PHẦN MỞ ĐẦU
Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, cùng với việc
đẩy mạnh phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn, Đảng và Nhà nước ta đã đặc
biệt chú trọng phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Giáo dục và đào tạo
cùng với khoa học và công nghệ được xem là quốc sách hàng đầu trong giai
đoạn cách mạng mới của đất nước.
Trường tiểu học là một tổ chức cơ sở của ngành giáo dục đào tạo, là tế
bào của hệ thống giáo dục quốc dân. Chất lượng và hiệu quả giáo dục tùy thuộc
vào chất lượng đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên của trường.
Là cán bộ quản lý chắc chắn ai cũng muốn trường mình có nhiều giáo
viên giỏi, nhiều chiến sĩ thi đua, chất lượng giáo dục ngày một nâng lên. Do đó
việc bồi dưỡng cho đội ngũ giáo viên để nâng cao chất lượng dạy và học luôn là
vấn đề được cán bộ quản lý trường học quan tâm, bởi vì chất lượng của đội ngũ
giáo viên có tầm quan trọng chiến lược, có tính chất quyết định chất lượng giáo
dục và dạy - học trong nhà trường. Tính đa dạng và phức tạp của hoạt động
giảng dạy - giáo dục đòi hỏi người Hiệu trưởng phải thường xuyên quan tâm đến
việc bồi dưỡng, nâng cao tay nghề cho giáo viên.
Bên cạnh đó bồi dưỡng đội ngũ giáo viên trường tiểu học cũng là một
nội dung cơ bản của công tác quản lý trong việc thực hiện nhiệm vụ phổ cập
giáo dục tiểu học và xây dựng cấp học Tiểu học bền vững, phấn đấu hiện thực
hóa mục tiêu giáo dục tiểu học như Điều 27 của Luật Giáo dục đã quy định:
“Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự
phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ
năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở”.
Trong trường học, giáo viên là lực lượng giáo dục chủ yếu, giữ vai trò
chủ đạo trong mọi hoạt động giáo dục. Giáo viên là người trực tiếp và là trung
tâm, đóng vai trò chủ đạo trong quá trình tổ chức điều khiển và lãnh đạo quá
trình hình thành nhân cách con người mới ở học sinh phù hợp với mục đích giáo
dục nói chung, với mục tiêu cấp học nói riêng. Vì vậy giáo viên là cơ sở, là điều
1
kiện để nhà trường thực hiện mục tiêu giáo dục và đào tạo và hoàn thành được
kế hoạch thực hiện nhiệm vụ năm học đề ra.
Ở trường tiểu học, Hiệu trưởng là người chịu trách nhiệm quản lí các
hoạt động của nhà trường. Vì vậy, việc bồi dưỡng đội ngũ giáo viên trường tiểu
học không chỉ là nhiệm vụ mà còn là yêu cầu đối với người cán bộ quản lí
trường học, trước hết đó là yêu cầu, nhiệm vụ của Hiệu trưởng.
Công tác bồi dưỡng đội ngũ giáo viên có một ý nghĩa to lớn trong việc
nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên về chính trị, chuyên môn; có tính chất
quyết định chất lượng giáo dục và dạy - học trong nhà trường. Vai trò của giáo
viên với những kiến thức và năng lực chuyên môn vững vàng sẽ tạo được uy tín
và khả năng giáo dục học sinh, đáp ứng yêu cầu của sự phát triển giáo dục và
phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay.
Ngày nay, trong đời sống, công nghệ và khoa học phát triển. Những
người làm công tác quản lý trong các trường tiểu học, hơn ai hết phải hiểu được
một cách sâu sắc về tầm quan trọng của đội ngũ giáo viên trong sự nghiệp giáo
dục nói chung, trong sự tồn tại và phát triển của trường mình nói riêng. Vì vậy
việc xây dựng đội ngũ giáo viên làm sao để nâng cao chất lượng dạy và học
trong nhà trường là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng của cán bộ quản lí trường
học hiện nay.
Thực tiễn trong thời gian qua, trong quá trình làm công tác quản lý ở
đơn vị tôi nhận thấy chất lượng chuyên môn đội ngũ giáo viên chưa đồng đều,
còn nhiều hạn chế trong công tác chuyên môn như thiết kế bài giảng, thực hiện
đổi mới phương pháp dạy học, kỹ năng tổ chức hoạt động trên lớp; về tư tưởng
thì còn một số ít giáo viên thiếu gương mẫu trong công tác, hay so bì công việc
với đồng nghiệp, có giáo viên dạy tốt nhưng chưa có tinh thần phấn đấu thi
đua... cần được quan tâm bồi dưỡng.
Từ tình hình thực tế đó, tôi đã nghiên cứu, tổ chức thực hiện một số
công việc và đúc kết thành đề tài: “Một số giải pháp xây dựng đội ngũ giáo
viên của Hiệu trưởng Trường Tiểu học Nhơn Hòa” nhằm góp phần nâng cao
2
chất lượng đội ngũ giáo viên trực tiếp giảng dạy về chính trị tư tưởng và chuyên
môn nghiệp vụ.
Việc bồi dưỡng đội ngũ chắc có lẽ nhiều sách, tạp chí, phương tiện
thông tin thường hay nói đến. Đây cũng là vấn đề được nhiều cán bộ quản lí
quan tâm nghiên cứu. Nhưng riêng bản thân tôi đã nghiên cứu từ năm học 20132014, chính thức thực hiện, viết thành đề tài trong năm học 2014-2015 và tiếp
tục nghiên cứu, bổ sung giải pháp trong năm học 2015-2016 đối với Trường
Tiểu học Nhơn Hòa, huyện Tân Thạnh, tỉnh Long An.
Nói đến việc bồi dưỡng đội ngũ giáo viên là một vấn đề rộng và khó
nhưng với đề tài này tôi không đề cập đến tất cả các nội dung bồi dưỡng với tất
cả các đối tượng trong nhà trường mà chỉ tập trung các giải pháp bồi dưỡng đội
ngũ giáo viên trực tiếp dạy lớp thông qua hình thức bồi dưỡng cụ thể để góp
phần nâng cao chất lượng đội ngũ ở đơn vị mình.
