 25%. Đưa hai đầu đũa lại gần nhau. Khói
trắng sẽ xuất hiện ở hai đầu đũa do sự tạo thành amoni clorua.
NH3 + HCl




NH4Cl

Áp dụng: Giáo viên có thể chứng minh vấn đề này sau khi học xong bài tính
chất hóa học của axit.
Bài 4: Một số axit quan trọng.
Ví dụ: Vì sao không nên rót nước vào axit sunfuric đậm đặc mà chỉ có thể rót
từ từ axit sunfuric đậm đặc vào nước ?
Giải thích: Khi axit sunfuric tan vào nước sẽ tỏa ra một nhiệt lượng lớn. Axit
sunfuric đặc giống như dầu và nặng hơn trong nước. Nếu bạn cho nước vào axit, nước
sẽ nổi trên bề mặt axit. Tại vị trí nước tiếp xúc với axit nhiệt độ cao làm cho nước sôi
mãnh liệt và bắn tung tóe gây nguy hiểm.
Trái lại khi bạn cho axit sunfuric vào nước thì tình hình sẽ khác: axit sunfuric
đặc nặng hơn nước, nếu cho từ từ axit vào nước, nó sẽ chìm xuống đáy nước, sau đó
phân bố đều trong toàn bộ dung dịch. Như vậy nhiệt lượng sinh ra được phân bố đều
trong dung dịch, nhiệt độ sẽ tăng từ từ không làm cho nước sôi lên một cách quá
nhanh. Một chú ý thêm là khi pha loãng axit sunfuric bạn luôn luôn nhớ là “ phải rót
từ từ ” axit vào nước và không nên pha trong các bình thủy tinh. Bởi vì thủy tinh sẽ dễ
vở khi tăng nhiệt độ trong quá trình pha.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho học sinh trả lời về cách pha
loãng axit H2SO4 khi dạy phần tính chất vật lí của axit sunfuric đặc.
Bài 7: Tính chất hóa học của bazơ.
Ví dụ 1: Vì sao bôi vôi vào chỗ ong, kiến đốt sẽ đỡ đau ?

Lê Thị Thanh Thảo: Trường THCS Hưng Điền B

12


Lồng ghép một số hiện tượng, vấn đề xảy ra trong thực tế vào giảng dạy môn hóa học 9.


Giải thích: Do trong nọc của ong, kiến, nhện (và một số côn trùng khác) có
axit hữu cơ tên là axit formic (HCOOH). Vôi là chất bazơ nên trung hòa axit làm ta
đỡ đau.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần mở rộng tính chất hóa học
của bazơ.
Ví dụ 2: Xúc xích một món ăn rất được ưa thích của giới trẻ hiện nay. Tuy
nhiên, mới đây trên các trang mạng xuất hiện hình ảnh một người phụ nữ đang “sơ
chế” những cây xúc xích trong thau có pha nước rửa chén trước khi đem nướng để nó
trở thành một món ăn thơm lùng. Bạn có rùng mình khi thấy cảnh tượng này?
Giải thích: Dường như vấn nạn thực phẩm bẩn tràn lan đã khiến đa phần mọi
người phải rùng mình, lo lắng. Thành phần của nước rửa chén gồm: NaOH, Na2SO4,
NaHCO3, Hec, Las, Laurin, màu, mùi, .... Do đó, nếu rửa xúc xích bằng nước rửa
chén thì các hóa chất này sẽ vào cơ thể ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe. Đặc biệt là
NaOH khi vào cơ thề thì nó sẽ tác động xấu đến dạ dày, ăn mòn miệng, làm chức
năng của hệ tiêu hóa bị suy giảm, ung thư. Do đó, để đảm bảo về an toàn thực phẩm
chúng ta nên vô siêu thị mua về và tự chế biến.
Áp dụng: Giáo viên có thể lồng ghép vấn đề này vào cuối bài phần củng cố.
Bài 8: Một số bazơ quan trọng.
Ví dụ 1: Thạch dừa, thạch thốt nốt, thạch rau câu là món ăn rất được ưa thích
nó vừa mát, vừa giải khát lại vừa ngon đặc biệt vào mùa hè. Vậy ăn thạch dừa, thạch
thốt nốt, thạch rau câu nhiều có bị bệnh hay không?
Giải thích: Ăn nhiều thạch dừa, thạch thốt nốt, thạch rau câu có nguy cơ ngộ
độc rất cao vì nó dễ bị nhiễm khuẩn và biến chất trong quá trình chế biến. Muốn có
được một ly thạch ngon lành thì nhà sản xuất cũng đã cho vào quá trình sản xuất hàng
chục loại hóa chất có hại như: giấm, thuốc tẩy, phân bón NPK, SA, DP... Muốn thạch
có màu trắng thì ngâm vào giấm, để bảo quản được lâu thì cho thuốc tẩy vào hoặc
dung dịch NaOH vào, trong quá trình nấu người ta cho phân DP vào để tạo sự cô đặc.
Còn phân SA và NPK làm cho miếng thạch được dày lên. Thuốc tẩy thì rất độc hại,
còn các loại phân chỉ cung cấp chất dinh dưỡng cho cây trồng, không phải cung cấp

