Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

MỘT số vấn đề lớn của các TRƯỜNG sư PHẠM địa PHƯƠNG ở TRUNG QUỐC HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (608.4 KB, 8 trang )

HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LỚN CỦA CÁC TRƯỜNG SƯ PHẠM ĐỊA PHƯƠNG
Ở TRUNG QUỐC HIỆN NAY

ThS. Nguyễn Phùng Tám
Trường ĐH Sư phạm Hoa Đông, Trung Quốc
Tóm tắt: Bước vào thế kỉ XXI, bên cạnh những cơ hội do thời đại hội nhập
mang lại, giáo dục đại học nói chung và giáo dục sư phạm ở Trung Quốc nói riêng
đứng trước những thách thức lớn. Bài viết hướng vào khái quát lịch sử phát triển và cơ
cấu phân tầng của hệ thống cơ sở đào tạo sư phạm ở Trung Quốc hiện hành; những
khó khăn, thách thức chủ yếu mà các trường sư phạm địa phương ở Trung Quốc đang
gặp phải; từ đó hy vọng sẽ rút ra một số bài học kinh nghiệm hữu ích đối với Việt
Nam.
Abstract: Entering the twenty – first centery, in the era of integration, university
education including teacher training in China has had the opportunities and big
challenges. This article generalized developmental history and the structrue and
stratification in the system of teacher training facilities in China currently; primary
difficulties and challenges that local teacher training in China is facing; thereby
hoping to draw useful experience to local unversities in Vietnam.
Key words: local pedagogical university, the structrue and stratification, teacher
training facilities in China
Đến nay, lịch sử phát triển của các trường, học viện sư phạm của Trung Quốc
trải qua bốn giai đoạn chính: Từ năm 1897 đến năm 1921 là giai đoạn chịu ảnh hưởng
của nền giáo dục Nhật Bản và nền giáo dục Đức đương thời dẫn đến việc bước đầu
hình thành các trường, học viện sư phạm độc lập theo định hướng đào tạo giáo viên
một cách đơn nhất. Tiên phong là sự thành lập của Học viện Sư phạm công học Nam
Dương (tiền thân của Đại học Giao Thông Thượng Hải ngày nay) vào năm 1897; Giai
đoạn 1922 – 1948 chịu ảnh hưởng của chế độ giáo dục Mĩ, hệ thống cơ sở đào tạo giáo
viên phát triển theo hướng mở. Bên cạnh sự xuất hiện của các trường đại học – học
viện chuyên đào tạo hệ sư phạm một cách đơn nhất, đã bắt đầu xuất hiện các trường –


học viện sư phạm theo hướng tổng hợp hóa; Giai đoạn 1949 – 1998 chịu ảnh hưởng
trực tiếp của chế độ giáo dục Liên Xô trước đây, hệ thống cơ sở đào tạo giáo viên trở
lại theo hướng phát triển các trường – học viện sư phạm đơn nhất, theo đó, hướng tổng
hợp hóa vốn manh nha ở giai đoạn trước bị xóa bỏ hoàn toàn; Kể từ năm 1999 đến