3
PHẦN NỘI DUNG
I. THỰC TRẠNG ĐỀ TÀI
Qua những năm làm công tác quản lí tại trường từ năm học 2012-2013
đến nay, tôi nhận thấy tình hình đội ngũ giáo viên trực tiếp dạy lớp trong 4 năm
học như sau:
* Về trình độ đào tạo:
Năm học
2012-2013
2013-2014
2014-2015
2015-2016
(Tháng
11/2015)
Tổng số
Trung học
giáo viên
sư phạm
dạy lớp
15
3
16
3
18
3
19
2
Cao
đẳng
Đại
học
Tỉ lệ
đạt chuẩn
Tỉ lệ
trên chuẩn
7
5
100%
(15/15)
80%
(12/15)
6
100%
(16/16)
81,3%
(13/16)
7
100%
(18/18)
83,3%
(15/18)
100%
(19/19)
89,5%
(17/19)
7
(trong đó
2 đang
học ĐH)
8
(trong đó
3 đang
học ĐH)
8
(trong đó
2 đang
học đại
học)
9
* Về chất lượng soạn, giảng:
Năm học
Tổng số giáo
viên dạy lớp
2012-2013
15
2013-2014
16
2014-2015
18
2015-2016
(Tháng
11/2015)
19
Soạn
(Qua kiểm tra giáo án)
Yếu
Tốt
Khá
TB
Giảng
(Qua dự giờ tiết dạy)
Tốt
Khá
TB Chưa
đạt
6
5
4
0
7
5
3
0
40
33,3
26,7
0
46,7
33,3
20
0
8
5
3
0
10
4
2
0
50
31,3
18,7
0
62,5
25
12,5
0
SL
11
5
2
0
11
5
2
0
TL
%
61,1
27,8
11,1
0
61,1
27,8
11,1
0
SL
8
5
6
0
8
6
5
TL
%
42,1
26,3
31,6
42,1
31,6
26,3
SL
TL
%
SL
TL
%
4
0
0
* Về xếp loại Chuẩn nghề nghiệp giáo viên:
(Theo Quyết định số 14/2007/QĐ-BGD&ĐT về Chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu học)
Năm Tổng
học
Lĩnh vực 1
số
Tốt
20122013
20132014
20142015
15
Khá TB
15
100%
16
18
Lĩnh vực 2
Kém
Tốt
Khá
7
8
46,7% 53,3%
16
8
100%
50%
18
10
100%
TB
7
Kém
Tốt
Khá
TB
8
5
2
53,3% 33,3% 13,3%
1
43,8% 6,3%
7
Lĩnh vực 3
1
55,6% 38,9% 5,6%
8
50%
9
50%
6
2
37,5% 12,5%
6
3
33,3% 16,7%
Nhìn vào 2 bảng thống kê trên cho thấy: Về trình độ đào tạo 100% giáo
viên có trình độ đạt chuẩn, giáo viên có trình độ trên chuẩn chiếm tỉ lệ rất cao
(từ 80% đến 89,5%). Song về chất lượng soạn, giảng thì tỉ lệ giáo viên có tay
nghề Trung bình còn khá cao, tỉ lệ giáo viên có tay nghề tốt chưa nhiều. Cuối
năm học 2014-2015, chất lượng giáo viên đã được nâng lên rất rõ nét nhưng đầu
năm học 2015-2016, trường có 03 giáo viên có tay nghề tốt chuyển công tác nên
được bổ sung 04 giáo viên mới ra trường, từ đó tỉ lệ giáo viên tay nghề trung
bình khá cao so với kết quả bồi dưỡng cuối năm học 2014-2015.
Riêng về kết quả đánh giá, xếp loại Chuẩn nghề nghiệp thì ở lĩnh vực 1,
tỉ lệ tốt chiếm 100%, sang lĩnh vực 2 tỉ lệ tốt và khá cũng cao, tỉ lệ trung bình
chỉ chiếm từ 5,6% đến 6,3%, nhưng đến lĩnh vực 3 thì tỉ lệ trung bình lại tăng
so với 2 lĩnh vực đầu (từ 12,5% đến 16,7%).
Qua nghiên cứu, tìm hiểu tôi nhận thấy có thực trạng trên là do những
nguyên nhân về thuận lợi và khó khăn sau:
- Trong công tác quản lí, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ giáo
viên của nhà trường luôn được sự quan tâm chỉ đạo và tạo điều kiện của Phòng
Giáo dục và Đào tạo.
5
Kém
- Nội bộ nhà trường luôn được sự quan tâm lãnh đạo sâu sát của Chi bộ,
nhiều năm liền Chi bộ đạt trong sạch vững mạnh. Các tổ chức đoàn thể trong
nhà trường đều hoạt động có hiệu quả.
- Đội ngũ giáo viên đa số trẻ khỏe, có tinh thần trách nhiệm và nhiệt tình
trong công tác.
- Trong những năm qua, cùng với các cấp lãnh đạo quản lý, nhà trường
thường xuyên tiến hành bồi dưỡng cho đội ngũ giáo viên thông qua nhiều hoạt
động. Kết quả của công tác bồi dưỡng cho đội ngũ giáo viên đã góp phần nâng
cao chất lượng đội ngũ, từng bước nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường.
- Giáo viên thực hiện đúng quy chế chuyên môn, các quy định về tự học,
tự bồi dưỡng. Một số giáo viên đạt giáo viên dạy giỏi, chiến sĩ thi đua có khả
năng vận dụng tốt phương pháp dạy học.
Tuy vậy trong việc bồi dưỡng đội ngũ giáo viên của nhà trường vẫn còn
một số hạn chế:
- Một vài giáo viên bằng lòng với hiện tại, hay tự ti, chưa có quyết tâm
cao trong việc tự học, tự bồi dưỡng tay nghề.
- Giáo viên mới ra trường và giáo viên trẻ về tuổi đời lẫn tuổi nghề
chiếm gần 50%. Tuy là lực lượng xung kích, trẻ khỏe, nhiệt tình nhưng lại thiếu
kinh nghiệm trong giảng dạy. Còn một số giáo viên tuổi đời lẫn tuổi nghề khá
cao nên việc nắm bắt và sáng tạo trong đổi mới phương pháp giảng dạy chưa tốt.
- Bên cạnh đó một vài giáo viên vẫn còn lúng túng trong phương pháp
giảng dạy nên hiệu quả tiết dạy còn hạn chế. Nguyên nhân của việc hạn chế về
phương pháp giảng dạy có thể bắt nguồn từ một trong hai khả năng sau: một là
do năng lực; hai là do giáo viên chưa ý thức được ý nghĩa của việc đổi mới
phương pháp.
- Việc tổ chức sinh hoạt chuyên môn, bồi dưỡng chuyên môn có thực
hiện nhưng đôi lúc chưa đi vào chiều sâu, hiệu quả chưa cao. Nội dung bồi
dưỡng giáo viên của Ban giám hiệu đôi lúc còn nặng về lý thuyết, hình thức bồi
dưỡng chưa tạo được sự chủ động cho giáo viên...
6
- Việc tìm hiểu, trao đổi, chia sẻ, động viên, khích lệ, định hướng cho
giáo viên có động lực phấn đấu chưa được Ban giám hiệu thực hiện thường
xuyên.
Qua tìm hiểu thực trạng với những nguyên nhân nêu trên, với vai trò là
Hiệu trưởng nhà trường, bản thân tôi cũng đã nhận thức rất sâu sắc về trách
nhiệm của mình trong việc bồi dưỡng đội ngũ giáo viên để duy trì và nâng cao
chất lượng giáo dục của nhà trường với “một số giải pháp xây dựng đội ngũ giáo
viên” ở năm học 2015-2016 như sau:
7
II. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
1. Xác định tầm quan trọng của công tác bồi dưỡng đội ngũ giáo
viên:
Đội ngũ giáo viên là lực lượng lao động chủ yếu, trực tiếp thực hiện mục
tiêu, kế hoạch giảng dạy, giáo dục của nhà trường, là người tạo nên uy tín, chất
lượng cho nhà trường. Do đó đội ngũ giáo viên là lực lượng giữ vai trò quan
trọng có tính chất quyết định đến sự thành công của nhà trường.
Xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên là thực hiện quan điểm của
Đảng “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, Nghị quyết Trung ương II khóa 8 đã
nêu: “Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục và được xã hội tôn
vinh”.
Tiểu học là cấp học nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc dân. “Tiểu
học là nền, lớp 1 là móng”, móng chắc, nền vững là cơ sở đảm bảo cho việc xây
dựng ngôi nhà học vấn phổ thông. Đội ngũ giáo viên tiểu học là lực lượng quyết
định chất lượng và hiệu quả giáo dục, đảm bảo mọi thành công của chủ trương
đổi mới giáo dục, đồng thời là người trực tiếp thực hiện mục tiêu của giáo dục
tiểu học. Thực tiễn cuộc sống đã chứng minh: Những hiểu biết, kỹ năng và thói
quen tốt đẹp của mỗi con người đã được hình thành từ cấp học này. Các thầy cô
mẫu mực và tâm huyết với nghề đã để lại dấu ấn trong mỗi học sinh của mình từ
nét chữ, lời nói, ứng xử trong giao tiếp...Vì thế trách nhiệm của những người
làm công tác giáo dục nói chung và đội ngũ giáo viên nói riêng rất nặng nề. Đòi
hỏi phải có phẩm chất chính trị vững vàng, có năng lực chuyên môn, cập nhật
thường xuyên những kiến thức cơ bản về xã hội, về giáo dục để vận dụng trong
quá trình giảng dạy.
