Tải bản đầy đủ (.docx) (95 trang)

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ ( Mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của hội sở chính ngân hàng thương mại cổ phần quân đội )

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (474.4 KB, 95 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung được trình bày trong luận văn là hoàn toàn
trung thực, là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, và chưa được sử dụng để bảo vệ một
học vị nào.
Các số liệu được sử dụng trong luận văn được thu thập thực tế, chính xác,
đáng tin cậy, có nguồn ngốc rõ ràng, được xử lý trung thực khách quan.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Lê Thị Như Quỳnh


LỜI CẢM ƠN
Để có thể hoàn thành đề tài luận văn thạc sỹ một cách hoàn chỉnh, bên cạnh
sự nỗ lực, cố gắng của bản thân tác giả, còn có sự hướng dẫn nhiệt tình của quý thầy
cô và sự động viên ủng hộ của gia đình bạn bè trong suốt quá trình học tập, nghiên
cứu.
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc nhất, tôi xin chân thành cảm ơn giảng
viên hướng dẫn TS. Trương Thị Hoài Linh. Trong thời gian qua, cô đã dành nhiều
thời gian và công sức, với nhiệt huyết và trách nhiệm để hướng dẫn tôi trong quá
trình thực hiện luận văn này.
Cuối cùng tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến gia đình, bạn bè đã
không ngừng ủng hộ động viên và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt thời
gian học tập và thực hiện luận văn.


MỤC LỤC


DANH MỤC KÝ HIỆU VIẾT TẮT
Kí hiệu
DNVVN


MB
TMCP
NHTM
CHXHCN

Nội dung
Doanh nghiệp vừa và nhỏ
Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội
Thương mại cổ phần
Ngân hàng thương mại
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC BẢNG


DANH MỤC BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ


7

LỜI MỞ ĐẦU


Lý do lựa chọn đề tài

Hiện nay, trong cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam thì doanh nghiệp vừa và
nhỏ đang là loại hình chiếm đa số và chủ yếu của nền kinh tế. Cụ thể tính tới cuối
năm 2014, Việt Nam có khoảng 500 nghìn doanh nghiệp vừa và nhỏ, chiếm đến
98% tổng số doanh nghiệp. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng vai trò rất quan

trọng đối với sự phát triển chung của đất nước. Thể hiện ở việc, hàng năm doanh
nghiệp vừa và nhỏ đóng góp khoảng 40% vào tổng sản lượng quốc nội (GDP), 30%
vào thu nộp ngân sách nhà nước, 33% giá trị sản lượng công nghiệp, 30% giá trị
hàng hóa xuất khẩu và thu hút tới 51% lượng lao động,… (Tô Hoài Nam, 2015).
Trong thời gian gần đây, doanh nghiệp vừa và nhỏ còn tham gia tích cực vào quá
trình cân đối ngoại tệ, do tỷ lệ các doanh nghiệp hoạt động trong quá trình xuất
nhập khẩu ngày càng tăng. Không những chỉ đóng góp vào sự phát triển của nền
kinh tế, doanh nghiệp vừa và nhỏ còn tạo ra hàng triệu công ăn việc làm mỗi năm,
góp phần xóa đói giảm nghèo, tăng cường ổn định an sinh xã hội.
Mặc dù có những đóng góp to lớn về kinh tế, xã hội như vậy, tuy nhiên
cũng trong năm 2014, chúng ta đã phải đón nhận hàng loạt thông tin về việc thu
nhỏ hoạt động, thậm chí phá sản của các doanh nghiệp mà trong đó, doanh nghiệp
vừa và nhỏ cũng chiếm đa số. Một trong số những nguyên nhân dẫn tới tình trạng
nêu trên của các doanh nghiệp vừa vả nhỏ trong thời gian qua đó chính là khó
khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn ngân hàng. Thực tế, tại thời điểm này, chỉ có
30% số doanh nghiệp vừa và nhỏ được tiếp cận nguồn vốn ngân hàng, còn lại 70%
là sử dụng vốn tự có hoặc vay từ nguồn khác, trong đó có nhiều doanh nghiệp phải
chịu mức lãi suất rất cao, lên tới 18%/năm (Tô Hoài Nam, 2014). Ngoài nguyên
nhân chủ quan từ nội tại doanh nghiệp như đặc điểm về quy mô, chất lượng sản
phẩm, cách thức quản lý, minh bạch thông tin,… thì nguyên nhân từ phía ngân
hàng cũng là một thách thức đối với việc tiếp cận nguồn vốn của các doanh nghiệp
vừa và nhỏ. Các ngân hàng đều gặp phải vướng mắc trong quá trình cho vay đối


