Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

NHÂN tố ẢNH HƯỞNG đến QUÁ TRÌNH lập QUY và HÌNH THÀNH các CHUẨN mực kế TOÁN QUỐC GIA, QUỐC tế, LIÊN hệ VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.22 KB, 16 trang )

Lương Thị Thủy

NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUÁ TRÌNH LẬP QUY VÀ
HÌNH THÀNH CÁC CHUẨN MỰC KẾ TOÁN QUỐC GIA,
QUỐC TẾ, LIÊN HỆ VIỆT NAM
Mỗi quốc gia xây dựng một hệ thống pháp lý riêng, về cơ bản có thể
bao gồm các dạng văn bản pháp lý: Luật, chuẩn mực kế toán, chế độ kế toán,
... Tuy nhiên, chuẩn mực kế toán là một quy định pháp lý về kế toán mang
tính quốc tế. Xu hướng hòa hợp, hội tụ kế toán quốc tế được thực hiện thông
qua hệ thống chuẩn mực kế toán quốc gia, quốc tế. Vì vậy, bài viết trình bày
về các nhân tố ảnh hưởng tới quá trình lập quy và hình thành chuẩn mực kế
toán quốc gia, quốc tế đồng thời liên hệ với Việt Nam.
PGS.TS Võ Văn Nhị & Ths. Lê Hoàng Phúc với bài viết “Sự hoà hợp
giữa chuẩn mực kế toán Việt Nam và chuẩn mực kế toán quốc tế - Thực trạng,
nguyên nhân và định hướng phát triển” trên tạp chí kiểm toán tháng 12/2011 đã
chỉ ra thực trạng về sự hòa hợp giữa chuẩn mực kế toán Việt Nam và quốc tế,
đồng thời chỉ ra những nguyên nhân và định hướng phát triển chuẩn mực kế
toán Việt Nam hòa hợp với quốc tế.
Tác giả Nguyễn Mạnh Hiền “Sự khác biệt kế toán giữa các quốc gia –
Nguyên nhân và các bất lợi” trên Web Kế toán đã chỉ ra sự khác biệt kế toán
giữa các quốc gia, nguyên nhân sự khác biệt đối với Việt Nam.
Roland Konigsgruber (2010) qua so sánh quy trình ban hành chuẩn mực
ở Mỹ và EU đã chỉ rõ những ảnh hưởng chính trị trong quá trình ban
hành chuẩn mực. Sau khi phân tích từng khâu trong quy trình, vai trò của các bộ
phận và sự can thiệp của các cơ quan có liên quan tác giả đã chỉ ra: ở các nước
EU tác động của chính trị và khu vực công lên quy định kế toán mạnh hơn ở
Mỹ thể hiện qua nhiều cách thức chi phối khác nhau. Điều này xuất phát từ cơ
chế ban hành chuẩn mực, tính độc lập của tổ chức lập quy và đặc điểm văn hóa
của các quốc gia thuộc hai trường phái kế toán này.

1




Lương Thị Thủy
Về quy trình ban hành chuẩn mực, có nghiên cứu đã chỉ ra rằng cần tham
khảo ý kiến của nhiều bên liên quan (như ủy ban chứng khoán, các hội nghề
nghiệp, ngân hàng, các nhà nghiên cứu, doanh nghiệp) để đảm bảo nhu cầu và
quyền lợi của các đối tượng này cũng được xem xét đến (Douglas P. Letsch,
2010). Trong nghiên cứu của Douglas P. Letsch (2010) đã tập trung vào khâu
thu thập ý kiến các bên có liên quan. Theo tác giả, Thư lấy ý kiến (comment
letters) là một công cụ quan trọng được Ủy ban chuẩn mực kế toán Mỹ (FASB)
sử dụng trong việc phát triển hệ thống chuẩn mực kế toán, vì vậy cần cải tiến
quy trình lấy ý kiến, mở rộng đối tượng thu thập ý kiến, để từ đó nhiều nhóm
đối tượng chủ động tham gia vào quá trình phát triển các chuẩn mực kế toán.
Phương thức lấy ý kiến, mối quan hệ giữa những người làm công tác kế toán
với việc ban hành và giám sát tuân thủ chuẩn mực cũng cần được xem xét để
việc lấy ý kiến không phải là hình thức. Vì vậy, khi có nhiều ý kiến mâu thuẫn
được đưa ra trong quá trình lấy ý kiến thì tổ chức ban hành chuẩn mực cần xem
xét và giải thích tại sao các ý kiến này không được đưa vào chuẩn mực (Sylvain
Durocher & Anne Fortin, 2011) và điều này hết sức có ý nghĩa trong việc đảm
bảo các chuẩn mực được ban hành mang tính khả thi cao khi áp dụng vào thực
tiễn.
1. Một số vấn đề chung về chuẩn mực kế toán
Kế toán là một hoạt động mang tính chuyên môn cao, có chức năng cung
cấp các thông tin trung thực, hợp lý về tình hình và kết quả hoạt động kinh
doanh của DN, giúp cho người sử dụng có cơ sở để đưa ra các quyết định.
Thông tin kế toán phải đảm bảo tính trung thực, tin cậy. Muốn vậy cần phải có
các quy định làm khuôn mẫu đánh giá, ghi nhận và trình bày thông tin tài chính,
đó chính là những chuẩn mực kế toán.
Chuẩn mực kế toán chính những quy định và hướng dẫn các nguyên tắc,
nội dung, phương pháp và thủ tục kế toán cơ bản, chung nhất làm cơ sở ghi


