Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

Một số xung đột văn hóa cơ bản trong tiểu thuyết tạ duy anh (LV01653)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 121 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2

NGUYỄN THÚY NGỌC

MỘT SỐ XUNG ĐỘT VĂN HÓA CƠ BẢN
TRONG TIỂU THUYẾT TẠ DUY ANH

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

HÀ NỘI, 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2

NGUYỄN THÚY NGỌC

MỘT SỐ XUNG ĐỘT VĂN HÓA CƠ BẢN
TRONG TIỂU THUYẾT TẠ DUY ANH

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Chuyên ngành : Lí luận văn học
Mã số: 60 22 01 20

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học : PGS.TS.Nguyễn Đăng Điệp

HÀ NỘI, 2015


LỜI CẢM ƠN


Với tình cảm chân thành và lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin cảm ơn tới thầy
giáo hướng dẫn PGS.TS Nguyễn Đăng Điêp, người đã tận tình hướng dẫn tôi
hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Ban Giám hiệu
Trường ĐHSP Hà Nội 2, Viện Văn học, Trường ĐH KHXH và Nhân văn, Sở
Văn hoá - Thể thao và Du lịch Hà Nội, Tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam,
Khoa Ngữ văn Trường ĐHSP Hà Nội, Khoa Ngữ văn Trường ĐHSP Hà nội 2
và các thầy cô giáo Phòng Sau đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến những người thân trong gia đình đã luôn sát
cánh bên cạnh động viên tôi cả về vật chất lẫn tinh thần, tạo điều kiện cho tôi
vững vàng hơn trong học tập và nghiên cứu. Cảm ơn những người bạn thân thiết
đã giúp đỡ đông viên, góp ý và tìm kiếm tư liệu để tôi hoàn thành tốt luận văn
của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Xuân Hòa tháng 12 năm 2015

Tác giả

Nguyễn Thúy Ngọc


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Hà Nội, Ngày 10 tháng 11 năm 2015
Học viên

Nguyễn Thúy Ngọc



MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ VĂN HÓA TRONG
TIỂU THUYẾT TẠ DUY ANH..................................................................... 9
1.1. Khái niệm “ xung đột”.............................................................................. 9
1.2. Khái niệm “xung đột văn hóa” .............................................................. 11
1.3. Sự xuất hiện của Tạ Duy Anh ............................................................... 16
1.3.1. Hành trình sáng tác của Tạ Duy Anh ................................................ 16
1.3.2.Những cảm hứng cơ bản trong tiểu thuyết Tạ Duy Anh .................. 19
CHƢƠNG 2. NHỮNG MỐI XUNG ĐỘT VĂN HÓA CƠ BẢN TRONG
TIỂU THUYÊT TẠ DUY ANH.................................................................. 32
2.1. Xung đột dòng họ .................................................................................... 32
2.2. Xung đôt nhận thức giữa “cũ” – “mới” ............................................... 38
2.3. Xung đột giá trị đạo đức ........................................................................ 44
2.4. Xung đột giữa cá nhân và xung đột cộng đồng ................................... 51
CHƢƠNG 3. NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN XUNG ĐỘT VĂN HÓA
TRONG TIỂU THUYẾT TẠ DUY ANH .................................................. 57
3.1. Tổ chức điểm nhìn nghệ thuật .............................................................. 57
3.1.1.Sự dịch chuyển từ điểm nhìn bên ngoài sang điểm nhìn bên trong ....... 58
3.1.2. Sự dịch chuyển điểm nhìn theo không gian, thời gian....................... 68
3.2. Ngôn ngữ kể chuyện .............................................................................. 74
3.2.1. Ngôn ngữ đời thường trần trụi và ngôn ngữ trong trẻo, thánh thiện
......................................................................................................................... 75
3.2.2. Ngôn ngữ đối thoại của nhân vật ........................................................ 78


3.3. Giọng điệu ............................................................................................... 86

3.3.1. Giọng điệu bỗ bã dung tục và giọng điệu trữ tình thiết tha sâu lắng88
3.3.2.Giọng điệu chất vấn , giễu nhại và giọng điệu triết lí suy ngẫm ........ 92
KẾT LUẬN .................................................................................................. 109
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 111


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Chúng ta đang ở vào một giai đoạn lịch sử đầy biến động. Xu thế toàn
cầu hóa và hội nhập với sự phát triển khoa học công nghệ phá vỡ mọi sự ngăn
cách dân tộc. Một cuộc xâm nhập sâu rộng về văn hóa từ nhiều nguồn đang
diễn ra dưới rất nhiều hình thức thông qua báo chí, văn học, dịch thuật, đầu
tư, xuất nhập khẩu, du lịch, giao lưu, hội thảo… tác động mạnh mẽ vào tư
tưởng, tình cảm, tâm lý, thói quen, lẽ sống và cách sống của công chúng. Tiếp
biến văn hóa, xâm lăng văn hóa, xung đột văn hóa , bổ sung văn hóa, đa dạng
các nền văn hóa… là những vấn đề hiện hữu hàng ngày trên mọi lĩnh vực đời
sống chính trị, kinh tế - xã hội. Trong khi đó quả đất cứ quay trong vần vũ đổi
thay khí hậu, dịch bệnh, chạy đua vũ trang, chạy đua kinh tế, phân cực xã hội,
xung đột tôn giáo và chính trị… Trước tình hình đó, các mối xung đột văn
hóa phát triển mạnh mẽ đã và đang được rất nhiều nhà văn quan tâm trong đó
có Tạ Duy Anh ,
Văn học sống mãi với thời gian và đạt nhiều thành tựu, trong thời kỳ đổi
mới văn học ngày càng được khẳng định mạnh mẽ. Với những đột phá về lí
luận thể loại, tiểu thuyết là thể loại thực sự thành công với nhiều lối viết, cách
viết mới mẻ, đa dạng, phù hợp với thực tế bề bộn ngổn ngang và đầy biến
động của xã hội Việt Nam đương đại. Chính điều này đã làm nên “một trào
lưu có tên là đổi mới” với những nhà văn:, Nguyễn Huy Thiệp ,Tạ Duy Anh,
Nguyễn Thị Thu Huệ, Hồ Anh Thái, Phan Thị Vàng Anh... Họ là một trong
những cây bút đi theo xu hướng “đập vỡ thành từng mảnh những hình ảnh, ý

niệm, hệ thống và giá trị của trật tự cũ và kế đến là xếp những mảnh vụn ấy
theo một trật tự mới - một trật tự chủ quan đầy tính sáng tạo và bất khả đoán”
[15]. Trong những tên tuổi đó, Tạ Duy Anh được xem là một hiện tượng nổi
bật, một cây bút đã thu hút được nhiều sự quan tâm của bạn đọc cũng như của