8

với các doanh nghiệp vừa và nhỏ dù biết đây là loại hình chiếm đa số trong cơ cấu
khách hàng, mang lại nguồn lợi nhuận không nhỏ cho hệ thống ngân hàng.
Cụ thể, tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội, đặc biệt là hội sở
chính (sau đây trong luận văn sẽ viết tắt là MB) – cơ quan có nhiệm vụ tổng hợp

và ra quyết sách cuối cùng tại ngân hàng đã ý thức sâu sắc về việc phải mở rộng
cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ngân hàng cũng đã triển khai nhiều
gói hỗ trợ doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng. Tuy
nhiên trong quá trình triển khai, ngân hàng vẫn vấp phải một số khó khăn nhất
định. Cụ thể như vẫn có nhiều yêu cầu vay vốn mà doanh nghiệp vừa và nhỏ
chưa đáp ứng được, thời gian xử lý và thủ tục vay vốn của ngân hàng chưa thực
sự nhanh gọn so với các đối thủ cạnh tranh, mức giá (lãi suất, phí,..) và tài sản
đảm bảo bị hạn chế bởi các quy định về quản trị rủi ro và cân đối nguồn vốn dẫn
tới việc ít hấp dẫn doanh nghiệp vừa và nhỏ hơn các ngân hàng thuộc khối quốc
doanh và thương mại cổ phần nhỏ (các ngân hàng chuyên cho vay dưới chuẩn),
… Thực tế cho thấy, việc mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ phải
được triển khai theo hai hướng là mở rộng theo quy mô nhưng đi kèm đó là mở
rộng theo chất lượng để đảm bảo việc mở rộng cho vay theo chiều rộng mà vẫn
đảm bảo chất lượng của hoạt động cho vay không đi xuống, thậm chí phải tăng
lên đồng thời. Nhận biết được những hạn chế còn trong việc mở rộng cho vay
đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ qua thời gian công tác tại Ngân hàng thương
mại cổ phần Quân đội, tôi quyết định lựa chọn đề tài “Mở rộng cho vay đối với
doanh nghiệp vừa và nhỏ của hội sở chính Ngân hàng thương mại cổ phần
Quân đội” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình.

-

Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu tổng quát: luận văn tìm hiểu và đưa ra những chỉ tiêu,
thang đo phản ánh mức độ mở rộng cho vay đối với DNVVN tại ngân hàng

-

thương mại, các nội dung liên quan tới mở rộng cho vay đối với DNVVN.
Mục tiêu nghiên cứu cụ thể: phân tích, đánh giá thực trạng mở rộng cho vay

đối với DNVVN tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội dựa vào những
chỉ tiêu và thang đo đã lựa chọn. Thông qua đó tìm ra ưu, nhược điểm,


9

nguyên nhân gây ra nhược điểm trong quá trình cho vay và sử dụng các biện
-

pháp mở rộng cho vay đối với DNVVN.
Mục tiêu đề xuất: luận văn đưa ra những giải pháp mới, cụ thể, có tính khả
thi nhằm mở rộng cho vay đối với DNVVN cho Hội sở chính của Ngân hàng

-

thương mại cổ phần Quân đội.
• Đối tượng, khách thể nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: vấn đề lý luận và thực tiễn về mở rộng cho vay đối
với DNVVN tại ngân hàng thương mại
Khách thể nghiên cứu: Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội.
• Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi thời gian: Luận văn phân tích và đánh giá thực trạng mở rộng cho
vay trong giai đoạn 2012 – 2014 và đưa ra giải pháp mở rộng cho vay trong

-

giai đoạn 2015 – 2020.
Phạm vi không gian: Hội sở chính của Ngân hàng thương mại cổ phần Quân

