Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

skkn PHƯƠNG PHÁP sửa lỗi SAI cơ bản về nói và VIẾT TIẾNG ANH CHO học SINH KHI THỰC HÀNH tại lớp có HIỆU QUẢ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.02 KB, 16 trang )

1111


2222

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
Đơn vị : TRUNG TÂM GDTX LONG KHÁNH
Mã số :…………

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
PHƯƠNG PHÁP SỬA LỖI SAI CƠ BẢN VỀ
NÓI VÀ VIẾT TIẾNG ANH CHO HỌC SINH
KHI THỰC HÀNH TẠI LỚP CÓ HIỆU QUẢ

Người thực hiện: LÊ THỊ KIM THANH
Lĩnh vực nghiên cứu:
Quản lý giáo dục:
Phương pháp dạy học bộ môn: Tiếng Anh
Phương pháp giáo dục:
Lĩnh vực khác:






Có đính kèm:

□ Mô hình □ Phần mềm □ Phim ảnh
Năm học: 2011 - 2012


□ Hiện vật khác


3333

SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC

I.

THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN:
Họ và tên : LÊ THỊ KIM THANH
Ngày tháng năm sinh : 09 – 01 – 1973
Nam, nữ : Nữ
Địa chỉ : Số nhà 22, đường Phạm Lạc, tổ 29C, Khu phố 2,
P. Xuân Thanh, thị xã Long khánh, tỉnh Đồng Nai.
5. Điện thọai: 061.3876.839 (CQ) / ĐTDĐ: 01234612247
6. Fax:
E-mail:
7. Chức vụ:
Giáo viên – Chủ tịch công đoàn
8. Đơn vị công tác:
Trung tâm GDTX Long Khánh.
1.
2.
3.
4.

II.

TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO:

-

III.

Học vị cao nhất: Đại học sư phạm
Năm nhận bằng : 2008
Chuyên ngành đào tạo : Tiếng Anh

KINH NGHIỆM KHOA HỌC:
- Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Dạy tiếng Anh
- Số năm kinh nghiệm: 16 năm
- Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây:
- PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH TRONG CÁC TIẾT

HỌC SPEAK.
- PHƯƠNG PHÁP ĐỂ GIỚI THIỆU MỘT BÀI MỚI
VÀ CHUYỂN Ý MỘT TIÊU ĐỀ MỚI.


4444

PHƯƠNG PHÁP SỬA LỖI SAI CƠ BẢN VỀ NÓI VÀ VIẾT TIẾNG ANH
CHO HỌC SINH KHI THỰC HÀNH TẠI LỚP CÓ HIỆU QUẢ

I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Do yêu cầu phát triển của xã hội đồng thời tiếng Anh là ngôn ngữ chính trong
khoa học và giao tiếp nên việc cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản để nói và
viết đúng những điều các em đã được học là rất quan trọng.
Về mặt lý luận thì nhất thiết người giáo viên phải dạy học sinh hiểu đúng, thực hành
đúng những kiến thức nền tảng. Nếu không hiểu đúng, thực hành đúng thì vốn tiếng

Anh của các em không có tác dụng trong quá trình học tập. Từ chỗ viết đúng, nói đúng
các em dễ phát triển các kĩ năng khác như nghe, đọc, dịch...
I.
1.

TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI:
Cơ sở lý luận:

