Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

TRUYỆN NGẮN VỢ NHẶT CỦA KIM LÂN - TÌM HIỂU HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP TRONG TRUYỆN VỢ NHẶT CỦA KIM LÂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.41 KB, 33 trang )

Tìm hiểu hoạt động giao tiếp trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân
MỤC LỤC

1


Tìm hiểu hoạt động giao tiếp trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân
Trong cuộc sống của con người, giao tiếp là một hoạt động thường
xuyên và cần thiết. Chính giao tiếp làm cho mỗi cá nhân sau khi ra đời
được trưởng thành và xã hội được phát triển. Không ai có thể sống cô độc
mà không có sự giao tiếp với người khác. Xã hội cũng không thể tồn tại,
hoạt động và phát triển mà không có giao tiếp.
Giao tiếp chính là sự tiếp xúc giữa người và người, trong đó diễn ra
quá trình trao đổi nhận thức, tư tưởng, tình cảm, bàn bạc, hành động…
Giao tiếp có thể tiến hành bằng những phương tiện khác nhau, từ thô sơ
như điệu bộ, cử chỉm nét mặt… đến hiện đại như vô tuyến truyền hình,
các phương tiện của công nghệ thông tin… Tuy vậy, ngôn ngữ vẫn là
phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người và xã hội loài người.
Ngôn ngữ không chỉ là phương tiện ngôn ngữ sớm nhất, lâu đời nhất,
phương tiện ngôn ngữ phổ biến rộng rãi nhất mà xét về hiệu quả, đây còn
là phương tiện giúp con người biểu hiện và trao đổi được mọi nội dung
thông tin một cách hữu hiệu. Cho nên, theo sự phát triển hiện đại của xã
hội, đã có rất nhiều phương tiện ra đời, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao,
phong phú, phức tạp của con người nhưng ngôn ngữ là một phương tiện
không thể thay thế.
Ngôn ngữ không chỉ là một phương tiện giao tiếp của con người trong
cuộc sống thường ngày mà còn là chất liệu của văn chương. Bằng ngôn
ngữ, nhà văn đã thực hiện một cuộc giao tiếp đặc biệt đối với người đọc,
đối thoại với độc giả về mọi vấn đề của cuộc sống mà họ trăn trở. Do vậy,
mỗi tác phẩm văn chương khi ra đời, đến với người đọc, được người đọc
tiếp nhận nghĩa là nó đã thực hiện vai trò của một phương tiện giao tiếp,


cũng đồng thời là sản phẩm của hoạt động giao tiếp. Thêm nữa, ở mỗi tác
phẩm văn học, ta không chỉ thấy hoạt động giao tiếp giữa tác giả với
người đọc mà còn giữa các nhân vật trong tác phẩm, góp phần làm nên giá
trị của tác phẩm. Cho nên, khi nghiên cứu một tác phẩm văn học, ta không
2


Tìm hiểu hoạt động giao tiếp trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân
thể không tìm hiểu hoạt động giao tiếp trong tác phẩm đó. Từ một cách
khác, có thể nói, khi nghiên cứu hoạt động giao tiếp của ngôn ngữ, ta
không dừng lại ở hoạt động giao tiếp thông thường mà còn cần tìm hiểu
hoạt động giao tiếp trong văn chương.
Kim Lân là một nhà văn tiêu biểu của Văn học Việt Nam thời kì kháng
chiến chống Pháp. Ông viết nhiều về người nông dân, được mệnh danh là
nhà văn “thuần hậu”, “một lòng đi về với đất với người”, là “nhà văn
chung thủy của làng quê”. Kim Lân lôi cuốn người đọc với những tác
phẩm mang những cái tên giản dị, chân chất như “Nên vợ nên chồng”,
“Con chó xấu xí”… Truyện ngắn “Vợ nhặt” là một tác phẩm tiêu biểu
trong tập truyện “Con chó xấu xí”, được đưa vào giảng dạy trong nhà
trường Phổ thông. Tác phẩm là sự đối thoại của nhà văn với độc giả về
cuộc sống và tinh thần của người nông dân Việt Nam trong những tháng
ngày khủng khiếp – nạn đói năm 1945. Tìm hiểu hoạt động giao tiếp trong
tác phẩm “Vợ nhặt” là một công việc cần thiết để thấu hiểu tư tưởng của
người cầm bút, để nhận ra giá trị của tác phẩm.

3


Tìm hiểu hoạt động giao tiếp trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân


B - PHẦN NỘI DUNG
Chương I.
Giao tiếp ngôn ngữ đời thường và giao tiếp trong văn chương.
1.1. Giao tiếp ngôn ngữ đời thường.
Như trên đã khẳng định, hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ đóng vai
trò quan trọng trong cuộc sống thường ngày của con người. Hoạt động
này bị chi phối bởi một số nhân tố như ngữ cảnh, ngôn ngữ, diễn ngôn.
1.1.1. Ngữ cảnh

Ngữ cảnh được hiểu là toàn bộ những gì tồn tại xung quanh và ảnh
hưởng đến cuộc thoại, nhưng không nằm trong ngôn ngữ, cũng không
phải là lời được nói ra. Ngữ cảnh bao gồm nhân vật giao tiếp và hoàn
cảnh giao tiếp.
a. Nhân vật giao tiếp.

Một hoạt động giao tiếp hoàn chỉnh để đạt được mục đích và hiệu quả
cần bao gồm hai quá trình tương tác: phát và nhận, được thực hiện bởi các
nhân vật giao tiếp. Nhân vật giao tiếp là người tham gia vào cuộc giao
tiếp, bao gồm người nói (viết) và người nghe (đọc). Người nói (viết) đóng
vai trò là nguồn phát, thực hiện quá trình phát tin. Người nghe (đọc) đóng
vai trò là nguồn nhận, thực hiện quá trình nhận tin. Vai phát và vai nhận
luôn thay đổi, nhưng đôi khi, nhân vật giao tiếp chỉ đóng một vai suốt
cuộc giao tiếp (độc thoại).
Mỗi nhân vật giao tiếp có những đặc điểm riêng về giới tính, lứa tuổi,
trình độ, nghề nghiệp, sở thích, vốn văn hóa, vốn sống… và tiến hành
hoạt động giao tiếp với những dấu ấn cá nhân của mình. Hơn nữa, giữa
các nhân vật giao tiếp có quan hệ với nhau, thể hiện trên hai phương diện,
quan hệ vị thế và quan hệ liên cá nhân. Vị thế giao tiếp được xác định là
4



Tìm hiểu hoạt động giao tiếp trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân
ngang hàng, trên hàng hay dưới hàng dựa theo tuổi tác, cương vị xã hội,
cương vị trong gia đình… và vị thế đó là một hằng thể không biến đổi
trong hoạt động giao tiếp. Mặt thứ hai giữa các nhân vật giao tiếp là quan
hệ thân sơ: quen biết hay xa lạ, gần gũi hay cách biệt, thân thích hay nhạt
nhòa…, mặt này có thể biến đổi trong quá trình giao tiếp. Tất cả những
đặc điểm về vị thế và quan hệ thân sơ giữa các nhân vật giao tiếp cũng sẽ
bộc lộ và chi phối nội dung, hình thức và cách thức giao tiếp của họ.
b. Hoàn cảnh giao tiếp