Lê Thị Thanh Thảo: Trường THCS Hưng Điền B

13


Lồng ghép một số hiện tượng, vấn đề xảy ra trong thực tế vào giảng dạy môn hóa học 9.

cho con người. Tóm lại, không được ăn thạch dừa, thạch thốt nốt, thạch rau câu không
nhãn mát được bán ngoài chợ, vì nó ảnh hưởng rất nhiều đến sức khỏe đặc biệt là nó
dẫn đến tác hại về sinh sản, sỏi bàng quang hay suy thận, sỏi thận, thậm chí là ung
thư. Tuy nhiên, nếu muốn ăn được thạch rau câu ngon thì ta có thể tự làm ở nhà và
phải sử dụng liền không được để lâu vì để lâu sẽ nhiễm khuẩn rất độc.
Áp dụng: Giáo viên có thể lồng ghép vấn đề này sau khi học xong phần tính
chất vật lý của NaOH.
Ví dụ 2: Dừa bán ngoài vỉa hè vì sao khi gọt vỏ để lâu vẫn trắng tinh mà
không bị đen.
Giải thích: Vì các quả dừa đó đã được ngâm qua hóa chất đặc biệt là ngâm qua
thùng chứa dung dịch NaOH hoặc thùng chứa thuốc tẩy. Dung dịch NaOH và thuốc
tẩy có tính tẩy rất mạnh làm cho quả dừa trắng tinh và có thể để cả tuần vẫn không bị
vàng nâu, thâm đen. Khách hàng khi mua thấy dừa trắng là thích nên mua nhưng
không hề biết là các quả dừa đó đã bị ngâm qua hóa chất. Nếu uống nhầm các quả dừa
ngâm hóa chất, thì hóa chất khi ngấm vào ruột và nước dừa sau đó vào cơ thể người
có thể gây các bệnh về đường tiêu hóa, bệnh về đường hô hấp, đột biến tế bào. Do đó,
để đảm bảo về mặt sức khỏe chúng ta nên mua các quả dừa còn vỏ, không gọt sẵn, khi
phát hiện nước dừa có mùi vị lạ thì tuyệt đối không được sử dụng, nhất là đối với trẻ
em.
Áp dụng: Giáo viên có thể lồng ghép vấn đề này sau khi học xong phần tính
chất của NaOH.
Ví dụ 3: Tại sao khi quét vôi lên tường thì lát sau vôi khô và cứng lại ?
Giải thích: Vôi thành phần chính là canxi oxit và canxi hiđroxit, là chất tan ít

trong nước nên khi cho nước vào tạo dung dịch trắng đục, khi quét lên tường thì
Ca(OH)2 nhanh chóng khô và cứng lại vì tác dụng với CO2 trong không khí theo
phương trình:
Ca(OH)2 + CO2  CaCO3 + H2O
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần củng cố tính chất hóa học
của canxi hiđroxit.
Lê Thị Thanh Thảo: Trường THCS Hưng Điền B

14


Lồng ghép một số hiện tượng, vấn đề xảy ra trong thực tế vào giảng dạy môn hóa học 9.

Bài 9: Tính chất hóa học của muối.
Ví dụ 1: Tại sao khi nấu nước giếng ở một số vùng lại có lớp cặn ở dưới đáy
ấm, đáy nồi? Cách tẩy lớp cặn này?
Trong tự nhiên nước ở một số vùng là nước cứng tạm thời, là nước có chứa
muối Ca(HCO3)2, Mg(HCO3)2. Khi nấu sôi sẽ xảy ra phản ứng hoá học :
t
Ca(HCO3)2 
 CaCO3 +
0

t
Mg(HCO3)2 
 MgCO3 +
0

CO2 + H2O
CO2 + H2O


CaCO3, MgCO3 tạo thành, đóng cặn. Cách tẩy cặn ở ấm, nồi: Cho vào ấm, nồi một lượng giấm (CH3COOH 5%) và rượu, đun sôi rồi để nguội qua đêm thì tạo thành một
lớp cháo đặc chỉ hớt ra và lau mạnh là sạch.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần củng cố bài học.
Ví dụ 2: Vì sao muối NaHCO3 được dùng để chế thuốc đau dạ dày?
Trong dạ dày, có chứa dung dịch HCl. Người bị đau dạ dày là người có nồng
độ dung dịch HCl cao (pH < 3) làm dạ dày bị bào mòn. NaHCO3 dùng để chế thuốc
đau dạ dày vì nó làm giảm hàm lượng dung dịch HCl có trong dạ dày nhờ phản ứng:
NaHCO3