2


Lương Thị Thủy
chép kế toán và lập báo cáo tài chính nhằm đạt được sự đánh giá trung thực,
hợp lý, khách quan về thực trạng tài chính và kết quả và kinh doanh của DN.
Mục tiêu của chuẩn mực kế toán là đưa ra những quy định có tính nguyên
tắc, mực thước làm cơ sở đo lường chất lượng một công việc, nhằm hướng công
việc chuyên môn đi vào những nguyên tắc chung. Hay nói cách khác là quy
định thống nhất nội dung, cách trình bày và thuyết minh BCTC, nâng cao tính
so sánh, nhất quán dựa trên hệ thống kế toán nói chung.
Hệ thống kế toán và chuẩn mực quốc tế về kế toán (IASs/IFRSs) được
soạn thảo bởi Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB). Nó được soạn thảo
và công bố theo những quy trình rất chặt chẽ để đảm bảo chất lượng của các
chuẩn mực và đảm bảo tính thực hành cao. IASs/IFRSs được sử dụng rộng rãi ở
khắp thế giới như châu Âu, Singapore, Hồng Kông, Úc và nhiều quốc gia trên
thế giới. Rất nhiều quốc gia khác của châu Á và trên thế giới đang điều chỉnh
các chuẩn mực của mình để phù hợp hơn với IFRS và giảm thiểu sự khác nhau
nếu có.
Chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) được xây dựng dựa trên các chuẩn
mực kế toán quốc tế (IAS/IFRS) từ những năm 2000 đến 2005 theo nguyên tắc
vận dụng có chọn lọc thông lệ quốc tế, phù hợp với đặc điểm nền kinh tế và
trình độ quản lý của doanh nghiệp Việt Nam tại thời điểm ban hành chuẩn mực.
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến quý trình lập quy và hình thành chuẩn mực
kế toán quốc gia, quốc tế.
Hệ thống chuẩn mực kế toán và thực hành kế toán của mỗi quốc gia là hệ
quả của mối tương tác phức tạp giữa các nhân tố: kinh tế, lịch sử, định chế và
văn hóa. Theo Choi và Meek có 8 nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của kế
toán và từ đó dẫn đến sự khác biệt về kế toán giữa các quốc gia là: (1) Nguồn

tài chính, (2) Hệ thống luật pháp, (3) Thuế, (4) Sự ràng buộc về kinh tế và chính
trị, (5) Lạm phát, (6) Mức độ phát triển kinh tế, (7) Trình độ giáo dục, và (8)
Văn hóa.

3


Lương Thị Thủy
Nguồn tài chính: Tại các nước có thị trường vốn mạnh như Mỹ, Anh thì
lợi nhuận kế toán là thước đo năng lực điều hành công ty của nhà quản trị. Khi
đó kế toán được thiết kế để giúp cá nhà đầu tư đánh giá các dòng tiền trong
tương lai và các rủi ro đi kèm, và để xác định giá trị công ty. Việc công bố
thông tin là rất rộng rãi để đáp ứng các nhu cầu của một số lượng lớn các nhà
đầu tư sở hữu cổ phiếu. Ngược lại, tại các nước mà nguồn tài chính dựa trên
quan hệ tín dụng, nơi ngân hàng là nguồn cung cấp tài chính chủ yếu, kế toán
tập trung vào việc bảo vệ các nhà cung cấp tín dụng thông qua việc đo lường
một cách thận trọng lợi nhuận để giảm thiểu việc chia cổ tức và để lại vốn đủ để
bảo vệ những người cho vay. Bởi vì các định chế tài chính có thể tiếp cận trực
tiếp bất kỳ thông tin nào họ muốn, các báo cáo công bố một cách rộng rãi được
xem là không cần thiết. Nhật Bản và Thụy Sĩ là các ví dụ về nhóm các nước
này. Việt Nam là nước có thị trường chứng khoán còn khá non trẻ, nguồn tài
chính của các doanh nghiệp chủ yếu từ các ngân hàng và nhà nước nên nghiêng
về nhóm thứ hai nhiều hơn.
Hệ thống luật pháp: Hệ thống luật pháp quyết định về mối quan hệ giữa
các cá nhân và các định chế. Hệ thống luật pháp phương Tây bao gồm hai
hướng: dân luật (code/civil law) và thông luật (common/case law). Trong các
nước theo hệ thống dân luật, các quy định vềkế toán được tích hợp vào hệ thống
pháp luật quốc gia và thường có xu hướng quy định chi tiết cách thức và quy
trình. Các nước theo hệ thống này là các nước có ảnh hưởng bởi nguồn gốc từ
Pháp, Đức. Ngược lại, các nước theo hệ thống thông luật (ảnh hưởng bởi Anh)

phát triển theo cơ sở từng trường hợp và không cố gắng bao quát tất cả trường
hợp trong bộ luật. Tại các nước này, các quy tắc kế toán được thiết lập bở các tổ
chức thuộc lĩnh vực tư nhân. Việc này cho phép chúng có tính thích nghi cao
hơn và dễ đổi mới hơn. Kế toán tại các nước theo hệ thống dân luật thường có
xu hướng tập trung vào hình thức pháp lý, trong khi kế toán theo thông luật
thường có xu hướng tập trung vào bản chất. Việt Nam là nước ảnh hưởng bởi