-


đội.
Phạm vi về lĩnh vực nghiên cứu:
+ Mở rộng cho vay trong luận văn được hiểu là mở rộng cho vay cả về quy

mô và chất lượng.
+ Chất lượng cho vay có thể được đánh giá trên giác độ ngân hàng hoặc
khách hàng, tuy nhiên trong nội dung luận văn, chất lượng cho vay được đánh giá
từ phía khách hàng.
+ Về giải pháp đề xuất: Hiện nay có nhiều giải pháp nhằm mở rộng cho vay
đối với DNVVN, tuy nhiên luận văn chỉ tập trung nghiên cứu các giải pháp về
chính sách tín dụng, nguồn nhân lực, trang thiết bị, phần mềm và công tác
marketing.

-

Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng cả phương pháp định tính

và định lượng trong quá trình nghiên cứu
Đối với nguồn dữ liệu sơ cấp:
+ Phương pháp thu thập dữ liệu: phương pháp phỏng vấn sâu thông qua việc

phỏng vấn trực tiếp các khách hàng DNVVN (đại diện là ban lãnh đạo hoặc kế toán
trưởng các doanh nghiệp), nhân viên tín dụng tại ngân hàng.


10

+ Phương pháp phân tích dữ liệu: luận văn sử dụng phương pháp định tính
để tổng hợp thông tin thu được qua các câu trả lời của đối tượng được phỏng vấn, từ

đó thực hiện phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng cho vay đối với DNVVN của
ngân hàng và ưu, nhược điểm của các giải pháp mở rộng cho vay đối với DNVVN
đang được áp dụng tại ngân hàng.
-

Đối với nguồn dữ liệu thứ cấp:
+ Phương pháp thu thập dữ liệu: Dữ liệu được lấy từ các báo cáo thường

niên, báo cáo riêng lẻ, báo cáo khối DNVVN của ngân hàng trong các năm 2012,
2013, 2014. Bên cạnh đó là các văn bản về chính sách, quy trình của nội bộ ngân
hàng, báo, tạp chí, giáo trình,…
+ Phương pháp phân tích dữ liệu: luận văn sử dụng phương pháp định lượng
để phân tích các chỉ tiêu phản ánh mức độ mở rộng cho vay đối với DNVVN theo
quy mô. Bằng việc so sánh giá trị tuyệt đối và tương đối của các chỉ tiêu này sẽ cho
thấy xu hướng và mức độ mở rộng cho vay đối với DNVVN.


Kết cấu luận văn: Ngoài phần lời mở đầu và kết luận, luận văn được
chia thành 3 phần chính như sau:

Chương 1: Những lý luận cơ bản về mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp
vừa và nhỏ tại ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại
ngân hàng thương mại tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng cho vay đối với doanh
nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng thương mại của Hội sở chính Ngân hàng
thương mại cổ phần Quân đội


11


CHƯƠNG 1
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ MỞ RỘNG CHO VAY
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.1. Tổng quan về doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ
Hiện nay trên thế giới, do đặc điểm kinh tế - xã hội của mỗi nước khác nhau,
vì vậy mà không có một khái niệm thống nhất về DNVVN. Tuỳ theo thực trạng của
các doanh nghiệp, trình độ phát triển của mỗi nền kinh tế mà các nước có tiêu chí
xác định cho riêng mình. Theo Nilgun F. và Nguyễn Đình Phan (năm 1996): Đối
với ngân hàng thế giới và những nền kinh tế lớn như Mỹ, liên minh Châu Âu,
Australia,... DNVVN được phân loại căn cứ vào số lượng lao động nhưng ở mỗi
nước lại quy định một con số khác nhau. Cụ thể, tại Mỹ, DNVVN không có quá
1000 lao động, trong đó, nếu có từ 200 lao động trở xuống thì được coi là doanh
nghiệp nhỏ. Đối với liên minh Châu Âu thì số lao động không vượt quá 250 và với
Australia con số này là 300 sẽ được xếp vào DNVVN. Tại châu Á, một số quốc gia
như Nhật Bản, Hàn Quốc hay Hồng Kông lại phân loại DNVVN bằng cách kết hợp
nhiều yếu tố. Đối với Hàn Quốc, bên cạnh việc dựa vào số lượng lao động, họ còn
có thêm chỉ tiêu ngành bao gồm ba nhóm: xây dựng, dịch vụ, chế tạo máy và khai
khoáng. Với Nhật Bản, thì DNVVN có dưới 300 lao động hoặc vốn đầu tư không
vượt quá 1 triệu USD, trong đó, dưới 20 lao động được coi là doanh nghiệp nhỏ.
Còn các nền kinh tế trong khu vực Đông Nam Á, điển hình là Indonexia phân loại
DNVVN dựa trên 3 tiêu thức là số lượng lao động, tổng giá trị tài sản và doanh thu.
Như vậy, mặc dù mỗi nền kinh tế đều có cho mình khái niệm riêng về
DNVVN nhưng ta có thể thấy hai tiêu thức được sử dụng phổ biến nhất để phân biệt
loại hình doanh nghiệp này là số lượng lao động trung bình và tổng vốn đầu tư của