467


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI

nay, đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách mở cửa khi bước vào thế kỉ XXI, tiếp thu
kinh nghiệm của các quốc gia có nền giáo dục tiên tiến, thích ứng với nền tảng giáo
dục cơ bản và căn cứ yêu cầu của cải cách giáo dục, các cơ sở đào tạo sư phạm ở
Trung Quốc có mô hình phát triển linh hoạt, phong phú theo hướng mở. Đặc biệt, do
ngày càng chịu ảnh hưởng trực tiếp của chế độ giáo dục đại học Mĩ, xu hướng phát
triển chính của các cơ sở đào tạo sư phạm nói chung, các trường sư phạm ở địa
phương nói riêng là xu hướng tổng hợp hóa. Xu hướng này cho phép trường sư phạm,
ngoài đào tạo các chuyên ngành sư phạm, có thể tham gia đào tạo các chuyên ngành
ngoài sư phạm. Thậm chí, nhà nước cho phép các trường ngoài sư phạm – các trường
đại học đa ngành, đại học tổng hợp, căn cứ điều kiện nhân lực, cơ sở vật chất vốn có,
nếu đáp ứng đầy đủ vẫn có thể thiết lập các học viện giáo dục, các trường phổ thông
thực hành trực thuộc trường và tiến hành đào tạo một số chuyên ngành sư phạm tương
ứng. Xu hướng mở này vốn được đề xuất và tranh luận gay gắt kể từ Hội nghị công tác
giáo dục các trường Sư phạm toàn quốc lần thứ IV vào tháng 6/1980. Nhưng phải đến
năm 1999, căn cứ nhu cầu phát triển thực tế của công cuộc cải cách mở cửa và xu
hướng phát triển của giáo dục quốc tế, Quốc vụ viện Trung ương Đảng Cộng sản
Trung Quốc mới ban hành “Quyết định tăng cường công cuộc cải cách toàn diện nền
giáo dục theo hướng thúc đẩy tố chất giáo dục”. Quyết định chỉ rõ: “Khuyến khích các

trường đại học và các trường ngoài sư phạm có tính tổng hợp cũng có thể tham gia
công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên bậc trung, tiểu học; thử nghiệm thành lập các
học viện sư phạm trong các trường đại học tổng hợp khi có điều kiện” [4; 22]. Chỉ
mấy năm sau, năm 2002, trong tổng số 475 cơ sở giáo dục có đào tạo các chuyên
ngành sư phạm trên toàn Trung Quốc thì có tới 285 cơ sở ngoài sư phạm, chiếm hơn
54% tổng số.
Tính đến thời điểm hiện tại, hệ thống cơ sở sư phạm trên toàn Trung Quốc có
cấu trúc phân tầng thành các cấp độ chính sau: 1 là, các trường Đại học Sư phạm
(ĐHSP) trọng điểm trực thuộc Bộ Giáo dục (gồm 06 trường: ĐHSP Bắc Kinh, ĐHSP
Hoa Đông, ĐHSP Đông Bắc, ĐHSP Hoa Trung, ĐHSP Thiểm Tây và ĐHSP Tế Nam
(nay là ĐH Tế Nam)); 2 là, hệ thống trường sư phạm địa phương trực thuộc các tỉnh,
thành với hai mức độ quản lý: Hệ thống các trường ĐHSP trực thuộc sự quản lý của
các tỉnh - thành, như ĐHSP Thượng Hải, ĐHSP Thành Đô, ĐHSP Thủ Đô, ĐHSP Hồ
Nam (tỉnh Hồ Nam), ĐHSP Vân Nam..; Hệ thống các học viện sư phạm phổ thông độc
lập trực thuộc tỉnh, khu tự trị, như: Học viện Sư phạm Quảng Tây, Học viện Sư phạm
Diêm Thành, Học viện Sư phạm Hoàng Cương,... 3 là, số ít các trường sư phạm

468


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

chuyên nghiệp và trung cấp sư phạm ở một số khu tự trị vẫn tồn tại. Trong số đó,
chiếm số lượng nhiều nhất là hệ thống trường sư phạm địa phương do các tỉnh, thành
trực tiếp đầu tư và quản lý với khoảng 100 trường, học viện.
Đặt trong xu thế phát triển theo hướng tổng hợp hóa, các trường sư phạm địa
phương ở Trung Quốc hiện nay đã và đang đối mặt với những thách thức lớn sau:
Một là, sự cạnh tranh quyết liệt đến từ các trường sư phạm trọng điểm trực
thuộc Bộ Giáo dục và các trường đại học tổng hợp được phép đào tạo sư phạm. So với
các trường sư phạm địa phương mà tuyệt đại bộ phận kinh phí đều do các địa phương