4


Lương Thị Thủy
Pháp và hệ thống kế toán Việt Nam hiện hành nghiêng nhiều hơn về hướng hệ
thống kế toán tại các nước dân luật.
Thuế: Tại nhiều quốc gia, các quy định về thuế quyết định các chuẩn
mực kế toán bởi vì các công ty phải ghi nhận doanh thu và chi phí của trong hệ
thống sổ sách của mình để thực hiện cho mục đích thuế. Nói cách khác, các quy
tắc kế toán và tài chính tương tự nhau. Các ví dụ cho trường hợp này là Đức và
Thụy Điển. Tại các nước khác (chẳng hạn Mỹ), kế toán tài chính và kế toán
thuế là riêng biệt: Lợi nhuận tính thuế là lợi nhuận kế toán tài chính được điều
chỉnh theo sự khác biệt giữa thuế và kế toán. Mặc dù khi xây dựng chuẩn mực
kế toán Việt Nam số 17 – Thuế thu nhập doanh nghiệp Việt Nam thể hiện chấp
nhận xu hướng thứ hai: sự khác biệt giữa lợi nhuận tính thuế và kế toán. Tuy
nhiên trong thực tế các quy định của thuế và kế toán là khá đồng nhất, và trong
thực hành kế toán người ta cũng thường dựa vào các quy định của thuế để làm
kế toán nên sự khác biệt giữa lợi nhuận tính thuế và lợi nhuận kế toán không
phát sinh nhiều.
Sự ràng buộc về chính trị và kinh tế: Các quan niệm và kỹ thuật kế
toán được chuyển giao thông qua sự xâm lược, thương mại và các sức mạnh
tương tự. Hệ thống ghi sổ kép vốn có nguồn gốc từ Italy trong thế kỷ XV và
được lan truyền sang các nước châu Âu cùng với các tư tưởng khác trong thời

Phục hưng. Chủ nghĩa thực dân Anh xuất khẩu các kế toán viên và các kỹ thuật
kế toán trong hệ thống thuộc địa của mình. Đức đóng chiếm Pháp trong thế
chiến thứ 2 dẫn đến việc Pháp áp dụng hệ thống tài khoản kế toán thống nhất.
Mỹ áp dụng các quy tắc kế toán của mình tại Nhật sau thế chiến thứ 2. Việt
Nam thuộc khối xã hội chủ nghĩa nên kế toán Việt Nam có ảnh hưởng rất lớn
bởi kế toán Liên Xô cũ.
Lạm phát: Lạm phát làm méo mó kế toán theo giá gốc bởi vì nó làm cho
tài sản và các chi phí liên quan bị đánh giá thấp, và lợi nhuận bị phóng đại lên.
Các nước có mức lạm phát cao thường yêu cầu các công ty thực hiện sự điều
chỉnh sự thay đổi của giá cả trong các báo cáo. Ví dụ, Mexico áp dụng kế toán

5


Lương Thị Thủy
điều chỉnh theo mức giá chung nếu lũy kế mức lạm phát trong 3 năm liên tiếp
lớn hơn hoặc bằng 28% (lạm phát hàng năm là 8%). Trong những năm 1970, để
phản ứng với mức lạm phát cao bất bình thường, cả Mỹ và Anh đều thực hiện
với việc báo cáo ảnh hưởng của sự thay đổi giá cả. Để đáp lại với nhiều thời
điểm có mức lạm phát rất cao trong quá khứ tại Việt Nam, nhà nước đã thực
hiện sự đánh giá lại tài sản. Tuy nhiên trong thời gian gần đây có những năm
lạm phát cao (năm 2008 khoảng 22%, 2011 là 18,13%) nhưng các doanh nghiệp
không được yêu cầu điều chỉnh báo cáo tài chính theo sự thay đổi của giá cả
dẫn đến sự méo mó trong lợi nhuận và tài sản.
Mức độ phát triển kinh tế: Nhân tố này ảnh hưởng đến các loại nghiệp
vụ kinh tế phát sinh trong một nền kinh tế và quyết định loại nào là thịnh hành
nhất. Loại giao dịch, trong chiều ngược lại, quyết định các vấn đề kế toán mà
nó đối mặt. Ví dụ, hệ thống thưởng cho nhà quản lý dựa trên cổ phiếu không
quá quan trọng trong các nước mà thị trường chứng khoán còn chưa thật sự phát
triển. Ngày nay, nhiều nền kinh tế công nghiệp đang chuyển mình sang kinh tế