12


doanh nghiệp. Bên cạnh đó, tùy vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi
nước và những quy định cụ thể phù hợp trong từng giai đoạn, ngành nghề khác
nhau thì chỉ tiêu độ lớn của các tiêu thức cũng khác nhau.
Tại Việt Nam, sau một thời gian nghiên cứu, học hỏi các quốc gia trên thế
giới và theo sát thực tế thì theo Chính phủ (2001): "DNVVN là cơ sở sản xuất, kinh
doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký
không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người".
Khái niệm này chỉ mang tính chất tương đối, bởi nó còn tùy thuộc vào lĩnh vực mà
doanh nghiệp đang hoạt động. Nội dung này đã được cụ thể hóa Chính phủ (2009):
“Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy
định pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn
vốn (tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân đối kế
toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí
ưu tiên).


13

Bảng 1.1: Phân loại doanh nghiệp theo tiêu chí số lao động và nguồn vốn

Quy mô

Doanh

Doanh nghiệp nhỏ

Doanh nghiệp vừa

nghiệp

siêu nhỏ
Số lao

Tổng

I. Nông, lâm

động
10 người

nghiệp và thủy

trở xuống

Khu vực

sản
II.

Số lao động

Tổng nguồn

Số lao động

nguồn vốn
20 tỷ đồng

từ trên 10


vốn
từ trên 20 tỷ

từ trên 200

trở xuống

người đến

đồng đến

người đến 300

100 tỷ đồng
từ trên 20 tỷ

người
từ trên 200

Công

10 người

20 tỷ đồng

200 người
từ trên 10

nghiệp và xây


trở xuống

trở xuống

người đến

đồng đến

người đến 300

100 tỷ đồng
từ trên 10 tỷ

người
từ trên 50

đồng đến 50

người đến 100

dựng
III.
Thương

10 người

10 tỷ đồng

200 người
từ trên 10


mại và dịch vụ

trở xuống

trở xuống

người đến 50
người

tỷ đồng
người
(Nguồn: Chính phủ, 2009)

Tóm lại, việc nhận diện DNVVN được coi là cần thiết và phù hợp với tình
hình kinh tế - xã hội của nước ta trong giai đoạn hiện nay nhằm đưa ra nhận thức
đúng đắn về vị trí, vai trò của DNVVN trong nền kinh tế. Cùng với sự phát triển
không ngừng của kinh tế Việt Nam cũng như xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế,
khái niệm về DNVVN sẽ có thể tiếp tục được sửa đổi và hoàn thiện hơn nữa. Tuy
nhiên, trong phạm vi luận văn, DNVVN tạm thời được hiểu theo Chính Phủ (2009)
là các cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo đúng quy định của Pháp luật
với quy mô lao động dưới 300 người và tổng nguồn vốn dưới 100 tỷ đồng, được
phân loại cụ thể theo ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh.