2
giới phê bình. Song những tranh cãi về tác phẩm của ông chắc chắn chưa
dừng lại ở đó .
1.2. Gần 20 năm cầm bút, Tạ Duy Anh được xem là cây bút sung sức, có
nhiều thể nghiệm văn chương táo bạo trên nhiều thể loại như truyện ngắn,
tiểu thuyết, tản văn và cả trong những đề tài viết cho thiếu nhi… Là một
trong những nhà văn có tác phẩm được đưa vào giảng dạy ở nhà trường phổ
thông, Tạ Duy Anh trở thành một hiện tượng văn học của thời kỳ đổi mới
và được đông đảo độc giả quan tâm nghiên cứu. Khởi đầu thành công
bằng truyện ngắn và ngay từ những truyện ngắn đầu tiên, Tạ Duy Anh
nhanh chóng thu hút sự chú ý của công luận và đã đoạt được nhiều giải
thưởng. Cùng với truyện ngắn, tiểu thuyết của Tạ Duy Anh cũng là một thế
mạnh. Càng ngày bản lĩnh của nhà văn càng được khẳng định rõ hơn
thông qua các tập tiểu thuyết: Lão Khổ, Đi tìm nhân vật, Thiên thần sám
hối, Giã biệt bóng tối và sắp tới “Sinh ra để chết”. Từ Khúc dạo đầu chưa
mấy thành công, đến Giã biệt bóng tối là một hành trình dài trong tư duy
tiểu thuyết Tạ Duy Anh, ghi nhận những nỗ lực đổi mới và những đóng
góp rất đáng trân trọng của nhà văn vào cao trào đổi mới văn học nói
chung và tiểu thuyết Việt Nam nói riêng. Tuy nhiên, trong tiểu thuyết của
Tạ Duy Anh, cho đến nay, vẫn chưa được nghiên cứu một cách toàn diện, hệ
thống.
Chính vì thế, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài “Một số xung đột văn hóa
cơ bản trong tiểu thuyết Tạ Duy Anh”. Qua việc nghiên cứu tiểu thuyết
của Tạ Duy Anh, luận văn muốn hướng tới khẳng định nét riêng trong cá

tính sáng tạo tiểu thuyết, thành công và phần đóng góp của Tạ Duy Anh đồng
thời qua đó một phạm vi nhất định, góp phần làm sáng tỏ những vấn đề đổi
mới của tiểu thuyết Việt Nam đương đại nói riêng và văn học đổi mới nói
chung.


3
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Các sáng tác của Tạ Duy Anh, ngay từ khi mới ra đời đã thu hút được sự
quan tâm của đông đảo bạn đọc cũng như giới phê bình văn học, đã trở
thành một trong những tâm điểm của báo chí và là đề tài của nhiều công trình
nghiên cứu khoa học.
Trước hết phải kể đến là thành công khởi nghiệp của ông - truyện ngắn
Bước qua lời nguyền - tác phẩm đoạt giải trong cuộc thi viết về nông thôn do
Tuần báo Văn nghệ, báo Nông nghiệp và Đài tiếng nói Việt Nam tổ
chức 1989. Nhà thơ Hoàng Minh Châu nhận định rằng đây là truyện ngắn
báo hiệu một tấm lòng lớn, một tầm nhìn xa và một tài năng viết về số phận
con người. Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến cũng cho rằng đây là tín hiệu về một
dòng văn học mới, dòng văn học “bước qua lời nguyền” và ở đó là một khát
vọng đổi mới, một tiềm năng sáng tạo mới. Tạ Duy Anh đã không làm
người đọc thất vọng bằng một hành trình sáng tạo không mệt mỏi.
Sau Bước qua lời nguyền, Tạ Duy Anh đã cho ra đời tiểu thuyết Lão Khổ.
Đây có thể coi là bước ngoặt trong sáng tác của Tạ Duy Anh bởi nó đã thể
hiện một kiểu tư duy khác, một lối viết tiểu thuyết khác. Tác giả Đoàn Ánh
Dương trong bài Tiến trình tiểu thuyết Tạ Duy Anh (nhìn từ lối viết)
khẳng định:
“Không còn là sự nhất phiến, liền mạch của câu chuyện, tiểu thuyết hiện
lên bởi một “chuyện chính yếu” và rất nhiều những “chuyện ngoài rìa”,
tức về mặt hình thức, Lão Khổ là sự lắp ghép từ các phiến đoạn khác
nhau, nhiều truyện ngắn trong một tiểu thuyết. Ý định một cấu trúc như vậy

đã khẳng định một tư duy mới về tiểu thuyết, được Tạ Duy Anh mượn lời Đức
Thánh nhân để tuyên ngôn: “ Ngôi nhà chỉ giá trị ở cái phần không có gì đó
sao” [12].
Gần 10 năm sau, năm 1999, tiểu thuyết Đi tìm nhân vật của Tạ Duy Anh
ra mắt công chúng. Đây là một tác phẩm lạ, khác hẳn so với tiểu thuyết