trực tiếp đầu tư, quản lý, hai hệ thống nhóm trường cùng tham gia đào tạo sư phạm
này có những ưu thế tuyệt đối từ nguồn kinh phí, cơ chế quản lý, đội ngũ cán bộ khoa
học, giảng viên, bề dày trong công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học, công tác hợp tác
trong nước và quốc tế, đến các ưu thế về điều kiện vật chất như hệ thống tài liệu, hệ
thống phòng học, trường thực hành,... Có thể nói, đây là một trong những thách thức
lớn nhất, khó khăn nhất mà các trường sư phạm địa phương ở Trung Quốc đã, đang và
sẽ phải đối mặt. Đặc biệt, trong xu thế mở của công cuộc cải cách mở cửa và thị
trường hóa công tác giáo dục, tình trạng này sẽ ngày càng bùng nổ một cách tự do, ào
ạt hơn. Tính đến năm 2002, trên toàn Trung Quốc có 475 cơ sở giáo dục chiêu sinh
đào tạo các chuyên ngành sư phạm, trong đó, có 258 trường, học viện ngoài sư phạm,
chiếm 54% tổng số các cơ sở giáo dục tham gia đào tạo sư phạm. Xét về số lượng sinh
viên sư phạm sau khi tốt nghiệp, số sinh viên sư phạm tốt nghiệp từ các trường ngoài
sư phạm hàng năm thường chiếm tỉ lệ trên 1/3 tổng số sinh viên tốt nghiệp sư phạm
của cả nước. Không dừng lại ở đó, kể từ “Hội thảo công tác đào tạo sư phạm của các
trường – học viện ngoài sư phạm trên phạm vi cả nước” được tiến hành tại Đại học Hạ
Môn vào tháng 11 năm 2003, Hiệp hội công tác đào tạo sư phạm của các trường – học
viện ngoài sư phạm trên cả nước chính thức thành lập với hơn 100 cơ sở. Hiệp hội ra
tuyên bố đẩy mạnh hoạt động của công tác đào tạo sư phạm ở phạm vi và quy mô rộng
lớn hơn, chất lượng tốt hơn. Tất cả hiện trạng này tạo nên một môi trương cạnh tranh
ngày càng khó khăn cho các trường sư phạm địa phương vốn yếu và thiếu trên nhiều
phương diện.
Hai là, sự eo hẹp và tính chất lệ thuộc về nguồn kinh phí của các trường sư
phạm địa phương. Bởi nguồn kinh phí này tuyệt đại bộ phận do chính địa phương trực
tiếp đầu tư và quản lý. Trong khi đó, kể từ năm 2007, Quốc vụ viện ra quyết định sinh
viên của 6 trường đại học sư phạm trực thuộc Bộ Giáo dục được thực thi chế độ giáo
dục miễn phí, tiêu biểu nhất là chính sách miễn học phí và hỗ trợ kinh phí học tập đã