+

HCl  NaCl + H2O +

CO2

Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần củng cố bài học.
Ví dụ 3: Tại sao phải ăn muối có iod?
Ăn muối iod để bổ sung hàm lượng iod cho cơ thể, trong cơ thể một người
trưởng thành có chứa 20 – 50mg iod chủ yếu tập trung tuyến giáp trạng, thiếu iod
trong tuyến này thì cơ thể sẽ bị một số bệnh: Bướu cổ, nặng hơn là dẫn đến đần
độn, phụ nữ thiếu iod dẫn đến vô sinh, có biến chứng sau khi sinh. Mỗi ngày phải
đảm bảo cho cơ thể bổ sung một lượng iod < 150 microgam. Muối iod là muối có
trộn thêm một lượng nhỏ hợp chất của iod (thường là KI hoặc KIO3). Thí dụ: trộn
2,5kg KI vào một tấn muối ăn. Tuy nhiên, hợp chất iod có thể bị phân hủy ở nhiệt
độ cao. Vì vậy, phải thêm muối iod sau khi thực phẩm đã được nấu chín.

Lê Thị Thanh Thảo: Trường THCS Hưng Điền B

15



Lồng ghép một số hiện tượng, vấn đề xảy ra trong thực tế vào giảng dạy môn hóa học 9.

Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần đặt vấn đề vào bài. Giúp
học sinh hiểu được vai trò tại sao toàn dân phải dùng muối iod. Giúp các em tự
nhận thấy tầm quan trọng của muối iod, tăng tính hiểu biết hơn.
Ví dụ 4: Đậu hủ (đậu phụ) là món ăn hay được dùng trong các bữa ăn chay.
Các món ăn được làm từ đậu hủ tiêu thụ với số lượng lớn, được chế biến từ đậu
nành rất có lợi cho sức khỏe. Tuy nhiên, hiện nay trong quá trình sản xuất để tiết
kiệm chi phí và thời gian thì người ta đưa rất nhiều các phụ phẩm công nghiệp độc
hại vào gây ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe. Vậy các phụ phẩm nào được đưa vào
đậu phụ và việc đưa các phụ phẩm đó vào có tác dụng gì, tác hại ra sao?
Giải thích: Hiện nay trong quá trình sản xuất đậu hủ vì lợi nhuận người ta
đưa vào những loại hóa chất sau: food Additives BZ 168, Myuc STD, PhosAn,
CarFosel, Pearl po9, Natri hidro sunfit. Những hóa chất này bị nghiêm cấm trong
chế biến thực phẩm. Trong đó, food Additives BZ 168, Myuc STD, PhosAn,
CarFosel, Pearl po9 được đưa vào có tác dụng làm cho đậu hủ dai, mềm, Natri
hidro sunfit có tác dụng làm trắng mịn. Natri hidro sunfit là phụ phẩm được dùng
nhiều trong ngành dệt, nhuộm, tẩy trắng bột giấy. Các chất này khi vào cơ thể, tích
tụ lâu ngày gây ung thư, hen suyễn, những chứng bệnh về đường hô hấp, tậm chí
nó còn gây ngộ độc dây thần kinh ngoại biên, thần kinh trung ương.
Áp dụng: Giáo viên có lồng ghép vấn đề trên cho phần củng cố bài học.
Ví dụ 5: Học sinh đưa ra vấn đề “hôm qua mẹ em mua thuốc chuột về bẫy
chuột, và đêm đó có hai con chuột bị chết”. Vậy thuốc chuột là gì? Cái gì đã làm
chuột chết?
Giải thích: Thuốc chuột là Zn3P2, sau khi ăn Zn3P2 bị thủy phân rất mạnh, làm
lượng nước trong cơ thể chuột giảm đi, nó khát và đi tìm nước:
Zn3P2 + 6H2O  3Zn(OH)2 + 2PH3
Chính PH3 đã làm chuột chết. Càng nhiều nước đưa vào  PH3 thoát ra càng

nhiều  chuột càng nhanh chết. Nếu không có nước chuột càng lâu chết.
Áp dụng: Giáo viên có lồng ghép vấn đề trên cho phần củng cố bài học.
Ví dụ 6: Tại sao củ mì lại rất độc?
Lê Thị Thanh Thảo: Trường THCS Hưng Điền B

16


Lồng ghép một số hiện tượng, vấn đề xảy ra trong thực tế vào giảng dạy môn hóa học 9.