Hoàn cảnh giao tiếp là bối cảnh diễn ra hoạt động giao tiếp, bao gồm
hoàn cảnh xã hội, hiện thực được nói tới và hoàn cảnh giao tiếp hẹp. Hoàn
cảnh xã hội chính là điều kiện chính trị, lịch sử, văn hóa, lập trường, quan
điểm, tín ngưỡng… của một xã hội mà cuộc giao tiếp diễn ra. Hiện thực
được nói tới (đề tài giao tiếp) là vấn đề được đề cập đến trong cuộc giao
tiếp. Đề tài giao tiếp gồm những đề tài khách quan (các vấn đề về tự
nhiên, xã hội, con người nằm ngoài nhân vật giao tiếp), đề tài chủ quan
(những hiện thực diễn ra bên trong thế giới nội tâm con người) và những
đề tài ảo (thần linh, tưởng tượng…). Hoàn cảnh giao tiếp hẹp (thoại
trường) là thời gian, địa điểm cụ thể, những tình huống cụ thể khi hoạt
động giao tiếp diễn ra.
1.1.2. Ngôn ngữ

Ngôn ngữ được sử dụng trong hoạt động giao tiếp thường ngày bao
gồm cả ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết. Ngôn ngữ nói là ngôn ngữ nguyên
phát, được truyền qua kênh thính giác. Ngôn ngữ viết là ngôn ngữ thứ
phát, được truyền qua kênh thị giác.
1.1.3. Diễn ngôn.


Diễn ngôn là một hay một chuỗi phát ngôn có sự liên kết với nhau
được nảy sinh trong quá trình giao tiếp. Đây vừa là sản phẩm được tạo ra
5


Tìm hiểu hoạt động giao tiếp trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân
trong giao tiếp, vừa là phương tiện giao tiếp, qua đó người phát thể hiện
nội dung giao tiếp, còn nười nhận lĩnh hội nội dung giao tiếp.
Diễn ngôn có tính liên kết. Các phát ngôn logic với nhau, người nghe
trả lời đúng điều người hỏi cần giải đáp. Các phát ngôn từ đầu đến cuối
phải logic với nhau.
Diễn ngôn có tính liên tục. Người phát và người nhận thay đổi luân
phiên, tiếp nối, tạo thành một mạch liên tục không ngắt quãng.
Diễn ngôn còn có tính đồng quy. Các phát ngôn trong một diễn ngôn
cùng hướng về một đề tài cụ thể.
Tìm hiểu hoạt động giao tiếp ngôn ngữ đời thường là cơ sở quan trọng
để tìm hiểu hoạt động giao tiếp văn chương.
1.2. Giao tiếp trong văn chương.
1.2.1. Các quan niệm về giao tiếp trong văn chương.
a. Quan niệm phi giao tiếp.

Quan niệm này cho rằng văn chương không phải là hoạt động giao
tiếp, không có chức năng giao tiếp. Nhà văn, nhà thơ sáng tác để thỏa mãn
hứng thú của bản thân mà không hề có ý nghĩ đưa đến cho người khác
một tác phẩm nghệ thuật. Theo đó, hoạt động văn chương chỉ có tác giả,
quá trình sáng tác và tác phẩm, không quan tâm đến người đọc.
b. Quan niệm về bản chất giao tiếp của văn chương.

Quan niệm này cho rằng hoạt động văn chương tuy có những đặc trưng
riêng, nhưng về bản chất vẫn là một hoạt động giao tiếp, vì nó thích ứng

tất cả những đặc điểm, yêu cầu và các nhân tố của một hoạt động giao tiếp
ngôn ngữ thông thường. Trong hoạt động văn chương có đầy đủ các nhân
tố của một hoạt động giao tiếp ngôn ngữ: tác giả (người phát), tác phẩm
(văn bản, diễn ngôn), độc giả (người nhận) và bao gồm hai quá trình: sáng
6


Tìm hiểu hoạt động giao tiếp trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân
tác (phát tin) và tiếp nhận (nhận tin). Hơn nữa, hoạt động văn chương
cũng luôn diễn ra trong một ngữ cảnh nhất định: hoàn cảnh sáng tác của
tác giả và hoàn cảnh tiếp nhận của độc giả.Tác phẩm văn chương luôn có
nội dung và mục đích nhất định, luôn sử dụng ngôn ngữ làm chất liệu,
phương tiện.Về mặt chức năng, văn chương cũng thực hiện chức năng
trao đổi thông tin giữa con người và con người.
Hoạt động văn chương được xem là một hoạt động giao tiếp đặc biệt.
Vì xét về chức năng, hoạt động văn chương không phải chỉ để thỏa mãn
hứng thú của nhà văn mà còn thực hiện các chức năng chân, thiện, mĩ,
thông qua mối tương tác giữa nhà văn và độc giả. Hơn nữa, xét về đặc
tính của nghệ thuật nói chung, văn chương cũng như các loại hình nghệ
thuật khác, không thể hiện một cách trực tiếp ý tưởng, nhận thức, cảm
xúc, tình cảm của người sáng tạo mà thể hiện thông qua các hình tượng
thẩm mĩ.
1.2.2. Vai trò của độc giả và quá trình tiếp nhận trong giao tiếp văn

chương.
Trong quá trình giao tiếp văn chương, độc giả và quá trình tiếp nhận
đóng vai trò rất quan trọng. Trước hết, độc giả là người chi phối sự hình
thành và hoàn thiện tác phẩm. Độc giả chi phối tác phẩm ngay từ khi được
thai nghén và ở trong quá trình sáng tác. Khi sáng tác, nhà văn không phải
muốn viết thế nào cũng được mà viết theo sự chế định của độc giả. Chính

độc giả đã lựa chọn nội dung và hình thức cho tác phẩm, chi phối mục
đích sáng tác.
Hơn nữa, xét về mối quan hệ giữa tác giả và độc giả, giữa quá trình
sáng tác và quá trình tiếp nhận thì còn có thể thấy rằng, chính quá trình
tiếp nhận và độc giả góp phần quyết định sự sống của tác phẩm. Khi nào
có sự tiếp nhận của độc giả thì khi đó tác phẩm mới thực sự có sự sống
7