469



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI

tạo nên ưu thế áp đảo so với các trường sư phạm địa phương. Kể từ đó, các trường sư
phạm địa phương luôn kêu gọi để phản đối chính sách “bất bình đẳng” này. Mặt khác,
Trung Quốc là đất nước quá rộng nên điều kiện phát triển kinh tế, xã hội của các địa
phương có sự chênh lệch lớn. Điều này quyết định đến mức độ chênh lệch về đầu tư
kinh phí giữa các trường sư phạm địa phương với nhau. Thực tế cho thấy, nguồn kinh
phí hàng năm của các trường sư phạm địa phương ở vùng duyên hải – nơi có điều kiện
kinh tế, xã hội phát triển bậc nhất cả nước, như ĐHSP Thượng Hải, ĐHSP Hàng Châu,
ĐHSP Triết Giang, ĐHSP Tô Châu, ĐHSP Quảng Châu,... có nguồn kinh phí gấp
nhiều lần so với các trường sư phạm ở khu vực phía Tây và các khu vực khác. Tình
trạng này sẽ quyết định đến sự chênh lệch lớn về vị trí xếp hạng trong khung xếp hạng
quốc gia giữa các trường sư phạm địa phương với nhau.
Ba là, vấn đề nguồn tuyển sinh – một vấn đề thời sự quyết định đến sinh mệnh
tồn tại của các trường sư phạm địa phương. Khó khăn này ngày càng gia tăng khi mà
trên thực tế những học sinh ưu tú ngày càng không chọn thi vào các ngành sư phạm,
hoặc số ít học sinh ưu tú nếu lựa chọn thì phần lớn đều chọn thi vào trường sư phạm
trọng điểm trực thuộc bộ giáo dục như ĐHSP Bắc Kinh, ĐHSP Hoa Đông. Hạn chế
lớn nhất về nguồn tuyển sinh của các trường sư phạm địa phương là vừa kém về chất
lượng, vừa thiếu về số lượng. Đồng thời, sự khác biệt về nhu cầu giữa các địa phương
về nguồn nhân lực sư phạm cũng là căn nguyên của vấn đề này.
Bốn là, vấn đề việc làm sau khi tốt nghiệp của sinh viên các trường sư phạm địa
phương cũng gặp phải những khó khăn lớn. Trước hết, chất lượng đào tạo và thương
hiệu cạnh tranh của các trường sư phạm địa phương có nhiều hạn chế so với số sinh
viên tốt nghiệp của hai nhóm trường có đào tạo hệ sư phạm còn lại. Đặc biệt, trong
những năm gần đây, thực tế sử dụng lao động đã trực tiếp tác động đến quan niệm và
phương châm tuyển dụng giáo viên của các trường phổ thông. Ngày càng nhiều nhà
tuyển dụng phổ thông cho rằng, sinh viên sư phạm tốt nghiệp từ các cơ sở đào tạo sư

phạm có ưu thế về kĩ năng, phương pháp sư phạm, ưu thế về nền tảng tâm lý giáo dục
học, hiểu biết về chương trình, sách giáo khoa phổ thông; trong khi đó, sinh viên sư
phạm tốt nghiệp từ các cơ sở đào tạo ngoài sư phạm lại có những ưu thế về kĩ năng
tổng hợp kiến thức, có kiến thức chuyên môn sâu sắc, tính sáng tạo cao và khả năng,
phương pháp nghiên cứu khoa học tốt hơn so với sinh viên của các trường thuần sư
phạm. Các nhà tuyển dụng hiện nay thường ưu tiên chú trọng đến trình độ và tính sáng
tạo của sinh viên sư phạm sau khi tốt nghiệp, còn vấn đề phương pháp sư phạm, theo

470


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

họ, hoàn toàn có thể khắc phục sau thực tiễn công tác. Rõ ràng đây là quan điểm tuyển
dụng hoàn toàn có căn cứ thực tiễn!
Mặt khác, nhu cầu tuyển dụng ở các vùng duyên hải, vùng phát triển ngày càng
có hạn. Trong khi đó, ở vùng nông thôn, vùng núi, vùng sâu, vùng xa thuộc khu vực
phía Tây (như Tây Tạng, Tân Cương) hay ở các tỉnh miền núi Vân Nam, Tứ Xuyên,
Quảng Tây, Hắc Long Giang, Nội Mông Cổ,... còn thiếu nguồn giáo viên. Nhà nước
đã thi hành chính sách thu hút lương, các chế độ ưu tiên nhưng vẫn chưa thể kích thích
được tinh thần tình nguyện công tác của sinh viên sư phạm ở vùng đồng bằng, vùng
duyên hải lên. Bởi lẽ, lãnh thổ Trung Quốc quá rộng lớn, những khắc nghiệt về điều
kiện khí hậu, thiếu thốn về điều kiện sống cũng như bất đồng về văn hóa tộc người, kể
cả chính sách sinh một con,... là căn nguyên của hiện trạng này.
Năm là, chương trình đào tạo của các trường sư phạm vẫn mang tính truyền
thống, lạc hậu, chưa tạo nên sự đột phá trong việc thu hút sự hứng thú của sinh viên.
Hiện nay, ở hầu hết các cơ sở đào tạo sư phạm tại Trung Quốc, mô hình đào tạo truyền
thống vẫn là 4 năm với các nhóm học phần chính như: nhóm các kiến thức chính trị tư
tưởng (Triết học Mác – Lênin, Tư tưởng Mao Trạch Đông, Lý luận Đặng Tiểu Bình);
nhóm các kiến thức ngoại ngữ, tâm lý, giáo dục học; nhóm kiến thức chuyên ngành;