dịch vụ. Các vấn đề kế toán liên quan trong sản xuất, như định giá tài sản cố
định và ghi nhận chi phí khấu hao, trở nên không quan trọng. Các thách thức
mới nổi lên đối với kế toán là đánh giá các tài sản vô hình và các nguồn lực con
người. Ở Việt Nam trước đây khi nền kinh tế còn ở mức độ thấp, mức độ hòa
nhập quốc tế chưa cao thì các nghiệp vụ liên quan đến cổ phiếu, chứng khoán
phái sinh chưa nhiều. Tuy nhiên với sự phát triển của các giao dịch này ngày
càng nhiều trong thời gian gần đây đòi hỏi hệ thống kế toán phải có sự điều
chỉnh, bổ sung để thích ứng.
Mức độ phát triển giáo dục: Các chuẩn mực kế toán và các hoạt động
thực hành kế toán phức tạp sẽ không có tác dụng nếu chúng bị hiểu nhầm và sử
dụng sai. Ví dụ, các kỹ thuật báo cáo phức tạp về biến động của chi phí theo sự
ứng xử của chi phí sẽ không có ý nghĩa trừ khi người đọc hiểu kế toán chi phí.
Công bố các thông tin về rủi ro của các chứng khoán phái sinh sẽ không có giá
trị thông tin trừ khi chúng có thể được đọc một cách thông thạo. Các kỹ thuật

6


Lương Thị Thủy
định giá phức tạp trong định giá chứng khoán phái sinh sẽ không đi vào thực tế
những người thực hành kế toán không thể hiểu và áp dụng được chúng. Hiện tại
trình độ giáo dục kế toán Việt Nam còn một khoảng cách khá lớn so với các
nước phát triển nên cần áp dụng nhiều biện pháp đồng bộ để thúc đẩy giáo dục
kế toán Việt Nam như nhập khẩu các chương trình đào tạo kế toán quốc tế, đưa
công dân sang các nước phát triển đào tạo, tăng cường quá trình đào tạo và cấp
chứng chỉ của các tổ chức nghề nghiệp quốc tế.
Văn hóa: Văn hóa tượng trưng cho một hệ thống độc lập bao gồm các
giá trị và cách ứng xử chung trong một cộng đồng và có khuynh hướng được
duy trì trong một thời gian dài (Kotter & Heskett, 1992)
Từ những năm 1980, các nghiên cứu đều khẳng định văn hóa là một nhân

tố quan trong ảnh hưởng đến sự phát triển của kế toán. Có thể nói sự khác biệt
nền văn hóa giữa các quốc gia đã tạo nên nhiều hệ thống kế toán khác nhau,
hình thành nên các cách ghi chép, tính toán và trình bày thông tin khác nhau
trong hệ thống kế toán của mỗi quốc gia.
Hofstede phân loại bốn lĩnh vực văn hóa và phân tích sự ảnh hưởng của
chúng đến kế toán: (1) chủ nghĩa các nhân, (2) sự né tránh tính không chắc
chắn, (3) khoảng cách quyền lực, (4) chủ nghĩa trọng nam. Dựa trên các phân
tích của Hofstede, Gray đã đưa ra khuôn mẫu liên kết giữa văn hóa và kế toán.
Ông đã đề xuất rằng bốn mảng giá trị văn hóa kế toán ảnh hưởng đến thực hành
báo cáo tài chính của một quốc gia, gồm:
 Tính chuyên nghiệp vs. sự kiểm soát bằng pháp luật: Có sự đối lập
giữa ưa chuộng áp dụng các phán xét nghề nghiệp mang tính cá nhân và các
quy tắc tự đưa ra hội nghề nghiệp với việc tuân thủ các quy định của pháp luật.
 Tính thống nhất vs. linh hoạt: sự ưa chuộng tính thống nhất và nhất
quán so với việc linh hoạt trong đối phó với các tình huống.
 Chủ nghĩa bảo thủ vs. chủ nghĩa lạc quan: sự ưa chuộng cho việc áp
dụng cách thức đo lường một cách thận trọng để đối phó với những bất ổn của

7


Lương Thị Thủy
các sự kiện trong tương lai thay vì các tiếp cận lạc quan, sẵn sàng chấp nhận
mạo hiểm.
 Bí mật vs. rõ ràng: sựa ưu tiên cho việc đảm bảo tính bảo mật và hạn
chế tiếp cận của các thông tin kinh doanh đối lập với việc sẵn sàng công bố các
thông tin cho công chúng.
Ngoài mô hình trên, Nobes đã đưa ra mô hình đơn giản hóa các nhân tố
ảnh hưởng đến sự khác biệt trong báo cáo tài chính giữa các quốc gia. Theo mô
hình này có hai nhân tố là văn hóa và bản chất của hệ thống tài chính. Nobes

lập luận rằng nguyên nhân quan trọng cho sự khác biệt trong báo cáo tài chính
giữa các quốc gia là sự khác biệt về mục đích báo cáo. Hệ thống tài chính của
một quốc gia được xem là nhân tố thích hợp nhất quyết định mục đích của báo
cáo tài chính. Cụ thể, hệ thống tài chính của một quốc gia qua thị trường chứng
khoán mạnh với một lượng lớn các cổ đông bên ngoài hay không sẽ quyết định
bản chất của hệ thống báo cáo tài chính trong một quốc gia.
Để khắc phục các vấn đề phát sinh do khác biệt kế toán giữa các quốc
gia, các nước đã và đang nỗ lực trong việc hài hòa và hội tụ các chuẩn mực kế
toán. Ngày càng nhiều quốc gia lấy hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế (chuẩn
mực trình bày báo cáo tài chính quốc tế) làm hệ thống chuẩn mực kế toán quốc
gia, hay xây dựng hệ thống chuẩn mực kế toán quốc gia tiệm cận nhiều hơn với
chuẩn mực kế toán quốc tế và Việt Nam không nằm ngoài xu hướng này.
3. Thực trạng về sự hòa hợp giữa Chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) với
Chuẩn mực kế toán quốc tế ( IAS/IFRS)
Đến nay, Việt Nam đã xây dựng và ban hành được 26 chuẩn mực kế
toán. Việc được xây dựng dựa trên các chuẩn mực kế toán quốc tế là nhằm đảm
bảo hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam góp phần nâng cao tính công khai,
minh bạch trong báo cáo tài chính (BCTC) của các doanh nghiệp, phản ánh
được các giao dịch của nền kinh tế thị trường, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc
tế. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng, VAS hiện mới chỉ là sự vận dụng đơn giản