Tìm hiểu hoạt động giao tiếp trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân
của nó và chừng nào còn có người đọc thì chừng đó tác phẩm còn tiếp tục
sống.
Không chỉ vậy, độc giả còn là người đồng sáng tạo khi tiếp nhận tác
phẩm. Đồng sáng tạo không có nghĩa là độc giả cùng viết, hay viết tiếp,
viết thêm vào tác phẩm. Đồng sáng tạo là tùy thuộc vào vốn sống, vốn
ngôn ngữ, vốn văn hóa, vào sở trường, sở đoản, kiến thức nền… mà sự
tiếp nhận và lĩnh hội của độc giả chẳng những không nhất thiết trùng hợp
với ý tưởng sáng tác của tác giả mà lại còn ó thẻ bổ sung, sáng tạo thêm
những sắc thái, những nghĩa mới, làm cho giá trị của tác phẩm giàu có
hơn, phong phú hơn, lung linh tỏa sáng hơn.
1.2.3 Đặc điểm của giao tiếp trong văn chương.
1.2.3.1.Nhân vật giao tiếp.
*. Về tác giả (người phát)
Khác với hoạt động giao tiếp ngôn ngữ thông thường, ở hoạt động giao
tiếp văn chương, nguồn phát và thể phát không trùng nhau. Có trường hợp
nguồn phát là tác giả, thể phát là các nhân vật trong tác phẩm. Ví dụ,
trong tác phẩm “Đôi mắt” của nhà văn Nam Cao, nguồn phát là tác giả,
thể phát là các nhân vật Hoàng và Độ, bàn về cuộc kháng chiến chống
Pháp đương thời, về dân ta, về bộ đội và dân quân tự vệ… Có trường hợp
nguồn phát là tác giả, thể phát là nhân vật nhập vai. Ví dụ, trong truyện

“Dế Mèn phiêu lưu kí”, con dế mèn kể lại câu chuyện cuộc đời nó nhưng
thực ra nó chỉ đóng vai thể phát, còn nguồn phát là tác giả Tô Hoài. Có
trường hợp nguồn phát là tác giả, thể phát là người kể, là một nhân vật
tham gia vào diễn biến của các sự kiện và xưng “tôi”. Ví dụ, trong truyện
“Chiếc thuyền ngoài xa” của nhà văn Nguyễn Minh Châu, nguồn phát là
tác giả, thể phát là người kể, là nhân vật xưng “tôi” tên là Phùng – một
nghệ sĩ nhiếp ảnh. Rất thường gặp là trường hợp tác phẩm không có người
8


Tìm hiểu hoạt động giao tiếp trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân
kể chuyện, tuy đương nhiên vẫn có tác giả. Khi đó, nguồn phát là tác giả
toàn tri – người biết tất cả, đứng ngoài các biến cố và để cho câu chuyện
diễn ra trước mắt người đọc, thể phát không lộ diện. Chằng hạn, những
tác phẩm như “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng, “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố…
là những tác phẩm được sáng tạo theo phương thức này.
*. Về độc giả (nguồn nhận)
Số lượng độc giả trong giao tiếp văn chương có thể rất lớn, chứ không
phải chỉ là một hay một vài người nghe như trong giao tiếp ngôn ngữ
thông thường. Tác phẩm càng có đời sống lâu dài bao nhiêu thì lượng độc
giả càng lớn bấy nhiêu, ngược lại, số lượng độc giả càng lớn thì đó là dấu
hiệu về sức sống của tác phẩm.
Độc giả trong giao tiếp văn chương có thể thuộc về những thời gian
văn hóa và không gian văn hóa khác biệt với tác giả. Ví dụ, độc giả ngày
nay đọc “Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du, vẫn là giao tiếp với
nhà thơ, cùng một nền văn hóa nhưng ngữ cảnh văn hóa đã có sự khác
biệt về thời gian. Thời nay, chuyện “hồng nhan bạc phận”, “tài tử đa
cùng” không còn phổ biến, không còn là một quy luật nghiệt ngã do xã
hội đã có nhiều tiến bộ. Do vậy, để hiểu được tư tưởng của tác giả, người
đọc (nhất là giới trẻ) cần mở rộng hiểu biết về phông văn hóa thời trung

đại. Độc giả và tác giả có thể khác biệt nhau về không gian văn hóa. Đó là
khi độc giả tiếp nhận những tác phẩm của nền văn chương nước ngoài với
sự khác biệt về nhiều phương diện thuộc ngữ cảnh văn hóa như ngôn ngữ,
phong tục, nếp cảm, nếp nghĩ… Cũng có khi, độc giả và tác giả khác biệt
cả về thời gian văn hóa và không gian văn văn hóa. Ví dụ, độc giả Việt
Nam ngày nay tiếp nhận tác phẩm “Ông già và biển cả” của nhà văn
Hemingue.

9


Tìm hiểu hoạt động giao tiếp trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân
1.2.3.2. Hoàn cảnh giao tiếp.
Trong giao tiếp ngôn ngữ thông thường, người nói và người nghe
thường có chung những kiến thức bách khoa, kiến thức nền, hay những
giả đinh tương đương vì cả hai thường sống trong cùng một không gian và
thời gian văn hóa. Chẳng hạn, khi giao tiếp mua bán ở chợ Việt Nam giữa
người mua và người bán trong những năm đầu của thế kỉ XXI này, cụm từ
“rau sạch” đã được nói đến và lĩnh hội với cùng một ý nghĩa (rau không
nhiễm hóa chất), nghĩa này có thể khác với nghĩa của cụm từ đó ở thế kỉ
XX về trước (rau sạch: rau không lấm bùn đất hay rác rưởi).
Hoạt động giao tiếp trong văn chương có nhiều khác biệt. Về thời gian,
người viết và người đọc có thể cùng thế hệ hoặc khác thế hệ (độc giả cuả
thế kỉ XXI không cùng thế hệ với Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương). Về
không gian, giữa người viết và người đọc có thể có sự khác biệt giữa các
khu vực địa hình, vùng miền trong cùng một đất nước, hoặc giữa trong
nước và ngoài nước, giữa không gian thực tại và không gian tưởng tượng.
Chính vì có sụ khác biệt đó mà những hiểu biết về hoàn cảnh giao tiếp
đóng vai trò quan trọng trong sự tiếp nhận của độc giả. Đối với những tác
phẩm thuộc văn chương quá khứ hoặc thuộc nền văn hóa khác, những

hiểu biết về hoàn cảnh sáng tác (thể hiện qua những lời chú thích hoặc
giới thiệu, lời nói đầu) giúp cho độc giả có cái hiểu biết chung để lĩnh hội
và cảm thụ tác phẩm.
1.2.3.3. Về đặc tính siêu ngôn ngữ.
Trong một tác phẩm văn chương, nguồn phát và thể phát, thể nhận và
đích nhận không trùng nhau. Trong tác phẩm tự sự, các nhân vật nói
chuyện với nhau, giao tiếp bằng ngôn ngữ, có kẻ nói người nghe rồi đổi
vai cho nhau. Nhưng đứng đằng sau nhân vật là tác giả, và người nhận
đích thực là độc giả, các nhân vật chỉ là những thể phát và thể nhận. Do
10