Như vậy công tác xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên
trong trường tiểu học là một trong những việc làm hết sức quan trọng để xây
dựng và quyết định sự phát triển của mỗi nhà trường một cách bền vững. Do đó
tôi đã coi đây là công việc đầu tiên, giữ vai trò quyết định đối với chất lượng
giảng dạy và giáo dục của nhà trường.
8
Việc chăm lo bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên có đủ
phẩm chất năng lực công tác là vấn đề quan trọng đối với người Hiệu trưởng.
Bởi lẽ, trình độ chuyên môn của giáo viên có thể được nâng lên trong một
khoảng thời gian nhất định thông qua việc đào tạo. Tuy nhiên việc bồi dưỡng
giáo viên không thể giới hạn trong một khoảng thời gian nào đó mà đòi hỏi phải
thường xuyên, liên tục không có điểm kết thúc. Vì thế trong quá trình quản lí ở
trường, tôi luôn tuyên truyền, khuyến khích đội ngũ tăng cường tự học, tự bồi
dưỡng; tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên yên tâm học tập và bồi dưỡng; đồng
thời tôi cũng nêu gương những giáo viên vượt khó tự học, tự bồi dưỡng. Chăm
chút, nuôi dưỡng những nhân tố tích cực, nhân tố mới để tập hợp, khơi dậy đội
ngũ. Ngoài ra, tôi xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện nghiêm túc kế hoạch
bồi dưỡng thường xuyên chuyên môn nghiệp vụ của trường trong từng năm học.
Chính vì sự quan tâm trên nên nhận thức của đội ngũ giáo viên về công tác học
tập, bồi dưỡng nâng cao tay nghề đã chuyển biến rõ rệt.
2. Tìm hiểu, nắm vững tình hình đội ngũ giáo viên để có kế hoạch
bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ giáo viên hợp lí và hiệu quả:
Muốn công tác bồi dưỡng giáo viên có hiệu quả thì điều kiện tiên quyết
đầu tiên là phải nắm chắc tình hình đội ngũ của mình nhằm đánh giá mặt mạnh,
mặt yếu của đội ngũ để sắp xếp, phân công và bồi dưỡng cho phù hợp. Khi nắm
tình hình đội ngũ giáo viên tôi không nhìn nhận một cách vội vã, cảm tính, thiên
vị, trọng vẻ bề ngoài hoặc khắc khe, thành kiến...
Để thực hiện, tôi tập trung tiến hành vào những vấn đề sau:
+ Tìm hiểu về quá trình công tác:
Việc tìm hiểu về kết quả công tác trước kia của giáo viên được tôi
nghiên cứu từ hồ sơ lí lịch của mỗi người, trước hết là hồ sơ chuyên môn, các
phiếu nhận xét, đánh giá chuẩn nghề nghiệp, các phiếu nhận xét của Hiệu trưởng
ở nhiệm kì trước (hoặc của đơn vị cũ), các thành tích về thi đua, giảng dạy,
những mặt mạnh đã có, những hạn chế còn vấp phải. Tiếp theo tôi tìm hiểu quá
trình công tác, học tập qua hồ sơ công chức, qua tìm hiểu về hoàn cảnh sống,
hoàn cảnh gia đình.
9
Bên cạnh đó việc tìm hiểu, nhận xét, đánh giá hiện tại cũng rất quan
trọng để xác định năng lực, phẩm chất đạo đức của giáo viên. Khi tìm hiểu, nhận
xét, đánh giá hiện tại tôi thực hiện một số công việc như sau:
+ Quan sát kết hợp với dư luận tập thể:
Đây là biện pháp được tôi sử dụng thường xuyên, gắn với các nội dung
kiểm tra của tôi. Mặt khác, tôi còn quan sát, kiểm tra việc làm thực tiễn của từng
thành viên trong quá trình công tác. Bên cạnh đó dư luận trong tập thể thường
công bằng và khá chính xác nên tôi cũng thường xuyên kiểm tra lại việc đánh
giá của mình kết hợp với việc chắc lọc từ dư luận trong tập thể. Nó giúp tôi đánh
giá khá chính xác về đội ngũ giáo viên của mình.
+ Nhận định điểm mạnh, điểm yếu và khả năng tiềm ẩn của mỗi giáo
viên:
Chắc chắn ai ai cũng biết một điều, đó là trong mỗi con người chúng ta
ai cũng có điểm mạnh, điểm yếu và khả năng, năng lực tiềm ẩn bên trong. Do đó
mỗi giáo viên trong trường cũng vậy. Điều quan trọng là người Hiệu trưởng có
nhận thấy và khơi dậy những điểm mạnh, những năng lực và tạo điều kiện để
mỗi giáo viên phát huy hay không? Nhận thức được điều đó, thông qua việc tiếp
xúc, kiểm tra, quan sát kết hợp với dư luận tập thể tôi cố gắng nhìn nhận, đánh
giá một cách khách quan về điểm mạnh, điểm yếu và khả năng tiềm ẩn ở mỗi
giáo viên. Chẳng hạn như:
Cô N.P.T.H.O có năng lực chuyên môn, nhiệt tình trong công việc
nhưng có điểm yếu là nhút nhát, chưa tự tin để đăng kí dự thi giáo viên dạy giỏi,
chiến sĩ thi đua. Khả năng tiềm ẩn của cô là Giáo viên dạy giỏi, bồi dưỡng phát
triển học sinh năng khiếu.
Thầy T.Q.T có năng lực chuyên môn, nhạy bén, chủ động trong công
việc nhưng điểm yếu là hay tự ti. Khả năng tiềm ẩn: năng lực quản lý, thiết kế tổ
chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp.
Cô Đ.T.L có năng lực chuyên môn, điểm yếu là tinh thần vì tập thể chưa
cao. Khả năng tiềm ẩn: mạnh dạn, tự tin, có năng lực giáo dục học sinh khuyết
tật học hòa nhập.
10
Cô N.T.D có năng lực chuyên môn, làm rất tốt công tác chủ nhiệm,
điểm yếu của cô là nóng tính, hay phản ứng vội vàng. Khả năng tiềm ẩn: rèn
luyện và bồi dưỡng học sinh viết chữ đẹp.
Từ đó tôi cố gắng sắp xếp thời gian, chọn hoàn cảnh, thời gian hợp lí để
tiếp xúc, trao đổi với từng giáo viên thật tế nhị và chân tình để giúp giáo viên
khắc phục dần điểm yếu và phát huy hơn nữa điểm mạnh, năng lực của mình.
Từ đó mỗi giáo viên đều có sự nỗ lực phấn đấu: Người có thành tích tốt
thì cố gắng phát huy hơn nữa, người chưa có thành tích thì nhìn nhận lại bản
thân, so sánh với đồng nghiệp để khắc phục và nỗ lực phấn đấu cho bằng đồng
nghiệp. Cứ như thế đã tạo nên một guồng quay phấn đấu trong mỗi giáo viên.
+ Sử dụng đội ngũ giáo viên hợp lí và có hiệu quả:
Việc sử dụng và bố trí hợp lí đội ngũ giáo viên có vai trò to lớn trong
việc nâng cao hiệu quả dạy học và chất lượng giáo dục. Do đó sau khi tìm hiểu
về quá khứ, điểm mạnh, điểm yếu và khả năng tiềm ẩn của mỗi người, tôi đã
phân công chủ nhiệm lớp tùy thuộc vào khả năng của mỗi giáo viên. Việc phân
công đúng người đúng việc là một khâu quan trọng trong việc chỉ đạo chuyên
môn.
