NHÓM 6 – Lớp học phần: 1412MAEC0111
MỤC LỤC
Đề tài 2
1
NHÓM 6 – Lớp học phần: 1412MAEC0111
LỜI MỞ ĐẦU
Lạm phát – một hiện tượng kinh niên của nền kinh tế, trong thời gian gần đây, vấn đề
lạm phát đã được quan tâm nhiều hơn ở tất cả mọi người dân, mọi doanh nghiệp, tổ chức.
Lạm phát có thể là động lực giúp một nền kinh tế phát triển xong nó cũng là nguyên nhân
phá vỡ sự phát triển của nền kinh tế một quốc gia, gây nên những bất ổn từ kinh tế dẫn
đến đời sống và ảnh hưởng tới lĩnh vực chính trị - xã hội. Ở Việt Nam, ảnh hưởng của
lạm phát không còn là mới lạ, từ thời kỳ bao cấp nền kinh tế của chúng ta đã bị thiệt hại
nặng nề, tiền đồng liên tục mất giá, 3 lần đổi tiền liên tiếp trong thời gian ngắn. Bước
sang nền kinh tế thị trường hiện nay, vấn đề lạm phát đã khó kiểm soát nay còn khó khăn
hơn với những tác động từ thế giới trên thị trường tiền tệ, giá nguyên liệu,… gây ra
những bất ổn khó lường.
Với đề tài “Phân tích tình hình lạm phát của Việt Nam trong 5 năm gần đây và phân
tích các biện pháp mà chính phủ sử dụng để kiểm soát lạm phát” nhóm 6 với hi vọng tìm
hiểu kĩ hơn về lạm phát, về tình hình lạm phát của nước ta trong những năm gần đây và
các biện pháp, công cụ mà chính phủ sử dụng để kiểm soát lạm phát từ đó có thể hiểu kỹ
hơn về vấn đề này, về sự kết hợp của các chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ của
Chính Phủ trong việc điều hành nền kinh tế vĩ mô.
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu: tình hình lạm phát ở Việt Nam từ năm 2008 đến năm
2013
Phương pháp nghiên cứu: thu thập số liệu, tổng hợp, phân tích và đánh giá.
Nhóm chúng em xin chân thành cảm ơn cô Đặng Thị Thanh Bình - Giảng viên học
phần “Kinh tế vĩ mô 1” đã hướng dẫn tận tình chúng em trong quá trình thảo luận, xây
dựng đề tài, chúng em hi vọng sẽ nhận được những ý kiến góp ý của thầy khi trình bày
để đề tài của chúng em được hoàn thiện hơn.
Đề tài 2
2
NHÓM 6 – Lớp học phần: 1412MAEC0111
DANH SÁCH NHÓM 06
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
Đề tài 2
3
NHÓM 6 – Lớp học phần: 1412MAEC0111
PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
I.
1.
Khái niệm, phân loại lạm phát
Lạm phát và đo lường lạm phát
Lạm phát là sự tăng lên liên tục của mức giá trung bình theo thời gian. Giảm phát là
sự giảm liên tục của mức giá trung bình theo thời gian.
Lạm phát được đặc trưng bởi chỉ số chung của giá cả và loại chỉ số biểu hiện lạm
phát gọi là chỉ số lạm phát hay chỉ số giá cả chung của toàn bộ hàng hóa cấu thành tổng
sản phẩm quốc dân. Nó chính là GNP danh nghĩa / GNP thực tế. Trong thực tế được thay
thế bằng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) hoặc chỉ số giá sản xuất (PPI).
Chỉ số giá tiêu dùng phản ánh sự biến động giá cả của một giỏ hàng hóa và dịch
vụ tiêu biểu cho cơ cấu tiêu dùng của xã hội. Công thức tính có thể viết như sau:
I p = ∑ i p .d
Trong đó:
-
Ip: Chỉ số giá cả của cả giỏ hàng
ip: Chỉ số giá cả của từng loại hàng, nhóm hàng trong giỏ
d: Tỷ trọng mức tiêu dùng của từng loại hàng, nhóm hàng trong giỏ. Nó phản ánh cơ cấu
tiêu dùng của xã hội
Thường người ta lựa chọn một thời kỳ cố định nào đó làm gốc để tính các chỉ số cá
thể và tỷ trọng mức tiêu dùng của các loại hàng hóa. Thời kỳ gốc để tính chỉ số cá thể và
thời kỳ gốc để tính tỷ trọng tiêu dùng có thể trùng nhau (cùng một năm gốc) và cũng có
thể lựa chọn khác nhau (năm gốc cho giá khác với năm gốc cho cơ cấu tiêu dùng.
Khác với chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá sản xuất phản ánh sự biến động giá cả đầu
vào, thực chất là biến động giá cả chi phí sản xuất. Xu hướng biến động giá chi phí tất
yếu sẽ tác động đến xu hướng giá cả hàng hóa thị trường. Hiện nay ở Việt Nam, chỉ số
Đề tài 2
4
NHÓM 6 – Lớp học phần: 1412MAEC0111
được dùng để biểu hiện lạm phát là chỉ số giá tiêu dùng (được tính hàng tháng, quý,
năm).
Tỷ lệ lạm phát: là thước đo chủ yếu của lạm phát trong một thời kỳ. Quy mô và sự
biến động của nó phản ánh quy mô và xu hướng lạm phát. Tỷ lệ lạm phát được tính như
sau:
Ip
gp =
− 1 × 100
I
p −1
Trong đó:
2.
gp: Tỷ lệ lạm phát (%)
Ip: Chỉ số giá cả của thời kỳ nghiên cứu
Ip-1: Chỉ số giá cả của thời kỳ trước đó
Phân loại lạm phát
Người ta thường chia lạm phát thành ba loại tùy theo mức độ của tỷ lệ lạm phát.
-
Lạm phát vừa phải, còn gọi là lạm phát một con số, có tỷ lệ lạm phát dưới 10% một năm.
-
Lạm phát ở mức độ này không gây ra những tác động đáng kể đối với nền kinh tế.
Lạm phát phi mã xảy ra khí giá cả tăng tương đối nhanh chóng với tỷ lệ 2 hoặc 3 con số
trong một năm. Loại lạm phát này khi đã trở nên vững chắc sẽ gây ra những biến dạng
-
kinh tế nghiêm trọng.
Siêu lạm phát xảy ra khi lạm phát đột biến tăng với tốc độ cao vượt xa lạm phát phi mã.
Siêu lạm phát thường gây ra những thiệt hại nghiêm trọng và sâu sắc, tuy nhiên chúng
cũng ít khi xảy ra.
Ngoài ra, lịch sử lạm phát cũng chỉ ra rằng, lạm phát ở các nước đang phát triển
thường diễn ra trong thời gian khá dài, và vì thế, hậu quả của nó phức tạp và trầm trong
hợn. Cũng vì vậy, nhiều nhà kinh tế dựa vào 3 loại lạm phát trên kết hợp với độ dài thời
gian lạm phát để chia lạm phát ở các nước này thành 3 loại:
-
Lạm phát kinh niên thường kéo dài trên 3 năm với tỷ lện lạm phát đến 50%.
Đề tài 2
5
NHÓM 6 – Lớp học phần: 1412MAEC0111
-
Lạm phát nghiêm trọng thường kéo dài trên 3 năm với tỷ lệ lạm phát trên 50% một
năm
- Siêu lạm phát kéo dài trên 1 năm với tỷ lệ lạm phát trên 200% một năm.
II. Nguyên nhân gây ra lạm phát
Lạm phát là sự tăng giá chung của toàn bộ nền kinh tế, mà các yếu tố đưa đến tăng
giá lại rất đa dạng và phức tạp; mức độ tác động của chúng là có thể rất khác nhau, tùy
thuộc vào đặc điểm cụ thể của một nền kinh tế trước và trong quá trình xảy ra lạm phát.
Dưới đây là một số nguyên nhân gây ra lạm phát.