Tìm hiểu hoạt động giao tiếp trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân
đó, cuộc giao tiếp đích thực là cuộc giao tiếp giữa tác giả và độc giả.
Trong tác phẩm tự sự, có thể có nhiều cuộc giao tiếp nhỏ lồng trong cuộc
giao tiếp lớn giữa tác giả và độc giả. Chính điều đó cũng tạo nên hiện
tượng đa thanh trong tác phẩm văn chương. Trong tác phẩm trữ tình, nhìn
chung, tác giả trực tiếp bộc lộ cảm xúc, tư tưởng của mình với độc giả.
Tuy nhiên, cũng có những tác phẩm phối hợp giữa tự sự và trữ tình: ở
phần tự sự có lời hội thoại giữa các nhân vật, còn ở phần trữ tình bộc lộ
tâm lí, tình cảm, cảm xúc của mình.
1.2.3.4. Về mục đích và chức năng.
Giao tiếp trong lĩnh vực văn chương còn có đặc điểm rất rõ về mục
đích, chức năng. Giao tiếp trong ngôn ngữ đời thường chủ yếu là để thông
tin, để truyền đạt những tin tức, những sự kiện, những ý nghĩ, tình cảm
thường nhật của con người và môi trường xã hội xung quanh. Giao tiếp
trong văn chương không chỉ thực hiện chức năng cung cấp thông tin mà
chủ yếu nhằm những mục đích và chức năng thẩm mĩ. Hoạt động giao tiếp
văn chương xây dựng những hình tượng thẩm mĩ, thể hiện những cảm xúc
cao đẹp của con người, đồng thời có thể lồng ghép kiến thức thực tế,

chiêm nghiệm về cuộc đời…
1.2.3.5. Về hành động ngôn ngữ và hàm ý.
Nếu xét về mức độ thì do đặc trưng về tính hình tượng, về sự súc tích,
ý tại ngôn ngoại mà giao tiếp trong lĩnh vực văn chương có tần số cao
trong việc sử dụng các hành vi ngôn ngữ gián tiếp, tần số cao về các phát
ngôn mang nghĩa hàm ẩn, hàm ý. Nó làm cho tác phẩm văn chương hàm
súc, ý nhị và phong phú về nội dung biểu hiện.
Ví dụ:
“Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”
11


Tìm hiểu hoạt động giao tiếp trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân
(ca dao)
Bài ca dao trên là sản phẩm của một hoạt động giao tiếp mà người
phát là người phụ nữ trong xã hội cũ (xã hội phong kiến), người nhận là
mọi người trong xã hội. Người phụ nữ so sánh thân phận mình như tấm
lụa đào được bày giữa chợ, không biết sẽ được ai mua về. Đó là nghĩa
tường minh. Phát ngôn trên đặt trong bối cảnh xã hội đương thời, phông
văn hóa đương thời, cần được hiểu theo nghĩa hàm ý, là lời than trách về
thân phận bị phụ thuộc của người phụ nữ. Qua đó, ta thấy được tiếng lòng
than thân và hàm ý tố cáo chế độ nam quyền.
Tóm lại, bản chất của hoạt động văn chương cũng là một hoạt động
giao tiếp với đầy đủ các nhân tố của một hoạt động giao tiếp thông
thường. Tuy nhiên, hoạt động giao tiếp trong văn chương cũng có những
nét đặc thù riêng, tạo nên giá trị nghệ thuật và đóng góp vào sự phát triển
của xã hội loài người.

12



Tìm hiểu hoạt động giao tiếp trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân

Chương II.
Hoạt động giao tiếp trong tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân.
2.1. Khái quát về tác phẩm “Vợ nhặt” và hoạt động giao tiếp trong
“Vợ nhặt”.
Từ đầu những năm kháng chiến chống Pháp, Kim Lân đặt bút viết
tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”, nhưng chưa hoàn thành và bị thất lạc bản thảo.
Đến năm 1954, khi cuộc kháng chiến đã thành công, Kim Lân dựa trên
phần bản thảo còn lại, sáng tạo nên truyện ngắn “Vợ nhặt”. Tác phẩm này
ra đời năm 1954 nhưng viết về nạn đói năm Ất Dậu 1945.
Nhìn tác phẩm “Vợ nhặt” như là một sản phẩm của hoạt động giao
tiếp bằng ngôn ngữ, ta có thể phân định rõ, nguồn phát là tác giả Kim
Lân. Nhân vật kể chuyện của tác phẩm là nhân vật ngôi thứ ba giấu mặt.
Bởi vậy, thể phát ở đây không lộ diện. Nguồn nhận là độc giả đương thời
và hậu thế. Những quan điểm, tư tưởng, thông điệp mà nhà văn muốn
truyền đến độc giả không được thể hiện trực tiếp mà gián tiếp thông qua
việc xây dựng một câu chuyện: chuyện anh Tràng nhặt được vợ giữa ngày
đói. Như vậy, trong cuộc giao tiếp lớn giữa tác giả và độc giả có những
cuộc giao tiếp nhỏ giữa các nhân vật trong tác phẩm, xoay quanh sự kiện
Tràng nhặt được vợ. Tìm hiểu hoạt động giao tiếp trong tác phẩm “Vợ
nhặt”, chúng tôi lần lượt tìm hiểu những cuộc giao tiếp nhỏ trong tác
phẩm để làm sáng rõ cuộc giao tiếp lớn giữa tác giả và độc giả.
2.2. Hoạt động giao tiếp giữa các nhân vật trong truyện ngắn “Vợ nhặt”
Truyện ngắn “Vợ nhặt” được xây dựng dựa trên một tình huống
truyện độc đáo, đó là sự kiện anh cu Tràng ngẫu nhiên nhặt được vợ giữa
những ngày đói khủng khiếp trong nạn đói năm Ất Dậu 1945. Truyện có
ba nhân vật chính là anh Tràng, nhân vật thị - người đàn bà vợ nhặt và bà

13


Tìm hiểu hoạt động giao tiếp trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân
cụ Tứ - mẹ anh Tràng. Xoay quanh tình huống dở khóc dở cười này, có
nhiều cuộc giao tiếp đã diễn ra giữa các nhân vật: giữa anh Tràng và
người đàn bà vợ nhặt, giữa Tràng với mẹ - bà cụ Tứ, giữa người đàn bà vợ
nhặt với bà cụ Tứ, giữa Tràng với những người dân xóm ngụ cư, giữa
những người dân xóm ngụ cư với nhau. Các cuộc giao tiếp đó không tách
rời riêng biệt mà có sự đan lồng vào nhau theo diễn biến của câu chuyện.
Chúng tôi tìm hiểu theo hướng tách riêng từng cuộc giao tiếp, sắp xếp
theo logic câu chuyện, theo từng hoàn cảnh cụ thể để hiểu được tính cách,
phẩm chất của nhân vật cũng như thông điệp của nhà văn.
2.2.1. Cuộc giao tiếp giữa nhân vật Tràng và người đàn bà vợ nhặt.
Nhân vật Tràng được nhà văn giới thiệu là một anh con trai ngờ
nghệch, xấu xí, lại nghèo, là dân xóm ngụ cư, ở trong một ngôi nhà xiêu
vẹo với một mẹ già mắt đã kèm nhèm. Ở Tràng hội tụ đầy đủ các yếu tố
để có thể bị ế vợ. Tràng làm nghề kéo xe thóc cho Liên đoàn lên tỉnh. Còn
người đàn bà vợ nhặt là một người phụ nữ không rõ tên, tuổi, quê quán,
cũng đang khổ sở với cái đói. Chị chẳng có nghề gì, chỉ biết ngồi vêu ra ở
nhà kho, nhặt những hạt thóc rơi vãi, có ai thuê việc gì thì làm. Thị gầy
đét và xấu xí, “trên khuôn mặt lưỡi cày chỉ còn thấy hai con mắt”, “ngực
gầy lép”. Xét về vị thế xã hội, họ đều là những người dân nghèo, những
con người dưới đáy trong xã hội thực dân nửa phong kiến. Về quan hệ
thân sơ, họ là những người chưa hề quen biết. Tuy nhiên, theo diễn biến
câu chuyện, quan hệ giữa họ đã dần thay đổi. Điều này chi phối đến cách
sử dụng đại từ xưng hô và nội dung, hình thức giao tiếp giữa họ. Từ lần
đầu gặp, đến khi người đàn bà theo Tràng về làm vợ và đến sáng hôm sau
– buổi sáng đầu tiên là vợ chồng, những cuộc giao tiếp giữa họ có nhiều
thay đổi.