4
Việt Nam đương thời. Nhà văn đã đạt đến lối viết đa âm hiện đại, mà
theo
Trần Quang: “từ cách đặt vấn đề đầu tiên đến cấu trúc tiểu thuyết,
phong cách ngôn ngữ… đều lạ lẫm với những gì chúng ta được biết về
dòng tiểu thuyết non trẻ Việt Nam” [16, tr.143].
Đến Thiên thần sám hối năm 2004 thì Tạ Duy Anh đã thực sự trở
thành “một hiện tượng văn học nổi bật”, “một gương mặt nhà văn tiêu
biểu”. Trong lời giới thiệu cuốn Thiên thần sám hối của Nhà xuất bản Đà
Nẵng năm 2004 có đoạn viết: “Thiên thần sám hối là một thử nghiệm mới
trong sáng tạo, một thử nghiệm đầy day dứt, trong đó những yếu tố phi
lí, hoài nghi, liên thông, bất ngờ và mang đậm dấu ấn chủ quan, tạo nên
cái riêng của tác phẩm” [1, tr.3].
Tác giả Dương Thuấn trong bài viết Nét đặc sắc của Thiên thần sám hối
là không mượn mồm người biết nói cho rằng: Thiên thần sám hối ra đời,
“Tạ Duy Anh đã chứng minh cho bạn đọc thấy rằng - anh viết theo một lối
viết mới - lối viết tiểu thuyết của riêng Tạ Duy Anh”. Tác phẩm “mang
một lối viết hoàn toàn hiện đại. Điều đó thể hiện rõ nhất trong cách kể,
cách dẫn chuyện, nghệ thuật mê hoặc bạn đọc” [42].
Báo Thể thao và Văn hóa số 47 năm 2004 viết: “Có thể gọi ông là nhà văn
của đạo đức. Văn chương ông có lúc hiện lên bằng thế sự, đau đáu, riết
róng chuyện thánh thiện, tàn ác, liêm sỉ và vô lương… Tiểu thuyết mới
nhất của Tạ Duy Anh, Thiên thần sám hối, gọn nhẹ và giản dị về hình thức…

chứa đựng những ẩn số lớn về con người và nhân thế” [Tạ Duy Anh (2004),
Thiên thần sám hối - Nhà xuất bản Hội Nhà văn (tái bản) - tr.159].
Báo Pháp luật số 140 năm 2004 cũng đã đánh giá: “Tạ Duy Anh là tác giả
của những tác phẩm luôn làm bạn đọc giật mình và suy ngẫm bởi những
vấn đề gai góc của xã hội hiện đại. Ông cũng là tác giả tâm huyết, trăn trở
với số phận con người, nhất là khi họ rơi vào tình trạng khủng hoảng nhân


5
cách. Trong lăng kính đa chiều, Tạ Duy Anh đã nhìn hiện thực một cách lí
trí, lạnh lùng nhưng cũng đầy thương xót con người” [Tạ Duy Anh (2004),
Thiên thần sám hối - Nhà xuất bản Hội Nhà văn (tái bản) tr.160].
Tiểu thuyết gần đây nhất của Tạ Duy Anh, Giã biệt bóng tối, cũng là một
tiểu thuyết gây sự chú ý trong bạn đọc và giới phê bình. Tiểu thuyết đã
được Phòng Văn học Việt Nam đương đại đem ra tọa đàm bởi tính chất
đặc biệt của nó trong bối cảnh đời sống văn học đương đại. Có rất nhiều ý
kiến đưa ra trong buổi tọa đàm. Những thành công, hạn chế của nhà văn
ở tiểu thuyết này được chỉ ra trên tinh thần thẳng thắn.
Theo PGS.TS Bích Thu, “Với Giã biệt bóng tối, Tạ Duy nh không chỉ đổi
mới tư duy tiểu thuyết, đổi mới cách nhìn thế giới và con người mà còn
đổi mới bút pháp khiến độc giả có thể đọc một mạch và cảm thấy lôi cuốn
với tác phẩmA” [5, tr.14].
PGS.TS Tôn Phương Lan lại khẳng định: “Sự nỗ lực của Tạ Duy Anh thể
hiện ở chỗ anh luôn luôn tự làm mới mình: từ Lão Khổ, Đi tìm nhân vật,
Thiên thần sám hối cho đến Giã biệt bóng tối. Trong cuốn tiểu thuyết, tác
giả đã có những cách tân trong quá trình triển khai đề tài: Từ điểm nhìn trần
thuật đến giọng điệu giễu nhại, việc sử dụng yếu tố huyền ảo… Chính
những yếu tố này đã làm mới sáng tác của Tạ Duy Anh so với đồng nghiệp
và cũng làm anh không lặp lại mình trong từng tác phẩm” [5, tr.34]
Tác giả Đoàn Ánh Dương trong bài viết Tiến trình tiểu thuyết Tạ Duy Anh

(nhìn từ lối viết) cũng đưa ra nhận xét: “về mặt tư duy nghệ thuật, rõ ràng
Giã biệt bóng tối là một bước chuyển về mặt lối viết, đúng hơn là một câu hỏi
về lối viết: tiểu thuyết bây giờ cần phải được viết như thế nào?” [12, tr.65].
Bên cạnh những ý kiến, bài viết nêu trên, các sáng tác của Tạ Duy Anh
cũng đã trở thành đề tài nghiên cứu trong các khóa luận tốt nghiệp và các
luận văn thạc sĩ. Có thể kể đến là các luận văn Nông thôn trong sáng tác
của Tạ Duy Anh của Nguyễn Thị Mai Loan (năm 2004), Thế giới nghệ


6
thuật tiểu thuyết Tạ Duy Anh của Nguyễn Thị Ninh (năm 2005), Nghệ
thuật tự sự trong tiểu thuyết của Tạ Duy Anh của Nguyễn Thanh Hùng
(năm 2008), Tinh thần hậu hiện đại qua “Đi tìm nhân vật” và “Giã biệt
bóng tối” của Tạ Duy Anh của Nguyễn Thị Tươi (năm 2009)...
Năm 2007, Nhà xuất bản Hội Nhà văn Việt Nam đã cho ra mắt bạn đọc
cuốn Thế giới nghệ thuật Tạ Duy Anh trong đó trình bày ba luận văn của các
tác giả Nguyễn Thị Hồng Giang - Tạ Duy Anh với việc làm mới nghệ thuật
tiểu thuyết; Vũ Lê Lan Hương - Thế giới nhân vật trong sáng tác của Tạ
Duy Anh; Võ Thị Thanh Hà - Quan niệm nghệ thuật về con người trong
tiểu thuyết Tạ Duy Anh.
Nhìn chung các tác giả của cuốn sách đã đề cập rất nhiều vấn đề về các
sáng tác của Tạ Duy Anh. Chẳng hạn như đặc điểm về ngôn ngữ, giọng
điệu, thế giới nhân vật, quan niệm về con người… Tác giả Nguyễn Thị Hồng
Giang nghiên cứu một cách nhìn về việc “làm mới” văn chương, “làm
mới” trong tiểu thuyết của Tạ Duy Anh, làm mới thực chất từ sự đổi mới
tư duy nghệ thuật trần thuật; tác giả Vũ Lê Lan Hương đi sâu khám phá hành
trình văn học Tạ Duy Anh, một thế giới nhân vật ngoại biên và những thủ
pháp xây dựng nhân vật đáng chú ý trong sáng tác của Tạ Duy Anh; tác giả
Võ Thị Thanh Hà nghiên cứu Tạ Duy Anh trong bối cảnh đổi mới tiểu
thuyết Việt Nam sau 1975, quan niệm nghệ thuật về con người và đặc sắc

thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của ông.
Qua các bài viết, các công trình nghiên cứu nêu trên, chúng tôi nhận
thấy từ nhiều khía cạnh khác nhau, các tác giả đã nêu được những nét đặc
sắc làm nên giá trị trong sáng tác của Tạ Duy Anh, trong đó ít nhiều cũng
đã đề cập đến nghệ thuật kể chuyện trong tiểu thuyết của Tạ Duy Anh.
Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu, đánh giá về “ Một số xung
đột văn hóa cơ bản trong tr tiểu thuyết của Tạ Duy Anh” như là một đối
tượng nghiên cứu khoa học độc lập.