-
Lạm phát cầu kéo
Lạm phát do cầu kéo xảy ra khi tổng cầu tăng lên mạnh mẽ tại mức sản lượng đã
đạt hoặc vượt quá tiềm năng. Trong thực tế, khi xảy ra lam phát cầu kéo người ta thường
thấy lượng tiền trong lưu thông và khối lượng tín dụng tăng đáng kể và vượt quá khả
năng có giới hạn của mức cung hàn hóa. Như vậy, bản chất của lạm phát cầu kéo là chi
tiêu quá nhiều tiền để mua một lượng cung hạn chế về hàng hóa có thể sản xuất được,
trong điều kiện thị trường lao động đã đạt cân bằng. (Minh họa đồ thị)
-
Lạm phát chi phí đẩy
Ngay cả khi sản lượng chưa đạt tiềm năng nhưng vẫn có khả năng và trên thực tế
đã xảy ra lạm phát ở nhiều nước, kể cả ở những nước phát triển cao. Đó là một đặc điểm
Đề tài 2
6
NHÓM 6 – Lớp học phần: 1412MAEC0111
của lạm phát hiện đại. Kiểu lạm phát này gọi là lạm phát chi phí đẩy, vừa lạm phát, vừa
suy giảm sản lượng, tăng thêm thất nghiệp nên cũng còn gọi là “lạm phát đình trệ” Các
cơn sốc giá cả của thị trường đầu vào – đặc biệt là các vật tư cơ bản (xăng dầu, điện…) là
nguyên nhân chủ yếu đẩy chi phí lên cao, đường AS dịch chuyển lên trên. Tuy tổng cầu
không thay đổi nhưng giá cả đã tăng lên và sản lượng lại giảm xuống. Giá cả đầu vào
tăng đột biến thường do các nguyên nhân sau: chiến tranh, sự biến động chính trị, kinh tế,
thiên tai… (Minh họa đồ thị)
-
Lạm phát dự kiến
Trong nền kinh tế tiền tệ, trừ siêu lạm phát và lạm phát phi mã, lạm phát vừa phải
có xu hướng tiếp tục giữ mức lịch sử của nó. Giá cả trong trường hợp này tăng đều đều
với một tỷ lệ tương đối ổn định. Tỷ lệ này được gọi là tỷ lệ lạm phát ỳ, và vì mọi người
có đã có thể dự tính trước mức độ của nó nên còn được gọi là lạm phát dự kiến. Mọi hoạt
động kinh tế sẽ trông đợi và ngắm vào nó để tính toán, điều chỉnh. Tỷ lệ lạm phát dự kiến
một khi đã hình thành thì trở nên ổn định và tự duy trì trong một thời gian. Những cú sốc
mới trong nền kinh tế (có thể từ trong nước hoặc từ nước ngoài) sẽ đẩy lạm phát khỏi
trạng thái ỳ.
-
Lạm phát và tiền tệ
Đề tài 2
7
NHÓM 6 – Lớp học phần: 1412MAEC0111
Khi nghiên cứu về cân bằng trên thị trường tiền tệ. Ta có MS/P = L.P (i, Y). Xét
trong dài hạn lãi suất thực tế (i) và sản lượng thực tế (Y) đạt mức cân bằng, nghĩa là (i)
và (Y) là ổn định (Y đạt mức tiềm năng), cầu tiền thực tế là không đổi và do vậy M/P
cũng sẽ không thay đổi. Điều đó có nghĩa là nếu lượng cung tiền danh nghĩa MS tăng lên
thì giá cả (P) cũng sẽ tăng với tỷ lệ tương ứng, nói cách khác, tỷ lệ lạm phát sẽ bằng tỷ lệ
tiền. Như vậy, lạm phát là một hiện tượng tiền tệ. Điều này xảy ra trong thực tế khi nền
kinh tế gặp phải một cơn sốc (ví dụ giá dầu tăng lên) làm cho lượng tiền thực tế nhất thời
giảm xuống. Chính phủ cần phải tăng mức cung tiền danh nghĩa để đảm bảo nhu cầu tiền
thực tế. Nhưng vì sản lượng và việc làm không đổi, lãi suất thực tế cũng không đổi, chỉ
có mức cung tiền danh nghĩa, giá cả cũng như tiền lương danh nghĩa tăng lên. Lý thuyết
này dựa trên giả định mức cầu tiền thực tế không đổi, một giả định chưa có cơ sở chắc
chắn và chưa phù hợp với thực tế. Tuy nhiên, lịch sử lạm phát cũng chỉ ra rằng, không có
tiền lạm phát cao nào mà không có sự tăng trưởng mạnh về tiền tệ. Lượng tiền tăng càng
nhanh thì lạm phát càng cao và bất kỳ chính sách vĩ mô nào giảm được tốc độ tăng tiền
cũng dẫn đến giảm tỷ lệ lạm phát và điều này đặc biệt phù hợp với thời kỳ ngắn hạn.
Khi ngân sách tâm hụt lớn, các Chính phủ có thể in thêm tiền để trang trải, lượng
tiền danh nghĩa tăng lên là một nguyên nhân gây ra lạm phát (như lạm phát cầu kéo). Và
một khi giá cả đã tăng lên thì sự thâm hụt mới lại nảy sinh, đòi hỏi phải in thêm một
lượng tiền mới và lạm phát lại tiếp tục tăng vọt. Kiểu lạm phát xoáy ốc này thường xảy ra
trong thời kỳ siêu lạm phát. Tuy nhiên, các Chính phủ có thể tài trợ thâm hụt bằng cách
vay dân qua bán trái phiếu. Lượng tiền danh nghĩa không tăng thêm nên không có nguy
cơ lạm phát, nhưng nếu thâm hụt tiếp tục kéo dài, số tiền phải trả cho dân (cả gốc lẫn lãi)
sẽ lớn đến mức cần phải in tiền để trang trải thì khả năng có lạm phát là điều chắc chắn.
-
Lạm phát và lãi suất
Lãi suất thực tế thường ít thay đổi và ở mức mà cả người cho vay và người đi vay
đều có thể chấp nhận được. Nếu khác đi sẽ tạo ra mức dư cầu hoặc dư cung và sẽ đẩy lãi
suất này về mức ổn định. Nhưng lãi suất danh nghĩa lại biến động theo lạm phát. Khi lạm
Đề tài 2
8
NHÓM 6 – Lớp học phần: 1412MAEC0111
phát thay đổi lãi suất danh nghĩa cũng thay đổi theo, để duy trì lãi suất thực tế ở mức ổn
định. Khi tỉ lệ lạm phát tăng lên, lãi suất danh nghĩa tăng theo, tăng chi phí cơ hội của
việc giữ tiền, càng giữ tiền nhiều thì tổn thất càng lớn. Điều này đặc biệt đúng trong các
cuộc siêu lạm phát, tiền mất giá càng nhanh, tăng mức độ gửi tiền vào Ngân hàng, vào
quỹ tiết kiệm hoặc đẩy ra thị trường để mua về hàng hóa có thể dự trữ, gây thêm mất cân
bằng cung cầu trên thị trường hàng hóa và tiếp tục đẩy giá lên cao.
III. Tác động của lạm phát
- Đối với sản lượng và việc
làm: Trong thời kỳ ngắn hạn, lạm phát do chi phí đẩy có
thể dẫn đến việc tăng sản lượng, tỉ lệ thất nghiệp giảm. Trong dài hạn do sản lượng
đạt mức tiềm năng nên lạm phát không có hoặc có rất ít, tỷ lệ thất nghiệp bằng tỷ
-
lệ thất nghiệp tự nhiên.
Đối với việc phân phối lại thu nhập: lạm phát xảy ra thì người làm công ăn lương,
những người cho vay bị thiệt hại, còn những người có tài sản, những người đang
đi vay là có lợi. Điều này tạo nên sự phân phối htu nhập không bình đẳng giữa
-
những người đi vay và người cho vay, giữa công nhân và nhà tư bản.
Đối với cơ cấu kinh tế: Sự biến động của lạm phát gây khó khăn cho việc xác định
mức sinh lợi chính xác của các khoản đầu tư, khiến cho các nhà đầu tư ngần ngại
khi tiến hành đầu tự, nhất là đầu tư vào các dự án dài hạn, làm ảnh hưởng đến sự
tăng trưởng kinh tế.