Giải thích: Nguyên nhân ngộ độc khi ăn củ mì là do trong củ mì có chứa hợp
chất xyanua rất độc. Trong đó, KCN và NaCN là những hợp chất có tính độc cực
mạnh. Người ta có thể ăn 90mg KCN hoặc NaCN thì trong thời gian rất ngắn sẽ tử
vong. Nguyên nhân tử vong là do các hợp chất này có thể tạo phức bền với các kim
loại trong các enzim cũng như trong hồng cầu. Do các enzim hô hấp bị phá hoại làm
ngừng tác dụng bình thường của sự hô hấp cũng như quá trình trao đổi chất. Sau khi
các hồng cầu bị phá hoại, làm máu mất tác dụng vận chuyển oxi, làm cho các tế bào
của các tổ chức trong cơ thể không thể nhận oxi làm tê liệt hệ thần kinh trung ương.
Dẫn đến chết ngạt.
Áp dụng: Giáo viên có lồng ghép vấn đề trên cho phần củng cố bài học.
Ví dụ 7: Hàn the là chất gì?
Giải thích: Hàn the có thành phần chính là chất Natri tetraborat (hay là
Borac), ở dạng tinh thể ngậm nước. Tinh thể trong suốt, tan nhiều trong nước nóng,
không tan trong cồn 900. Trước đây, người ta thường dùng hàn the làm chất phụ
gia cho vào giò lụa, bánh phở, bánh cuốn, … để cho những thứ này khi ăn sẽ cảm
thấy dai và giòn. Ngay từ năm 1985, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã cấm dùng
hàn the làm chất phụ gia cho thực phẩm vì nó độc, có thể gây sốc, trụy tim, co giật
và hôn mê.
Áp dụng: Giáo viên có thể nêu vấn đề này trong bài dạy về một số muối
quan trọng.

Bài 10: Một số muối quan trọng.
Ví dụ 1: Vì sao muối thô dễ bị chảy nước ?
Giải thích: Muối ăn có thành phần chính là natri clorua, ngoài ra còn có ít
muối khác như magie clorua …, Magie clorua rất ưa nước, nên nó hấp thụ nước trong
không khí và rất dễ tan trong nước. Muối sản xuất càng thô sơ thì càng dễ bị chảy
nước khi để ngoài không khí.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần trạng thái tự nhiên.
Ví dụ 2: Muối ở biển có từ đâu ?

Lê Thị Thanh Thảo: Trường THCS Hưng Điền B

17


Lồng ghép một số hiện tượng, vấn đề xảy ra trong thực tế vào giảng dạy môn hóa học 9.

Giải thích: Các con sông, suối, …Các dòng nước trên lục địa đều chảy về biển,
đại dương và hoà tan mọi chất có thể hoà tan. Do quá trình bay hơi, các nguyên tố,
hợp chất tụ tập trong nước biển ngày càng nhiều theo thời gian, trong đó nhiều nhất là
NaCl, MgCl2 và một số ít muối khác tạo nên muối biển.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần trạng thái tự nhiên.
Ví dụ 3: Vì sao khi luộc rau muống nên cho vào trước một ít muối ăn (NaCl)?
Giải thích: Do nhiệt độ sôi của nước ở áp suất 1at là 100oC, nếu ta thêm NaCl
thì lúc đó làm cho nhiệt độ của nước muối khi sôi (dung dịch NaCl loãng) là > 100oC.
Do nhiệt độ sôi của nước muối cao hơn của nước nên rau chín nhanh hơn, thời gian
luộc rau không lâu nên rau ít mất vitamin. Vì vậy, khi đó rau muống sẽ mềm hơn và
xanh hơn.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần củng cố bài học. Vấn đề
này có thể có học sinh biết nhưng có học sinh không để ý và nếu được biết đến thì
các em có thể tiến hành thí nghiệm ngay trong mỗi buổi nấu ăn, góp phần tạo thêm

một mẹo vặt trong nấu ăn.
Ví dụ 4: Khoảng thời gian gần đây trên tivi hay đưa tin: càng gần đến Tết,
cơ quan chức năng càng phát hiện nhiều vụ vận chuyển thịt thối, giết mổ heo chết.
Vậy bằng cách nào mà thương lái có thể bán được các loại thịt này cho người tiêu
dùng. Hậu quả ra sao?
Giải thích: Thương lái mua thịt thối, mua heo chết với giá rẻ để bán cũng
như chế biến các sản phẩm được làm từ thịt như lạp xưởng, xúc xích..., những
miếng thịt thối rữa sẽ trở nên “tươi ngon” khi chúng được ngâm trong hai loại hóa
chất độc hại đó là: saltpetre (KNO3), natrisunfit (Na2SO3). Khi cho thịt thối vào
dung dịch chứa KNO3 thì làm cho miếng thịt thối trở nên tươi ngon và có màu sắc
giống như màu miếng thịt vừa mổ tuy nhiên khi ngâm vào dung dịch KNO3 thì chỉ
làm cho miếng thịt tươi ngon hơn chứ chưa khử được mùi hôi của thịt thối. Do đó,
công đoạn thứ hai là người ta sẽ tiếp tục cho miếng thịt đó vào dung dịch
natrisunfit, natrisufit có tính oxi hóa mạnh, tẩy mất mùi hôi của thịt thối. Với 2 loại
hóa chất này người ta có thể “hô biến” thịt thối thành “thịt tươi”. Và bán ra thị
Lê Thị Thanh Thảo: Trường THCS Hưng Điền B

18


Lồng ghép một số hiện tượng, vấn đề xảy ra trong thực tế vào giảng dạy môn hóa học 9.

trường với giá như giá của thịt tươi. Do đó, chúng ta cần bổ sung cho mình những
kĩ năng cũng như kinh nghiệm để phân biệt thịt thối và thịt tươi ngon để không ảnh
hưởng đến chất lượng của bữa ăn và sức khỏe của gia đình.
Áp dụng: Giáo viên có thể áp dụng vấn đề này vào phần củng cố bài. Mặc
dù, phần muối KNO3 bị giảm tải nhưng giáo viên có thể lồng ghép vấn đề này để
mở rộng kiến thức cho học sinh.
Bài 11: Phân bón hóa học.
Ví dụ 1: Vì sao người ta dùng tro bếp để bón cho cây ?