nhóm phương pháp dạy học chuyên ngành và rèn luyện kĩ năng, nghiệp vụ sư phạm,
kiến tập, thực tập sư phạm. Trên thực tế, bước vào thế kỉ XXI, nhiều trường sư phạm
đã đổi mới chương trình đào tạo có theo hướng tiếp cận với nền giáo dục tiên tiến trên
thế giới và đáp ứng nhu cầu xã hội thông qua việc đưa khối các kiến thức về rèn luyện
kĩ năng xã hội, kĩ năng ngành nghề vào chương trình. Tuy nhiên, do thiếu hụt đội ngũ
giáo viên, chuyên gia, thiếu hụt nguồn tài chính, cơ sở vật chất và với cách làm còn
mang tính quảng bá, phong trào nên chất lượng đào tạo vẫn chưa có những chuyển
biến mang tính cách mạng.
Đến đây chúng ta thấy, phần lớn những vấn đề mà các trường sư phạm địa
phương ở Trung Quốc đang gặp phải cũng là những thách thức đối với các trường sư
phạm địa phương ở Việt Nam hiện lâu nay. Tuy nhiên, hướng đi và giải pháp của các
trường sư phạm ở Trung Quốc có một số điểm sáng đáng để chúng ta tham khảo. Dưới
đây là một số gợi ý thông qua các ví dụ có tính điển hình.
Thứ nhất, bộ chủ quản cần tạo ra một cơ chế mở, tự chủ trong tuyển sinh, đào
tạo của các trường sư phạm nói chung, trường sư phạm địa phương nói riêng. Tại
Trung Quốc, ngay từ những năm đầu thế kỉ XXI, Bộ Giáo dục đã cho phép các
trường sư phạm, nếu đủ điều kiện về đội ngũ, cơ sở vật chất,... hoàn toàn có thể tham

471


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI

gia đào tạo các chuyên ngành ngoài sư phạm dù tên trường vẫn là trường sư phạm.
Vì vậy, thực tế hiện nay ở các trường sư phạm nói chung, trường sư phạm địa
phương nói riêng, bên cạnh số ít các chuyên ngành đào tạo sư phạm, số các chuyên
ngành đào tạo ngoài sư phạm hiện nay ngày càng chiếm số lượng áp đảo. Đó là sự
chuyển biến mang tính linh hoạt và thích hợp với nhu cầu xã hội. Ví dụ, Học viện