7
Trên cơ sở học tập, tiếp thu kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước,
chúng tôi chọn và nghiên cứu đề tài “Một số xung đột văn hóa cơ bản trong
tiểu thuyết của Tạ Duy Anh”.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: một số xung đột văn hóa cơ bản trong tiểu thuyết
Tạ Duy Anh
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn tìm hiểu, phân tích, xác định được những mối xung đột văn hóa
cơ bản trong tiểu thuyết Tạ Duy Anh đã được xuất bản tại Việt Nam gồm:
- Bước qua lời nguyền(1989)
- Khúc dạo đầu (1991)
-Lão khổ.(2004)
-Thiên thần sám hối.(2004)
-Đi tìm nhân vật.(2008)
-Gĩa biệt bóng tối.( 2008)

Các sáng tác ngoài thể loại tiểu thuyết của Tạ Duy Anh và tiểu thuyết của các
nhà văn khác chỉ là đối tượng để tham chiếu.
4. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn dùng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau trong đó có
các phương pháp chính:
- Phương pháp cấu trúc hệ thống
- Phương pháp phân tích tác phẩm
- Phương pháp liên ngành
- Phương pháp tiếp cận văn hóa, văn học
5. Đóng góp của luận văn
- Luận văn là công trình tập trung tìm hiểu nghiên cứu và xác định một
số xung đột văn hóa cơ bản tiểu thuyết Tạ Duy Anh với cái nhìn hệ thống.


8
- Kết quả của luận văn có thể dung làm tài liệu tham khảo cho việc tìm
hiểu, tiếp nhận tác phẩm Tạ Duy Anh.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của
luận văn được triển khai trong 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lí luận về xung đột văn hóa trong tiểu thuyết Tạ
Duy Anh
Chương 2: Những mối xung đột văn hóa cơ bản trong tiểu thuyết Tạ Duy
Anh
Chương 3: Nghệ thuật thể hiện xung đột văn hóa trong tiểu thuyết Tạ Duy
Anh


9
CHƢƠNG 1.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN
VỀ VĂN HÓA TRONG TIỂU THUYẾT TẠ DUY ANH
1.1. Khái niệm “ xung đột”

Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia Xung đột có thể hiểu là sự đối lập
về những nhu cầu, giá trị và lợi ích. Xung đột có thể là nội tại (trong bản thân)
cá nhân. Khái niệm xung đột có thể giúp giải thích nhiều mặt của xã hội như
sự bất đồng xã hội, những xung đột về lợi ích, những cuộc đấu tranh giữa các
cá nhân, nhóm và các tổ chức. Theo thuật ngữ chính trị, "xung đột" có thể ám
chỉ tới những cuộc chiến tranh, những cuộc cách mạng hay những cuộc chiến
đấu khác, trong đó có thể bao gồm việc sử dụng lực lượng theo nghĩa xung
đột vũ trang. Nếu không có sự điều hòa và giải pháp thỏa đáng, xung đột có
thể dẫn đến stress hay căng thẳng giữa những cá nhân hay nhóm người liên
quan.
“Xung đột” (conflicts), theo nghĩa chung nhất của từ này, được hiểu như
quan hệ không tương thích giữa các yếu tố trong một hệ thống, dẫn đến sự
vận hành trục trặc hoặc sự sụp đổ của hệ thống. Theo nghĩa đó, thuật ngữ
“xung đột” đã được sử dụng trong không chỉ các ngành khoa học xã hội, mà
còn cả tự nhiên nữa. Mục đích của bài viết này là nhận diện xung đột từ góc
độ của khoa học xã hội và nhân văn để từ đó, xác định một hình thái cụ thể
của xung đột mà hiện nay, được thảo luận khá nhiều là “xung đột văn hóa”.
Việc phân tích các tài liệu hữu quan cho thấy, cho đến nay, nội hàm khái
niệm “xung đột” vẫn chưa được các ngành khoa học xã hội khảo cứu sâu để
làm rõ. Nhìn chung, xung đột chỉ được bàn đến dưới hình thái “tình huống cụ
thể” trong những nghiên cứu quan hệ quốc tế, trong xã hội học, chính trị học
và gần đây nhất là trong các nghiên cứu về văn hóa. Chẳng hạn, trong quan hệ
quốc tế, người ta thường sử dụng thuật ngữ “xung đột” để chỉ những “tranh
chấp” (disputes) hoặc “đụng độ” (clashes) liên quan đến lợi ích quốc gia và


10
không gian chủ quyền. Trong thương mại, “xung đột” thường dùng để chỉ sự
tranh chấp về lợi ích kinh tế. Còn đối với quan hệ giữa các cộng đồng sắc tộc
hay tôn giáo, “xung đột” được hiểu như sự phủ định lẫn nhau của các hệ giá