Giải thích: Trong tro bếp có chứa muối K2CO3, cung cấp nguyên tố kali cho
cây.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần củng cố bài học.
Ví dụ 2: Cao dao Việt Nam có câu:
“Lúa chiêm lấp ló đầu bờ,
Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên”
Câu này mang hàm ý của khoa học hoá học như thế nào?
Giải thích: Câu ca dao nhắc nhở người trồng lúa:
Vụ chiêm khi lúa đang trổ đòng đòng mà có trận mưa rào, kèm theo sấm chớp
thì sẽ rất tốt và cho năng suất cao sau này.
Do trong không khí có ~ 80% khí N2 và ~ 20% khí O2, khi có chớp (tia lửa
điện) sẽ tạo điều kiện cho N2 hoạt động:
tialuadien

 2 NO

N2 + O2
Sau đó:

2NO

+

O2  2NO2

Khí NO2 sẽ tan trong nước mưa:
4NO2

+


HNO3



2H2O

+ O2  4HNO3

H+ + NO3-

Nhờ hiện tượng này, hàng năm làm tăng 6 −7 kg đạm cho mỗi hecta đất.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần mở rộng kiến thức.

Lê Thị Thanh Thảo: Trường THCS Hưng Điền B

19


Lồng ghép một số hiện tượng, vấn đề xảy ra trong thực tế vào giảng dạy môn hóa học 9.

Ví dụ 3: Vì sao hiện nay đất sử dụng trong nông nghiệp bị ô nhiễm nặng do
phân bón và thuốc bảo vệ thực vật?
Giải thích: Loại ô nhiễm này gây nên do sử dụng phân bón hoá học, thuốc trừ
sâu, chất diệt cỏ và các chất kích thích thực vật trong sản xuất nông nghiệp. Để tăng
năng suất mùa màng ở nước ta có xu hướng tăng cường sử dụng các chất hóa học. Vì
vậy gây ô nhiễm đất, có khi làm đất chua, làm cứng đất, làm thay đổi cân bằng các
chất dinh dưỡng giữa cây trồng và đất.
Sử dụng phân hóa học quá liều cũng làm cho đất bị chua, do hệ thống tưới tiêu
không hợp lí, do khí hậu nhiệt đới nắng nhiều, mưa nhiều, đất trồng trọt bị rửa trôi
mất lớp mùn hữu cơ, dưới tác dụng của ánh sáng, một số hợp chất của lưu huỳnh bị

oxi hóa thành axit H2SO4. Axit H2SO4 tác dụng với sắt, nhôm trong keo đất thành
nhôm sunfat và sắt sunfat gây ra đất phèn. Đất phèn là loại đất chua rất khó trồng trọt.
Cũng giống như phân bón hóa học, các loại thuốc bảo vệ thực vật cũng bị rửa
trôi theo nguồn nước rất lớn, gây ô nhiễm môi trường. Cũng do thuốc bảo vệ thực vật
đã làm giảm số lượng của nhiều loài sinh vật có ích (ong mắt đỏ, các loài nắm có ích)
làm giảm đa dạng sinh học, làm xuất hiện các loài sâu bệnh kháng thuốc và là nguyên
nhân bùng nổ nạn dịch rầy nâu, đạo ôn.
Vì vậy phải sử dụng phân bón hóa học và thuốc bảo vệ thực vật đúng liều
lượng và quy cách.
Áp dụng: Giáo viên có lồng ghép trên cho phần củng cố bài học.
Ví dụ 4: Chả cá là món ăn cực ngon và cực kỳ bổ dưỡng, đã trở thành một
món ăn nổi tiếng ở khắp xa, gần. Tuy nhiên, hiện nay do chạy theo lợi nhuận mà chả
cá bây giờ được tẩm rất nhiều loại hóa chất gây hoang mang cho người tiêu dùng.
Vậy các hóa được tẩm vào chả cá là gì?
Giải thích: Do chả cá rất nhanh bị hôi thối và ương lên nếu bán không hết
trong một giờ, nên để bảo quản cho chả cá được lâu, dai và không ôi thối thì người ta
cho vào chả cá một lượng lớn ure và chloramphenicol. Hai hóa chất này bị cấm sử
dụng trong bảo quản và chế biến thực phẩm, nó ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe con
người đặc biệt là chất chloramphenicol gây ức chế tủy xương, suy giảm bạch cầu, tiểu
Lê Thị Thanh Thảo: Trường THCS Hưng Điền B

20


Lồng ghép một số hiện tượng, vấn đề xảy ra trong thực tế vào giảng dạy môn hóa học 9.

cầu, hồng cầu, làm thiếu máu. Vậy muốn cho gia đình thưởng thức món chả cá ngon
trong bữa cơm thì chúng ta nên chịu khó tự tay làm chả cá và chế biến thành các món
ăn đảm bảo chất dinh dưỡng hạn chế mua chả cá ngoài chợ.
Áp dụng: Giáo viên có thể lồng ghép vấn đề này vào cuối bài phần củng cố.