Lịch sử trường Đại học Sư phạm Thủ đô - một trong những học viện rất có uy tín về
đào tạo ngành Lịch sử ở Trung Quốc, trong số 5 ngành đào tạo trình độ đại học là
Lịch sử (hệ Sư phạm), Lịch sử (hệ Cử nhân), Lịch sử Thế giới, Khảo cổ học, Văn
hóa – di sản học chỉ có một mã ngành sư phạm; bậc đào tạo cao học và nghiên cứu
sinh tiến sĩ có 03 ngành đào tạo là: Khảo cổ học, Sử TQ và Sử TG; tất cả các mã
ngành đào tạo cao học và nghiên cứu sinh tiến sĩ đều nằm trong học viện giáo dục
[7].
Hai là, xuất phát từ thực tế liên kết giữa các trường sư phạm địa phương còn rất
lỏng lẻo, nên chăng cần thiết lập hiệp hội của các trường này. Hiệp hội đó nếu thành
lập sẽ đóng vai trò gắn kết giữa các trường sư phạm địa phương với các trường sư
phạm máy cái và sở giáo dục của các địa phương trong một chỉnh thể liên quan đến
đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực sư phạm. Bởi lẽ, ở Việt Nam đang tồn tại một thực
tế là, tại các đợt tập huấn chuyên đề giáo viên hàng năm của Bộ giáo dục, các Sở,
Phòng giáo dục, vai trò của các trường sư phạm địa phương rất mờ nhạt, thậm chí là
vắng bóng, hoặc có cơ hội tham gia cũng chỉ đóng vai trò là phối hợp tổ chức trong
một vài khâu phụ. Vì vậy dẫn đến hiện trạng: rất nhiều giảng viên bộ môn phương
pháp dạy học ở các trường sư phạm địa phương, sư phạm vùng tiếp cận với thực tế đổi
mới dạy học chậm hơn so với đội ngũ giáo viên địa phương. Thậm chí, ở hầu khắp các
tỉnh thành địa phương, đến đợt tập huấn chuyên đề hoặc hội thảo khoa học giáo dục
thường “đặt hàng” trực tiếp đội ngũ giảng viên, cán bộ khoa học từ các trường sư
phạm máy cái. Từ đó dẫn đến hiện tượng: đội ngũ giảng viên, cán bộ khoa học của các
trường máy cái “chạy sô” trong suốt mùa hè hay suốt đợt tập huấn dài ngày từ bắc chí
nam; trong khi đội ngũ giảng viên, cán bộ khoa học ở các trường sư phạm địa phương
dù có năng lực nhưng không có cơ hội để cùng phối hợp, họ dường như bị gạt ra khỏi
hoạt động chuyên môn hết sức quan trọng này!
Ba là, về chương trình đào tạo khối ngành sư phạm cần đổi mới đảm bảo tạo
nâng cao thực chất công tác đào tạo. So với chương trình đào tạo sư phạm ở Việt Nam,
chương trình của các cơ sở đào tạo sư phạm ở Trung Quốc hiện nay, ngoài việc ưu tiên
số tín chỉ tin học, ngoại ngữ, chương trình và thực tế đào tạo đang có những đổi mới


472


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

mang tính cách mạng. Ví dụ, trong chương trình đào tạo hệ sư phạm Lịch sử của
trường ĐHSP Quảng Châu, ngoài cấu trúc truyển thống, có sự hiện diện của nhiều học
phần rất hấp dẫn và thiết thực như: Tiếng Hán cổ; Ngôn ngữ phổ thông và khẩu ngữ
của người giáo viên; Ứng dụng văn tự và viết luận, Giải nghĩa từ trong sách cổ (Giải
nghĩa “Luận ngữ”, Giải nghĩa “Kinh dịch”); Phiên bản mục lục học; Lịch sử địa lý học
Trung Quốc đến việc đầu tư ngà càng đầy đủ về thiết bị và nhân lực cho mô hình dạy
học vi mô nhằm nâng cao kĩ năng dạy học của sinh viên sư phạm trong môi trường đa
phương tiện [6].
Đặc biệt, kể từ năm 2003, công cuộc đổi mới chương trình, sách giáo khoa trên
phạm vi cả nước (thí điểm từ năm 2001) theo hướng “nhất cương đa bản” (một bộ
chương trình, nhiều bộ sách giáo khoa) tiến tới “đa cương đa bản” (nhiều bộ chương
trình, nhiều bộ sách giáo khoa - trường hợp thành phố Thượng Hải có bộ chương trình
và sách giáo khoa riêng là ví dụ điển hình) đã trực tiếp tác động đến xu hướng đổi mới
chương trình đào tạo của các cơ sở sư phạm. Cụ thể, trong các cơ sở giáo dục có đào
tạo sư phạm, các học phần, nội dung liên quan đến đổi mới chương trình, sách giáo
khoa nói chung và của từng môn học nói riêng luôn được ưu tiên, như các vấn đề về
nguyên lý xây dựng chương trình, sách giáo khoa, các vấn đề về so sánh chương trình,
sách giáo khoa giữa Trung Quốc với các nền giáo dục tiên tiến (Mĩ, Pháp, Anh, Úc,
Nhật, Sinh-ga-po, Đài Loan, Hồng Kông),... Hiện nay, nếu tìm kiếm trên hệ thống
website điện tử của Trung Quốc (baidu.com; Zhongguozhiwang,...) hay tìm kiếm trên
website trong thư viện các trường đại học Trung Quốc, chúng ta có thể tìm thấy kho tài
liệu vô cùng phong phú về lĩnh vực này, gồm các loại giáo trình, bài báo nghiên cứu,
luận văn, luận án,... từ lý luận chung đến vận dụng cho tưng môn học cụ thể ở phổ
thông phần lớn đã được số hóa. Có lẽ, so với Việt Nam, đây là một trong những ưu thế
nổi bật mà chính tác giả đã và đang được trải nghiệm, nghiên cứu!