Dạy và học ngoại ngữ khác với các môn học khác là thời gian thực hành ở lớp nhiều
sau mỗi phần bài mới. Trong thực tế, khi học tiếng Anh thì học sinh rất ít khi thực hành
đúng ngay lần đầu và nhìn chung giáo viên khó phát huy được đối tượng học sinh vì
thường là lớp đông, thời gian có hạn. Hơn nữa việc sữa lỗi cho học sinh khi thực hành
tại lớp mỗi giáo viên có những phương pháp khác nhau. Có người cho rằng không bao
giờ để học sinh mắc lỗi, nếu mắc lỗi thì dừng lại và sửa chữa ngay cho học sinh, có
người cho rằng phải liên tục sửa nhưng chỉ gợi ý hoặc có những người dùng phương
pháp lấy chính học sinh sửa cho học sinh...Có rất nhiều phương pháp nhưng không
phương pháp nào là tối ưu mà trong quá trình dạy tiếng Anh phải kết hợp nhiều phương
pháp khác nhau ứng với mỗi tình huống và nội dung khác nhau. Vì theo một nhà giáo
dục học nhận xét "Một người thầy giỏi không phải là người mang chân lí đến cho học
sinh mà phải là người đưa học sinh đi tìm chân lí".
Từ cơ sở lí luận và thực tiễn, cùng với kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy của
mình tôi chọn chuyên đề nghiên cứu "Phương pháp sửa lỗi sai cơ bản về nói và viết
tiếng Anh cho học sinh khi thực hành tại lớp có hiệu quả".
2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài:
A. SỬA LỖI SAI KHI HỌC SINH THỰC HÀNH NÓI TIẾNG ANH TẠI LỚP:
Trong khi thực hành tiếng Anh đặt câu theo mẫu và phát triển ý, điều quan trọng đối
với người giáo viên là hướng dẫn học sinh tìm hiểu, khám phá và sáng tạo theo ý của
mình. Nhưng không phải lúc nào học sinh cũng làm được ngay. Vì vậy cả khi học sinh
còn lúng túng hoặc sai thì giáo viên phải nhạy cảm nắm bắt, hiểu ý muốn nói của các
em, chủ động sửa hoặc gợi ý cho học sinh tự sửa lỗi.



5555
Dựa vào tình huống vấn đề đặt ra và những yêu cầu về kiến thức, kỹ năng mà chúng
ta có thể đưa ra những phương pháp khác nhau mà mục đích cuối cùng là học sinh hiểu
biết vận dụng đúng.
Sau đây là một vài ví dụ ứng với các tình huống khác nhau và các phương pháp sửa
lỗi sai cơ bản cho học sinh khi thực hành nói tiếng Anh tại lớp.
I. PHƯƠNG PHÁP KHI HỌC SINH MẮC LỖI THÌ SỬA NGAY
Ví dụ:
Khi giáo viên hỏi, học sinh trả lời để luyện cách sử dụng động từ khuyết thiếu "can"
để diễn đạt khả năng có thể làm được việc gì đó có thể có trường hợp sau xảy ra:
Teacher: What can you do, Hoa?
Hoa:

I can speaking English

Teacher: Hmm, that's not right, is it?
I can speak, not I can speaking
Minh, what about you?....
Trong trường hợp trên giáo viên không lấy làm hài lòng với học sinh Hoa mặc dù em
đã cố đưa ra câu trả lời đúng nhưng giáo viên đó sửa lại ngay và gọi em khác, không
cho học sinh đó có cơ hội để sửa câu sai của mình thành câu đúng. Trong khi câu hỏi
giáo viên đưa ra rất gần với học sinh, em nào cũng có thể trả lời được nhưng giáo viên
lại tỏ ra không hài lòng và không khuyến khích các em tự trả lời, tự sửa lỗi mà làm cho
học sinh bối rối không nói ra câu mình cần nói .
Với trường hợp trên, giáo viên có thể sửa lỗi cho học sinh bằng phương pháp tích
cực hơn tạo cho các em có cơ hội và hứng thú để nói đúng. Có thể tiếp tục như sau:
Teacher: Well, all right, but "I can speak" not " speaking", again?
Hoa: I can speak English

Teacher: Good
Hoặc giáo viên có thể giúp học sinh tự sửa lỗi bằng cách chỉ ra chỗ sai trong câu
Ví dụ:
Teacher: Yes, OK, nearly,"speaking or speak"
Students: speak
Teacher: Now you say again, Hoa
Hoa: I can speak English
Teacher: That's right. Good
Đây là phương pháp tốt giáo viên cần phát huy và áp dụng thường xuyên. Khi đó
giáo viên có thể biết rằng học sinh có thể hiểu bài và tự mình sửa lỗi. Học sinh sẽ ghi