Bài 12: Mối liên hệ giữa các hợp chất vô cơ.
Ví dụ 1: Tại sao để cải tạo đất ở một số ruộng chua (bị nhiễm phèn) người ta
thường bón bột vôi ?
Giải thích: Thành phần của bột vôi gồm CaO và Ca(OH)2 và một số ít CaCO3.
Ở ruộng chua có chứa axit, pH < 7, nên sẽ có phản ứng giữa axit với CaO, Ca(OH)2
và một ít CaCO3 làm giảm tính axit nên ruộng sẽ giảm chua.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần củng cố bài học.
Ví dụ 2: Chúng ta nghe rất nhiều về cụm từ “Hiệu ứng nhà kính”. Vậy hiệu
ứng nhà kính là gì?
Giải thích: Đó là do hiện tượng Trái Đất ấm dần lên bởi khí CO2. Khí CO2
trong không khí chỉ hấp thụ một phần những tia hồng ngoại (bức xạ nhiệt) của Mặt
Trời và cho các tia có bước sóng  = 50 000 ÷ 100 000 A0 đi qua đến mặt đất. Những
bức xạ nhiệt phát ngược lại từ mặt đất có bước sóng  = 140 000 A0 bị khí CO2 hấp
thụ mạnh và phát trở lại Trái Đất làm Trái Đất ấm lên. Về mặt hấp thụ bức xạ, lớp
CO2 ở trong khí quyển tương đương với lớp thủy tinh ở các nhà kính dùng để trồng
cây, hoa xứ lạnh. Do đó, hiện tượng làm cho Trái Đất ấm lên bởi khí CO2 gọi là hiệu
ứng nhà kính.
Chú ý rằng nhiệt độ ở mặt đất tăng lên 10C đã ảnh hưởng bất lợi đến sản xuất
lương thực của Thế Giới. Nguyên nhân của sự tăng hàm lượng CO2 trong khí quyển là
việc sử dụng nhiên liệu trong nhà máy điện, các khu công nghiệp, việc phá rừng, ...Vì
vậy, vì lợi ích chung hãy bảo vệ lấy rừng - lá phổi của Trái Đất.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần củng cố bài học.
Bài 15: Tính chất vật lí của kim loại.
Ví dụ 1: Vì sao nhôm lại được sử dụng làm dây dẫn điện cao thế? Còn đồng
lại được sử dụng làm dây dẫn điện trong nhà?
Lê Thị Thanh Thảo: Trường THCS Hưng Điền B

21



Lồng ghép một số hiện tượng, vấn đề xảy ra trong thực tế vào giảng dạy môn hóa học 9.

Giải thích: Tuy đồng dẫn điện tốt hơn nhôm nhưng nhôm (khối lượng riêng
của nhôm là 2,70g/cm3) nhẹ hơn đồng (khối lượng riêng của đồng là 8,96g/cm3). Do
đó, nếu như dùng đồng làm dây dẫn điện cao thế thì phải tính đến việc xây các cột
điện sao cho chịu được trọng lực của dây điện. Việc làm đó không có lợi về mặt kinh
tế. Còn trong nhà thì việc chịu trọng lực của dây dẫn điện không ảnh hưởng lớn lắm.
Vì vậy ở trong nhà thì ta dùng dây dẫn điện bằng đồng.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần tính dẫn điện của kim loại.
Ví dụ 2: Lợi ích của kẽm đối với cơ thể như thế nào?
Giải thích: Kẽm nổi tiếng với tác dụng tích cực đối với hệ miễn dịch, chưa hết
sự thiếu hụt nó có thể dẫn đến huyết áp thấp, tăng trưởng xương chậm, chán ăn, mất
khướu giác và vị giác, trầm cảm ...Có rất nhiều lợi ích của kẽm ngoài việc giúp bạn
tránh cúm như: cải thiện sức khỏe não bộ; giúp xương, tóc chắc khỏe; tốt cho mắt; cân
bằng nội tiết; làm cho cơ và da khỏe mạnh... Để bổ sung kẽm thì cần bổ sung các thực
phẩm giàu kẽm như: hải sản, thịt bò, thịt gà, thịt lợn, các loại hạt, nấm ... Lưu ý, kẽm
là một nguyên tố vi lượng cần cung cấp cho cơ thể với lượng rất ít nhưng lại cần thiết
cho sự phát triển của cơ thể.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần củng cố bài học.
Bài 16: Tính chất hóa học của kim loại.
Ví dụ 1: Tại sao khi đánh rơi vỡ nhiệt kế thủy ngân thì không được dùng chổi
quét mà nên rắc bột lưu huỳnh lên trên?
Giải thích: Thủy ngân (Hg) là kim loại ở dạng lỏng, dễ bay hơi và hơi thủy
ngân là một chất độc. Vì vậy khi làm rơi vỡ nhiệt kế thủy ngân nếu như ta dùng chổi
quét thì thủy ngân sẽ bị phân tán nhỏ, làm tăng quá trình bay hơi và làm cho quá trình
thu gom khó khăn hơn. Ta phải dùng bột S rắc lên những chỗ có Hg, vì S có thể tác
dụng với Hg tạo thành HgS dạng rắn và không bay hơi. Quá trình thu gom thủy ngân
cũng đơn giản hơn.
Hg