14


Tìm hiểu hoạt động giao tiếp trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân
a. Cuộc giao tiếp giữa Tràng và thị khi chưa là vợ chồng.

Khi chưa là vợ chồng, Tràng và thị đã qua hai lần gặp gỡ, ở nhà kho và ở chợ.
a1. Cuộc giao tiếp giữa Tràng và thị ở nhà kho.
Tràng và thị gặp gỡ trong một hoàn cảnh tình cờ. Tràng đang gò
lưng đẩy xe bò thóc lên dốc tỉnh .Có mấy người con gái ngồi vêu ra ở kho,
chờ nhặt những hạt thóc rơi vãi, trong đó có thị. Lúc này, Tràng và thị là
những người xa lạ, không hề quen biết. Tràng chỉ hò chơi cho đỡ mệt:
“Muốn ăn cơm trắng mấy giò / Lại đây mà đẩy xe bò với anh” . Câu hò
của Tràng không hướng cụ thể đến đối tượng giao tiếp nào, cũng không
nhằm mục đích chòng ghẹo, mời mọc một ai. Đó được xem là một câu hò
cho vui, một lời bông đùa cho bớt mệt nhọc, căng thẳng. Nhưng mấy
người đàn bà khác cứ đẩy thị ra và thị cũng tham gia vào cuộc giao tiếp.
Lúc này, thị gọi Tràng là “nhà tôi”, “đằng ấy”, kèm theo những lời bông
đùa mà rất thật “Có khối cơm trắng mấy giò đấy”, “nói thật hay là nói
khoác đây?”, “Đã thật thì đẩy chứ sợ gì, đằng ấy nhỉ?”, và cái liếc mắt
cười tít với Tràng. Như vậy, trong cuộc giao tiếp này, quan hệ giữa Tràng
và thị là xa lạ, cuộc giao tiếp của họ diễn ra trong bối cảnh lao động, dưới
hình thức bông đùa, nhằm mục đích giải tỏa những mệt nhọc trong lao
động. Nhưng hiệu quả giao tiếp không dừng lại ở đấy. Cách dùng đại từ
“nhà tôi”, “đằng ấy” kèm theo cái liếc mắt cười tít của người đàn bà
khiến Tràng “thích lắm, vì từ cha sinh mẹ đẻ đến giờ, chưa có người con
gái nào cười với hắn tình tứ như thế”. Điều này là tiền đề dẫn đến cuộc
giao tiếp tiếp theo giữa hai nhân vật.
a2. Cuộc giao tiếp giữa Tràng và thị ở chợ.

Cuộc giao tiếp này diễn ra trong lần gặp gỡ thứ hai giữa Tràng và
thị, trong bối cảnh Tràng vừa trả hàng xong, đang ngồi uống nước ở chợ
thì thị ở đâu sầm sập chạy đến, sưng sỉa. Lúc này,quan hệ giữa Tràng và
15


Tìm hiểu hoạt động giao tiếp trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân
thị đã thay đổi, không phải xa lạ, mà đã có quen biết, thị đã từng giúp
Tràng đẩy xe thóc, nhưng Tràng không giữ lời hứa, từ đấy mất mặt (theo
cách nghĩ của thị, vì lần gặp trước, Tràng chỉ nói bông đùa). Hoàn cảnh ở
chợ và quan hệ giữa các nhân vật là quan hệ ngang hàng, suồng sã nên lời
nói của các nhân vật không có đại từ xưng hô (trống không), có một số lời
nói mang tính khẩu ngữ, đời thường như “rích bố cu, hở”, “Về chị ấy
thấy hụt tiền thì bỏ bố”, “Làm đếch gì có vợ”
Trong cuộc giao tiếp, lời của thị nhắc lại chuyện cũ, trách Tràng không
giữ lời hứa, kèm theo nét mặt sưng sỉa, cong cớn. Cuộc nói chuyện của họ
xoay quanh hai vấn đề: miếng ăn và thị về làm vợ Tràng. Lời nói của thị
“Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu”, “ăn thật nhá! Ừ ăn thì ăn sợ gì” cho thấy
thị rất đói, không cần quan tâm đến phép lịch sự hay thể diện của một
người phụ nữ trước một người đàn ông mới gặp. Lời mời ăn của Tràng là
lời mời chân thành, nhưng lời nói bảo thị về làm vợ chỉ là bông đùa. Dẫu
vậy, thị theo về thật khiến Tràng ban đầu cũng lo lắng, chợn nghĩ “Thóc
gạo này đến cái thân mình cũng chẳng biết có nuôi nổi hay không mà còn
đèo bòng”. Đây là lời độc thoại của Tràng, thể hiện sự lo lắng cho cuộc
sống trong những ngày tiếp theo nếu đưa người phụ nữ này về làm vợ.
Câu nói “Chậc, kệ” cũng là của Tràng nói với chính mình, thể hiện niềm
khát khao hạnh phúc, tạm gác lại chuyện miếng ăn, cơm áo để vui với
niềm vui có vợ.
b. Cuộc giao tiếp giữa Tràng và thị khi đã là vợ chồng.


Cuộc giao tiếp giữa Tràng và thị khi đã là vợ chồng diễn ra ở ba không
gian, ba hoàn cảnh khác nhau: trên đường đưa thị về nhà, ở trong nhà,
sáng hôm sau.
b1. Cuộc giao tiếp giữa Tràng và thị trên đường về nhà.

16


Tìm hiểu hoạt động giao tiếp trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân
Cuộc giao tiếp này diễn ra trong bối cảnh Tràng đưa thị về nhà ra
mắt bà cụ Tứ. Trên đường từ chợ về nhà, họ đi qua những ngôi nhà của
dân xóm ngụ cư, nơi có những con người cũng đang điêu đứng vì cái đói.
Lúc này, quan hệ giữa Tràng và thị đã có sự thay đổi, không còn là
quan hệ xa lạ, mà là vợ chồng, nhưng là vợ chồng mới, lại cũng chỉ gặp
nhau có hai lần nên còn nhiều ngượng nghịu, e ngại.
Trong cuộc giao tiếp này, các lời giao tiếp xuất hiện ít, ngắn gọn,
không có chủ ngữ, xoay quanh chuyện sắp đến nhà chưa, nhà có ai không,
chuyện hai hào dầu để thắp đêm tân hôn. Các lời nói mang tính khẩu ngữ
như “có một mình tôi mấy u”, “vợ mới vợ miếc”, “khỉ gió”, “khiếp”
không thể hiện sư suồng sã mà thể hiện sự gần gũi giữa họ. Câu chuyện
giữa hai người dần trở nên thân mật hơn. Trong lời của đôi vợ chồng mới
này, ta vẫn thấy dấu ấn của cái đói len lỏi. Có lẽ hàng ngày Tràng không
dám bỏ tiền mua dầu, vì rất đắt, hôm nay mới mua hai hào để thắp cho
sáng sủa. Lời của thị “Hoang nó vừa vừa chứ” cho thấy sự quan tâm của
họ đến cái đói, cũng cho thấy ý thức cùng nhau lo liệu cuộc sống của thị.
Trong cuộc giao tiếp này, chúng tôi nhận thấy có những lời giao tiếp
mang hàm ý. Tràng chửi mấy con chó “Mẹ bố chúng mày cắn gì thế?”
nhưng không chỉ để chửi chúng mà còn để khỏa lấp không gian cho đỡ
ngượng ngùng, bởi hai người đang im lặng đi bên nhau.
Trong đoạn này, chúng tôi nhận thấy có những câu là lời của tác giả