IV. Giải pháp chống lạm phát
- Chống lạm phát từ phía cầu có thể thực hiện bằng việc sử dụng chính sách tài khóa
và chính sách tiền tệ thắt chặt. Như cắt giảm cầu đối với một số mặt hàng, cắt
giảm chi tiêu chính phủ, kiểm soát tiền lương, tăng thuế làm giảm chi tiêu của xã
-
hội, tăng cung hàng hóa dịch vụ.
Chống lạm phát từ phía cung có thể thực hiện bằng cách cắt giảm chi phí sản xuất
và nâng cao năng lực sản xuất trên cơ sở nâng cao hiệu quả. Như giảm giá thành
các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất, gia tăng sản xuất bằng nhiều biện pháp
như giảm thuế sản xuất, giảm lãi suất cho vay, tăng chi tiêu cho đầu tư.
Đề tài 2
9
NHÓM 6 – Lớp học phần: 1412MAEC0111
PHẦN II. THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM
TỪ NĂM 2009 ĐẾN NĂM 2013
Lạm phát là một trong bốn yếu tố quan trọng nhất của mọi quốc gia (tăng trưởng cao,
lạm phát thấp, thất nghiệp ít và cán cân thanh toán có số dư). Kiềm chế lạm phát, duy trì
ổn định và phát triển kinh tế đó cũng là một trong những mục tiêu kinh tế mà chính phủ
nước ta đề ra. Song với những tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới kinh tế
Việt Nam 2008 đã không còn nằm ngoài dòng chảy của kinh tế thế giới như cuộc khủng
hoảng kinh tế châu Á năm 1997. Vấn đề luôn làm đau đầu nhà quản lý 5 năm qua chính
là kiểm soát lạm phát, sau giai đoạn quá ưu tiên cho tăng trưởng và tình trạng thâm hụt
cán cân thương mại kéo dài. Đỉnh điểm của quá trình này là lạm phát năm 2008 lên tới
gần 20% và duy trì ở hai con số năm 2010 và 2011. Giai đoạn này, nhiều tổ chức quốc tế
đều bày tỏ mối quan ngại lạm phát cao làm xấu đi môi trường kinh doanh tại Việt Nam,
ảnh hưởng đến giá trị tiền đồng. Từ năm 2012, Chính phủ tiến hành thắt chặt chính sách
tiền tệ để kiểm soát lạm phát và luôn đặt mục tiêu này lên hàng đầu. Chỉ số giá tiêu dùng
đã giảm về một con số, song kèm theo đó là những hệ quả như tăng trưởng tín dụng thấp,
vốn đầu tư toàn xã hội suy giảm. Ngoài ra, một số chuyên gia phân tích, lạm phát thấp
thời gian quá chủ yếu do sức cầu kiệt quệ, rủi ro tăng giá vẫn luôn hiện hữu. Trong khuân
khổ đề tài phân tích tình hình lạm phát trong 5 năm gần đây từ 2009 đến năm 2013
nhưng nhận thấy năm 2008 là một năm quan trọng trong nền kinh tế của đất nước nên
nhóm đã sơ qua về vài nét chính về lạm phát trong năm 2008.
Dưới đây là một số số liệu thống kê và ý kiến về tình hình lạm phát ở Việt Nam từ
năm 2008 đến năm 2013 của nhóm 6.
Đề tài 2
10
NHÓM 6 – Lớp học phần: 1412MAEC0111
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân từ năm 2008 đến năm 2013. (Chỉ số năm trước
so với năm sau)
Năm
2008
2009
2010
2011
2012
2013
%
22,97
6,88
9,19
18,58
9,21
6,6
Vài nét về lạm phát năm 2008
I.
Trong năm 2008 CPI liên tục tăng với tốc độ cao. Nhưng vào 2 tháng cuối năm với
mức giảm liên tục trong 2 tháng cuối năm đã đưa chỉ số giá cả năm 2008 so với tháng
12/2007 xuống dưới 20% và chỉ ở mức 19,89%. Tuy nhiên, chỉ số giá bình quân năm
2008 so với năm 2007 vẫn tăng 22,97%.
Hội tụ đầy đủ các nguyên nhân từ lạm phát do cầu kéo, lạm phát do chi phí đẩy và dư
thừa tiền tệ. Chính phủ đã phải ra các biện pháp khắc phục cho từng nguyên nhân.
1.
Nguyên nhân lạm phát
Lạm phát chi phí đẩy và nhập khẩu lạm phát: thời kỳ này đồng USD yếu làm giá cả
hàng hóa thế giới, đặc biệt từ các nước xuất khẩu hàng sang Việt Nam tăng lên tương
đối.
Lạm phát do cầu kéo: Tổng chi ngân sách nhà nước đạt 399,3 nghìn tỉ đồng, vượt
khoảng 12% so với dự toán năm. Bội chi ngân sách nhà nước 56,5 nghìn tỉ đồng, bằng
5% GDP. Thâm hụt cán cân thương mại là 14,12 tỉ USD, bằng 29% tổng kim ngạch xuất
khẩu, tăng gấp hơn 2,5 lần so với năm 2006. Đà tăng trưởng đó khiến lượng tiền đồng
trong nền kinh tế tăng lên, cao hơn so với sức hấp thụ của nền kinh tế, gia tăng áp lực
lạm phát.
Lạm phát do thừa tiền: Tính tới cuối tháng 6 năm 2007, lượng tiền mặt trong lưu
thông và tiền gửi ngân hàng ở Việt Nam đã tăng tới 21,1% so với đầu năm. Với việc tung
một khối lượng lớn để mua ngoại tệ từ các nguồn đổ vào nước ta đã làm tăng lượng tiền
trong lưu thông với mức tăng trên 30%, hạn mức tín dụng cũng tăng cao 38%. Sự bùng
nổ thành lập các ngân hàng tư nhân, các công ty tài chính trong các tập đoàn lớn và tổng
Đề tài 2
11
NHÓM 6 – Lớp học phần: 1412MAEC0111
công ty... góp phần làm tăng hệ số nhân (khuếch đại tiền - ước khoảng 4,2 lần) vào lưu
thông. Việt Nam tăng trưởng kinh tế thấp hơn so với Trung Quốc, nhưng tăng cung tiền
lại cao hơn rất nhiều. Đó chính là lý do chính để giải thích tại sao lạm phát ở Việt Nam
cao hơn hẳn những nước khác. Giá gạo hay giá dầu thế giới có tăng cao bao nhiêu, thì
sức ép của các yếu tố này tới lạm phát ở Việt Nam, Trung Quốc và Thái Lan không thể
khác nhau nhiều. Trong năm 2007, vốn nước ngoài chảy vào tăng đột biến (gồm cả đầu
tư và kiều hối), từ đó buộc Ngân hàng nhà nước phải đóng vai trò người mua ngoại tệ
cuối cùng. Việc mua đó đồng nghĩa với tung thêm tiền đồng Việt Nam vào lưu thông,
nhưng không thể không mua được vì một mặt để tăng thêm dự trữ ngoại tệ cho nhập
khẩu, mặt khác là để thu hút luồng vốn từ bên ngoài vào phát triển kinh tế, vấn đề thừa
USD như giọt nước làm tràn ly nước.
Tác động của lạm phát:
Lĩnh vực tiền tệ, tín dụng:
Đối với các Ngân hàng kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, lạm phát tăng cao, sức mua
2.
•
-
đồng tiền giảm xuống, đã ảnh hưởng xấu đến hoạt động huy động vốn, cho vay, đầu tư
-
và thực hiện các dịch vụ ngân hàng.
Đối với hoạt động huy động vốn: do lạm phát tăng cao, việc huy động vốn của các ngân
hàng gặp nhiều khó khăn. Để huy động được vốn, hoặc không muốn vốn từ ngân hàng
mình chạy sang các ngân hàng khác, thì phải nâng lãi suất huy động sát với diễn biến của
thị trường vốn. Một cuộc chạy đua lãi suất huy động ngoài mong đợi tại hầu hết các ngân
hàng (17% – 18%/năm cho kỳ hạn tuần hoặc tháng), luôn tạo ra mặt bằng lãi suất huy
động mới, rồi lại tiếp tục cạnh tranh đẩy lãi suất huy động lên, có ngân hàng đưa lãi suất
huy động gần sát lãi suất tín dụng, kinh doanh ngân hàng lỗ lớn nhưng vẫn thực hiện, gây
-
ảnh hưởng bất ổn cho cả hệ thống ngân hàng thương mại.