trị.
Trong xã hội học, người ta đề cập đến xung đột thế hệ, xung đột gia
đình, xung đột giới... Trong luật học, thuật ngữ “xung đột pháp lý” dùng để
chỉ tính không đồng bộ, nhất quán trong một hệ thống luật pháp; hoặc sự vênh
lệch các chuẩn mực pháp lý giữa nước này với nước khác... (*)
Với cách dùng như vậy, có thể thấy, “xung đột” không phải là khái niệm
phản ánh bản chất của sự kiện mà chỉ thâu tóm “vẻ bề ngoài”, tức là quan hệ
“không tương hợp” của các chủ thể khi cùng tham dự vào một hệ thống xác
định. Thật khó để phân biệt rạch ròi khái niệm “xung đột” với “tranh chấp”,
“đụng độ”, “va chạm” và “mâu thuẫn”. Trong từng văn cảnh cụ thể, những
khái niệm đó vẫn được các tài liệu dùng theo cách là hoán đổi lẫn nhau.
Triết học mácxít coi mâu thuẫn là mối quan hệ giữa các yếu tố, khuynh
hướng trái ngược nhau trong một đối tượng hoặc giữa các đối tượng trong
cùng một hệ thống. Có thể thấy sự khác biệt khi đối chiếu quan niệm về “mâu
thuẫn” nói trên với thuật ngữ “xung đột” đã được dùng trong nhiều tài liệu
hiện nay. Chỉ khi mâu thuẫn phát triển đến một trình độ nhất định mới biểu
hiện ra “bên ngoài” dưới hình thái xung đột. Xét từ giác độ đó, xung đột là
biểu hiện “bề ngoài”, là “hiện tượng” hay “tồn tại khác” của mâu thuẫn. Mâu
thuẫn là bản chất; xung đột là hiện tượng.
Tuy nhiên, đối với các ngành khoa học xã hội khác, mà cụ thể là chính trị
học quốc tế, hay xã hội học, thì xung đột không nhất thiết là biểu hiện của
mâu thuẫn hay bắt nguồn từ mâu thuẫn. Xung đột có thể mang tính ngẫu
nhiên và thoáng qua. Chẳng hạn, xung đột lãnh thổ giữa hai nước láng giềng
không nhất thiết là bắt nguồn từ mâu thuẫn về chế độ chính trị giữa hai quốc
gia này. Hoặc giả, xung đột trên biển xảy ra khi tàu thuyền của một nước nào


11
đó vô tình đi vào hải phận của nước khác. Sự kiện đó không hàm nghĩa rằng:
hai nước đã có mâu thuẫn từ trước. Cũng thật khó để cả quyết rằng, xung đột

sắc tộc diễn ra trong lòng một xã hội nào đó là bắt nguồn từ mâu thuẫn dai
dẳng giữa các cộng đồng sắc tộc ấy trong quá khứ.
Quan niệm coi “xung đột là biểu hiện của mâu thuẫn” còn gặp nhiều khó
khăn khác nữa, nhất là khi tiến hành xem xét và luận giải các xung đột trong
xã hội, như xung đột giới, xung đột giữa các thế hệ, hay xung đột trong gia
đình, hoặc các xung đột khác nữa.
Trên thực tế, xung đột được biểu thị qua ba mức độ khác nhau của phản
ứng; đó là: a) bày tỏ thái độ phản đối bằng ngôn ngữ; b) thể hiện sự phản đối
bằng hành động phi bạo lực; và c) chủ động trấn áp bằng cách sử dụng bạo
lực (vũ trang). Ở cấp độ cuối này, xung đột có thể chuyển thành chiến tranh,
nhất là khi chủ thể tham dự xung đột là các nhà nước dân tộc. Còn nhìn chung,
“xung đột” được quan niệm là có quy mô nhỏ hơn so với “chiến tranh”. Chiến
tranh là đỉnh cao của sự phát triển xung đột (chỉ xảy ra khi xung đột leo thang,
lan rộng và đi kèm với yếu tố bạo lực hay vũ trang).
Xét về bản chất, có thể nói, mọi xung đột xã hội đều bắt nguồn từ sự khác
biệt và không dung hợp về quyền lợi giữa các chủ thể có mặt trong tương tác;
và tùy theo lĩnh vực tương tác được xét đến mà xung đột được gắn thêm các
cụm từ như “ý thức hệ”, “kinh tế”, “thương mại”, “quốc tế”, “sắc tộc”,...
1.2. Khái niệm “xung đột văn hóa”
Khái niệm “xung đột văn hóa” trong vòng thập kỷ trở lại đây đã được sử
dụng khá phổ biến trong các nghiên cứu về quan hệ quốc tế, trong báo giới
cũng như chính giới. Tuy nhiên, nội hàm của khái niệm “xung đột văn hóa”
cũng chưa được định hình một cách rõ ràng, bởi những thuật ngữ cấu thành
như “xung đột” và “văn hóa” vẫn được luận giải theo nhiều cách khác nhau.


12
Văn hóa, theo nghĩa rộng, là toàn bộ hiện thực mang tính người. Với nghĩa
đó, có thể coi mọi xung đột xã hội đều là xung đột văn hóa hay đều nhuốm
mầu sắc văn hóa.

Trong lĩnh vực quan hệ quốc tế, “văn hóa” được dùng trong cụm từ “xung đột
văn hóa” hay “va đụng văn hóa” là theo nghĩa hẹp; mà cụ thể là dùng để chỉ
những đặc thù và khác biệt của các cộng đồng truyền thống. Khái niệm “xung
đột văn hóa” đã được phát tán mạnh mẽ nhờ ảnh hưởng của các công trình
nghiên cứu có tiếng vang lớn của S.Huntington và F.Fukuyama vào những
năm cuối của thế kỷ XX.
Liên quan đến những rắc rối xung quanh “xung đột văn hóa” hay “đụng độ
văn hóa”, học giả người Trung Quốc - Guo Jiemin cho rằng: “Cái gọi là đụng
độ văn hoá, nói khái quát, là chỉ sự đối lập, gạt bỏ, phủ định lẫn nhau giữa các
nền văn hoá khác nhau, thực chất là sự đụng độ giữa các đặc tính khác nhau
của loài người. Nhưng nghiên cứu đụng độ văn hoá trong quan hệ quốc tế cần
làm rõ sự khu biệt giữa nó với đụng độ văn hoá nói chung. Bởi vì văn hoá là
một khái niệm vô cùng rộng, các loại hình “đụng độ” dựa trên văn hoá là rất
nhiều và đa dạng. Từ giác độ địa lý, có đụng độ giữa văn hoá phương Đông
và phương Tây; từ giác độ lịch sử, có đụng độ giữa văn hoá truyền thống và
văn hoá hiện đại; từ giác độ quốc gia, có đụng độ giữa văn hoá ngoại lai và
văn hoá bản địa; từ giác độ phát triển xã hội, có đụng độ giữa văn hoá nông
nghiệp và văn hoá công nghiệp… Hơn nữa, do khái niệm văn hoá và văn
minh không hoàn toàn đồng nhất, hàm nghĩa của đụng độ văn minh và đụng
độ văn hoá cũng không hoàn toàn giống nhau” (1).
Chính vì tính phức tạp và không rõ ràng nêu trên, nên xoay quanh khái niệm
“xung đột văn hóa” đã có nhiều ý kiến khác nhau. Về cơ bản, có thể phân
thành hai hệ quan điểm chính; đó là: a) Thừa nhận sự tồn tại của xung đột văn
hóa như một đối tượng có nội dung độc lập; và b) Coi xung đột văn hóa chỉ là
một chiều cạnh của xung đột nói chung. Những người đi theo quan điểm sau