8


Lương Thị Thủy
IAS/IFRS trong bối cảnh cụ thể của Việt Nam, thực tế VAS chưa hòa hợp với
IAS/IFRS và chưa cập nhật theo những thay đổi của IAS/IFRS những năm gần
đây.
Khi xây dựng các các chuẩn mực kế toán, quan điểm xuyên suốt của Việt
Nam là tuân thủ hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế. VAS cơ bản đã được xây

dựng dựa trên IAS/IFRS, theo nguyên tắc vận dụng có chọn lọc thông lệ quốc
tế, phù hợp với đặc điểm nền kinh tế và trình độ quản lý của doanh nghiệp Việt
Nam. Do vậy, VAS đã cơ bản tiếp cận với IAS/IFRS, phản ánh được phần lớn
các giao dịch của nền kinh tế thị trường, nâng cao tính công khai, minh bạch
thông tin về BCTC của các doanh nghiệp. Mặc dù vậy, VAS hiện nay vẫn bộc
lộ nhiều điểm khác biệt với IAS/IFRS. Điều này thể hiện qua một số biểu hiện
chủ yếu sau:
- Khác biệt cơ bản nhất là VAS chưa có quy định cho phép đánh giá lại
tài sản và nợ phải trả theo giá trị hợp lý tại thời điểm báo cáo. Điều này ảnh
hưởng lớn đến việc kế toán các tài sản và nợ phải trả được phân loại là công cụ
tài chính, làm suy giảm tính trung thực, hợp lý của BCTC và chưa phù hợp với
IAS/IFRS;
- VAS 21 không quy định trình bày Báo cáo biến động vốn chủ sở hữu
thành một báo cáo riêng biệt như IAS 1, mà chỉ yêu cầu trình bày trong thuyết
minh BCTC. Ngoài ra, chế độ kế toán Việt Nam quy định mẫu biểu báo cáo
một cách cứng nhắc, làm triệt tiêu tính linh hoạt và đa dạng của hệ thống
BCTC, trong khi IAS/IFRS không đưa ra mẫu biểu cụ thể của báo cáo;
- Theo VAS 21, doanh thu và chi phí tài chính được tính vào lãi/lỗ hoạt
động kinh doanh trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là không phù hợp
với thông lệ quốc tế, khi các khoản lãi/lỗ bán cổ phiếu vốn không phải của hoạt
động mang tính thường xuyên của doanh nghiệp lại được hiểu là kết quả hoạt
động kinh doanh chủ yếu;

9


Lương Thị Thủy
- IAS 2 cho phép sử dụng các phương pháp ước tính giá trị hàng tồn kho
như phương pháp chi phí định mức hoặc phương pháp giá bán lẻ, nhưng vấn đề
này không được đề cập ở VAS 2. VAS 2 cho phép áp dụng phương pháp “Nhập

sau - Xuất trước” (LIFO) trong khi IAS/ IFRS không cho phép áp dụng phương
pháp này;
- VAS 3 chỉ cho phép đánh giá lại tài sản cố định là bất động sản, nhà
xưởng và thiết bị trong trường hợp có quyết định của Nhà nước, đưa tài sản đi
góp vốn liên doanh, liên kết, chia tách, sáp nhập doanh nghiệp và không được
ghi nhận phần tổn thất tài sản hàng năm. Trong khi đó, theo IAS 16, doanh
nghiệp được phép đánh giá lại tài sản theo giá thị trường và được xác định phần
tổn thất tài sản hàng năm, đồng thời được ghi nhận phần tổn thất này theo quy
định tại IAS 36;
- VAS 11 quy định lợi thế thương mại được phân bổ dần trong thời gian
không quá 10 năm kể từ ngày mua trong giao dịch hợp nhất kinh doanh. Trong
khi đó, IFRS 3 quy định doanh nghiệp phải đánh giá giá trị lợi thế thương mại
tổn thất;
- VAS hiện thiếu một số chuẩn mực liên quan đến các đối tượng và giao
dịch đã phát sinh như: thanh toán bằng cổ phiếu (IFRS 02); công cụ tài chính
(IFRS 9); tổn thất tài sản (IAS 19) các khoản tài trợ của Chính phủ (IAS 20);
nông nghiệp (IAS 41); phúc lợi của nhân viên ( IAS 36)…
Gần đây, có một số nghiên cứu được tiến hành nhằm xác định mức độ
hòa hợp giữa chuẩn mực kế toán Việt Nam với chuẩn mực kế toán quốc tế. Kết
quả của một nghiên cứu chỉ ra rằng, mức độ hòa hợp của VAS với IAS/IFRS
liên quan đến 10 chuẩn mực được chọn nghiên cứu ở mức bình quân là 68%.
Theo đó, các chuẩn mực về doanh thu và chi phí có mức độ hòa hợp cao hơn
các chuẩn mực về tài sản. Mức độ hòa hợp về đo lường (81,2%) cao hơn nhiều
so với mức độ hài hòa về khai báo thông tin (57%) [5; tr159].