Lạm phát tăng cao, Ngân hàng Nhà nước phải thực hiện thắt chặt tiền tệ để giảm khối
lượng tiền trong lưu thông, nhưng nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp và cá nhân kinh
doanh vẫn rất lớn, các ngân hàng chỉ có thể đáp ứng cho một số ít khách hàng với những
hợp đồng đã ký hoặc những dự án thực sự có hiệu quả, với mức độ rủi ro cho phép. Mặt
Đề tài 2
12
NHÓM 6 – Lớp học phần: 1412MAEC0111
khác, do lãi suất huy động tăng cao, thì lãi suất cho vay cũng cao, điều này đã làm xấu đi
-
về môi trường đầu tư của ngân hàng, rủi ro đạo đức sẽ xuất hiện.
Tính thanh khoản của các ngân hàng bị ảnh hưởng, rủi ro kỳ hạn và rủi ro tỷ giá xảy ra
do sức mua của đồng Việt Nam giảm, giá vàng và ngoại tệ tăng cao, việc huy động vốn
có kỳ hạn từ 6 tháng trở lên thật sự khó khăn đối với mỗi ngân hàng, trong khi nhu cầu
vay vốn trung và dài hạn đối với các khách hàng rất lớn, vì vậy việc dùng vốn ngắn hạn
-
để cho vay trung và dài hạn trong thời gian qua tại mỗi ngân hàng là không nhỏ.
Do lạm phát cao, không ít doanh nghiệp, người dân thực hiện giao dịch hàng hóa, thanh
toán trực tiếp cho nhau bằng tiền mặt, nhưng lại khan hiếm tiền mặt. Theo điều tra của
Ngân hàng thế giới (WB), ở Việt Nam có khoảng 35% lượng tiền lưu thông ngoài ngân
hàng, trên 50% giao dịch không qua ngân hàng, trong đó trên 90% dân cư không thanh
toán qua ngân hàng. Khối lượng tiền lưu thông ngoài ngân hàng lớn, Ngân hàng Nhà
nước gặp khó khăn trong việc kiểm soát chu chuyển của luồng tiền này, các Ngân hàng
thương mại cũng khó khăn trong việc phát triển các dịch vụ phi tín dụng, đặc biệt là dịch
vụ thanh toán qua ngân hàng. Như vậy lạm phát tăng cao ã làm suy yếu, thậm chí phá vỡ
thị trường vốn, ảnh hưởng lớn ến hoạt ộng của các NHTM. Sự không ổn ịnh của giá cả,
bao gồm cả giá vốn, đã làm suy giảm lòng tin của các nhà đầu tư và dân chúng, gây khó
khăn cho sự lựa chọn các quyết định của khách hàng cũng như các thể chế tài chính – tín
dụng.
• Lĩnh vực sản xuất: Lạm phát tăng cao đã làm giá đầu vào và đầu ra của các nguyên vật
liệu, sản phẩm biến động không ngừng tạo nên sự mất ổn định trong thị trường, gây khó
khăn không nhỏ đối với các Doanh nghiệp Việt Nam. Hơn nữa giá cả tăng cao sẽ làm
tăng chi phí sản xuất kinh doanh, ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của các doanh
nghiệp và toàn bộ nền kinh tế. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong tổng số gần 350.000
doanh nghiệp của Việt Nam hiện nay, khoảng 95% là Doanh nghiệp nhỏ và vừa. Theo
Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa, khoảng 20% doanh nghiệp khó có thể tiếp tục hoạt
động. Ngoài nhóm này, 60% thành viên hiệp hội đang chịu tác động của khó khăn kinh
tế, nên sản xuất sút kém. Lạm phát đang làm các công ty không kiểm soát được chi phí,
mất thị trường và không đủ vốn để duy trì sản xuất. 20% còn lại là các công ty chịu ít ảnh
Đề tài 2
13
NHÓM 6 – Lớp học phần: 1412MAEC0111
hưởng và vẫn trụ vững do trước nay ít phải nhờ đến nguồn vốn vay và được các lãnh đạo
có kinh nghiệm dẫn dắt. Số liệu điều tra của Viện Phát triển doanh nghiệp thuộc Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho thấy, ngay cả trong điều kiện lạm
phát, trên 90% doanh nghiệp nhỏ và vừa ngoài quốc doanh vẫn có nhu cầu vay vốn. Tuy
nhiên, chỉ hơn 10% được vay 100% theo nhu cầu. Như vậy 80% doanh nghiệp nhỏ và
vừa đang đứng trước nguy cơ phá sản. Vốn tiền thiếu, nhiều doanh nghiệp thực hiện mua
chịu, bán chịu, công nợ thanh toán tăng, thoát ly ngoài hoạt động. Tốc độ tăng trưởng
kinh tế nhìn chung thấp hơn so với năm 2007, tốc độ tăng trưởng của các thành phần
GDP cũng giảm so với năm trước. Đặc biệt, tốc độ tăng tích lũy tài sản cố định đã giảm
mạnh từ 24% xuống chỉ còn 4%. Trong khi đó, tỉ trọng hàng tồn kho đã tăng lên 5% so
với tổng GDP, cao hơn mức thông thường của các năm trước khoảng 2%.
• Lĩnh vực lưu thông: Lạm phát tăng cao đến 23% làm giảm giá trị đồng tiền trong nước.
Lạm phát cao khuyến khích các hoạt động đầu tư mang tính đầu cơ trục lợi hơn là đầu tư
vào các hoạt động sản xuất (ví dụ: khi có lạm phát, nếu ngân hàng không tăng lãi suất
tiền gửi thì dân chúng sẽ không gửi tiền ở ngân hàng mà tìm cách đầu cơ vào đất đai
khiến giá cả đất đai tăng cao...). Chính những hoạt động đầu cơ này lại càng làm cho thị
trường trở nên khan hiếm hàng hóa, dẫn đến mất cân bằng cung-cầu. Những mặt hàng
như thiết bị và đồ dùnggia đình tăng giá 8,36% so với năm 2007, giá mặt hàng may mặc
tăng 9,81%, đặc biệt trong lĩnh vực nhà ở và vật liệu xây dựng, giá tăng lên đến 22,39%
so với năm 2007. Tình hình này làm cho sức tiêu thụ hàng hóa trong nước có dấu hiệu
yếu dần.
Đối với những mặt hàng chịu ảnh hưởng lớn của yếu tố tâm lý như chứng khoán và
bất động sản thì giá cả của chúng lại giảm xuống rõ rệt. Xét thị trường chứng khoán năm
2008: Liên tục những phiên giảm giá của thị trường trong những tháng đầu năm 2008.
Trong quý II năm 2008 thị trường chứng khoán vừa khép lại một tuần giảm mạnh cả về
điểm số, giá chứng khoán và khối lượng giao dịch. Tại sàn Tp.HCM, chỉ còn 3,5 triệu
đơn vị, bằng phân nửa khối lượng những phiên gần đây và có giá trị 148 tỷ đồng. Chỉ số
VN-Index qua phiên này chính thức về mốc 500 điểm, giảm 7,61 điểm, còn 500,33 điểm.
Đề tài 2
14
NHÓM 6 – Lớp học phần: 1412MAEC0111
HASTC-Index chỉ còn 154,23 điểm, giảm 3,19 điểm. Đúng như dự đoán, thị trường
chứng khoán đã xuống mức “đáy” 366 điểm vào ngày 20/6.
•
Tác động đến tình hình xã hội:
Lạm phát tăng cao không chỉ khiến cho người nông thôn gặp khó khăn mà ngay cả
những hộ gia đình ở thành thị với mức lương eo hẹp cũng phải điêu đứng. Thống kê của
quốc tế thì trên cả nước ta, tỉ lệ nghèo hóa hay tái nghèo hóa vào khoảng 50%. Nghiên
cứu thực nghiệm cho thấy:
-
Người giàu thường có kiến thức và điều kiện tiếp cận với các công cụ tài chính để có thể
-
tự bảo vệ họ trước tác động của lạm phát.