Trước hết tôi chọn những giáo viên có năng lực chuyên môn, phẩm chất
đạo đức tốt, gương mẫu, nhiệt tình, có uy tín trước tập thể để đề cử làm tổ
trưởng chuyên môn, giáo viên cốt cán, thư kí hội đồng... Đối với giáo viên chủ
nhiệm, khi phân công tôi cũng cân nhắc tính ổn định tương đối để giáo viên tích
lũy kinh nghiệm, những ai dạy khối nào sang năm tôi phân công tiếp khối đó để
giáo viên có kinh nghiệm hơn trong khối mình đang dạy. Mặt khác phải sắp xếp
trong khối phải có một hoặc hai giáo viên kiến thức vững, phương pháp tốt làm
nòng cốt trong khối để hỗ trợ những giáo viên còn hạn chế về chuyên môn và
giáo viên mới ra trường.
Ví dụ:
Đối với những giáo viên mới ra trường vào tháng 10/2015, khi phân
công tôi cũng cân nhắc về hoàn cảnh gia đình, sức khỏe, nơi ở khi nhận công
tác. Từ đó phân công từng giáo viên về điểm trường phù hợp:
11
Như cô N.T.N.T, giáo viên mới ra trường, nhà ở Kiến Bình, gần với
điểm trường Hải Hưng, khi tiếp xúc cô trong ngày nhận giáo viên mới tôi thấy
cô lanh lẹ, hoạt bát nên tôi đã phân công cô về dạy lớp 4 ở điểm Hải Hưng cũng
rất tiện cho cô.
Cô L.T.N.C nhà ở xã Tân Lập nhưng tôi không phân công cô về điểm Gò
Nôi (Gần xã Tân Lập) mà đưa cô về dạy lớp 5 ở điểm chính, vì tôi nhận thấy cô
có phương tiện đi lại, sức khỏe rất tốt và nhanh nhẹn, tháo vát có thể hỗ trợ
được những công tác ngoài giờ (Thường được tổ chức tại điểm chính) của nhà
trường.
Đối với lớp 1, lượng kiến thức tuy không nhiều nhưng đòi hỏi giáo viên
ngoài kiến thức, năng lực sư phạm còn cần phải có sự kiên trì, tính nhẫn nại, sự
dịu dàng như người mẹ thì mới dạy tốt được. Khi phân công, tôi cân nhắc kĩ khả
năng của từng giáo viên. Ngoài cô Sa, cô Lý đều đã có nhiều kinh nghiệm, có
tinh thần trách nhiệm cao, chữ viết đẹp, phát âm chuẩn, tôi cũng nhận thấy cô
Thảo, tuy những năm trước dạy ở khối 5 nhưng cô có năng lực chuyên môn và
phương pháp dạy rất tốt, tính hòa nhã, nói năng nhẹ nhàng, chữ viết đẹp, cẩn
thận, tỉ mỉ và đã từng đạt tiết Tốt trong Hội thi Đổi mới phương pháp cấp huyện
năm học 2012-2013 nếu dạy lớp 1 sẽ rất phù hợp do đó tôi đã mạnh dạn phân
công cô chủ nhiệm lớp 1.
Như cô Nga, trước đây chỉ dạy khối lớp 2 và 3 nhưng tôi nhận thấy năng
lực của cô (về kiến thức khoa học lẫn kiến thức sư phạm, sự nhiệt tình...) nếu
dạy khối lớp 4 thì sẽ phù hợp hơn nhiều nên tôi đã mạnh dạn phân công cô sang
khối lớp 4 từ năm học 2013-2014.
Đối với khối lớp 2, 3 lượng kiến thức có phần đơn giản hơn khối lớp 4, 5
nhưng cũng cần những giáo viên nhiệt tình trong giảng dạy và thực hiện tốt
công tác chủ nhiệm. Do đó khi phân công tôi chọn những giáo viên có tay nghề
trung bình, khá và chọn một vài giáo viên có kiến thức vững, phương pháp tốt
như cô Xuân là chiến sĩ thi đua, cô Oanh giáo viên giỏi cấp trường, cấp huyện
để làm nòng cốt hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau về chuyên môn cho các thành viên khác
trong khối.
12
Đối với điểm trường xa Hải Hưng, khi phân công giảng dạy tôi đều cân
nhắc về hoàn cảnh, sức khỏe, giáo viên mang thai và nuôi con nhỏ dưới 24 tháng
tuổi, những giáo viên còn lại tôi phân công theo hình thức luân phiên điểm
trường để đảm bảo sự công bằng và khách quan.
Việc phân công giáo viên phù hợp là một khâu quan trọng, là việc làm
cần thiết trong việc bồi dưỡng đội ngũ giáo viên để giáo viên có nhiều kinh
nghiệm trong giảng dạy. Góp phần nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho
giáo viên cũng như nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường. Từ cách phân
loại, sắp xếp và sử dụng phù hợp từng giáo viên tôi nhận thấy đội ngũ giáo viên
như có thêm niềm tin và nghị lực, phấn đấu tích cực trong công tác để hoàn
thành tốt nhiệm vụ trong từng năm học.
3. Bồi dưỡng về chính trị tư tưởng:
Bất kì một cơ quan, một đơn vị hay một tổ chức nói chung và nhà
trường nói riêng muốn hoạt động có hiệu quả và đạt kết quả tốt thì phải có kỷ
cương và nền nếp.
Nhà trường chỉ đạt được hiệu quả giáo dục cao khi có một đội ngũ giáo
viên kiên định về chính trị tư tưởng, có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực
chuyên môn vững vàng. Bồi dưỡng chính trị tư tưởng cho giáo viên nhằm nâng
cao nhận thức về thế giới quan, nhân sinh quan của người giáo viên, nhằm tạo ra
một sự nhạy bén, sự mẫn cảm và khả năng thích ứng về mọi mặt xã hội trong
công cuộc đổi mới đất nước hiện nay. Những nhận thức đó tạo nên sức mạnh,
niềm tin và lí tưởng của từng giáo viên, từ đó giáo viên nhận thức rõ vai trò, vị
trí, trách nhiệm của mình đối với việc giáo dục thế hệ trẻ, đặc biệt là trẻ em lứa
tuổi tiểu học.
Ở trường, giáo viên không chỉ nắm vững về kiến thức chuyên môn
nghiệp vụ cho mình mà còn cần phải có một bản lĩnh chính trị vững vàng, có
lương tâm, tình yêu trẻ và tình yêu nghề nghiệp sâu sắc để thực hiện nhiệm vụ
cao cả của mình. Bởi lẽ chính giáo viên là người trực tiếp thực hiện và cụ thể
hóa đường lối, chủ trương chính sách của Đảng về giáo dục.
13
Tôi nhận thức rằng lí tưởng, đạo đức nghề nghiệp của người giáo viên
thể hiện qua lòng yêu nước, yêu nghề, yêu trẻ, hết lòng vì học sinh thân yêu, đó
là một yếu tố quan trọng về nhân cách cao đẹp của người giáo viên. Gắn quá
trình bồi dưỡng lí tưởng nghề nghiệp với bồi dưỡng phẩm chất như: nắm vững
mục tiêu giáo dục, chấp hành chính sách, pháp luật của Nhà nước, phấn đấu
không ngừng nâng cao trình độ, ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần đoàn kết, hợp
tác thực hiện nhiệm vụ giáo dục.
Để làm được điều này, ngay từ đầu năm học, tôi tổ chức quán triệt cho
giáo viên thấm nhuần và thông suốt tư tưởng. Nếu tư tưởng không thông thì mọi
việc dù lớn hay nhỏ cũng làm không đến nơi đến chốn. Bước vào năm học, tôi
quán triệt ngay các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, Nhà nước, nhiệm vụ năm học
của các cấp quản lý giáo dục, nhất là nhiệm vụ năm học của cấp Tiểu học làm
cho mỗi giáo viên nắm được nhiệm vụ trọng tâm của năm học, từ đó nâng cao
nhận thức về tầm quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ giảng dạy, học tập
trong năm học.