6666
nhớ lâu hơn và có thể không bị sai như lỗi đó nữa. Sau khi sửa lỗi được ở một học sinh
rồi, có thể chuyển câu hỏi đó sang học sinh khác, sau đó lại hỏi học sinh ban đầu để
kiểm tra lại.
Ví dụ:
Teacher: Well, anyone else? What can you do, Tam?
Tam

: I can speak English

Teacher: Yes, well done
Hoa again?
Hoa:

I can speak English

Teacher: Good
Phương pháp này giúp học sinh cả lớp chú ý, nhưng giáo viên nên sử dụng một cách

thận trọng. Điều quan trọng là không để học sinh đầu mắc sai cảm thấy mình là "nạn
nhân" hy sinh cho những bạn khác, phải khuyến khích đúng lúc, kịp thời để tránh cho
học sinh đó có cảm giác sợ hoặc ngại khi lần sau giáo viên hỏi sẽ không dám trả lời,
cho nên giáo viên cần phải biết xử lý tình huống một cách khéo léo.
Tóm lại, với tình huống và dạng thực hành nói như ví dụ trên, để việc sửa lỗi có hiệu
quả chúng ta cần áp dụng phương pháp sửa lỗi cơ bản và phải có được kĩ năng sau:
- Nên động viên khuyến khích học sinh tập trung vào những gì học sinh đúng nhiều
hơn chứ không thiên về những điều sai, chỉ nên lấy cái sai ra để so sánh và tránh lặp lại
lỗi sai đó.
- Khích lệ những câu trả lời đúng của học sinh, thậm chí cả những câu chưa đúng
hoàn toàn bằng phương pháp này học sinh sẽ cảm thấy mình hiểu và đang hoàn thiện
dần.
-Tránh miệt thị học sinh hoặc làm cho học sinh cảm thấy việc đặt câu hoặc việc trả
lời sai là việc rất tồi tệ.
- Giáo viên chủ động điều khiển sửa lỗi nhanh, nếu không sẽ mất nhiều thời gian mà
phần bài trên lớp chưa hết, nhiều học sinh khác sẽ không có cơ hội thực hành.
II. KẾT HỢP NHIỀU PHƯƠNG PHÁP KHI SỬA LỖI Ở CÁC TÌNH HUỐNG
KHÁC NHAU
Như tôi đã nói ban đầu rằng không có một phương pháp nào là tối ưu nhất mà điều
quan trọng là giáo viên phải biết kết hợp khéo léo các phương pháp với yêu cầu đặt ra
của từng loại, từng đối tượng học sinh, mức độ hiểu bài và không khí của lớp học.
Dưới đây là một ví dụ khác về sửa lỗi sai cho học sinh:
Giáo viên đưa ra một đoạn văn trích từ một bức thư của Lan viết cho người bạn của
cô ấy. Yêu cầu học sinh đọc và trả lời câu hỏi. đoạn văn như sau:


7777
"Dear Minh,
I was very glad to get your letter and to hear about all the things you are doing.
Thanks for sending me the photographs of the dolls. They are very beautiful and I

have added them to my collection.
I am sending you a few photographs of mine. Little doll with curly brown hair is a
new one I have been given on my 15th birthday anniversary. I hope you will like it.
Love
Lan"
Giáo viên đặt câu hỏi: What does Lan do?
Trong những tình huống sau giáo viên sẽ làm gì?
a. Một học sinh trả lời: Lan collects the photographs of the dolls.
b. Một học sinh khác trả lời: She collects
c. Một học sinh khác không trả lời vì không biết
d. Một trong những học sinh yếu trả lời: She collecting photographs of the dolls.
e. Một trong những học sinh khác trả lời: She is collecting dolls.
f. Một học sinh trả lời: She writes letter.
Tuy nhiên trong những câu trả lời trên không câu nào đúng. Nhưng để học sinh tự
sửa, thảo luận đi đến câu trả lời đúng, giáo viên có thể đưa ra những gợi ý sau:
Trường hợp a: chấp nhận câu trả lời gần đúng hoặc gợi ý giúp học sinh tự sửa
Teacher: It's nearly correct
Just "photographs of the dolls" she collects....
Student: She collects photographs of the dolls
Trường hợp b: Giáo viên ra hiệu bằng một cử chỉ để chỉ ra câu đó chưa hoàn chỉnh
hoặc nói:
Teacher: Yes, she collects but she collects what?
Nếu cần thiết giáo viên có thể đặt câu hỏi đó cho học sinh khác trả lời sau đó học
sinh ban đầu nhắc lại câu trả lời đúng của bạn
Trường hợp d:
Giáo viên đồng ý với câu trả lời đó để khích lệ học sinh nhưng sau đó tự mình sửa lại và
yêu cầu học sinh đó nhắc lại câu trả lời;
Ví dụ: Teacher: Yes, good, she collects photographs of the dolls
Student : She collects photographs of the dolls
Trường hợp e: Giáo viên gợi ý giúp học sinh tự sửa vì đó là học sinh khá chỉ cần đưa