nhưng thể hiện suy nghĩ, tâm trạng của nhân vật: “Trong một lúc Tràng
hình như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, quên cả cái
đói khát ghê gớm đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt.
Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi
bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo
khổ ấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay
17


Tìm hiểu hoạt động giao tiếp trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân
vuốt nhẹ trên sống lưng.” Bằng hình thức này, tác giả đã thể hiện rõ hơn
nhưng rung động nội tâm đang diễn ra trong nhân vật Tràng.
b2. Cuộc giao tiếp giữa Tràng và thị khi về đến nhà.
Cuộc giao tiếp giữa Tràng và thị diễn ra trong bối cảnh họ đã về đến
nhà, một cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn
những búi cỏ dại. Trong nhà, niêu bát, xống áo vứt bừa bãi trên giường,
dưới đất. Lần đầu thị về nhà Tràng, lại là ngôi nhà nhỏ bé, rúm ró, thể
hiện chủ nhân của nó rất nghèo. Bối cảnh này chi phối đến lời thoại của
các nhân vật.
Thị dường như không nói gì, hay chính xác hơn là không đối thoại
với Tràng. Thị ngồi mớm ở mép giường, ngồi im, mặt bần thần. Nhưng
những cử chỉ của thị cũng là lời độc thoại, thể hiện sự nhận xét, suy nghĩ
của thị khi về nhà Tràng. Đứng trước ngôi nhà rúm ró, thị nén một tiếng
thở dài. Tiếng thở dài ấy gián tiếp thể hiện tâm trạng buồn của người vợ
nhặt về gia cảnh nghèo của người chồng mình vừa quyết định theo về. Có
lẽ, thị chờ đợi một điều gì đó tốt đẹp hơn thế, cho dù thị cũng đã chuẩn bị
tâm lí. Nghe lời Tràng nói “Không có người đàn bà, nhà cửa thế đấy!”
khi Tràng thu dọn quần áo trên giường, dưới đất, thị không nói mà chỉ
“nhếch mép cười nhạt nhẽo”. Cử chỉ có hàm ý, vừa là sự đồng cảm, vừa
là một nỗi buồn trước gia cảnh.

Trong cuộc giao tiếp này chỉ có lời của Tràng, số lời nói cũng rất ít.
Đó là lời thanh minh về sự bừa bãi, lời mời thị ngồi, lời trách đổng bà cụ
Tứ sao về muộn. Những lời nói của Tràng thể hiện sự đon đả với người vợ
mới, cũng là để lấp khoảng im lặng tồn tại giữa hai người. Ở nhân vật
Tràng còn có những lời độc thoại nội tâm: “Quái sao nó lại buồn thế
nhỉ?” thể hiện sự băn khoăn của Tràng về biểu hiện của người vợ nhặt.
Cử chỉ tủm tỉm cười một mình của Tràng có thể xem như một lời độc
thoại, thể hiện niềm vui và sự ngạc nhiên của Tràng khi có vợ.
18


Tìm hiểu hoạt động giao tiếp trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân
b3. Cuộc giao tiếp giữa Tràng và thị trong buổi sáng hôm sau.
Cuộc giao tiếp này giữa Tràng và thị diễn ra trong bối cảnh bữa cơm
đầu tiên sáng hôm sau. Giữa cái chát xít của miếng cám trong miệng ba
người, giữa nỗi hờn tủi đang len lỏi trong tâm trí ba mẹ con, tiếng trống
thúc thuế nổi lên. Người vợ nhặt ngạc nhiên khi ở đây vẫn phải đóng thuế,
kể chuyện ở mạn Bắc Giang, Thái Nguyên người ta không đóng thuế mà
còn phá kho thóc Nhật để chia cho dân đói. Tràng hỏi để xác định: “Việt
Minh phải không?”. Người vợ nhặt trả lời, xác nhận sự thật: “Ừ, sao nhà
biết”. Lời nói của Tràng và thị ngắn gọn, hướng tới hiện thực xã hội: Việt
Minh phá kho thóc Nhật. Người vợ nhặt sử dụng đại từ “nhà” để nói về
Tràng, cho thấy sự thân mật, gần gũi. Đây là cách dùng đại từ xưng hô
quen thuộc của vợ chồng thời xưa. Câu trả lời của nhân vật thị cho thấy
thị không còn vẻ cong cớn như lần gặp ngoài chợ mà trở nên điềm đạm, tế
nhị. Câu nói này cũng đồng thời khiến Tràng nhớ lại “cảnh những người
nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Đàng trước có lá cờ đỏ to
lắm” và sự “ân hận, tiếc rẻ, vẩn vơ” ở Tràng.
Như vậy, cuộc giao tiếp giữa Tràng và thị diễn ra trong nhiều bối
cảnh khác nhau: ở nhà kho, ở chợ, trên đường về nhà, ở nhà, bữa cơm

sáng hôm sau. Mối quan hệ liên cá nhân giữa Tràng và thị cũng liên tục
thay đổi trong từng hoàn cảnh giao tiếp, từ xa lạ đến thân mật, gần gũi, từ
người dưng đến người trong một nhà. Trong những cuộc giao tiếp đó, bao
gồm cả lời đối thoại và độc thoại nội tâm, không chỉ thể hiện rõ tính cách,
phẩm chất của nhân vật mà còn cho thấy diễn biến nội tâm phức tạp của
nhân vật. Tràng hiện lên là một người nông dân nghèo chất phác, tuy xấu
xí nhưng tốt bụng, luôn có niềm khát vọng hạnh phúc, sẵn sàng cưu mang
người cùng cảnh ngộ. Ở Tràng đã có sự thay đổi, từ ngờ nghệch trở nên
chín chắn, đĩnh đạc, thấy có trách nhiệm, bổn phận với gia đình của mình.
Ở nhân vật thị cũng diễn ra sự thay đổi lớn, từ một người đàn bà cong
19