13
cho rằng, không nên chia tách “xung đột văn hóa” ra khỏi chỉnh thể “xung
đột”; nói đúng hơn, không phải “xung đột văn hóa”, mà là “xung đột” được

nhìn nhận từ góc độ văn hóa”. Mặc dù phủ nhận tính độc lập của “xung đột
văn hóa”, song những người ủng hộ cách tiếp cận văn hóa đối với xung đột
vẫn thừa nhận rằng, văn hóa là một phần quan trọng của xung đột và giải
quyết xung đột.(6)
Văn hóa có mặt trong mọi xung đột, bởi bất cứ xung đột trong xã hội nào
cũng nảy sinh trên quan hệ người – người. Văn hóa ảnh hưởng đến thái độ,
hành vi, khuôn mẫu ứng xử, cách xử lý tình huống, phản ứng với “cái xa lạ”
của chúng ta.... Một khi xung đột xuất hiện thì ngay ở đó, người ta cũng đã có
thể đặt ra vấn đề văn hóa. Bằng cách này hay cách khác, văn hóa thẩm thấu
vào trong các xung đột, không quan trọng là người ta có nhận thức được sự
hiện diện của nó hay không.
Các nền văn hóa giống như những dòng sông ngầm chảy suốt chiều dài đời
sống con người; có tác dụng định hình quan hệ, nhận thức, cá tính, sự phán
xét và ý niệm về bản thân cũng như về người khác. Các thông điệp văn hóa
(xuất phát từ nhóm mà cá nhân lệ thuộc vào) đến với các cá nhân và chỉ cho
họ thấy điều gì có ý nghĩa quan trọng và họ là ai khi xét trong quan hệ với
những người khác. Nói cách khác, văn hóa chỉ cho các cá nhân thấy đâu là
bản sắc của họ, đâu là cái làm họ khác biệt với những người còn lại.
Mỗi người chúng ta đều thuộc về một nền văn hóa nào đó mà từ đấy, chúng
ta nhận được các thông điệp về các chuẩn mực, về tính tương thích và về
những điều mà chúng ta trông đợi là phải như vậy. Văn hóa hiện thân như tập
hợp các thấu kính, cho phép nhìn thấy cái này mà không nhìn thấy cái khác,
do đó, chi phối nhận thức cũng như cách lý giải sự kiện... Tóm lại, văn hóa
vạch xung quanh chúng ta những đường biên vô hình mà vượt qua đó là “cái
xa lạ”, hoặc “cái không được làm”. Khi ai đó hành động không phù hợp với
điều trông đợi của chúng ta thì ở một chừng mực nhất định, điều này ngụ ý là


14
văn hóa của chúng ta khác với văn hóa của họ. Nhưng trên thực tế, người ta

thường sai lầm khi vội vã quy kết sự khác biệt nói trên về tình trạng “mất lòng
tin” hoặc “không có chung nhận thức” giữa các bên. Bởi vậy, một cách vô
thức, giao thoa văn hóa có thể trở thành một trong các điều kiện để xung đột
nảy sinh. Nhưng khi xung đột đã nảy sinh thì lại khó có thể nhận biết trực
diện hoặc rạch ròi về các tác nhân văn hóa.
Thường thì những người thuộc về cộng đồng văn hóa chiếm đa số sẽ ít để ý
các thông điệp phát ra từ cộng đồng của mình, vì họ mặc định các thông điệp
ấy là “tự nhiên”, “bình thường”, là “phải như vậy”; họ sẽ chỉ lưu ý đến ảnh
hưởng của những thông điệp được đến từ những cộng đồng văn hóa được
xem là “khác”, “ngoại lai” hay “xa lạ” với họ. Trong bối cảnh như vậy, một
chiều cạnh bản sắc của một cộng đồng nào đó có thể bị hiểu sai do những
cộng đồng văn hóa khác coi những cái đó là “không quan trọng”. Điều này sẽ
dẫn đến những phản ứng và đẩy quan hệ giữa các nền văn hóa đến nguy cơ
xung đột. Đây cũng là tình huống thường gặp trên thực tế và là nguyên nhân
trực tiếp của những xung đột nhuốm màu sắc văn hóa.
Văn hóa luôn đan bện vào xung đột, bất chấp việc nó có phải là nguyên nhân
chủ yếu gây ra xung đột hay không. Nó có thể là tác nhân chính yếu, song
cũng có thể là phụ, hoặc gián tiếp, sâu kín. Người ta có thể nhìn nhận cuộc
chiến dai dẳng Ấn Độ - Pakistan tại Kashmir không chỉ là vấn đề lãnh thổ và
chủ quyền, mà đó cũng là sự đụng độ giữa thế giới quan, giữa tính đại diện và
tính hợp pháp của bản sắc và lối sống khác nhau.
Mặc dù xung đột không nhất thiết bắt nguồn trực tiếp từ những khác biệt
trong giao thoa văn hóa. Nhưng, không có giao thoa văn hóa thì hiển nhiển
không thể có xung đột. Tuy nhiên, thật khó để tiến hành các nghiên cứu giao
thoa văn hóa, vì chúng quá phức tạp.
Phức tạp thứ nhất, văn hóa là một chỉnh thể phân tầng nội tại. Ẩn giấu
dưới bề mặt hiện thực là những khác biệt. Cùng với thời gian, những hố sâu