Người nghèo thường có tỷ lệ tiền mặt trong tổng tài sản cao (do không có điều kiện
chuyển đổi thu nhập thành các khoản đầu tư có thể bù đắp chi phí gây ra do trượt giá)
nên phải chịu tác động của lạm phát lớn hơn; phụ thuộc nhiều hơn vào những nguồn thu
nhập định trước như tiền lương, phúc lợi và trợ cấp xã hội… những nguồn thu nhập
thường không được tính trượt giá một cách đầy đủ và kịp thời, hay thậm chí không được
tính trượt giá. Do đó, lạm phát làm giảm thu nhập và tiền công thực tế của người nghèo
và góp phần làm tăng tỷ lệ thất nghiệp , khi lạm phát cao lại làm xói mòn lợi nhuận của
doanh nghiệp và giảm động cơ đầu tư. Một khi đầu tư giảm thì tỷ lệ thất nghiệp tăng lên
và điều đó làm giảm chất lượng cuộc sống của người dân. Ba nhóm người bị tác động
mạnh bởi lạm phát:
Những người về hưu: Do đồng lương hưu tương đối ổn định và chỉ được điều chỉnh
tăng lên đôi chút sau khi giá cả hàng hóa tăng gấp nhiều lần nên với những đồng lương
thực tế ít ỏi những người về hưu thường gặp rất nhiều khó khăn khi lạm phát tăng cao.
Những người gửi tiết kiệm bằng tiền: Khi lạm phát tăng cao, giá trị của đồng tiền
ngày càng giảm, mọi người cố gắng tiêu thụ càng nhanh số tiền mình có càng tốt, hoặc
đổi nó sang ngoại tệ hay vàng, … những thứ có giá trị cất giữ lâu hơn. Còn đối với những
Đề tài 2
15
NHÓM 6 – Lớp học phần: 1412MAEC0111
người gửi tiết kiệm bằng tiền, nhất là gửi dài hạn thì đồng tiền mất giá là một thiệt hại
lớn đối với tài sản tiền của họ.
Người nghèo: Đây chính là đối tượng bị ảnh hưởng nặng nề nhất trong cuộc lạm phát
tăng cao do giá tăng, lương thực tế giảm xuống, tỉ lệ thất nghiệp tăng cao… Trong khi
các chính sách hỗ trợ của Chính phủ thì chưa sâu rộng để có thể hỗ trợ giúp đỡ người
nghèo tự thoát khỏi khó khăn.
3.
Giải pháp
Trong bối cảnh nền kinh tế tiếp tục lạm phát ở mức cao, ngân hàng nhà nước
(NHNN) đã tích cực thực hiện việc rút bớt tiền ra khỏi nền kinh tế thông qua các công cụ
như: tăng thêm 1% tỉ lệ dự trữ bắt buộc (Quyết định số 187/QĐ-NHNN) ngày 16/1/2008;
phát hành tín phiếu NHNN bắt buộc 20.300 tỷ đồng kỳ hạn 1 năm, lãi suất 7,8%/năm
( quyết định số 364/ QĐ – NHNN ) ngày 13/2/2008 . Đặc biệt NHNN đã điều hành linh
hoạt các mức lãi suất chỉ đạo và đổi mới cơ chế điều hành lãi suất, có cả kết hợp biện
pháp trực tiếp là quy định trần lãi theo công điện số 2 để ổn định nhanh thị trường tiền tệ
bị xáo động bởi cuộc chạy đua lãi suất. Và chính phủ đã có một quyết định khá dứt khoát
khi ban hành Nghị quyết số 10/2008/ NQ-CP ngày 17/4/2008 về các biện pháp kiềm chế
lạm phát , ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững với 8
nhóm giải phát :
• Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ.
• Kiểm soát chặt chẽ, nâng cao hiệu quả chi tiêu công.
• Tập trung sức phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, bảo đảm cân
đối cung cầu về hàng hóa.
• Đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu, giảm nhập siêu.
• Triệt để thực hành tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng.
• Tăng cường công tác quản lý thị trường chống đầu cơ buôn lậu và gian lận thương
mại, kiểm soát việc chấp hành pháp luật nhà nước về giá.
• Tăng cường các biện pháp hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất của nhân dân, mở
rộng việc thực hiện các chính sách về an sinh xã hội.
• Đẩy mạnh công tác thông tin và tuyên truyền.
Đề tài 2
16
NHÓM 6 – Lớp học phần: 1412MAEC0111
Chính phủ đã chọn chính sách tiền tệ làm trọng tâm cho việc kiềm chế lạm phát
Dự định triển khai gói kích cầu 6 tỷ USD
Không nằm ngoài dòng chảy kinh tế thế giới, ngày 24/12/2008, trong buổi họp báo
của Văn phòng Chính phủ, nhiệm vụ trọng tâm được Chính phủ đề ra là “ngăn chặn suy
giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng 6,5%, giải quyết tốt các vấn đề an sinh xã hội”. Chính
phủ dự định triển khai gói kích cầu 6 tỷ USD, trong đó 1 tỷ USD dùng để hỗ trợ lãi suất
cho vay của các ngân hàng với mức 4%. Còn lại là chính sách dùng để hoãn, giảm thuế
cho doanh nghiệp.
Ngoài ra, lạm phát ở nước ta còn xuất phát từ một số nguyên nhân sau: Tâm lý dám
đông bị kích động bởi các tin đồn thất thiệt và tình trạng đầu cơ trục lợi. Thêm vào đó,
thiên tai, dịch bệnh lây lan đã đẩy giá lương thực, thực phẩm tăng cao, gây náo loạn thị
trường. Thậm chí có cả nguyên nhân đã tích tụ từ lâu do đầu tư kém hiệu quả ( hệ số
ICOR tăng ), cuối cùng thể hiện ở chênh lệch tăng trưởng GDP và tăng cung tiền đã ngày
một giãn rộng trong vòng 3 năm qua. Trong khoảng thời gian 2 năm rưỡi, tính từ đầu
năm 2005 cho đến tháng 6/2006, GDP tăng 25% trong khi mức cung tiền mặt cho lưu
thông và tiền gửi ngân hàng đã tăng đến 110 %.tiền mặt cho lưu thông và tiền gửi ngân
hàng đã tăng đến 110 %.
Kết quả đạt được trong kiềm chế lạm phát năm 2008
Đã triển khai khẩn trương và đồng bộ 8 nhóm giải pháp; trong đó, tập trung chỉ đạo kiên
4.
-
quyết việc thắt chặt tiền tệ và tài khoá; đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu, kiểm soát chặt
chẽ nhập khẩu, hạn chế nhập siêu; tăng cường quản lý giá cả, ngăn chặn đầu cơ, bình ổn
-
thị trường.
Điều hành thận trọng, linh hoạt các công cụ như lãi suất, dự trữ bắt buộc, tín phiếu bắt
buộc; điều chỉnh cơ cấu tín dụng, kiểm soát chặt việc cho vay kinh doanh bất động sản,
chứng khoán, vay tiêu dùng, tập trung vốn cho sản xuất và xuất khẩu, bảo đảm tính thanh
khoản của các ngân hàng và cả nền kinh tế; hạn chế tăng tổng phương tiện thanh toán cả
năm xuống còn khoảng 18% và tổng dư nợ tín dụng khoảng dưới 30% tăng cường quản
lý các ngân hàng thương mại, trợ giúp các ngân hàng yếu kém vượt qua khó khăn; ban
hành các quy định thích hợp để nâng cao hiệu quả, tính an toàn và cũng là tiêu chí để cấp
Đề tài 2
17
NHÓM 6 – Lớp học phần: 1412MAEC0111
phép lập ngân hàng mới. Các ngân hàng thương mại nhà nước đã đóng góp quan trọng
vào việc thực hiện chính sách tiền tệ. Lãi suất ngân hàng ổn định hơn, đã và đang giảm
-
dần cùng với việc giảm của tốc độ tăng giá.