Tìm hiểu hoạt động giao tiếp trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân
cớn, chao chát, chỏng lỏn trở thành một người dâu hiền vợ thảo, hiền hậu
đúng mực.
2.2.2. Cuộc giao tiếp giữa Tràng và bà cụ Tứ.
a. Cuộc giao tiếp giữa Tràng và bà cụ Tứ trong buổi tối Tràng đưa vợ về.
Cuộc giao tiếp này diễn ra tại nhà Tràng, khi trời đã tối, Tràng đưa
người vợ nhặt về mà chưa hề báo trước với bà cụ Tứ. Bản thân Tràng
cũng đang ngạc nhiên rằng mình đã có vợ và đang nóng ruột không biết
mẹ sẽ phản ứng thế nào, có đồng ý hay không. Tràng đã phải đợi rất lâu
mà chưa thấy mẹ về. Hoàn cảnh đó khiến Tràng vô cùng vui mừng khi
nhìn thấy bà cụ Tứ lọng khọng bước vào ngõ. Tràng đón mẹ từ đằng xa:
“Hôm nay sao u về muộn thế! Làm tôi đợi nóng cả ruột.” Phát ngôn này
là một lời trách sao bà cụ về muộn, nhưng cũng hàm ý thể hiện sự vui
mừng khi mẹ đã về. Hai phát ngôn tiếp theo của Tràng thể hiện sự quan
trọng của việc mà Tràng sắp nói với mẹ:
-


Thì u hẵng vào trong nhà đã nào.

-

Thì u hẵng ngồi lên giường lên diếc chĩnh chện cái đã nào!

Hai phát ngôn tiếp theo của Tràng là lời giới thiệu người vợ nhặt với mẹ:
-

Kìa nhà tôi nó chào u.

-

Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! chúng tôi phải duyên
phải kiếp với nhau... Chẳng qua nó cũng là cái số cả...

Tràng vốn bản chất người lao động nghèo, không nói lời hoa mĩ, không
dẫn dắt đầu cuối mà tiếp lời người vợ nhặt. Đây là một lời giới thiệu giản
dị nhưng cũng đầy bất ngờ đối với bà cụ Tứ - người từ nãy đã ngạc nhiên,
không hiểu vì sao có người đàn bà lạ trong nhà. Trong các lời thoại, nhân
vật Tràng sử dụng cách xưng hô “tôi – u”, gọi người vợ nhặt là “nhà tôi”.
Đây là những đại từ xưng hô quen thuộc của người nông dân trong xã hội cũ.
20


Tìm hiểu hoạt động giao tiếp trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân
Trong lời của Tràng sử dụng nhiều khẩu ngữ, thể hiện sự dân dã, mộc mạc
của người dân quê: “hẵng, ngồi lên giường lên diếc, chĩnh chện.”.
Trong cuộc giao tiếp này, lời của bà cụ Tứ rất ít, chủ yếu là độc
thoại nội tâm.

“Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà
nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình
bằng u? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ?”,
“Ô hay, thế là thế nào nhỉ?”
“Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên
làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì...”,
“Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến
con mình. Mà con mình mới có vợ được... Thôi thì bổn phận bà là mẹ, bà
đã chẳng lo lắng được cho con... May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn
này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt
chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết được?”
Những lời độc thoại nội tâm thể hiện sự ngạc nhiên của bà cụ Tứ khi
nhìn thấy người đàn bà lạ trong nhà và nỗi lo lắng, tủi hờn của một người
mẹ nghèo khổ khi thấy con mình có vợ trong cảnh đói nghèo.
Bà cụ Tứ có rất ít lời đối thoại với Tràng, nhưng cũng là với cả người
vợ nhặt:
-

Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng.

Lời thoại trên vừa thể hiện sự bằng lòng, đồng ý, vừa thể hiện sự vui
mừng của bà cụ khi thấy con mình có vợ. Nhưng câu nói này còn chứa ý
hàm ẩn đằng sau nó. Hai chữ “mừng lòng” (chứ không phải vui lòng)
phần nào gợn lên nỗi canh cánh trong lòng người mẹ nghèo khổ.
Hai lời thoại tiếp theo của bà cụ Tứ: “-Có đèn đấy à? Ừ, thắp lên một
tí cho sáng sủa… Dầu bây giờ đắt gớm lên ấy mày ạ”, “ – Hôm nào nghỉ
21


Tìm hiểu hoạt động giao tiếp trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân

ở nhà kiếm lấy ít nứa đan lấy cái phên ngăn ra mày ạ” cho thấy bà cụ có
những bàn tính, sắp xếp khi gia đình có thêm thành viên mới. Đó là sự
chu đáo của một người mẹ. Khi đó, Tràng chỉ vâng một cách ngoan
ngoãn, điều vẫn ít xảy ra trong ngôi nhà này. Rõ ràng, sự việc thị về làm
vợ Tràng đã dẫn đến nhiều thay đổi trong gia đình bà cụ Tứ.
b.. Cuộc giao tiếp giữa Tràng và bà cụ Tứ trong buổi sáng hôm sau.
Cuộc giao tiếp này diễn ra trong bối cảnh: Sáng hôm sau, bà cụ Tứ và
người vợ nhặt đã dậy sớm dọn dẹp, quét tước nhà cửa. Ngôi nhà trở nên
sạch sẽ, sáng sủa, khác hẳn mọi ngày. Tràng dậy muộn, khi mặt trời đã
cao bằng con sào. Thấy Tràng dậy, bà cụ Tứ bảo người con dâu đi dọn
cơm. Cuộc giao tiếp diễn ra trong bữa cơm đầu tiên đón nàng dâu mới.
Những lời thoại của bà cụ Tứ không chỉ hướng tới Tràng mà còn hướng
tới người con dâu. Bà cụ Tứ sử dụng đại từ xưng hô “tao – mày, chúng
mày”, thể hiện cách nói thân mật, đời thường. Lời của bà cụ Tứ nói đến
chuyện bao giờ có tiền thì mua đôi gà, chuyện nồi cháo cám mà bà gọi là
chè khoán. Mỗi lời nói của bà cụ Tứ đều kèm theo thái độ vui vẻ, thể hiện
niềm tin vào tương lai, hay cũng chính là lời động viên khích lệ các con.
Như vậy, cuộc giao tiếp giữa Tràng và bà cụ Tứ diễn ra trong hai bối
cảnh khác nhau: buổi tối hôm trước khi Tràng đưa vợ về nhà và buổi sáng
hôm sau. Qua những lời giao tiếp của các nhân vật, ta thấy bà cụ Tứ thể
hiện là một người mẹ yêu thương con hết mực, rất từng trải, luôn biết lo
xa. Tràng thể hiện là một người con tôn trọng mẹ và ngoan ngoãn. Sự việc
Tràng nhặt được vợ đã khiến bà cụ Tứ trở nên nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác
ngày thường, khiến Tràng trở nên đĩnh đạc, chín chắn và đầy trách nhiệm.
2.2.3. Cuộc giao tiếp giữa bà cụ Tứ và người đàn bà vợ nhặt.
a. Cuộc giao tiếp giữa bà cụ Tứ và người đàn bà vợ nhặt trong buổi
tối hôm trước.
22