10


Lương Thị Thủy
Như vậy, mức độ hòa hợp giữa VAS và IAS/IFRS thấp hơn so với mục

tiêu đề ra là 90%, theo phát biểu của ông Bùi Văn Mai – nguyên Vụ trưởng Vụ
chế độ kế toán - Bộ Tài chính trong một phỏng vấn của báo Vnexpress, nghĩa
là tồn tại một khoảng cách đáng kể giữa chuẩn mực kế toán Việt Nam với
chuẩn mực kế toán quốc tế. Trong một chừng mực nào đó, rõ ràng những khác
biệt này có ảnh hưởng đến quá trình hội nhập quốc tế về kế toán của Việt Nam,
dù rằng, không phải là không có những nguyên nhân khách quan của nó.
• Nguyên nhân tồn tại những khác biệt giữa Chuẩn mực kế toán Việt
Nam và chuẩn mực kế toán quốc tế
Có nhiều lý do để giải thích cho sự chưa hòa hợp giữa VAS và
IAS/IFRS, trong đó có những nguyên nhân trực tiếp và những nguyên nhân
thuộc về môi trường kế toán.
Nguyên nhân trực tiếp
- VAS về cơ bản được soạn thảo dựa trên các IAS/IFRS tương ứng được
ban hành đến cuối năm 2003, nhưng sau đó không được cập nhật những sửa đổi
của IAS liên quan và IFRS mới được ban hành sau năm 2003;
- IAS/IFRS ngày càng hướng tới đo lường tài sản dựa trên cơ sở giá trị
hợp lý nhằm đảm bảo tính ‘liên quan’ của thông tin kế toán đối với các đối
tượng sử dụng, trong khi đó giá gốc vẫn là cơ sở đo lường chủ yếu được qui
định bởi VAS;
- IAS/IFRS cho phép sử dụng xét đoán và ước tính nhiều hơn so với
VAS, dẫn đến IAS/IFRS yêu cầu khai báo thông tin liên quan đến sử dụng xét
đoán và ước tính nhiều hơn. Nguyên nhân thuộc về môi trường kế toán
Thứ nhất, văn hoá của người Việt Nam là tránh rủi ro và sự không chắc
chắn. Áp dụng IAS/IFRS, sự không chắc chắn là rất cao bởi vì BCTC theo
IAS/IFRS sử dụng nhiều ước tính kế toán, ví dụ như giá trị hợp lý. VAS với các
ước tính kế toán ít hơn và thận trọng hơn làm hạn chế những yếu tố không chắc
chắn, tuy nhiên, điều này cũng giảm nhiều sự phù hợp của thông tin trên BCTC.

11



Lương Thị Thủy
Đặc điểm văn hoá này là yếu tố ảnh hưởng gián tiếp và rất quan trọng đến việc
VAS chưa áp dụng hoàn toàn IAS/IFRS.
- Thứ hai, nền kinh tế thị trường ở Việt Nam còn khá non trẻ, Việt Nam
mới phát triển kinh tế thị trường từ những năm cuối của thế kỷ 20, thị trường
vốn của Việt Nam là một trong những thị trường non trẻ nhất trên thế giới, mới
được hình thành hơn mười năm nay. Đến nay, nó vẫn chưa thể hiện rõ vai trò
quan trọng trong nền kinh tế, mới chỉ trong phạm vi quốc gia, chưa liên thông
với thị trường vốn trên thế giới. Trong khi đó, định hướng của IAS/IFRS là xây
dựng hệ thống các chuẩn mực kế toán hoàn toàn thị trường và hỗ trợ thị trường
vốn, một hệ thống chuẩn mực kế toán phục vụ cho lợi ích chung, chất lượng
cao, dễ hiểu và có thể áp dụng trên toàn thế giới, nhằm giúp những người tham
gia vào các thị trường vốn khác nhau trên thế giới ra quyết định kinh tế. Do vậy,
định hướng phát triển của VAS để phục vụ cho các nhà đầu tư trên thị trường
vốn không mạnh như IAS/IFRS; nhu cầu của Việt Nam về một hệ thống kế toán
phức tạp và hợp lý như IAS/IFRS để phục vụ thị trường vốn là chưa cấp bách.
Ngoài ra, ở Việt Nam hiện nay, nhiều đối tượng sử dụng BCTC chưa có nhu
cầu thực sự đối vối thông tin tài chính chất lượng cao vì thông tin tài chính chỉ
đóng vai trò thứ yếu trong việc ra quyết định của họ.
- Thứ ba, Việt Nam là một nước theo hướng điển chế luật (code law) hay
luật thành văn (civil law), khác với các nước theo hướng thông luật (common
law). Trong các nước theo hướng điển chế luật, nhìn chung, sự bảo vệ quyền cổ
đông và yêu cầu về tính minh bạch của thông tin thấp hơn trong các nước theo
hướng thông luật. VAS được xây dựng phù hợp với đặc điểm hệ thống luật của
một nước theo hướng điển chế luật trong khi IAS/IFRS được phát triển phù hợp
với hệ thống luật của các nước theo hướng thông luật. Ngoài ra, Việt Nam là
quốc gia mà cơ sở, nguyên tắc kế toán được quy chiếu vào chế độ kế toán quốc
gia. Theo đó, Nhà nước có vai trò kiểm soát kế toán về phương pháp đo lường,
đánh giá, soạn thảo và trình bày báo cáo; việc soạn thảo, ban hành các chuẩn