Tiếp tục tổ chức học tập quán triệt các văn bản chỉ đạo của các cấp lãnh
đạo làm cho giáo viên trong nhà trường nhận thức rõ vai trò quan trọng của giáo
dục và đào tạo trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Quán triệt và tạo điều kiện cho 100% giáo viên tham gia học tập đầy đủ
và thật tốt đợt sinh hoạt chính trị hè hàng năm do Phòng Giáo dục và Đào tạo tổ
chức.
Thường xuyên sinh hoạt nâng cao chính trị tư tưởng cho giáo viên thông
qua các buổi họp hội đồng sư phạm hàng tháng, lồng ghép trong các lần sinh
hoạt nhân các ngày lễ 8/3, 20/10, 20/11 bằng những câu hỏi hái hoa dân chủ, trò
chơi... với những nội dung liên quan đến vai trò trách nhiệm của mỗi giáo viên
trong công tác giảng dạy và giáo dục học sinh, từ đó góp phần xây dựng đội ngũ
giáo viên có phẩm chất đạo đức tốt, có quan điểm lập trường và nhận thức đúng
đắn góp phần tích cực vào việc hoàn thành nhiệm vụ chính trị của nhà trường và
nhiệm vụ của bản thân.
14
Hưởng ứng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh” trong trường học theo chủ đề của năm học, tôi đã phát động và tổ
chức cho giáo viên đăng ký thực hiện trong Hội nghị cán bộ, viên chức đầu năm
học. Ngoài ra, tôi còn chú trọng bồi dưỡng đội ngũ giáo viên nêu cao tinh thần
“Dân chủ - Kỷ cương - Tình thương - Trách nhiệm” trong nhà trường: Kỷ cương
trong việc chấp hành các chế độ, chính sách pháp luật của Nhà nước, kỷ cương
trong chuyên môn, trong chấp hành sự phân công, chỉ đạo của cấp trên, trong
chấp hành nội quy, quy định của ngành, của nhà trường; có tình thương yêu gần
gũi học sinh; có trách nhiệm với bản thân, với học sinh, với tập thể và với cộng
đồng.
Bên cạnh đó, tôi cũng luôn coi trọng công tác thi đua, công tác động
viên tuyên truyền. Để nhà trường có nhiều giáo viên đạt danh hiệu Chiến sĩ thi
đua thì vấn đề vận động tuyên truyền là rất quan trọng, phải làm sao để giáo viên
thấu hiểu việc trở thành Chiến sĩ thi đua là một kết quả rất vinh dự đối với bản
thân giáo viên và cũng là niềm vinh dự cho nhà trường, địa phương, là niềm
vinh dự trước phụ huynh học sinh, tạo niềm tin để phụ huynh yên tâm, tin tưởng
gửi con em đến trường. Tôi mạnh dạn đặt niềm tin vào giáo viên để khuyến
thích, khơi dậy lòng nhiệt tình, tinh thần thi đua, sự năng động sáng tạo, dám
nghĩ, dám làm trong đội ngũ. Từ đó xây dựng mối đoàn kết gắn bó giữa giáo
viên với giáo viên, giữa giáo viên với phụ huynh học sinh, nêu rõ được trách
nhiệm của mỗi bên để cùng phối hợp làm công tác giáo dục. Xây dựng mối quan
hệ đoàn kết giữa giáo viên với cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, với lãnh
đạo nhà trường cũng như với các tổ chức đoàn thể để cùng phối hợp làm công
tác giáo dục để giáo dục đào tạo thực sự là sự nghiệp chung của toàn Đảng, toàn
dân.
Trong quá trình bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, khi xây dựng phong cách
giáo viên tôi chú ý tới thái độ đối với công việc và cách ứng xử trước những vấn
đề, tình huống trong quan hệ với cấp trên, với đồng nghiệp, với phụ huynh, với
học sinh hoặc tình huống xảy ra trong cuộc sống để kịp thời giúp giáo viên điều
chỉnh. Giáo viên muốn làm tốt công tác giáo dục phải có tác phong mẫu mực,
15
tôn trọng và công bằng trong đối xử với học sinh, phải xây dựng uy tín trước học
sinh, nhân dân và xã hội. Dù trong hoàn cảnh nào cũng không được làm hoen ố
danh dự nhà giáo. Phải xây dựng thói quen làm việc có kỷ cương, nề nếp, lương
tâm trách nhiệm. Thông qua bồi dưỡng chính trị tư tưởng, đội ngũ giáo viên
thêm tự hào, gắn bó với nghề, với trường để tạo động lực phát triển nhà trường.
Bồi dưỡng lòng nhân ái sư phạm là nội dung mà tôi cũng rất quan tâm
trong công tác bồi dưỡng chất lượng giáo viên. Bởi vì lòng nhân ái sư phạm của
giáo viên được thể hiện trên tất cả các hoạt động của nhà trường, là gốc gác của
mọi khởi điểm và sự sáng tạo. Lòng nhân ái - tình yêu thương con người là cái
gốc của đạo lý làm người. Với giáo viên thì tình yêu thương ấy là cốt lõi, là
nguồn sâu xa của lý tưởng nhân văn, là đặc trưng của giáo dục. Chính tình yêu
thương học sinh là điểm xuất phát cho mọi sự sáng tạo sư phạm và làm cho giáo
viên có trách nhiệm cao với công việc và được thể hiện qua các hoạt động giảng
dạy, giáo dục, đó cũng là điểm xuất phát của tình yêu nghề nghiệp.
Qua các nội dung bồi dưỡng trên, tôi nhận thấy nhận thức của đội ngũ
giáo viên đã được nâng cao và có chuyển biến, không còn giáo viên làm việc
cầm chừng, tư tưởng ngại khó, so bì với đồng nghiệp, tập thể gắn bó và đoàn
kết hơn trong các hoạt động của nhà trường. Mỗi giáo viên đã tự ý thức sâu sắc
về nghề nghiệp của mình, trên cơ sở đó xác định đúng đắn vai trò, nhiệm vụ của
người giáo viên tiểu học trong việc giảng dạy, giáo dục học sinh. Từ đó đã phát
huy tính năng động, sáng tạo và tạo động lực thúc đẩy mọi giáo viên tham gia
vào hoạt động chuyên môn có hiệu quả hơn và xem bồi dưỡng chuyên môn vừa
là nhiệm vụ vừa là quyền lợi của mình.
Bên cạnh đó, tinh thần thi đua cũng được khơi dậy và được giáo viên
hưởng ứng sôi nổi. Nhiều giáo viên đã tự giác đăng ký các danh hiệu thi đua mà
không thụ động chờ đến sự vận động của nhà trường như các năm trước. Cụ thể
có 18/18 giáo viên đăng ký thi Giáo viên giỏi cấp trường, 18/18 giáo viên đăng
ký danh hiệu Lao động tiên tiến, 6/18 giáo viên đăng ký dự thi Chiến sĩ thi đua
các cấp, chiếm tỉ lệ 33,3% (Đây là số liệu đầu năm, khi giáo viên chưa chuyển
công tác).
16
4. Xây dựng mối đoàn kết, đồng thuận trong nhà trường:
Trên thực tế một tập thể mạnh luôn là một tập thể đoàn kết nhất trí và ở
đó luôn có tình người. Tính thân thiện, lòng nhân hậu, đức bao dung của mọi
người trong tập thể luôn được đề cao, mọi người sống bên nhau đoàn kết sẽ tạo
nên sức mạnh của đơn vị.
Các nhà trường nói chung, trường tiểu học nói riêng là môi trường lý tưởng,
là bậc nền móng để xây dựng đào tạo thế hệ trẻ, những chủ nhân tương lai cho
đất nước, những công dân hữu ích thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, đưa
nước ta đi lên cùng hội nhập với các cường quốc năm châu. Để thực hiện các
mục tiêu, nhiệm vụ trên thì nhà trường phải vững mạnh toàn diện, để thúc đẩy
mọi hoạt động giáo dục trong nhà trường liên tục vươn lên hoàn thành xuất sắc
mọi nhiệm vụ được giao. Mà lực lượng then chốt để hoàn thành nhiệm vụ thiêng
liêng ấy chính là sự cố gắng của từng thành viên, mối quan hệ thân thiện gắn kết
của các thành viên trong tập thể sư phạm nhà trường.