15

ngăn cách giữa các thế hệ trong nội bộ một nền văn hóa sẽ xuất hiện. Sự kế
tiếp lịch sử, kinh nghiệm, cảm xúc, trải nghiệm và quan hệ giữa các thế hệ là
mang tính liên tục, song cũng giống như di truyền, mỗi lần nhân bản thông tin
là một lần khác biệt.
Phức tạp thứ hai, văn hóa thường xuyên biến đổi. Mỗi khi hoàn cảnh thay
đổi thì cộng đồng văn hóa cũng biến đổi theo để thích nghi với, và không
hiếm khi nó thay đổi theo chiều hướng bất ngờ. Do đó, không có sự khái quát
duy lý nào có thể đứng vững để có thể đưa ra một công thức về bản sắc văn
hóa của một cộng đồng nào đó.
Phức tạp thứ ba, văn hóa là rất mềm dẻo. Các chuẩn mực văn hóa đã biết
của một nhóm văn hóa nào đó không đủ làm cơ sở để chúng ta tiên đoán về
hành vi của các thành viên hoặc của cả nhóm đó. Hành vi mà chúng ta trông
đợi rất có thể bị những nguyên nhân nảy sinh trong bối cảnh cụ thể làm sai
lệch đi. Bởi vậy, cái cách thức mà chúng ta dùng để phán đoán rằng “Người
Pháp nghĩ như vậy” hoặc giả “Phật tử thích cái đó”... là rất hạn chế. Nếu lạm
dụng, dễ dàng dẫn đến những sai lầm trên thực tế.
Phức tạp thứ tư, một bộ phận lớn của bản sắc văn hóa lại nằm dưới “tầng
đáy”, còn bộ phận không mấy quan trọng thì lộ ra bề mặt. Chính điều đó
khiến những “người bên ngoài”, chỉ bằng cái nhìn kinh nghiệm, hay bằng sự
quan sát thuần túy, khó có thể nhận ra thực chất của vấn đề. Nói cách khác,
văn hóa không phải cái có thể thấu hiểu chỉ bằng quan sát. Hiểu văn hóa có
nghĩa là “dấn thân” và “trải nghiệm”. Bởi vậy, với cách tiếp cận “đến từ bên
ngoài”, khó có thể khám phá được ý nghĩa và biểu tượng của văn hóa. Để
thấu hiểu, đôi khi không phải là cái nhìn trực diện mà phải cầu viện đến lịch
sử, huyền thoại và thậm chí cả lễ nghi nữa.
Với những phân tích trên, có thể thấy, trong xung đột, văn hóa giống như
tảng băng ngầm mà phần đáy lớn chìm bên dưới. Những tảng băng ngầm như
vậy sẽ càng trở nên nguy hiểm nếu chúng ta vẫn chưa nhận thức được đầy đủ



16
về chúng. Bổ sung cho việc nghiên cứu xung đột bằng cách tiếp cận văn hóa
sẽ giúp chúng ta “đọc tình huống” tốt hơn, đầy đủ hơn và từ đó, có giải pháp
giải quyết xung đột thích hợp và triệt để hơn.
Bởi vậy, việc đưa văn hóa như một tham số vào trong các phân tích về
xung đột và giải quyết xung đột là cần thiết. Theo đó, sự thấu hiểu hay “thông
thạo văn hóa” (Cultural fluency) của các bên trong xung đột được xem là một
trong những tiền đề quan trọng đối với việc giải quyết xung đột.
Thấu hiểu hay “thông thạo văn hóa” được diễn giải theo nghĩa là thân thiện,
quen biết với nền văn hóa mà mình định làm việc với; mà cụ thể đối với việc
giải quyết xung đột thì chính là: tìm được phương thức giao tiếp thích hợp;
“đọc đúng” các thông điệp qua giao tiếp; hiểu đúng hàm ý của các biểu tượng và
hành vi.
Cũng nhờ sự thấu hiểu, mỗi bên sẽ được trang bị kinh nghiệm của “người
khác – phía bên kia” để có thể lọc ra những giá trịmang tính chia sẻ và dựa vào
“cái chung”đó, nỗ lực tìm kiếm giải pháp khả dĩ chấp nhận được đối với các bên.
1.3. Sự xuất hiện của Tạ Duy Anh
1.3.1. Hành trình sáng tác của Tạ Duy Anh
Tạ Duy Anh tên thật là Tạ Viết Đãng, còn có những bút danh khác như: Lão
Tạ, Chu Quý, Quý Anh, Bình Tâm. Ông sinh ngày 9 tháng 9 năm 1959,
quê ở làng Đồng Trưa, xã Hoàng Diệu, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây
(nay là Hà Nội).
Tạ Duy Anh xuất hiện trên văn đàn khi xu thế đổi mới văn học đã
lộ diện, ít bị vướng bận bởi những định kiến cũ, lại sớm gặt hái được
thành công. Đây dường như là điều thuận lợi nhưng cũng là một thử thách,
nó đòi hỏi Tạ Duy Anh phải có những bước đi mới, không lặp lại những
người đi trước và không lặp lại chính mình. Tạ Duy Anh đã làm được
điều đó bằng việc liên tiếp cho ra đời những tác phẩm gây chấn động dư
luận trong một hành trình sáng tạo luôn nỗ lực “làm mới” để khẳng định



17
“độc bản”. Và thực sự khi nhắc đến văn chương sau đổi mới, người ta
không thể không nhắc đến Tạ Duy Anh như là một hiện tượng văn
học trẻ nhưng đã có những thể nghiệm tìm tòi, thay đổi lối nhìn đơn
giản, xuôi chiều quen thuộc, làm thức dậy nhu cầu nhận thức và tự nhận
thức những vấn đề của hiện tại và quá khứ.
Đến nay với hành trình sáng tạo gần 30 năm, Tạ Duy Anh đã là chủ
sở hữu của một khối lượng tác phẩm khá đồ sộ: Bước qua lời nguyền
(tập truyện), Luân hồi (tập truyện), Gã và nàng (tập truyện), Bố cục hoàn
hảo (tập truyện), Truyện ngắn chọn lọc Tạ Duy Anh, Ba đào ký, Ngẫu
hứng sáng trưa chiều tối (tập tản văn), Lão Khổ (tiểu thuyết), Đi tìm
nhân vật (tiểu thuyết), Thiên thần sám hối (tiểu thuyết), Giã biệt bóng
tối (tiểuthuyết)… cùng gần 10 tập sách (gồm truyện ngắn, truyện vừa, tản
văn) dành cho thiếu nhi.
Kể từ các tác phẩm chính đã công bố từ 1990 đến nay, hầu như
năm nào Tạ Duy Anh cũng “trình làng” một hoặc một vài tác phẩm, trong
đó có các tác phẩm khá nổi tiếng như: Bước qua lời nguyền, Lão Khổ,
Thiên thần sám hối, Giã biệt bóng tối…
Bước qua lời nguyền được coi là hiện tượng văn học của một thời
và đây chính là tác phẩm đầu tiên khẳng định vị trí của nhà văn trong làng
văn học. Cùng với Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp, Mảnh đất
lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Thời xa vắng cuả Lê Lựu,
Bến không chồng của Dương Hướng, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo
Ninh… Bước qua lời nguyền của Tạ Duy Anh đã thổi sinh khí mới vào
đời sống văn học, là tiếng nói có tác động mạnh vào vào kinh nghiệm
nghệ thuật và thị hiếu công chúng. Sau Bước qua lời nguyền, sự quan
tâm của nhà văn xoay quanh câu hỏi về cách viết. Ông quan niệm “Sáng
tác đồng nghĩa với tìm tòi và kỹ thuật viết là điều quan trọng… Kỹ thuật,
xét cho cùng, là nỗ lực tạo ra hình thức và hiệu quả cao nhất cho tác