mực kế toán và các hướng dẫn thực hiện phải do các cơ quan nhà nước thực

12


Lương Thị Thủy
hiện và được đặt trong các bộ luật hoặc các văn bản pháp lý dưới luật. Trong
khi đó, tại các quốc gia phát triển IAS/IFRS, các cơ sở, nguyên tắc kế toán
không quy chiếu vào chế độ kế toán quốc gia; việc kiểm soát của Nhà nước
được thực hiện thông qua việc giải thích mục tiêu, nguyên tắc kế toán, phương
pháp đo lường, đánh giá, soạn thảo và trình bày BCTC; chuẩn mực, nguyên tắc
kế toán thường được thiết lập bởi các tổ chức tư nhân chuyên nghiệp, điều đó
cho phép chúng trở nên dễ thích ứng với thực tiễn và sáng tạo hơn, và phần lớn
các nguyên tắc này không được quy định trực tiếp trong các văn bản luật.
• Định hướng phát triển chuẩn mực kế toán Việt Nam hòa hợp với
chuẩn mực kế toán quốc tế
Có thể nói rằng, việc áp dụng IAS/IFRS đã mở ra một thời kỳ mới làm
thay đổi cách thức ghi nhận, đo lường và trình bày các yếu tố của BCTC, loại
trừ sự khác biệt trong chuẩn mực kế toán, là điều kiện để đảm bảo các doanh
nghiệp và tổ chức trên toàn thế giới áp dụng các nguyên tắc kế toán một cách
thống nhất trong lập và trình bày BCTC. IAS/IFRS được chấp nhận như chuẩn
mực lập BCTC cho các công ty tìm kiếm sự thừa nhận trên thị trường chứng
khoán thế giới. Việc sử dụng IAS/IFRS mang lại những lợi ích khá rõ, như : tiết
kiệm chi phí soạn thảo chuẩn mực và nhanh chóng hòa nhập vào chuẩn mực kế
toán quốc tế được chấp nhận; sự hội nhập về kế toán giúp cho các công ty huy
động vốn trên thị trường quốc tế. Đến nay, đã có hơn 119 quốc gia trên thế giới
thực hiện việc yêu cầu (bắt buộc) hoặc cho phép (không bắt buộc) các công ty
niêm yết trên thị truờng chứng khoán của họ sử dụng IAS/IFRS khi lập và trình
bày BCTC.
Tuy nhiên, việc áp dụng IAS/IFRS không phải là hoàn toàn dễ dàng đối

với các doanh nghiệp ở các quốc gia. Một trong những thách thức đó là phải có
đội ngũ nhân viên kế toán và chi phí. Điều này không đơn giản vì IAS/IFRS
được xem là khá phức tạp ngay cả đối với các nước phát triển. Để áp dụng
IAS/IFRS đơn vị phải bỏ ra chi phí ban đầu khá lớn, xây dựng lại hệ thống thu
thập, xử lý và trình bày các thông tin tài chính. Ngoài ra, phương pháp xây

13


Lương Thị Thủy
dựng IAS/IFRS về cơ bản là theo mô hình Anglo-America, do đó có thể không
phù hợp với các nước đang phát triển vì có sự khác biệt lớn về văn hóa và môi
trường kinh tế giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển (PratherKinsey, 2006). Theo Carmona and Trombetta (2008), IAS/IFRS dựa trên
nguyên tắc (principle-based IAS/IFRS) có tính linh hoạt cao nên có thể khó vận
dụng vào hoàn cảnh các nước đang phát triển, vốn thiếu một thị trường phát
triển để có thể áp dụng phương pháp dựa trên thị trường (market-base) để ước
tính giá trị hợp lý
Từ các nguyên nhân của sự chưa hòa hợp giữa VAS với IAS/IFRS và
những phân tích nêu trên, có thể thấy, việc Việt Nam lựa chọn mô hình vận
dụng có chọn lọc IAS/IFRS làm cơ sở chủ yếu để xây dựng hệ thống chuẩn
mực kế toán cho mình là một sự lựa chọn hợp lý. Tuy nhiên, trong thời gian sắp
tới, để đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế nói chung và hội nhập về kế toán nói
riêng, một số giải pháp mang tính định hướng cần được xem xét một cách tích
cực, như sau:
Thứ nhất, như đã phân tích ở trên, trong IAS/IFRS, giá trị hợp lý được sử
dụng ngày càng nhiều trong đo lường và ghi nhận các yếu tố của BCTC. Cuộc
họp tháng 09/2009 tại Mỹ, nhóm các nước G-20 đã xác nhận lại cam kết thúc
đẩy việc hội tụ hệ thống chuẩn mực BCTC quốc tế ( IFRS) trong đó có đề cập
đến việc sử dụng giá trị hợp lý như một cơ sở đo lường chủ yếu nhằm tăng
cường tính thích hợp của thông tin trình bày trên BCTC. Cũng trong năm 2009,