Trong nhà trường sự đoàn kết nhất trí của tập thể sư phạm sẽ tạo nên sức
mạnh và là điều kiện tối ưu cho các hoạt động của nhà trường. Một tập thể sư
phạm vững mạnh đoàn kết, là một tập thể mạnh về tư tưởng, giỏi về chuyên môn
nghiệp vụ, đoàn kết thống nhất về ý chí. Đoàn kết trong tập thể sư phạm có tác
dụng nâng cao hiệu quả lao động sư phạm và chính sự đoàn kết đó là một
phương tiện giáo dục học sinh.
Qua thực tế công tác quản lý, tôi nhận thấy việc xây dựng tập thể sư
phạm đoàn kết là một vấn đề rất quan trọng và khó khăn nhất là đối với những
người làm công tác quản lý. Một tập thể đông người đã là phức tạp nhưng với
một tập thể đa phần là nữ lại càng phức tạp hơn, mỗi người mỗi tính, nếu không
đồng lòng thì mọi việc sẽ trở nên rối ren công việc sẽ không trôi chảy và làm
việc gì cũng khó. Vì vậy việc xây dựng tập thể sư phạm doàn kết có ý nghĩa
hết sức quan trọng trong mỗi nhà trường, nó tồn tại song song với sự phát triển
của sự nghiệp giáo dục nhà trường. Sức mạnh đoàn kết của tập thể sẽ đóng vai
trò quyết định trong việc nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường. Đồng
thời việc xây dựng tập thể sư phạm đoàn kết sẽ phát huy được sức mạnh tổng
17
hợp của tập thể trong việc thực hiện mục tiêu của nhà trường. Đó là việc liên kết
các giáo viên, nhân viên, các thành viên trong nhà trường thành một tập thể
đoàn kết thống nhất, vững mạnh về mọi mặt, hết lòng vì mục tiêu giáo dục của
nhà trường, vì sự nghiệp giáo dục và đào tạo của huyện nhà nói chung và của
nhà trường nói riêng.
Để xây dựng được một tập thể sư phạm thật sự đoàn kết thống nhất, bản
thân tôi đã thực hiện như sau:
Trước hết tôi xây dựng mối đoàn kết, đồng thuận từ ngay trong Ban giám
hiệu bằng sự phân công, phân nhiệm cụ thể, rõ ràng, phù hợp giữa tôi và Phó
hiệu trưởng, cùng thống nhất mục tiêu chung của nhà trường. Tôi luôn tạo điều
kiện tốt nhất cho Phó hiệu trưởng thực hiện nhiệm vụ được giao. Khi đã thống
nhất những việc Phó hiệu trưởng đã tham mưu thực hiện, tôi cũng quan tâm chỉ
đạo, không để cho Phó hiệu trưởng gặp khó khăn trong việc triển khai thực hiện.
Khi giữa tôi và Phó hiệu trưởng cùng nhau thống nhất, đồng thuận các giáo viên
sẽ nhận thấy rất rõ mối quan hệ tốt đẹp đó, từ đó tôi sẽ rất dễ dàng tạo thêm các
mối quan hệ tốt khác trong nhà trường.
Tiếp theo là xây dựng mối quan hệ nhân ái giữa lãnh đạo với giáo viên
và giữa các giáo viên với nhau. Để thực hiện được điều này, tôi đã luôn tin
tưởng vào cấp dưới, tôn trọng, chân thành, khách quan, dân chủ và có trách
nhiệm giúp đỡ tạo điều kiện tốt nhất cho cấp dưới hoàn thành nhiệm vụ. Trong
giờ làm việc thì nghiêm túc nhưng vui vẻ, hòa đồng. Bản thân tôi cũng luôn
gương mẫu, đi đầu trong mọi công việc, không quan liêu, luôn lắng nghe và tiếp
thu những ý kiến của cán bộ, giáo viên, nhân viên để có biện pháp bổ sung, điều
chỉnh phù hợp. Chẳng hạn từ một việc chỉ đạo phân công nhiệm vụ mà có nhiều
ý kiến xây dựng thì tôi phải nhìn nhận, suy xét lại quyết định của mình có đúng
không, có phù hợp không, có đúng như ý kiến xây dựng của cấp dưới không? Từ
đó tôi bổ sung, điều chỉnh ngay, không khư khư bảo thủ quan điểm của mình.
Đặc biệt nhân Ngày 20/11, tôi tạo điều kiện tổ chức gặp mặt người thân của giáo
viên (mời tham dự lễ) để giúp họ hiểu biết hơn công việc của nhà trường từ đó
có sự quan tâm, động viên, khích lệ, tạo điều kiện để chồng hay vợ yên tâm công
18
tác, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ. Hàng năm nhân ngày tết cổ truyền, tôi
cũng tổ chức cho tập thể cùng đi chúc tết gia đình cán bộ, giáo viên, nhân viên
(Trong ngày họp hội đồng sau kì nghỉ tết). Ngoài ra tôi cũng thường xuyên tìm
hiểu, thông cảm và chia sẻ những buồn vui của mọi giáo viên để động viên
khuyến khích họ vượt qua khó khăn để vươn lên trong cuộc sống và hoàn thành
nhiệm vụ.
Song song đó trong quá trình quản lí, tôi luôn cố gắng xây dựng và tạo
bầu không khí tâm lí thân thiện trong tập thể, ghi nhận mỗi đóng góp dù là rất
nhỏ của từng giáo viên, không phân biệt giáo viên chủ nhiệm hay giáo viên bộ
môn. Mỗi khi giáo viên nào đạt được giải thưởng của cá nhân hoặc của học sinh
đều được Ban giám hiệu và đồng nghiệp chia vui, chúc mừng. Đồng thời khi có
dịp thuận tiện (họp Cha mẹ học sinh, Ngày 20/11, ngày tổng kết khen thưởng...)
tôi cũng kịp thời chia sẻ những kết quả đó của giáo viên đến cộng đồng để cộng
đồng biết và chia vui với giáo viên.
Trong quá trình làm việc trong một tập thể sư phạm lớn, khó tránh khỏi
những bất đồng, mâu thuẫn nảy sinh. Khi đó tôi chủ động phân tích, tìm hiểu
nguyên nhân từ đâu dẫn đến bất hòa, mâu thuẫn, lựa chọn phương án xử lý kịp
thời các mâu thuẫn đó một cách có tình, có lý, giải quyết hài hòa mâu thuẫn giữa
các bên để tìm ra tiếng nói chung, bình thường hóa quan hệ. Việc phối hợp với
các thành viên chủ chốt của trường để giải quyết các vấn đề là điều hết sức quan
trọng, nếu lơ là sẽ dẫn đến mâu thuẫn kéo dài, ảnh hưởng không tốt đến công tác
nhà trường và dần dần sẽ tạo điều kiện cho sự mất đoàn kết nảy sinh, từ đó sẽ
dẫn đến nhiều vấn đề phức tạp, khiếu nại đến các cấp quản lý…
Chẳng hạn chỉ vì một lý do nhỏ như công tác xét thi đua mà gây ra bất
đồng giữa giáo viên với tổ khối trưởng và Ban giám hiệu nhà trường, khi đó tôi
phải nắm bắt và giải quyết kịp thời, hợp tình, hợp lý, kết hợp với các bộ phận
chủ chốt như Chi ủy chi bộ, Công đoàn, Chi đoàn, giáo viên có uy tín… giải
thích rõ những sai trái mà giáo viên vô tình hay cố ý cố chấp không nhìn nhận
ra. Khi có sự quan tâm đúng mức, kịp thời, giúp họ thấy rõ việc sai trái để sửa
19
chữa, từ đó họ sẽ khắc phục và công tác tốt hơn với tinh thần tự giác, tự nguyện,
hiệu quả công tác sẽ cao hơn.