Trước tình hình tỷ giá biến động rất phức tạp gây tâm lý bất ổn trong xã hội, Chính phủ
đã khẳng định không phá giá đồng tiền Việt Nam, công khai dự trữ ngoại hối, áp dụng tỷ
giá linh hoạt với biên độ phù hợp, can thiệp hợp lý, đủ mạnh vào quan hệ cung cầu, đồng
thời kiểm soát chặt kinh doanh ngoại tệ và giảm mạnh nhập siêu. Tỷ giá giữa VNĐ với
USD và các ngoại tệ khác đã ổn định trở lại.
II.
Năm 2009:
Bước vào năm 2009, nền kinh tế nước ta tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thách thức.
Khủng hoảng tài chính của một số nền kinh tế lớn trong năm 2008 đã đẩy kinh tế thế giới
vào tình trạng suy thoái, làm thu hẹp đáng kể thị trường xuất khẩu, thị trường vốn, thị
trường lao động và tác động tiêu cực tới nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội khác của nước ta.
Ở trong nước, thiên tai dịch bệnh xảy ra liên tiếp trên địa bàn cả nước cũng đã gây ảnh
hưởng lớn đến sản xuất và đời sống dân cư.
Năm 2009, lạm phát tháng 12 cao hơn 6,52% so với cùng kỳ; lạm phát bình quân 12
tháng năm 2009 so với cùng thời kỳ năm 2008 cao hơn 6,88%. Như vậy, Chính phủ đã
kiềm chế lạm phát thành công, ở mức dưới 7%. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế đạt 6,5% và
CPI ở mức 7% đã thực sự giúp Chính phủ ổn định kinh tế vi mô và linh hoạt trong điều
hành chính sách tiền tệ.
Nguyên nhân:
Do chi phí đẩy: Việc giá cả hàng hoá thế giới tiếp tục tăng ở mức cao cùng với việc điều
1.
-
chỉnh tỉ giá USD/VND đã tác động tới nhiều loại hàng hoá nhập khẩu, hoặc phụ thuộc
nguyên liệu nhập khẩu. Tỷ giá USD/VND trong giai đoạn này cũng thay đổi nhanh
chóng. chỉ số giá USD đã tăng 10,7% trong vòng 1 năm, tính đến tháng 12/2009, gây áp
-
lực rất lớn lên giá hàng hóa nhập khẩu và các mặt hàng sử dụng nguyên liệu nhập khẩu.
Do cầu kéo: Chính phủ đã sử dụng gói kích cầu đầu tiên có giá trị 17.000 tỷ đồng để hỗ
trợ lãi suất 4%/năm cho khoản vay ngân hàng bằng VND của doanh nghiệp, hộ sản xuất
Đề tài 2
18
NHÓM 6 – Lớp học phần: 1412MAEC0111
bắt đầu thực hiện từ tháng 2/2009, đối với hầu hết các ngành, lĩnh vực cơ bản của nền
-
kinh tế.
2. Giải pháp
Nhanh chóng đưa ra gói kích cầu đầu tiên giá trị 17.000 tỷ đồng. Sử dụng chính sách tài
-
khóa và chính sách tiền tệ một cách linh hoạt
3. Kết quả đạt được trong kiềm chế lạm phát năm 2009
Lạm phát bình quân 12 tháng năm 2009 so với cùng thời kỳ năm 2008 cao hơn 6,88%.
Năm 2009 khép lại với mức tăng CPI trong vòng kiểm soát, nhưng gạo và xăng dầu, hai
mặt hàng có quyền số lớn trong rỏ hàng hóa, dịch vụ tính CPI vẫn luôn là yếu tố bất định
-
trong năm qua.
“Gói kích cầu” còn trực tiếp hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận được các nguồn vốn ngân
hàng với chi phí rẻ hơn, từ đó góp phần giảm giá, tăng cạnh tranh và tăng tiêu thụ hàng
hoá và dịch vụ trên thị trường. Giúp các ngân hàng cải thiện hoạt động huy động và cho
vay tín dụng do không phải hạ thấp lãi suất huy động, vừa mở rộng đầu ra nhờ không
-
phải nâng lãi suất cho vay dễ làm thu hẹp cầu tín dụng trên thị trường.
4. Hạn chế
Theo các chuyên gia, gói kích cầu kinh tế thứ nhất của Chính phủ đã có hiệu quả tích cực
góp phần giải quyết được một số vấn đề trước mắt về tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ
mô trong năm 2009 nhưng những hệ quả tiêu cực mà nó để lại tương đối dài cả đối với
-
khả năng tăng trưởng bền vững cũng như khả năng ổn định kinh tế vĩ mô.
Các cân đối vĩ mô xấu đi nhiều với thâm hụt thương mại và thâm hụt NSNN quá lớn,
ICOR quá cao, nợ Chính phủ và nợ nước ngoài đang tiến tới giới hạn mất an toàn, thanh
khoản của hệ thống tài chính ngân hàng thiếu vững chắc,… gây áp lực lớn lên lãi suất và
tỷ giá hối đoái. Điều này chắc chắn ảnh hưởng không chỉ tới thị trường tài chính tiền tệ,
mà còn tới thị trường giá cả hàng hoá dịch vụ thông thường. (ICOR là một chỉ số cho
biết muốn có thêm một đơn vị sản lượng trong một thời kỳ nhất định cần phải bỏ ra thêm
bao nhiêu đơn vị vốn đầu tư trong kỳ đó. Đây là tập hợp các chữ cái đầu của cụm từ tiếng
Anh Incremental Capital - Output Ratio. Trong tiếng Việt, ICOR còn được gọi là hệ số
-
sử dụng vốn, hay hệ số đầu tư tăng trưởng, hay tỷ lệ vốn trên sản lượng tăng thêm, v.v...)
III.
Năm 2010
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12 tăng tới 1,98% so với tháng trước đã kéo chỉ số
chung của cả năm vọt lên mức 2 con số: 11,75%.
Đề tài 2
19
NHÓM 6 – Lớp học phần: 1412MAEC0111
Chỉ số CPI bình quân 2010 tăng 9,19% so với năm 2009.
Nguyên nhân:
Yếu tố “cầu kéo”:
Năm 2009 kiềm chế lạm phát ở mức một con số đã cho thấy nền kinh tế có dấu hiệu phục
1.
•
-
hồi. Nhu cầu tiêu dùng cũng như sản xuất đã tăng trở lại. Khi cầu tăng giúp kích thích
-
nền kinh tế xong cũng làm cho giá cả tăng trở lại.
Cán cân thương mại của nước ta đã thâm hụt lớn kéo dài trong nhiều năm và có dấu hiệu
phục hồi trong năm 2009 xong sự nới lỏng của chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa
theo chương trình kích thích kinh tế đã đẩy mạnh nhập khẩu, góp phần làm thâm hụt cán
-
cân thương mại lớn.
Tỷ giá hối đoái biến động, VNĐ mất giá làm nhu cầu tích trữ vàng, đô la tăng là một
-
phần đẩy lạm phát lên cao.
• Yếu tố chi phí đẩy:
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 12 và cả năm 2010 tăng ngoài dự kiến là do tác động tương hỗ
phức tạp, cùng lúc của nhiều nguyên nhân khác nhau. Điển hình là do dịch bệnh trên gia
súc và gia cầm trên cả nước chưa được khống chế, tốc độ tái đàn sau dịch bệnh còn
-
chậm, thiên tai nặng nề, mặt bằng giá lương thực thế giới tăng cao…
Ngoài ra, chỉ số giá tăng còn do việc sử dụng nguồn vốn đầu tư không hiệu quả kéo theo
chính sách tiền tệ phải đáp ứng; giá nguyên vật liệu cơ bản phục vụ tăng trưởng kinh tế
như xăng dầu, phôi thép, ximăng, phân hóa học nhập khẩu tăng gần 30% tác động vào
-
giá thị trường trong nước…
Năm 2010 chính phủ tăng lương tối thiểu, tuy nhiên trước khi tiền lương được chính thức
-
tăng lên thì thông tin tăng lương cũng đã đẩy giá các mặt hàng thiết yếu lên cao.