ra gợi ý sau:


8888
Teacher: Well, nearly, what does she do ?
"she collects" or " collect ?''
Student: She collects
Teacher: Very good
Hoặc yêu cầu học sinh khá khác trả lời cho chính xác và yêu cầu học sinh đó nhắc lại
câu trả lời đúng của bạn.
Trường hợp f : Chấp nhận câu trả lời đó sau đó giáo viên có thể đưa ra câu hỏi lại rõ
hơn về mục đích và ngữ pháp để làm sáng tỏ hơn.
Teacher: Well, yes. She is writing a letter. But what does she do in her free time?
What is her hobby ?
Student : Ah, she collects.....
Teacher: Yes, OK
III. GIÁO VIÊN GIÚP HỌC SINH TỰ SỬA
Đây là một phương pháp tốt tạo cơ hội cho học sinh tự sửa lỗi của mình. Với phương
pháp này giáo viên phải biết linh hoạt sử dụng các kĩ năng về cử chỉ điệu bộ hoặc
những quy ước sẵn đối với học sinh của mình. Học sinh tự nhận biết lỗi sai trong câu và
biết được nó thuộc lỗi sai về từ, vị trí hay loại câu. Nhưng vấn đề là trong những trường
hợp sai nào thì sử dụng những cử chỉ, điệu bộ như thế nào cho phù hợp để học sinh nhìn
vào biết tìm ra lỗi sai. Sau đó học sinh sẽ tự sửa lỗi sai đó.
Vớ dụ: sai về thứ tự từ
Teacher: Is it a car ?
Student : Yes, is it./ Yes, it is .
Giáo viên có thể dựng hai ngón tay trỏ vòng qua nhau rồi xuôi ngược theo lời nói học
sinh tự sửa.
Yes, it is quay xuôi chiều
Yes, is it quay ngược chiều

Ví dụ sai về thiếu từ (ngữ pháp )
He gets up 6.00 .

"at" is missed "

Giáo viên giơ bàn tay lên đếm
1

2

He gets

3
up

4

5
6.00

Học sinh sẽ phát hiện ra từ thiếu khi giáo viên cầm ngón tay số 4 lắc lắc. Khi học sinh
sửa được rồi giáo viên nhắc lại và làm cử chỉ điệu bộ rồi yêu cầu học sinh nhắc lại câu
đúng.


1

2

3


4

He

gets

up

at

9999
5
6.00

Ngoài ra giáo viên có thể dùng giọng điệu để giúp học sinh nhận biết ra chỗ sai và
có thể sửa:
Ví dụ:
Teacher: What does Miss White do ?
Student : He is a teacher (He is wrong )
Miss Miss...........White
She is a teacher
Một số ví dụ ở dạng sai này:
1.Yesterday I go to school early
2. He live in London
3. An aeroplain is faster a car
Giáo viên dùng ngữ điệu của mình vào những từ giúp học sinh nhận biết chỗ sai
trong câu và sửa lỗi sai đó.
Trường hợp 1:
Teacher: Yesterday I go or I.......