Tìm hiểu hoạt động giao tiếp trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân
Trong cuộc giao tiếp này, nhân vật thị nói không nhiều, chỉ là hai
câu chào: “U đã về ạ!”, cho thấy sự bẽn lẽn của nàng dâu mới.
Khi Tràng ra ngoài sân, bà cụ Tứ nói với nàng dâu những lời thương xót.
Bà cụ sử dụng cách xưng hô: u – con, u – chúng mày, thể hiện sự thân
mật. Bà đã xem thị là con cái trong nhà. Những lời thoại của bà cụ là lời
giãi bày gia cảnh: “nhà mình nghèo con ạ”, là lời thương xót các con:
“Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá”, là lời nhắc nhở, phân trần:
“Năm nay đói to đấy”, là lời khuyên: “Vợ chồng chúng mày bảo nhau
liệu mà làm ăn”, là lời động viên, khích lệ, hy vọng: “Rồi may ra mà ông
giời cho khá…Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra rồi
thì con cái chúng mày về sau”
Các lời thoại cho thấy bà cụ Tứ là một người từng trải, hiểu đời, một
người mẹ thương con, vun đắp niềm tin cho các con.
b. Cuộc giao tiếp giữa bà cụ Tứ và người con dâu trong buổi sáng
hôm sau.
Cuộc giao tiếp này diễn ra trong bối cảnh bà cụ Tứ và người con
dâu đang dọn dẹp nhà cửa thì Tràng dậy. Bà cụ Tứ bảo nàng dâu: “Anh ấy
dậy rồi đấy. Con đi dọn cơm ăn chẳng muộn”. Bà cụ gọi Tràng là “anh
ấy”. Đây là cách nói thay con dâu của người mẹ nông dân thời xưa. Cách
xưng hô (mẹ) – con giữa bà cụ Tứ và thị cho thấy sự thân mật, gần gũi.
Thị “vâng” một cách ngoan ngoãn, thể hiện một người dâu hiền thảo,
đúng mực.
Trong bữa cơm ngày đói, khi bữa cơm đang diễn ra thì nổi lên tiếng
trống thúc thuế. Cuộc giao tiếp giữa người đàn bà vợ nhặt và bà cụ Tứ lúc
này hướng đến vấn đề người dân phải nộp thuế. Lời của bà cụ Tứ thể hiện
sự ngán ngẩm, chua xót khi chính quyền thực dân vừa bắt “giồng đay”,
vừa bắt “nộp thuế”, nên “không chắc đã sống qua được”. Lời của người
23



Tìm hiểu hoạt động giao tiếp trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân
vợ nhặt thể hiện sự ngạc nhiên khi ở đây vẫn phải nộp thuế, đồng thời kể
chuyện ở mạn Bắc Giang, Thái Nguyên, người ta không nộp thuế mà còn
phá kho thóc Nhật chia cho người đói. Lời nói của thị làm thay đổi không
khí, hướng câu chuyện đến một hướng tích cực hơn, nhất là trong suy
nghĩ của Tràng.
Như vậy, cuộc giao tiếp giữa bà cụ Tứ và người vợ nhặt diễn ra
trong hai bối cảnh: buổi tối hôm trước khi thị về ra mắt và buổi sáng hôm
sau. Diễn biến các lời thoại cho thấy tấm lòng hiền hậu của bà cụ Tứ và sự
đúng mực của người con dâu.
2.2.4. Cuộc giao tiếp giữa Tràng và dân xóm ngụ cư, giữa những
người dân xóm ngụ cư.
Cuộc giao tiếp giữa Tràng và thị, giữa Tràng và bà cụ Tứ, giữa bà cụ
Tứ và người con dâu là những cuộc giao tiếp chính của câu chuyện. Ngoài
ra, cũng cần chú ý đến cuộc giao tiếp giữa Tràng và dân xóm ngụ cư, giữa
những người dân xóm ngụ cư với nhau. Đây là những cuộc giao tiếp phụ,
diễn ra ngắn gọn nhưng cũng góp phần làm nên ý nghĩa của tác phẩm,
truyền đạt tư tưởng, quan điểm của nhà văn.
a. Cuộc giao tiếp giữa những người dân xóm ngụ cư.
Cuộc giao tiếp diễn ra tại một xóm ngụ cư nghèo, vào buổi chiều, khi
Tràng đưa thị về nhà, đi qua những ngôi nhà trong xóm. Cái đói tràn lan,
những người dân xóm ngụ cư gương mặt u tối, hốc hác. Trong hoàn cảnh
đói khát ấy, chẳng ai nghĩ đến chuyện lấy vợ thì anh Tràng lại đem theo
một người phụ nữ về. Mà anh Tràng lại vốn xấu xí, ngờ nghệch, ế vợ. Sự
kiện này thật bất ngờ với họ, gây lên sự khó hiểu, khiến họ bàn tán, nhìn
ngó. Những phát ngôn của những người dân xóm ngụ cư với nhau xoay
quanh chuyện phỏng đoán xem người phụ nữ đi bên cạnh Tràng là ai. Họ
dùng phương pháp loại trừ:
24



Tìm hiểu hoạt động giao tiếp trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân
-

Ai đấy nhỉ? Hay là người dưới quê bà cụ Tứ mới lên?

-

Chả phải, từ ngày còn mồ ma ông cụ Tứ, có thấy họ mạc nào lên
thăm đâu.

-

Quái nhỉ?

Và họ đưa ra nhận xét, dựa vào dáng điệu của người đàn bà đi bên Tràng:
-

Hay là vợ anh cu Tràng? Ừ, khéo mà vợ anh cu Tràng thật anh em
ạ, trông chị ta thèn thẹn hay đáo để.

Sau đó, những người dân xóm ngụ cư bàn tán về sự kiện Tràng có vợ.
Lời bàn tán thể hiện người nói là một người từng trải và cách nghĩ của họ
đang bị chi phối nặng nề bởi hoàn cảnh cái đói đang bao trùm, len lỏi:
-

Ối chao! Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi
sau sống qua được cái thì này không.


Lời thoại của những người dân xóm ngụ cư mang đậm hình thức khẩu
ngữ, là cách nói của những người dân quê ngày xưa. Sự lo lắng của họ
thay cho Tràng là điều dễ hiểu, bởi họ cũng như Tràng, đang sống trong
cảnh đói khát triền miên. Tuy nhiên, cuộc giao tiếp giữa những người dân
xóm ngụ cư càng thể hiện rõ một phẩm chất đáng quý ở Tràng: tấm lòng
nhân hậu, sẵn sàng cưu mang người cùng cảnh ngộ, và nhất là niềm khát
khao hạnh phúc. Tràng không phải không biết đến những khó khăn trước
mặt, chính Tràng cũng đã chợn nghĩ khi thị đồng ý theo Tràng về: “Thóc
gạo này không biết có nuôi nổi mình hay không mà còn đèo bòng” , nhưng
rồi Tràng cũng “Chậc! Kệ”. Tràng tạm gác lại những nỗi lo về miếng ăn
để vui với niềm vui có vợ. Đó là niềm hạnh phúc chính đáng.
b. Cuộc giao tiếp giữa Tràng và những người dân xóm ngụ cư.
Cuộc giao tiếp này cũng diễn ra tại xóm ngụ cư, vào buổi chiều
Tràng đưa người vợ nhặt về nhà. Những đứa trẻ cong cổ lên trêu Tràng:
“Chông vợ hài” (Hai vợ chồng). Tràng đáp lại bằng một câu chửi: “Bố
25


×