• Yếu tố tiền tệ:
Dòng ngoại tệ (đầu tư trực tiếp nước ngoài, kiều hối, đầu tư gián tiếp nước ngoài) đổ vào
Việt Nam lớn đã gây sức ép mạnh mẽ buộc Ngân hàng Nhà nước phải mua ngoại tệ vào
-
để đảm bảo tỷ giá USD/VND. Vì vậy, cung tiền ra nền kinh tế cũng tăng lên tương ứng.
Việc bơm tiền ra để đầu tư kích thích nền kinh tế tăng trưởng năm 2009 đã gây ra sức ép
-
lạm phát trong năm 2010.
Trong ngắn hạn tín dụng có vai trò nhất định đối với tăng trưởng kinh tế, nhưng ảnh
hưởng của tín dụng đối với lạm phát cũng không nhỏ.
2. Một số giải pháp đưa ra cho năm 2011
Đề tài 2
20
NHÓM 6 – Lớp học phần: 1412MAEC0111
-
Việt Nam cần chú ý hơn đến đảm bảo yêu cầu cạnh tranh kinh tế thị trường đầy đủ có sự
kiểm soát có hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước; nhất là các lĩnh vực chưa tự do hóa và các
DNNN thúc đẩy căn bản hơn và nhanh hơn quá trình cải thiện môi trường kinh doanh,
tạo mọi điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân đầu tư, phát triển sản xuất
kinh doanh; cần cân nhắc hợp lý hơn thời điểm và mức tăng giá các mặt hàng điện,
than...tăng cường hoạt động kiểm toán, giám sát, kiểm soát và xử lí sự độc quyền và các
vi phạm về giá từ phía các DN và các bên có liên quan, đồng thời, cần quan tâm hơn đến
-
sự đủ đầy của các kho dự trữ quốc gia phòng khi "trái nắng, trở giời".
Cần chủ động, linh hoạt, thận trọng và phối hợp đồng bộ các công cụ và hoạt động quản
lý nhà nước, giữa yêu cầu thắt chặt với nới lỏng tài chính-tiền tệ, đảm bảo an toàn và
hiệu quả vốn đầu tư; kiểm soát chặt chẽ thâm hụt NSNN, nợ công, đầu tư nhà nước, lãi
suất, tỷ giá, mức tăng tổng phương tiện thanh toán và tín dụng phù hợp với các cân đối vĩ
mô, đảm bảo khả năng an toàn thanh toán đối với nền kinh tế; chuyển dịch mạnh cơ cấu
tín dụng về đối tượng và điều kiện tín dụng cụ thể, cả theo ngành, lĩnh vực, địa bàn, đáp
ứng vốn cho các nhu cầu vay để sản xuất kinh doanh có hiệu quả, tập trung các nguồn
vốn cho vay định hướng và thúc đẩy tái cấu trúc kinh tế và doanh nghiệp theo hướng
phát triển dựa trên năng suất, chất lượng và hiệu quả, trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh
chung của đất nước, của ngành và đơn vị mình theo nguyên tắc thị trường, tham gia sâu
vào chuỗi giá trị toàn cầu, đáp ứng cả thị trường trong nước và nước ngoài, ưu tiên cho
thu mua, chế biến và xuất khẩu nông sản, đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng có lợi thế
cạnh tranh và có hàm lượng chế biến cao, hạn chế nhập khẩu những mặt hàng tiêu dùng
xa xỉ, không thiết yếu hoặc trong nước có thể sản xuất thay thế; cân bằng hơn giữa cho
vay đầu tư xuất khẩu với cho vay phát triển thị trường trong nước; hạn chế cho vay các
nhu cầu vốn thuộc các lĩnh vực phi sản xuất; Kiểm soát chặt chẽ nợ quá hạn, nhất là nợ
xấu, đảm bảo an toàn hệ thống tài chính, tiền tệ; Trong bất luận trường hợp hợp nào cũng
-
không dùng biện pháp phát hành-lạm phát để bù đắp thiếu hụt NSNN...
Cần kiện toàn tổ chức và nâng cao chất lượng công tác tham mưu về chính sách phát
triển kinh tế, các hoạt động quản lý hành chính nhà nước, điều tiết thị trường và thực
hiện quyền chủ sở hữu nhà nước, cũng như nâng cao năng lực quản lý và hiệu quả đầu tư
Đề tài 2
21
NHÓM 6 – Lớp học phần: 1412MAEC0111
nhà nước; tăng cường công tác thông tin, dự báo và phản biện chính sách xã hội trước
các biến động nhanh chóng của thị trường, nhất là mặt trái của những chính sách đang và
-
sẽ triển khai.
IV.
Năm 2011
Trong bối cảnh lạm phát tăng vọt, đầu tư công tràn lan kém hiệu quả và các "đầu tàu" của
nền kinh tế đầu tư ồ ạt ra ngoài ngành, Nghị quyết 11 (ngày 24/2/2011) của Chính phủ
được coi như một phát súng lệnh để tổng rà soát và tái cơ cấu lại hoạt động của nền kinh
-
tế, ổn định vĩ mô.
Việc thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, chính sách tài khóa thắt chặt, cắt giảm đầu tư
công, kiềm chế nhập siêu... và đảm bảo an sinh xã hội theo Nghị quyết 11 đã được thể
hiện xuyên suốt trong điều hành vĩ mô của Chính phủ năm 2011. Mặc dù lạm phát vẫn
cán mốc trên 18% nhưng những dấu hiệu cải thiện vĩ mô rõ rệt vào thời điểm cuối năm
cũng như các định hướng tái cấu trúc kinh tế, cắt giảm lãi suất, thoái vốn ngoài ngành,
-
tăng hiệu quả đầu tư công.
Tháng cuối cùng trong năm, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) cả nước tăng 0,53%, đẩy CPI cả
-
năm tăng 18,58% so năm 2010. So cùng kỳ tháng 12/2010, CPI cả nước tăng 18,13%.
1. Nguyên nhân
• Yếu tố “cầu kéo”:
Lý do cơ bản nhất để lạm phát bộc lộ mạnh vào những năm gần đây là quá trình phát
triển kinh tế dựa vào đầu tư và tình trạng kém hiệu quả trong việc sử dụng vốn trong suốt
cả thập kỷ qua. Hiện tượng này phổ biến cả trong khu vực doanh nghiệp nhà nươc
-
(DNNN) và khối doanh nghiệp tư nhân/ nước ngoài (DNTN).
Giá vàng liên tiếp thiết lập kỷ lục
• Yếu tố chi phí đẩy
Đầu năm 2011, tình hình kinh tế thế giới có nhiều diễn biến phức tạp: lạm phát tăng, giá
dầu thô, giá nguyên vật liệu cơ bản đầu vào của sản xuất, giá lương thực, thực phẩm và
giá vàng trên thị trường thế giới tiếp tục xu hướng tăng cao đã tác động không nhỏ đến
-
nền kinh tế trong nước.
Doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu tăng giá 2 lần (ngày 24/2 và ngày 29/3), mỗi lít xăng
tăng khoảng 30%, dầu tăng khoảng 38% đã tác động trực tiếp tăng chỉ số giá nhóm giao
thông vận tải và gián tiếp nhiều vòng đến hoạt động sản xuất của các lĩnh vực khác.
Đề tài 2
22
NHÓM 6 – Lớp học phần: 1412MAEC0111
-
Giá điện cho sản xuất và sinh hoạt cũng được điều chỉnh tăng khoảng 15,3% áp dụng từ
1/3.
Yếu tố tiền tệ:
Việc phát triển dựa trên đầu tư khiến lượng cung tiền trong nền kinh tế liên tục tăng với
•
-
tốc độ chóng mặt. So với 5 năm trước, VND mất giá gần một nửa. CPI của năm 2011
bằng 1,96 lần năm 2006, tức là 100 VND của năm 2011 chỉ bằng 50,1 VND của năm
2006. So với 10 năm trước, giá trị VND chỉ còn bằng hơn một phần ba. CPI của năm
2011 bằng 2,58 lần so vơi CPI của năm 2011, tức là 100 VND của năm 2011 chỉ bằng
-
38,6 VND của năm 2001.