+

S  HgS

Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần củng cố bài học.

Lê Thị Thanh Thảo: Trường THCS Hưng Điền B

22


Lồng ghép một số hiện tượng, vấn đề xảy ra trong thực tế vào giảng dạy môn hóa học 9.

Ví dụ 2:Vì sao các đồ vật bằng bạc để lâu ngày thường bị xám đen? Vì sao
dùng đồ bằng bạc đựng thức ăn, thức ăn lâu bị ôi?
Giải thích: Do bạc tác dụng với khí O2 và H2S có trong không khí tạo ra bạc
sunfua (Ag2S) màu đen.
4Ag + O2

+ 2H2S  2Ag2S + 2 H2O

Khi bạc sunfua gặp nước sẽ có một lượng rất nhỏ đi vào nước thành ion Ag+.
Ion Ag+ có tác dụng diệt khuẩn rất mạnh, chỉ cần 1/5 tỉ gam bạc trong 1 lít nước cũng
đủ diệt vi khuẩn. Không cho vi khuẩn phát triển nên giữ cho thức ăn lâu bị ôi thiu.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần củng cố bài học.
Ví dụ 3: Kim loại nặng ảnh hưởng đến sức khỏe như thế nào?
Giải thích: Kim loại nặng là những kim loại có khối lượng riêng lớn hơn
5g/cm3. Một số kim loại nặng có thể gây ngộ độc dẫn đến tử vong khi đi vào cơ thể
với hàm lượng vượt chỉ tiêu cho phép. Một số kim loại nặng có tính độc cao như:
+ Chì: là nguyên tố có tính độc cao gây độc cho hệ thần kinh trung ương, ngoại

biên, rối loạn tủy sống. Chì vào cơ thể qua nước uống, không khí, thức ăn bị nhiễm
chì (qua đường hô hấp, ăn uống).
+ Thủy ngân: cơ thể khi bị nhiễm thủy ngân sẽ bị phân liệt, co giật không chủ
động. Thủy ngân vào cơ thể người qua khói bụi, khí thải, thuốc bảo vệ thực vật...
+ Asen: hiện tại ở vùng Đồng Tháp Mười nước bị nhiễm asen rất nặng, do đó
không dùng nước ngầm để phục vụ cho việc uống, nấu ăn trong gia đình. Cơ thể
nhiễm asen có thể gây ra 19 loại bệnh khác nhau như: ung thư, phổi, phế quản,
xoang...
+ Ngoài ra, còn một số các nguyên tố khác như: cadimi, crom, mangan.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần củng cố bài học.
Ví dụ 4: Vì sao người ta hay dùng đồ vật bằng bạc để đánh gió khi bị cảm?
Giải thích: Khi bị bệnh cảm cơ thể người thường tích tụ 1 lượng khí H2S
tương đối cao. Chính lượng H2S làm cho cơ thể bị mệt mỏi, khi ta dùng đồ vật bằng
bạc để đánh gió thì kim loại Ag sẽ tác dụng với khí H2S. Do đó, lượng khí H2S sẽ
giảm và dần hết bệnh.
Lê Thị Thanh Thảo: Trường THCS Hưng Điền B

23


Lồng ghép một số hiện tượng, vấn đề xảy ra trong thực tế vào giảng dạy môn hóa học 9.