Vật chất luôn đi đôi với tinh thần, do đó ngoài việc quan tâm đến xây
dựng về tư tưởng, tinh thần, tôi cũng luôn quan tâm đến đời sống vật chất của
giáo viên. Cải thiện điều kiện nơi làm việc, quan tâm tạo cảnh quan môi trường
xanh - sạch - đẹp với những lớp học sạch sẽ thoáng mát, trang trí phù hợp; nhà
vệ sinh và nơi rửa tay luôn sạch sẽ. Công bằng trong việc xét thi đua khen
thưởng, phải đúng người, đúng việc tạo được niềm tin, kích thích sự nỗ lực,
phấn đấu của mỗi giáo viên. Tôi cũng luôn quan tâm thực hiện đầy đủ, kịp thời
các chế độ chính sách của nhà nước, công đoàn ngành đối với cán bộ, giáo viên
như: lương hàng tháng, chế độ tăng lương theo quy định, chế độ bảo hiểm, nghỉ
hè, nghỉ phép, chế độ khám chữa bệnh, các chế độ đối với nữ cán bộ, giáo viên,
chế độ xét trợ cấp của công đoàn ngành…
Qua các việc làm trên của tôi, qua thời gian, tôi nhận thấy mối quan hệ
giữa các giáo viên đã có chuyển biến rõ nét: bình đẳng, phối hợp, cùng hợp tác,
tương thân, tương ái, khoan dung với nhau hơn, tất cả điều đó đã tạo nên bầu
không khí tâm lý lành mạnh, thân thiết, đoàn kết, thấm đượm tình đồng nghiệp,
đồng chí. Những giáo viên trước đây được tập thể xem là “kỳ cục”, “hay gây
sự”, chỉ biết quyền lợi của riêng mình, tách biệt với tập thể và gần như bị tập
thể “tẩy chay” thì nay họ đã vui vẻ, hòa đồng vào tập thể nhà trường, không còn
không khí nặng nề mỗi khi họp hội đồng sư phạm hay các cuộc họp khác của
nhà trường.
5. Bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ:
5.1. Tổ chức sinh hoạt chuyên môn:
Thông lệ cứ vào năm học, khi tham gia sinh hoạt cùng các tổ chuyên
môn, điều tôi thường thấy là những nội dung sinh hoạt còn mang tính hành
chính, kiểm điểm công việc, thông báo tình hình, phương hướng sắp tới. Trong
khi đó trọng tâm của sinh hoạt chuyên môn là trao đổi, tháo gỡ những vướng
mắc trong quá trình giảng dạy... lại ít khi được đề cập đến. Như thế đồng nghĩa
với việc không cần trao đổi, không đặt vấn đề nào mới, tranh luận để giải quyết
20
những nội dung chưa thống nhất. Vì thế tính học hỏi, trao đổi chuyên môn, tích
lũy kinh nghiệm chưa thể hiện rõ.
Nhận thức thực trạng của vấn đề, tôi đã bàn bạc, trao đổi và đi đến
thống nhất với Phó hiệu trưởng nhà trường về cải tiến sinh hoạt chuyên môn.
Tôi đề nghị cô Phó hiệu trưởng chỉ đạo đến các giáo viên sinh hoạt chuyên môn
theo hướng sau:
Trong các lần họp, sinh hoạt chuyên môn khối, Tổ khối trưởng thực hiện
tốt một số việc sau: Giao giáo viên dạy lớp nghiên cứu trước nội dung dạy học
trong 2 tuần và đưa ra tổ thảo luận, bàn bạc và thống nhất thực hiện, giải quyết
tốt những khó khăn mà giáo viên còn vướng mắc trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ chuyên môn của mình. Đặc biệt trong các lần sinh hoạt chuyên môn
tôi còn yêu cầu giáo viên xác định đúng Chuẩn kiến thức kỹ năng của từng bài
dạy, Công văn 5842/BGDĐT-VP của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành ngày
01/9/2011 về việc hướng dẫn điều chỉnh các nội dung dạy học các môn học cấp
tiểu học vì Chuẩn kiến thức kỹ năng và 5842/BGDĐT-VP là cơ sở để đánh giá
một tiết dạy. Nghiên cứu Chuẩn kiến thức kỹ năng cần đọc kỹ phần hướng dẫn
chung của từng môn học và phần yêu cầu cần đạt của từng tiết dạy. Do có những
tiết ở phần yêu cầu cần đạt không nêu nhưng ở phần hướng dẫn chung lại có.
Ví dụ 1: Môn Toán lớp 2, tuần 27, bài: Luyện tập chung. Yêu cầu cần
đạt cho biết:
- Thuộc bảng nhân, bảng chia đã học.
- Biết tìm thừa số, số bị chia.
- Biết nhân (chia) số tròn chục với (cho) số có một chữ số.
- Biết giải bài toán có một phép tính chia (trong bảng chia 4).
Phần ghi chú, bài tập cần làm bài 1; bài 2 (cột 2); bài 3.
Cho thấy trong phần ghi chú, bài tập cần làm ở các bài tập trên không
có bài nào có nội dung về biết giải bài toán có một phép tính chia (trong bảng
chia 4) nên khi giảng dạy giáo viên không đọc kỹ sẽ không thực hiện đúng yêu
cầu cần đạt của Chuẩn kiến thức kỹ năng. Vậy đối với tiết Toán này ta cần làm
21
thêm bài tập 4: (Cô giáo chia đều 24 tờ báo cho 4 tổ. Hỏi mỗi tổ được mấy tờ
báo?) thì mới thực hiện yêu cầu cần đạt của Chuẩn kiến thức kỹ năng.
Ví dụ 2: Dựa vào bài thơ Gọi bạn, em hãy kể lại câu chuyện về tình bạn
thật xúc động của Bê Vàng và Dê Trắng.
Để học sinh làm tốt đề bài luyện tập này, phần sinh hoạt chuyên môn ở
tổ có định hướng giáo viên nên chẻ nhỏ các câu hỏi ra để gợi ý học sinh dễ trả
lời. Cụ thể :
Câu hỏi 1: Bê vàng và Dê Trắng kết bạn sống ở đâu?
Câu hỏi 2: Dựa vào bài thơ, hãy kể lại cuộc chia tay của Bê Vàng và Dê
Trắng trước khi Bê Vàng đi tìm cỏ?
Câu hỏi 3: Khi Dê Trắng chờ mãi không thấy bạn Bê Vàng về, Dê Trắng
đã làm gì?
Câu hỏi 4: Dựa vào bài thơ, em hãy tưởng tượng và kể lại phần kết của
câu chuyện theo suy nghĩ của em.
Bên cạnh đó, tôi cùng Phó hiệu trưởng còn tham gia các buổi sinh hoạt
chuyên môn ở các tổ để định hướng những nội dung cần thảo luận.
Ví dụ: Có giáo viên cùng tổ chưa hiểu rõ vấn đề gì? Khó ở tiết nào?
Môn nào? Cử ra một giáo viên dạy (mỗi giáo viên trong tổ đều được phân công
dạy), đối tượng dự chỉ tập trung trong nhóm giáo viên cùng tổ, từ đó tổ có thể
tiếp cận, vận dụng được, tiết kiệm được thời gian, công sức, giáo viên dạy sẽ
soạn kỹ tiết dạy đó rồi lên lớp. Sau tiết dạy, cùng nhau đặt ra vấn đề, chọn lọc
cách làm hay.
Trước phiên họp chuyên môn, tôi đề nghị Phó hiệu trưởng gợi ý những
nội dung cụ thể cần trao đổi trong phiên họp của từng tổ (không cùng một nội
dung cho tất cả các tổ), Tổ khối trưởng sẽ được góp ý soạn thảo nội dung thông
qua ý kiến của tôi. Tôi phân công trong Ban giám hiệu dự họp cùng tổ, cùng đặt
ra những yêu cầu bức xúc để tổ cùng giải quyết mang tính thiết thực khả thi.