Bốn là, xây dựng đội ngũ giảng viên, cán bộ nghiên cứu nhiệt tâm, uyên bác về
chuyên môn, tôi luyện về nghiệp vụ nhằm tạo nên những ngành đào tạo có tính thương
hiệu của trường. Lực lượng giảng viên, cán bộ khoa học vững mạnh, cộng với cơ chế
quản lý mở, năng động sẽ là nền tảng quan trọng của hội nhập và giao lưu quốc tế.
Điển hình như trường hợp trường ĐHSP Thủ Đô - trường sư phạm trực thuộc thành
phố Bắc Kinh quản lý, dù bên cạnh có Đại học Thanh Hoa, Đại học Bắc Kinh, ĐHSP
Bắc Kinh nhưng cũng đã gây dựng được thương hiệu trên toàn quốc và không ngừng
mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế về giáo dục, khoa học. Tính đến năm 2014, trường
có 2.599 cán bộ, giảng viên và công nhân viên. Trong tổng số 1.515 giảng viên chuyên

473


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI

nhiệm có 298 giảng viên cao cấp, 6 Viện sĩ. Cùng với đó, số tạp chí khoa học do
trường xuất bản ngày càng có vị trí trong cả nước, như: “Học báo ĐHSP Thủ đô”,
“Tạp chí ngôn ngữ”, “Tạp chí dạy học ngữ văn bậc trung học”, “Tạp chí nghiên cứu
giáo dục đại học”, “Tạp chí giáo dục nghệ thuật”. Công tác quan hệ giao lưu, hợp tác
quốc tế mở rộng tới 194 trường, cơ sở đại học của 32 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế
giới [7].
Trong khuôn khổ của bài viết hội thảo, hy vọng một số phác thảo nêu trên sẽ góp
phần chia sẻ, gợi ý hữu ích tới hướng phát triển của các trường sư phạm địa phương Việt
Nam hiện nay. Trong đó, thiết nghĩ cần phối hợp hình thành cơ chế hoạt động thống
nhất trong công tác đào tạo giáo viên giữa các cơ sở đào tạo sư phạm từ cấp bộ đến các
trường địa phương và nhà tuyển dụng giáo dục (ủy ban nhân dân các tỉnh, huyện, các sở,
phòng giáo dục) trong phạm vi cả nước và quyết tâm đầu tư xây dựng đội ngũ giảng
viên, cán bộ sư phạm vững mạnh, cùng với mạnh dạn đổi mới chương trình đào tạo là

một trong những vấn đề bức thiết hiện nay của các trường sư phạm!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. 张勇军, “地方高等师范院校综合化发展研究 ——以A省为例”,华东师范大
学, 2012年博士论文.
[2]. 张志亚,

“地方师范院校转型后教师教育面临的问题探析”,

台州学院学报,

2009年02月.
[3]. 郑开玲, 伍尚海, “论地方师范大学转型过程中的发展战略选择”, 教育管理,
2011年12月中.
[4]. 汤妍, “新形势下地方高等师范院校改革和发展研究”, 上海师范大学, 2008年
硕士论文.
[5]. 徐臣良, “我国地方高等师范院校的发展途径研究”, 华中农业大学, 2004年硕
士论文.
[6]. Website: />[7]. Websit:

474



×