Student: I went
Trường hợp 2:
Teacher: He....
Student: He lives.......
Trường hợp 3
Teacher: faster.....
Student: faster than
Tóm lại để sửa lỗi trong khi học sinh thực hành nói hiệu quả thì giáo viên cần phải
biết kết hợp vận dụng thường xuyên các phương pháp sửa lỗi một cách linh hoạt phù
hợp với tình huống và lỗi sai nhất định, giáo viên cần chủ động điều chỉnh để học sinh
luôn phát huy được tính tích cực của mình trong học tập.
B. SỬA LỖI SAI KHI HỌC SINH THỰC HÀNH VIẾT TIẾNG ANH TẠI LỚP:
Ở trường phổ thông, với những yêu cầu kiến thức cho học sinh còn ít và yêu cầu đơn
giản nhưng việc viết đúng là rất quan trọng, ở đây tôi không nặng về đề cập đến vấn đề
nét chữ mà sửa lỗi sai cơ bản về ngữ pháp và chính tả trong câu. Cũng như chữa lỗi
trong luyện tập miệng, việc sửa lỗi sai khi viết cho học sinh nên làm cho có ả nh hưởng
tích cực đến việc viết của các em hơn là mang tính khích lệ song vẫn phải theo hướng


10101010
động viên. Điều đó muốn nói rằng sau những lần chữa và được chữa lỗi, học sinh sẽ
hạn chế mắc sai và đồng thời cũng rút ra được bài học và khắc sâu hơn nữa những điều
cần ghi nhớ từ những chỗ sai này.
I. MỘT SỐ CÁCH SỬA LỖI CẦN LƯU Ý:
1. Xác định trọng tâm cần sửa trước
ở chương trình English 8- Unit 6 học sinh có học cấu trúc câu "enjoy + V-ing" giáo
viên yêu cầu học sinh lên bảng đặt câu hỏi về em đó hoặc người khác thích làm gì dùng
"enjoy". Học sinh lên bảng viết như sau:
My muther injoy to read newspapers
Với câu trên chúng ta nên sửa những lỗi gì và sửa như thế nào để học sinh dễ nhớ ?

Ta thấy học sinh trên đã mắc phải quá nhiều lỗi, nhưng điều quan trọng là trong ý
nghĩ của học sinh và nhận xét của giáo viên thì câu đó không đến nỗi quá tồi như ta
nhìn thấy, vì bản thân em học sinh đó cũng đã cố gắng viết những gì em nghĩ để tạo
thành câu. Nên với câu này giáo viên có thể hỏi những học sinh khác xem đúng hay sai
và nhắc lại mục đích của yêu cầu viết câu này để luyện cấu trúc "enjoy + V-ing" vì vậy
phần quan trọng cần sửa là "V-ing" và chia động từ.
My mother + Vs cũng rất quan trọng nên giáo viên có thể gợi ý và giúp học sinh sửa
cả lỗi này.
Teacher: enjoy + to V (right or wrong ?)
Student: wrong enjoy + V-ing
Giáo viên gạch chân từ enjoy to read và viết từ sửa ở dưới: enjoys reading
My muther injoy reading newspapers
Sẽ tốt hơn nếu giáo viên tự sửa từ "injoy " thành từ "enjoy " viết lên thì học sinh
cũng đã tự biết và hiểu chúng đã mắc sai chỗ đó và biết tại sao lại thế (vì chúng đã học
rồi ) và sẽ hạn chế mắc sai ở những lần sau, cũng giống như thế lỗi về đánh vần và chữ
cái như từ "muther" ta cũng không nên sửa ngay vì điều này sẽ làm phân tán sự tập
trung của học sinh vào những điểm chính. Giáo viên có thể nhớ lỗi sai đó để sửa vào
lần sau hoặc tự các học sinh khác sẽ phát hiện ra ngay.
Teacher: Is it correct all ?
Student: Muther
Teacher: Ah, what ?
Student : Mother
2. Nên đưa những yêu cầu viết như thế nào để việc sửa lối có hiệu quả:


11111111
Vì đó là thời gian trên lớp và tuỳ thuộc vào mục đích, yêu cầu, kĩ năng rèn luyện
của từng phần nên khi luyện viết trên lớp giáo viên cũng cần lựa chọn phần học sinh
hay mắc lỗi sai để sửa và nhấn mạnh, yêu cầu học sinh phải ghi nhớ.
Ví dụ: Sử dụng động từ ở thời tiếp diễn thêm " ing " vào sau động từ nhưng có một

số trường hợp đặc biệt mà chính học sinh hay mắc lỗi.
Giáo viên gọi học sinh lên bảng làm bài tập sau: Cho dạng đúng của động từ trong
ngoặc.
She (cut ) flower in the garden now .
-> She is cuting flower in the garden now.
Câu trên có thể học sinh không phát hiện ra chỗ sai ngay vì phát âm giống nhau và
quy luật thì chúng nghĩ đơn thuần cứ thêm "ing" vào sau động từ mặc dù giáo viên đó
dạy rồi khi nào thì gấp đôi phụ âm.
Giáo viên có thể gạch chân từ "cuting" giúp học sinh nhớ lại và sửa
She is cutting flower in the garden now.
Giáo viên có thể nhắc lại hoặc yêu cầu học sinh nhắc lại những động từ có cách viết
tương tự từ "cutting"
Một ví dụ khác:
They are (write ) the dictation at the moment.
Học sinh cũng sẽ dễ mắc "writeing " mặc dù giáo viên dạy trường hợp động từ kết
thúc bằng "e" thì khi thêm "ing " ta phải bỏ "e" .Nhưng cũng như những ví dụ vừa quen
thuộc vừa thực tế này, ta sẽ thấy được hiệu quả là học sinh sẽ tự nhớ lại nhiều hơn.
Trên đây là những trường hợp câu ngắn, đơn giản cả giáo viên và học sinh cùng làm
việc nhưng với trường hợp sửa cả đoạn văn hoặc một vài câu, khi yêu cầu học sinh viết
đoạn văn thì giáo viên cần có những kinh nghiệm sửa như thế nào để giúp học sinh
nhận ra chỗ sai một cách nhanh chóng và hiểu được tại sao lại sai. Ví dụ giáo viên yêu
cầu học sinh viết một đoạn văn nói về một ngày làm việc bình thường của mình. Giáo
viên gọi một em học sinh lên bảng viết bài của mình ra để cả lớp nhận xét. Đây là bài
sau khi giáo viên và cả lớp cùng nhau sửa .
s
have

at

I alway gets up 6 o'clock. I having breakfast at 6.30

foot
I go to school on feet with my freinds. I go home at 11.00


12121212
In

have

and have lunch at home. I usually do my homework on the afternoon. I having
dinner at 6 p.m
go

I going to the bed at 9 o'clok.

Trong ví dụ này ta thấy học sinh đó mắc rất nhiều lỗi ở hầu hết các câu mà giáo viên
đã giúp học sinh sửa hết. Nhưng chính việc sửa hết cùng một lúc và trình bày như trên
thì có lẽ sẽ không khích lệ được học sinh mà còn làm trầm trọng thêm vấn đề vì chúng
sẽ thấy hầu như câu của chúng không đúng chút nào, thậm chí quá tồi để viết lần sau,
hơn nữa giáo viên viết cũng không rõ ràng , trình bày rối học sinh khó phát hiện .
Với trường hợp này nên chăng ta chỉ nên chữa những lỗi cơ bản, quan trọng nhất
hoặc những lỗi hiển nhiên học sinh biết và chúng vừa được học. Đó là những lỗi ngữ
pháp cụ thể là biết sử dụng động từ ở thì hiện tại thường .
Ta có thể giảm bớt phần gạch chân( chéo hoặc chỉ gạch chân một lần thôi và viết ra
ngoài đầu dòng phần bác bỏ ) làm cho bài chữa rõ ràng hơn và có vẻ ít lỗi hơn.
Hơn nữa, trong quá trình dạy ta luôn thể hiện vai trò là người thầy điều khiển đưa
học sinh vào tình huống để chúng chủ động lĩnh hội cũng như sửa sai. Giáo viên có thể
làm giảm bớt đi phần lỗi mà học sinh đó vừa mắc bằng cách gợi ý mở hỏi chính học
sinh đó tự sửa. Điều đó cũng khích lệ được học sinh nhìn lại những gì mình đã biết và
ghi nhớ lần sau sẽ không mắc lại lỗi đó nữa.