14

1.1.2. Đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Mặc dù có nhiều khái niệm khác nhau về DNVVN tuy nhiên hầu hết các
DNVVN, cụ thể là các DNVVN tại Việt Nam đều mang những đặc điểm chung

sau đây:
Thứ nhất, DNVVN có quy mô nhỏ về vốn đầu tư và số lượng lao động, do
đó dễ dàng thành lập và chuyển đổi sản xuất kinh doanh. Hoạt động của các doanh
nghiệp này hướng vào những lĩnh vực phục vụ trực tiếp đời sống, sản phẩm có sức
mua cao, dung lượng thị trường lớn, đáp ứng nhu cầu cần thiết của dân cư. Hơn nữa
do có quy mô nhỏ nên DNVVN thường phân bổ rải rác, đặt cơ sở tại nhiều địa
phương, giúp cho doanh nghiệp có thể dễ dàng trong việc tiếp cận các yếu tố đầu
vào và tìm nguồn tiêu thụ.
Thứ hai, mô hình tổ chức của các DNVVN đơn giản, chi phí quản lý, đào tạo
thấp. Việc tổ chức sản xuất cũng như quản lý các DNVVN tương đối gọn nhẹ. Chủ
doanh nghiệp dễ dàng hơn trong việc nắm bắt thông tin, điều hành, có sự gần gũi
thường xuyên với nhân viên. Vì vậy rất ít hoặc không xảy ra mâu thuẫn giữa lao
động và chủ doanh nghiệp. Các quyết định, các chỉ tiêu đưa ra tới với người lao
động một cách nhanh chóng, hạn chế các khâu trung gian, tiết kiệm chi phí. Hơn thế
nữa, đặc điểm tổ chức sản xuất đơn giản dẫn tới các DNVVN có thể dễ dàng gia
tăng lao động nếu hoạt động của doanh nghiệp có chiều hướng mở rộng hoặc mang
đặc thù thời vụ. Vì vậy DNVVN góp phần giảm thiểu lao động dư thừa, tăng cường
ổn định an sinh xã hội.
Thứ ba, DNVVN chịu nhiều ảnh hưởng từ môi trường bên ngoài. Số lượng
các DNVVN chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số doanh nghiệp, tuy nhiên lượng vốn
của loại hình này lại không chiếm phần lớn lượng vốn của nền kinh tế. Trong nền
kinh tế, loại hình doanh nghiệp lớn là trụ cột và DNVVN thường là vệ tinh xung
quanh, hoặc nếu là đối thủ thì cũng luôn tránh phải đối đầu trực tiếp vì khả năng
cạnh tranh thấp hơn. DNVVN hoạt động không chỉ tuân theo xu thế chung của nền
kinh tế mà còn chịu nhiều ảnh hưởng từ các doanh nghiệp lớn.


15

Thứ tư, DNVVN rất linh hoạt, nhạy cảm và dễ thích ứng với sự thay đổi của

thị trường. Các DNVVN thường có mối liên hệ trực tiếp với thị trường và người
tiêu dùng, luôn cập nhật thông tin về doanh nghiệp lớn và đối thủ nên phản ứng
nhanh nhạy, kịp thời với biến động của thị trường, đáp ứng được xu thế tiêu dùng.
Với quy mô về cơ sở vật chất, kỹ thuật hạn chế, DNVVN đổi mới linh hoạt hơn, dễ
dàng chuyển đổi sản xuất mà không gây ra những hậu quả nặng nề cho xã hội, đồng
thời DNVVN có thể kết hợp được cả công nghệ truyền thống và hiện đại.
Thứ năm, DNVVN có khả năng cạnh tranh thấp, gặp khó khăn trong việc
khẳng định chỗ đứng trên thị trường. Do đặc điểm lượng vốn hoạt động nhỏ, khả
năng tiếp cận các nguồn tài chính khác thấp nên các DNVVN thường gặp khó khăn
trong việc mở rộng quy mô, triển khai dự án lớn và đầu tư mới. Không đủ vốn để
nâng cấp, đổi mới các máy móc thiết bị, nghiên cứu khoa học kĩ thuật, các doanh
nghiệp này thường sử dụng công nghệ lỗi thời. Vì thế sản phẩm sản xuất ra thường
có chất lượng không cao. Bên cạnh đó, DNVVN có nhiều hạn chế trong công tác
marketing, khuếch trương, quảng bá làm giảm khả năng chiếm lĩnh thị trường và
phát triển của doanh nghiệp. Nhưng cũng chính vì lý do này mà DNVVN lại tạo
được sự tự do cạnh tranh. Khác với các doanh nghiệp lớn cần thị trường lớn, đôi khi
đòi hỏi có sự bảo hộ của Chính phủ và dẫn tới độc quyền, DNVVN hoạt động với
số lượng đông đảo, thường không có tình trạng độc quyền, sẵn sàng chấp nhận cạnh
tranh tự do. DNVVN tự chủ cao hơn, không dựa dẫm vào sự hỗ trợ của nhà nước và
vì mục tiêu lợi nhuận các DNVVN sẵn sàng khai thác cơ hội để phát triển mà không
ngại rủi ro.