Ủy ban chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB) công bố dự thảo “Các quy định về
đo lường giá trị hợp lý’, trong đó, thống nhất giá trị hợp lý là “ giá trị đầu ra”
của tài sản hay nợ phải trả. Trong khi đó, VAS1 hầu như chỉ đưa ra nguyên tắc
giá gốc. Việc sử dụng giá gốc làm cơ sở đo lường chủ yếu có thể đạt được độ
‘tin cậy’ nhưng làm giảm tính ‘liên quan’ của thông tin được cung cấp bởi
BCTC. Do vậy, trong một tương lai không xa, việc nghiên cứu, xây dựng cơ sở
lý luận và điều kiện, phương pháp vận dụng “Nguyên tắc giá trị hợp lý” trở

14


Lương Thị Thủy
thành một vấn đề cần được Việt Nam xem xét và thực hiện một cách nghiêm
túc;
Thứ hai, cần khẩn trương đánh giá, sửa đổi, bổ sung cập nhật 26 chuẩn
mực đã ban hành cho phù hợp với những thay đổi của IAS/IFRS và thực tiễn
hoạt động kinh doanh tại Việt Nam;
Thứ ba, nhằm đáp ứng kịp thời sự đổi mới và phát triển của nền kinh tế,
cần sớm ban hành 5 chuẩn mực kế toán liên quan đến các đối tượng và giao
dịch đã phát sinh trong đời sống kinh tế, bao gồm: Thanh toán bằng cổ phiếu
(IFRS 02); Tìm kiếm, thăm dò và xác định giá trị các nguồn tài nguyên khoáng
sản (IFRS 06); Công cụ tài chính (IFRS 7; IFRS 9); Các khỏan tài trợ của
Chính phủ (IAS 20): Tổn thất tài sản (IAS 36). Một số chuẩn mực cũng cần có
bước chuẩn bị để ban hành trong thời gian tiếp theo như: Tài sản nắm giữ để
bán và hoạt động kinh doanh không liên tục; Phúc lợi của nhân viên; Nông
nghiệp;
Thứ tư, Việt Nam cần từng bước tiếp tục hoàn thiện môi trường kinh tế
và luật pháp phù hợp với yêu cầu của IAS/IFRS. Chẳng hạn như thị trường giao
dịch tài sản cần phải ‘minh bạch’ và ‘hoạt động’ để có thể sử dụng giá trị hợp lý
làm cơ sở đo lường giá trị tài sản

3. Kết luận
Hiện nay, chuẩn mực kế toán Việt Nam vẫn chưa hòa hợp hoàn toàn với
chuẩn mực kế toán quốc tế. Sự khác biệt chủ yếu giữa VAS và IAS/IFRS là
khác biệt về cơ sở đo lường tài sản dựa trên cơ sở giá trị hợp lý và vấn đề khai
báo thông tin. Sự chưa hòa hợp giữa VAS và IAS/IFRS có những nguyên nhân
trực tiếp và những nguyên nhân thuộc về yếu tố xã hội, kinh tế và pháp luật.
Nhìn chung, việc Việt Nam lựa chọn mô hình vận dụng có chọn lọc IAS/IFRS
làm cơ sở chủ yếu để xây dựng hệ thống chuẩn mực kế toán cho mình là một sự
lựa chọn hợp lý. Trong thời gian tới, để đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế về kế
toán, phù hợp quá trình hội nhập kinh tế của đất nước, Việt Nam cần tiến hành

15


Lương Thị Thủy
một số giải pháp vừa mang tính cấp bách, vừa mang tính lâu dài, bao gồm cả
giải pháp trực tiếp đối với hệ thống chuẩn mực kế toán và giải pháp thuộc về
môi trường kinh tế, pháp luật./
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ tài chính, hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam.
2. Bài giảng Lý thuyết kế toán dành cho đối tượng lớp Cao học Kế toán,
trường Đại học Công nghiệp Hà Nội.
3. Sở GDCK Hà Nội và Công ty TNHH Deloitte Việt Nam, So sánh Tóm
tắt chuẩn mực Báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) và Chuẩn mực kế toán
Việt Nam (VAS), NXB Tài chính, 04/2015.
4. />5. “Sự hoà hợp giữa chuẩn mực kế toán Việt Nam và chuẩn mực kế toán
quốc tế - Thực trạng, nguyên nhân và định hướng phát triển” - PGS.TS
Võ Văn Nhị & Ths. Lê Hoàng Phúc
Nguồn


internet:

/>
muc-ke-toan-viet-nam-va-chuan-muc-ke-toan-quoc-te-thuc-trang-nguyen-nhanva-dinh-huong-phat-trien-.sav
6. />7. “Sự khác biệt kế toán giữa các quốc gia – Nguyên nhân và các bất lợi” –
tác giả Nguyễn Mạnh Hiền – Web Kế toán
Nguồn internet: />
16



×