4Ag + 2H2S + O2  2Ag2S + 2H2O
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần củng cố bài học.
Bài 18: Nhôm.
Ví dụ 1: Giải thích hiện tượng:“Một nồi nhôm mới mua về sáng lấp lánh, chỉ
cần dùng nấu nước sôi, bên trong nồi nhôm, chỗ có nước biến thành màu xám đen ?”
Giải thích: Bình thường trông bên ngoài nước không có vấn đề gì, thực tế
trong nước có hòa tan nhiều chất, thường gặp nhất là các muối canxi, magiê và sắt.
Các nguồn nước có thể chứa lượng muối sắt ít nhiều khác nhau, loại nước chứa nhiều

sắt “là thủ phạm” làm cho nồi nhôm có màu đen.
Vì nhôm có tính khử mạnh hơn sắt nên nhôm sẽ đẩy sắt ra khỏi muối của nó và
thay thế sắt, còn sắt được tạo thành sẽ bám vào bề mặt nhôm, nồi nhôm sẽ bị đen.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần củng cố bài học.
Ví dụ 2: Vì sao phèn chua có thể làm trong nước?
Phèn chua là muối sunfat kép của nhôm và kali ở dạng tinh thể ngậm nước:
[K2SO4.Al2(SO4)3.24H2O]. Phèn chua không độc, có vị chua chát, ít tan trong nước
lạnh nhưng tan nhiều trong nước nóng. Khi tan trong nước, phèn chua sẽ bị thủy
phân và tạo thành Al(OH)3 ở dạng kết tủa keo lơ lững trong nước. Chính những hạt
Al(OH)3 kết tủa dạng keo lơ lững ở trong nước này đã kết dính với các hạt bụi bẩn,
các hạt đất nhỏ để trở thành hạt đất to hơn, nặng hơn và lắng xuống. Vì vậy mà
nước trở nên trong hơn.
Áp dụng: Giáo viên có thể giới thiệu thêm ở phần mở rộng bài nhôm.
Bài 21: Sự ăn mòn kim loại và bảo vệ kim loại không bị ăn mòn.
Ví dụ 1: Tại sao những đồ dùng bằng sắt thường bị gỉ tạo thành gỉ sắt và dần
dần đồ vật không dùng được ?
Giải thích: Khi tiếp xúc với không khí ẩm có oxi, hơi nước .... sắt bị oxi hóa
theo các phản ứng sau:
2Fe + O2 + 2H2O

khongkhiam
  2Fe(OH)2

4Fe(OH)2 + O2 + 2H2O 

Lê Thị Thanh Thảo: Trường THCS Hưng Điền B

4Fe(OH)3

24



Lồng ghép một số hiện tượng, vấn đề xảy ra trong thực tế vào giảng dạy môn hóa học 9.

Fe(OH)3 bị phân hủy dần tạo thành Fe2O3 theo thời gian và thành gỉ sắt. Vì gỉ
sắt Fe2O3.nH2O xốp nên quá trình ăn mòn tiếp diễn vào lớp bên trong đến khi toàn bộ
khối kim loại đều gỉ. Gỉ sắt không còn tính cứng, ánh kim, dẻo của sắt mà xốp, giòn
nên làm đồ vật bị hỏng.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần đặt vấn đề vào bài.
Ví dụ 2: Có một phát minh khoa học từ trong đống sắt gỉ.
Giải thích: Vào thời chiến tranh Thế Giới lần thứ nhất, nhà khoa học người
Anh Brearly được giao nhiệm vụ cải tiến vũ khí, đặc biệt là hiện tượng nòng súng bị
ăn mòn rất nhanh. Brearly cố nghĩ cách chế tạo ra hợp kim không dễ ăn mòn để chế
tạo nòng súng. Năm 1913, ông đã thử pha crom vào thép, song chưa vừa ý bèn quẳng
mẫu thử vào đống sắt gỉ ngoài phòng thí nghiệm. Rất lâu sau, tình cờ ông nhận thấy
mẫu thử vẫn sáng lấp lánh trong khi đống sắt gỉ hết cả. Ông đem mẫu thử này nghiên
cứu tỉ mỉ, thấy thứ thép pha crom này chẳng hề sợ môi trường, khí hậu hay thời tiết
nào, ngay khi cả ngâm vào axit và kiềm. Từ đó, Brearly được mệnh danh là “người
cha của thép không gỉ”.
Câu chuyện này hẳn đặt ra cho chúng ta một điều suy nghĩ là: Gặp những điều
kì dị nào đó thì cũng đừng nên lơ đãng bỏ qua mà nên tự hỏi “tại sao thế” để rồi tìm ra
căn nguyên của nó.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần củng cố bài học.
Bài 25: Tính chất của phi kim.
Ví dụ 1: “Ma trơi” là gì ? Ma trơi thường xuất hiện ở đâu ?
Giải thích: Trong xương và tế bào thần kinh của động vật luôn có chứa các
hợp chất của photpho. Khi cơ thể động vật chết đi, nó sẽ phân hủy một phần thành
photphin PH3 và lẫn một ít điphotphin P2H4. Photphin không tự bốc cháy ở nhiệt độ
thường. Khi đun nóng đến 150oC thì nó mới cháy được. Còn điphotphin P2H4 thì tự
bốc cháy trong không khí và tỏa nhiệt. Chính lượng nhiệt tỏa ra trong quá trình này

làm cho photphin bốc cháy:
2PH3 + 4O2 → P2O5 + 3H2O

Lê Thị Thanh Thảo: Trường THCS Hưng Điền B

25


×