ví dụ sửa đoạn trên như sau:
get ..........have I always gets up 6 o'clok then I having
foot

break at 6.30 I go to school on feet

go

with my friends. I going to home at 11.00
and have lunch at home. I usually do my

in.........have

homework on the afternoon. I having

go

dinner at 6 p.m. I going to the bed at 9 o'clock

Hoặc giáo viên gạch chân từ sai như trên và viết từ đúng phía bên trên từ sai.
Nếu đối với học sinh mà giáo viên dạy quen hoặc là những học sinh khá, giáo viên
có thể quy ước các ký hiệu cho từng loại lỗi ra ngoài để giúp học sinh tự sửa lỗi của
mình bằng cách đọc kĩ lại những gì mình vừa viết và suy nghĩ để sửa.
Ví dụ :
Kí hiệu: Sp: cho lỗi chính tả (spelling )
Gr: cho lỗi ngữ pháp (grammar )
Wo: thứ tự từ

(word order )



13131313
II. NHỮNG LỖI THÔNG THƯỜNG HỌC SINH HAY MẮC PHẢI KHI VIẾT
TIẾNG ANH:
Vì khi được gọi lên bảng học sinh không được cầm sách, hoặc những từ, những mẫu
câu vừa mới được học, và cũng chính lỗi học sinh vừa mắc phải đó rất có lợi cho cả lớp
hoặc cho một số học sinh hay mắc lỗi rút kinh nghiệm. Nên khi nhận xét và cùng giáo
viên chữa bài thì cả lớp phải tập trung. Cũng từ đó người thầy sẽ biết được học sinh đó
tiếp thu được những gì và còn yếu ở chỗ nào cần phải nhấn mạnh.
Quay lại ví dụ 1:
My muther injoy to read newpapers
Trường hợp này ta thấy học sinh quá yếu, vậy chúng "hổng " cái gì và nên dạy lại cái

Có thể đưa ra một vài phân tích sau:
1. Lỗi về ngữ pháp:
Cấu trúc cơ bản "enoy + V-ing " giáo viên sẽ phải đưa ra yêu cầu luyện tập nhiều
hơn nữa mẫu câu này và sử dụng nhiều ví dụ khác nhau giúp chúng nhớ.
- Chia động từ ở ngôi thứ ba số ít
Học sinh có thể nhớ lại chỉ cần giáo viên nhắc chủ ngữ ngôi thứ mấ y, chia động từ
như thế nào là chúng có thể biết và tự sửa.
2. Lỗi sai về từ:
Tác dụng của một chữ cái bắt đầu có thể gợi lại cho học sinh nhớ từ này:
Teacher: injoy

"e"/i/ or "i" /ai/?

Student: enjoy
Ngoài ra, ứng với mỗi trường hợp để có hiệu quả giáo viên phải tự đặt ra các câu hỏi
như : những nguyên nhân nào dẫn đến học sinh mắc những lỗi đó có chỉ ra được những
gì mà học sinh đó và học sinh khác chưa hiểu hay không? Hay chúng hiểu rồi nhưng

vẫn mắc theo thói quen. Vậy giáo viên phải làm thế nào cho phù hợp với mỗi đối tượng
học sinh trong lớp.
Với loại lỗi này, ta thấy học sinh hay mắc phải thì chúng sử dụng các trường hợp đặc
biệt của các cách sử dụng từ cấu trúc ngữ pháp.
Ví dụ:
Các từ học sinh hay nhầm:
Từ đúng

Học sinh hay nhầm

Swimming

Swiming

Cutting

cuting


14141414
Shoping

Shopping
Writing

Writeing

Closing

Closeing


Trên đây là một vài ví dụ thuộc các dạng lỗi cơ bản mà học sinh hay mắc phải và
hướng giải quyết của giáo viên mà tôi thường áp dụng với học sinh của mình và thấy
rằng các phương pháp này rất có hiệu quả.