Ví dụ: Đưa ra gợi ý nội dung cần trao đổi cho các tổ như sau:
* Ở khối 1, 2, 3:
22
- Tiết Củng cố kiến thức (buổi chiều) giáo viên cần thiết kế nội dung bồi
dưỡng học sinh giỏi, phụ đạo học sinh yếu trong giáo án đảm bảo những yêu
cầu nào?
- Đưa trò chơi học tập vào các tiết Đạo đức ở khối lớp 1, 2, 3 có lợi ích
gì?
* Ở khối 4, 5:
- Chúng ta cần làm gì để chú trọng hoạt động dạy học môn Tiếng Việt
của thầy và trò để tích cực hóa hoạt động của học sinh?
- Để dạy tốt tiết trả bài viết trong phân môn Tập làm văn lớp 4, 5 chúng
ta cần chú ý những gì?
Qua cách làm như vậy, các buổi họp chuyên môn đã phát huy tác dụng
rõ nét. Mỗi giáo viên tự thấy mình sẽ làm được, tự tin, mạnh dạn cùng đồng
nghiệp bổ sung cho cá nhân mình những điều đang cần, nhất là những kinh
nghiệm riêng của bản thân mỗi giáo viên có được qua quá trình tích lũy trong
giảng dạy được nêu ra và được tổ góp ý để hoàn thiện hơn.
Từng thành viên trong tổ sẽ có nghiên cứu trước nội dung sinh hoạt do
Tổ khối trưởng thông báo, thể hiện được trách nhiệm, thái độ nghiêm túc, chủ
động trong tranh luận, lắng nghe, không tự mãn với kiến thức đã được tích lũy
trong qua trình dạy - học. Thời gian họp được đảm bảo, thậm chí có khi quá thời
gian mà chưa hết nội dung đã chứng tỏ sinh hoạt chuyên môn trong nhà trường
có những chuyển biến khá tốt.
5.2. Bồi dưỡng về soạn bài, giảng bài:
* Soạn bài:
Đây là việc chuẩn bị quan trọng nhất của giáo viên cho giờ lên lớp.
Muốn có giờ dạy tốt thì kế hoạch bài dạy (giáo án) đóng vai trò quyết
định. Để có một giáo án chất lượng thì người soạn phải xác định được đặc
trưng, mục tiêu, yêu cầu của tiết học, bài học và lựa chọn phương pháp phù hợp.
Song song với việc soạn bài là sự chuẩn bị đồ dùng dạy học, đó là hai công việc
chủ yếu và trọng tâm trước giờ lên lớp của giáo viên.
23
Để chất lượng bài soạn đạt hiệu quả, tôi thường xuyên hướng dẫn cho
giáo viên cách soạn bài của từng môn học, từng loại tiết, giúp đỡ giáo viên biết
nghiên cứu bài chính xác, xác định mục đích yêu cầu và phương pháp, bài soạn
phải đảm bảo ngắn gọn nhưng đủ nội dung, đủ thông tin, hình thức tiến hành
của từng bài sao cho phù hợp với điều kiện thực tế của lớp, của từng đối tượng
học sinh và của trường mà vẫn đảm bảo yêu cầu giáo dục. Bên cạnh việc hướng
dẫn của tôi, tôi cũng cho giáo viên thảo luận với nhau về cách soạn của từng bài
để bổ sung kinh nghiệm soạn bài cho nhau.
Ban giám hiệu và các tổ trưởng tổ chuyên môn kiểm tra, theo dõi, nắm
tình hình bài soạn của giáo viên như:
+ Ban giám hiệu trực tiếp dự các buổi sinh hoạt chuyên môn về trao đổi
cách soạn bài của giáo viên, kết hợp kiểm tra giáo án của các giáo viên hàng
tháng.
+ Sau mỗi lần kiểm tra có nhận xét, đánh giá những ưu điểm, hạn chế,
có xếp loại cụ thể, chính xác và công bằng để biểu dương hoặc phê bình mang
tính xây dựng.
Qua việc làm trên tôi nhận thấy giáo viên đã thực hiện rất nghiêm túc
việc soạn bài và chuẩn bị bài, chất lượng bài soạn được nâng lên và có ảnh
hưởng tốt đến hiệu quả tiết dạy.
* Giảng bài:
Hoạt động dạy và học ở trường tiểu học được thực hiện chủ yếu bằng
hình thức dạy và học trên lớp. Giờ lên lớp giữ vai trò quyết định chất lượng dạy
và học; quyết định kết quả giờ lao động là ở người giáo viên. Vậy làm thế nào
để các giờ lên lớp của giáo viên có kết quả tốt là việc mà tôi luôn trăn trở để tìm
ra giải pháp. Tôi đã chỉ đạo thực hiện một số việc sau:
+ Yêu cầu của một giờ lên lớp:
- Giáo viên phải đảm bảo về yêu cầu kiến thức cơ bản, chính xác.
- Phương pháp phù hợp với bài dạy.
- Sử dụng đồ dùng dạy học như thế nào để có hiệu quả cao nhất.
24
- Phải phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo, hứng thú học tập
của học sinh ở cả 4 đối tượng: giỏi, khá, trung bình, yếu.
Riêng từ giữa học kì 1 năm học 2014-2015, theo chỉ đạo của ngành
người giáo viên không lấy học sinh làm trung tâm mà phải lấy hoạt động học
của học sinh làm trung tâm, phải tổ chức cho tất cả học sinh đều được hoạt
động trong tiết học.
- Tùy theo bài học mà học sinh được: tự rút ra bài học, được hướng dẫn
kỹ năng, thực hành, được liên hệ thực tế cuộc sống để có các kỹ năng sống...
Ví dụ: Môn Khoa học cần chú trọng cho học sinh được thực hành bằng
thí nghiệm, được quan sát vật chất để từ đó tự rút ra kết luận về các hiện tượng
của tự nhiên. Môn Địa lý thì phải giúp học sinh có kỹ năng về sử dụng bản đồ,
lược đồ. Môn Tiếng Việt thì phải cho học sinh về kỹ năng luyện nói, luyện viết…
- Lời đánh giá nhận xét học sinh phải thể hiện sự tôn trọng nhân cách,
chính xác, khuyến khích tư duy.
+ Dự giờ thăm lớp:
Thực tế cho thấy do trình độ của giáo viên không đồng đều nên việc
giảng dạy không đều tay, chất lượng học tập của học sinh bị hạn chế. Hoạt động
giảng dạy là hoạt động mang tính chất thường xuyên của tất cả giáo viên. Vì vậy
để nâng cao chất lượng giảng dạy, tôi đã lên kế hoạch để Ban giám hiệu cùng
các tổ trưởng chuyên môn dự giờ thường xuyên tất cả các giáo viên (báo trước
và đột xuất).
Việc dự giờ để rút kinh nghiệm không thể tùy tiện, do đó truớc khi dự
giờ, chúng tôi xem trước nội dung bài học của học sinh để khi dự nhanh chóng
phân tích cái hay, cái chưa hay còn hạn chế trong bài giảng của giáo viên.
Tôi dự giờ với tính chất để góp ý, bổ sung, sửa sai và tạo điều kiện cho
giáo viên có ý thức rèn luyện tay nghề. Tôi chủ yếu động viên, khuyến khích,
khen ngợi sự tiến bộ trong việc xác định mục tiêu, chuẩn kiến thức, nội dung, kỹ
năng và phương pháp tổ chức dạy học của giáo viên. Đồng thời có đánh giá,
nhận xét chân tình và có tính xây dựng, khuyến khích giáo viên tiếp tục phát huy
những ưu điểm, mặt mạnh và điều chỉnh những mặt còn hạn chế. Tôi quan niệm
25