1.2. Cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng
thương mại
Cho vay là một hình thức cấp tín dụng. Thật vậy: Tín dụng (credit) trong
tiếng Anh có nghĩa là sự tin tưởng, lòng tin. Trong thực tế, thuật ngữ tín dụng được
hiểu theo nhiều cách khác nhau, ngay cả trong quan hệ tài chính, tuỳ theo từng bối



16

cảnh cụ thể mà thuật ngữ tín dụng mang một ý nghĩa riêng. Tuy nhiên khi nói tới
hoạt động tín dụng trong ngân hàng thương mại thì theo Quốc hội Nước CHXHCN
Việt Nam (2010): “Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một
khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn
trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh
ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác”.
Thứ hai là khái niệm hoạt động cho vay tại ngân hàng thương mại. Theo
Quốc hội Nước CHXHCN Việt Nam (2010): “Cho vay là hình thức cấp tín dụng,
theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết giao cho khách hàng một khoản tiền để sử
dụng vào mục đích xác định trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận với
nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi”.
Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại được thực hiện dựa trên các
quyết định của Thống đốc ngân hàng nhà nước từng thời kỳ. Theo đó có thể hiểu rõ
hơn về hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại như sau: Khách hàng phải
tuân thủ đúng nguyên tắc vay vốn, cụ thể: Khách hàng phải sử dụng vốn đúng mục
đích đã thỏa thuận và hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thoả thuận
trong hợp đồng tín dụng. Về việc sử dụng vốn đúng mục đích: Luật pháp quy định
phạm vi hoạt động cho các ngân hàng, bên cạnh đó mỗi ngân hàng đều có mục đích
và phạm vi hoạt động cho riêng mình. Do vậy, ngân hàng sẽ thực hiện cho vay
trong phạm vi hoạt động xác định, Khách hàng phải cam kết sử dụng vốn vay theo
mục đích được thoả thuận với ngân hàng, không trái với quy định của pháp luật và
các quy định khác của ngân hàng cấp trên. Về thời hạn cho vay: Ngân hàng và
khách hàng căn cứ vào chu kỳ sản xuất, kinh doanh, thời hạn thu hồi vốn của dự án
đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và nguồn vốn cho vay của tổ chức tín dụng
khác để thoả thuận về thời hạn cho vay. Về cam kết hoàn trả gốc và lãi vay đúng
hạn: Các khoản cho vay của ngân hàng chủ yếu có nguồn gốc từ các khoản tiền gửi
và các khoản vay mượn khác. Bản thân ngân hàng cũng có trách nhiệm hoàn trả cả
gốc và lãi cho các khoản mượn nói trên khi tới hạn. Ngân hàng thu lợi nhuận là nhờ

thu chênh lệch lãi suất cho vay và đi vay, đồng thời sử dụng vốn vay để thực hiện


17

hoạt động khác như đầu tư, tài trợ… Như vậy, để duy trì sự tồn tại và phát triển của
mình, ngân hàng phải yêu cầu khách hàng thực hiện đúng cam kết này. Ngoài ra,
Ngân hàng có thể cho vay bằng hình thức tiền mặt hoặc chuyển khoản, tiền cho vay
có thể chuyển tới tài khoản của khách hàng hoặc tài khoản đối tác của khách hàng.
Thứ ba, từ những khái niệm về cho vay nói chung của ngân hàng thương mại
và khái niệm về DNVVN: Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại đối với
DNVVN là mối quan hệ về tài sản giữa bên cho vay (ngân hàng) và bên đi vay
(DNVVN), trong đó ngân hàng sẽ chuyển giao cho DNVVN một khoản tiền,
DNVVN được phép sử dụng trong một thời gian nhất định theo đúng mục đích đã
thoả thuận, đồng thời có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho ngân
hàng khi đến hạn thanh toán.