III. KẾT QUẢ DẠY THỰC NGHIỆM:
Khi làm chuyên đề này tôi đã tiến hành dạy thực nghiệm ở một số lớp 8, 9 tôi thấy
rằng sau thời gian áp dụng các phương pháp sửa lỗi này học sinh đã tiến bộ rõ rệt ngay
cả khi nói và viết.
Kết quả trước và sau khi áp dụng các phương pháp sửa lỗi trên:

Luyện nói
Lớp

Xếp
loại

Trước

Luyện viết

Sau khi áp dụng
thường xuyên

Trước

Sau khi áp
dụng
thường
xuyên


Lớp

Giỏi

4%

8%

4%

8%

8

Khá

20%

28%

20%

28%

Sỉ số

TB

48%


56%

48%

56%

25

Yếu

20%

8%

20%

8%

Kém

8%

0%

8%

0%

Lớp


Giỏi

6.6%

10%

6.6%

10%

9

Khá

16.66%

23.33%

16.66%

23.33%

Sỉ số

TB

53.33%

56.66%


53.33%

56.66%

30

Yếu

20%

10%

20%

10%

Kém

3.33%

0%

3.33%

0%

IV. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG:
Qua đề tài này tôi có một số đề xuất và khuyến nghị như sau:
+ Về phía Sở Giáo Dục và Đào tạo:

Cần hỗ trợ kinh phí cho Trung tâm để mua sắm thêm trang thiết bị, máy móc phục vụ
cho công tác dạy và học vì hiện nay vẫn còn thiếu chưa có máy projector.
+ Về phía Trung tâm: Cần quan tâm hơn nữa đến điều kiện dạy và học của giáo viên và
học sinh. Như mua thêm băng đài và các đồ dùng dạy học khác.vv….


15151515
+ Về phía cha mẹ học sinh:
Các bậc cha mẹ cần quan tâm nhiều hơn nữa đến việc học của con em mình như: dành
thời gian cho các em học bài và làm bài tập, kiểm tra xem sau khi đi học về các em có
học bài và làm bài tập ở nhà hay không.
Tôi thiết nghĩ nếu các em học sinh được quan tâm từ nhiều phía như vậy, thì chất
lượng dạy và học sẽ cao hơn nhiều. Xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI THỰC HIỆN

Lê Thị Kim Thanh

SỞ GD&ĐT ĐỒNG NAI
TRUNG TÂM GDTX LONG KHÁNH

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc


16161616
Long Khánh, ngày 20 tháng 04 năm 2012

PHIẾU NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Năm học: 2011-2012
Tên sáng kiến kinh nghiệm: PHƯƠNG PHÁP SỬA LỖI SAI CƠ BẢN VỀ NÓI VÀ VIẾT

TIẾNG ANH CHO HỌC SINH KHI THỰC HÀNH TẠI LỚP CÓ HIỆU QUẢ

Họ và tên tác giả: Lê Thị Kim Thanh
Đơn vị (Tổ): Tin học-Ngoại ngữ-Nghề
Lĩnh vực:
Quản lý giáo dục

Phương pháp dạy học bộ

môn
Phương pháp giáo dục
Lĩnh vực khác
1. Tính mới:
- Có giải pháp hoàn toàn mới
- Có giải pháp cải tiến, đổi mới từ giải pháp đã có
2. Hiệu quả:
- Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả
cao.
- Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai
áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao.
- Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả cao
- Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai
áp dụng tại đơn vị có hiệu quả.
3. Khả năng áp dụng:
- Cung cấp được các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối,
chính sách:
Tốt
-

Đạt


Đưa ra các giải pháp khuyến nghị có khả năng ứng dụng thực tiễn, để
thực hiện và dễ đi vào cuộc sống:
Tốt

-

Khá

Khá

Đạt

Đã được áp dụng trong thực tế đạt hiệu quả hoặc có khả năng áp dụng
đạt hiệu quả trong phạm vi rộng:
Tốt

Khá

XÁC NHẬN CỦA TỔ CHUYÊN MÔN
(Ký tên và ghi rõ họ tên)

Đạt
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
(Ký tên, ghi rõ họ tên và đóng dấu)



×