18
phẩm” [16, tr.21]. Với Đi tìm nhân vật và Thiên thần sám hối, Tạ Duy
Anh đã thể hiện rõ nét tài năng của mình trong việc lựa chọn đối tượng
và hình thức thể hiện đối tượng ấy. Con người vong bản, quyền lực giấu
mặt, lạc thú và trách nhiệm… như là vấn đề cốt tử của đời sống đương
đại Việt Nam đã tìm được chỗ đứng thuyết phục trong mô hình văn bản
tiểu thuyết Tạ Duy Anh. Từ Lão Khổ đến Đi tìm nhân vật, từ Đi tìm nhân
vật đến Thiên thần sám hối và đến Giã biệt bóng tối là những cố gắng liên
tục của Tạ Duy Anh để ngày càng làm mới mình ráo riết hơn.
Tạ Duy Anh là nhà văn có một thái độ nghiêm túc và đam mê
với con đường đầy chông gai, nhiều rủi ro đã chọn. Với ông, lao động
nhà văn
là một công việc đòi hỏi sự nghiêm túc, nơi không bao giờ có cho sự
cầu thả. Bất cứ một sự buông thả nào cũng đều phải trả giá ngay. Ông
quan niệm: “Tôi luôn tìm cách phá bỏ thị hiếu thông thường của người
đọc. Thị hiếu tạo cho ta sự ổn định thẩm mỹ nhưng cũng chính thị hiếu ấy
ngăn cản sự cách tân. Tôi chấp nhận sự bài xích, thậm chí nguyền rủa, để
tạo ra một cảm nhận khác, một tư duy khác. Nghệ thuật không phải là
một cuộc giễu hành và nhà văn phải chấp nhận con đường mình chọn”
[16, tr.23]. Tạ Duy Anh đã viết “như đã lĩnh một sứ mệnh trên trời từ
khi mới sinh ra” [16, tr.300]. Những trăn trở với thời cuộc luôn là vấn
đề xuyên suốt hành trình tiểu thuyết Tạ Duy Anh. Từ đời sống công
trường thuỷ điện Hoà Bình những năm 80, quá khứ gần của cải cách
ruộng đất 1952 - 1954 đến quá khứ xa của một bản tính nông thôn như
một bản sắc cá tính dân tộc, những khát khao đời sống trần tục hàng ngày
đến cái bóng phủ trùm lên của một “quyền lực tuyệt đối vắng mặt”… Tất
cả hiện diện trong từng sáng tác của Tạ Duy Anh. Có thể khẳng định, ý
thức luôn trực diện với đời sống là một đặc điểm nổi bật trong sáng tác

của nhà văn. Ngay cả khi tiếp cận đời sống từ cái phi lý, ở chiều sâu bản


19
thể, Tạ Duy Anh vẫn ít nhiều “cấy ghép” vào thế giới nghệ thuật cuả
mình những vấn đề bức thiết mà đời sống đương đại đặt ra. Nó làm cho
tiểu thuyết của ông, dù viết về cái đã qua, cái phổ quát vẫn thể hiện rõ ý
đồ phác dựng “lịch sử của cái đương đại” như một ý thức phản biện, đối
thoại với những nhận thức đã thành định kiến. Đối với Tạ Duy Anh,
“bản thân lịch sử là vô ý, vô cảm và chẳng có giá trị gì với chính nó. Nó
chỉ có giá trị với tương lai ở khía cạnh kinh nghiệm và những bài học.
Những bài học lịch sử, đặc biệt là những bài học rút ra từ những thảm
họa, cần phải được nhắc đi nhắc lại. Mọi sự bóp méo, che giấu hoặc thổi
phồng các sự kiện lịch sử đều là tội ác” [16, tr.301].
Mang trên mình sứ mệnh nhà văn, Tạ Duy Anh luôn tâm niệm không thể
khoán trắng cho lịch sử. Dẫu rằng những cái nhìn mới về lịch sử, về con
người đôi khi đã tạo cho số phận tiểu thuyết Tạ Duy Anh đầy thăng
trầm, nhưng ông sẵn sàng trả giá để bước đi trên con đường đầy chông
gai, thử thách. Ông luôn đặt niềm tin vào cuộc sống, tin vào điều kỳ
diệu mà văn chương mang lại cho cuộc đời này.
Nói tóm lại, văn học đương đại Việt Nam đang từng bước chuyển
mình, nghệ thuật tiểu thuyết đang có những cách tân lớn, tiểu thuyết
không còn phải mang vác những sứ mệnh nặng nề mà trở thành trò chơi,
tạo điều kiện để các tác giả thể nghiệm và cách tân nghệ thuật. Tạ Duy
Anh chính là một trong số những tác giả luôn có ý thức tìm tòi, đổi mới
tiểu thuyết. Trên hành trình văn chương không mệt mỏi, tác phẩm của Tạ
Duy Anh thể hiện rất rõ sự tự ý thức của chủ thể sáng tạo.
1.3.2.Những cảm hứng cơ bản trong tiểu thuyết Tạ Duy Anh
1.3.2.1. Cảm hứng nhận thức thức lại lịch sử
Một trong những đặc điểm của tư duy văn học mới là yêu cầu “nhận thức

lại, kiến giải lại, đánh giá lại kể cả quá khứ, hiện tại và tương lai”. Vấn đề
nhận thức lại là một trong những xu hướng chung của cả nền văn học đổi


×