Việc tăng cung tiền với gia tốc lớn như vậy trong khi thực lực của nền kinh tế không
mạnh, hiệu quả sử dụng vốn thấp khiến lượng hàng hóa sản xuất ra không tăng cùng nhịp
với tăng cung tiền. Từ đó tất yếu dẫn tới giá cả leo thang – hay nói cách khác là VNĐ
-
mất giá.
Ngoài ra, việc tăng lương tối thiểu cũng là nguyên nhân gây ra lạm phát.
2. Các biện pháp chính phủ áp dụng
Nghị quyết 11 xuất hiện từ tháng 4 năm 2011 với mục tiêu là tấn công trực diện vào cơn
bão lạm phát với hai gọng kìm thắt chặt chính sách tài khóa qua cắt giảm đầu tư công và
thắt chặt tiền tệ qua hạn chế tăng trưởng tín dụng, đặc biệt là tín dụng cho khu vực phi
sản xuất. Với các giải pháp cụ thể là:
(i)
Chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng;
(ii)
Chính sách tài khóa thắt chặt, cắt giảm đầu tư công, giảm bội chi ngân sách nhà
(iii)
nước;
Thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu,
-
sử dụng tiết kiệm năng lượng;
(iv)
Điều chỉnh giá điện, xăng dầu gắn với hỗ trợ hộ nghèo;
(v)
Tăng cường bảo đảm an sinh xã hội.
Chính phủ là bắt tay vào vực dậy hệ thống ngân hàng. Quá trình này được khởi động... từ
-
chính sách áp trần lãi suất 14% của Ngân hàng Nhà nước.
Chính phủ còn đưa ra thêm hai trọng điểm khác là cải cách doanh nghiệp nhà nước và cải
cách về đầu tư công.
V.
Năm 2012
Đề tài 2
23
NHÓM 6 – Lớp học phần: 1412MAEC0111
-
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2012 tăng 0,27% so với tháng trước và tăng 6,81% so với
tháng 12/2011. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2012 tăng 9,21% so với bình quân
-
năm 2011.
1. Nguyên nhân
• Yếu tố “cầu kéo”
CPI tăng chủ yếu do tác động của nhóm thuốc và dịch vụ y tế và nhóm giáo dục.
Sự ổn định của lạm phát năm 2012 là kết quả và chịu sự chi phối rất lớn của sự tăng
chậm lại rõ rệt của tổng cầu, cả tổng cầu tiêu dùng và tổng cầu đầu tư, cả tổng cầu trong
-
nước và xuất khẩu.
• Yếu tố chi phí đẩy:
Trong đó, cước vận tải năm 2012 tăng 13,2% so với năm trước với mức tăng giá cước
tại dịch vụ vận tải hàng hóa là 7,82%. Chỉ số giá cước vận tải đường sắt năm 2012 tăng
15,49% so với năm 2011; đường bộ và xe buýt tăng 9,98%; đường thủy tăng 7,84%;
-
đường hàng không tăng 31,97%;
Chỉ số giá nguyên, nhiên, vật liệu dùng cho sản xuất năm 2012 tăng 9,04% so với năm
-
2011.
Với mức tăng tổng cộng tới 14,4%, đưa giá xăng dầu lên mức cao kỷ lục từ trước tới
nay.
-
2. Các biện pháp chính phủ áp dụng
Thủ tướng Chính phủ đã có Chỉ thị số 25/2012/CT – TTg ngày 26/9/2012 tăng cường
công tác quản lý, điều hành và bình ổn giá những tháng cuối năm 2012 với nội dunng
-
chủ yếu là giãn tiếp độ điều chỉnh tăng giá điện và dịch vụ y tế.
Chỉ nhờ sự chỉ đạo kiên quyết và kịp thời của Chính phủ và thị trường giá cả quí IV/2012
đã nhanh chóng ổn định trở lại và nguy cơ tái lạm phá cao đã bị đẩy lùi. Chỉ số giá tiêu
dùng 3 tháng cuối năm 2012 tăng chậm trở lại, góp phần tích cực vào thành tích CPI cả
năm tăng 6,81% so với cuối năm trước và bình quân cả năm tăng 9,21% - đạt mục tiêu
-
kiềm chế lạm phát đặt ra từ đầu năm.
Kiềm chế lạm phát năm 2012 còn được sự hỗ trợ của ổn định tỷ giá hối đoái suốt cả năm
2012 với tỷ giá hối đoái liên ngân hàng cố định ở mốc 20.828 VND/USD. Chỉ số giá
vàng tháng 12/2012 chỉ tăng 0,4% so với năm trước, bình quân cả năm tăng 7,83% và chỉ
số giá đô la Mỹ thậm chí còn giảm 0,96% và bình quân cả năm tăng có 0,18%.
Đề tài 2
24
NHÓM 6 – Lớp học phần: 1412MAEC0111
-
Song song với chính sách ổn định tỷ giá hối đoái, chính sách tiền tệ và tín dụng ngân
hàng thận trọng đã góp phần tích cực vào kiềm chế lạm phát năm 2012. Mặt bằng lãi suất
cũng được kéo giảm xuống rõ rệt trong năm 2012 nhằm ổn định thị trường tiền tệ ngân
-
hàng.
Chính sách tài khóa năm 2012 tuy chưa thật sự thắt chặt nhằm kiềm chế lạm phát song
-
cũng không nới lỏng chi tiêu NSNN để có thể gây ra lạm phát cao.
Đầu tư công năm 2012 cũng được quản lý chặt chẽ hơn theo chỉ thị 1792/2011/CT – TTg
ngày 15/10/2011 về tăng cường quản lý đầu tư vốn NSNN và vốn trái phiếu chính phủ.
Lạm phát 2012 ở mức thấp một con số, xong ở trong đó có những nguy cơ bất ổn về tình
-
hình kinh tế, nguy cơ suy thoái kinh tế được đặt ra do việc GDP tăng thấp hơn CPI.
VI.
Năm 2013
Tổng cục Thống kê đang tổ chức họp báo công bố số liệu tình hình kinh tế xã hội năm
2013, theo đó, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12/2013 tăng 0,51% so với tháng trước và
-
tăng 6,04% so với tháng 12/2012.
Đây là năm có chỉ số giá tiêu dùng tăng thấp nhất trong 10 năm trở lại đây. Chỉ số giá
-
tiêu dùng bình quân năm 2013 tăng 6,6% so với bình quân năm 2012.
1. Nguyên nhân
CPI năm nay tăng do một số nguyên nhân chủ yếu: Giá một số mặt hàng và dịch vụ do
Nhà nước quản lý được điều chỉnh theo kế hoạch và theo cơ chế thị trường. Cụ thể, trong
năm có 17 tỉnh, thành phố điều chỉnh giá dịch vụ y tế làm cho CPI của nhóm thuốc và
dịch vụ y tế tăng tới 18,97% so với tháng 12 năm trước, đóng góp vào chỉ số chung cả
nước gần 1,1%. Các địa phương cũng tiếp tục thực hiện lộ trình tăng học phí làm làm
CPI nhóm giáo dục tăng 11,71%, đóng góp vào chỉ số chung cả nước tăng khoảng gần
-
0,7%.
Giá xăng dầu dù được điều chỉnh tăng và giảm nhưng tựu chung lại vẫn tăng và cả năm
thực tế đã tăng giá 2,18%, góp tăng CPI chung cả nước 0,08%. Giá điện năm qua thực tế
đã được điều chỉnh tăng 10%, đẩy CPI chung tăng khoảng 0,25%. Bên cạnh đó, giá gas
-
cả năm tăng gần 5%, đóng góp vào CPI cả nước với mức tăng 0,08%...
Nhu cầu hàng hóa tiêu dùng của dân cư và tiêu dùng cho sản xuất tăng vào dịp cuối năm;
-
Ảnh hưởng của thiên tai, mưa bão...
CPI cuối năm 2013 còn chịu thêm áp lực từ sự mất cân đối thu - chi ngân sách nhà nước
các cấp, với mức bội chi trong 8 tháng qua đã lên tới hơn 100.000 tỷ đồng (tính đến ngày
Đề tài 2
25