1.2.2. Các hình thức cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân
hàng thương mại
Để thực hiện phân loại các hình thức cho vay đối với DNVVN tại Ngân hàng
thương mại, tác giả lựa chọn tiêu thức phân loại theo thời gian. Luận văn phân chia
hoạt động cho vay đối với DNVVN theo hai hình thức là cho vay ngắn hạn và cho
vay trung, dài hạn.
Căn cứ để xác định thời hạn cho vay ngắn hạn, trung, dài hạn được khá
nhiều tác giả đề cập tới, tuy nhiên tựu chung lại, đều xuất phát từ việc xác định thời
hạn tín dụng. Cụ thể theo Phan Thị Thu Hà (2013) đã phân loại thời hạn tín dụng
như sau: Tín dụng ngắn hạn: Từ 12 tháng trở xuống; Tín dụng trung hạn: Từ trên 1
năm đến 5 năm (hoặc 7 năm); Tín dụng dài hạn: Trên 5 năm (hoặc 7 năm). Do đó,
thời hạn cho vay đối với DNVVN tại ngân hàng thương mại cũng được xác định
tương tự.


1.2.2.1. Cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng
thương mại
Trong hoạt động cho vay ngắn hạn đối với DNVVN của NHTM thì hoạt
động cho vay ngắn hạn cũng bao gồm nhiều hình thức cho vay khác nhau dựa trên


18

mục đích của hoạt động cho vay. Theo cách phân loại của Peter S.Rose (2001) cho
vay ngắn hạn bao gồm cho vay vốn lưu động, cho vay ngắn hạn các công trình xây
dựng, cho vay kinh doanh chứng khoán, cho vay bán lẻ,… Cụ thể:
Thứ nhất, hình thức cho vay vốn lưu động. Cho vay vốn lưu động là hoạt
động cho vay của ngân hàng nhằm tài trợ cho DNVVN mua hàng dự trữ hoặc
nguyên vật liệu, thường được sử dụng đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh
vực thương mại, sản xuất sản phẩm tiêu dùng hoặc ngành phụ trợ. Các khoản vay
có thể là khoản vay quay vòng (vay theo hạn mức tín dụng) hoặc không quay vòng
(vay theo món). Cho vay vốn lưu động quay vòng được xác định trên cơ sở dự tính
về lượng vốn lớn nhất mà DNVVN có thể sẽ cần và được tái cấp liên tục trong suốt
kỳ hạn của hợp đồng tín dụng với điều kiện DNVVN đã hoàn trả toàn bộ hoặc một
phần khoản vay, đảm bảo tổng giá trị các khoản vay không vượt quá một hạn mức
nhất định. Còn cho vay vốn lưu động không quay vòng thường tài trợ một phương
án kinh doanh cụ thể của DNVVN, việc vay vốn sẽ kết thúc ngay khi doanh nghiệp
hoàn trả toàn bộ gốc và lãi vay, chậm nhất không quá ngày đáo hạn khoản vay. Dù
theo loại hình nào, thời gian vay vốn trong cho vay vốn lưu động đều dựa trên cơ sở
chu kỳ tiền mặt của DNVVN, từ khi DNVVN cân đối vốn để đáp ứng nhu cầu mua
hàng (ngân hàng cho vay) tới khi doanh nghiệp thu tiền về từ hoạt động sản xuất
kinh doanh và trả nợ cho ngân hàng. Kỳ hạn này có thể được tính thêm thời gian dự
phòng rủi ro đối tác đầu vào giao hàng muộn hoặc đối tác đầu ra chậm trả tiền so
với thỏa thuận tại hợp đồng kinh tế, tùy thuộc vào việc đánh giá uy tín của các đối

tác khi thẩm định khoản vay.
Thứ hai, hình thức cho vay ngắn hạn các công trình xây dựng. Hình thức này
thường được các NHTM sử dụng đối với đối tượng DNVVN hoạt động trong lĩnh
vực xây dựng công trình, nhà ở,… Mặc dù việc xây dựng các công trình có thời
gian kéo dài, tuy nhiên việc vay vốn chỉ mang tính chất tạm thời trong khi DNVVN
chờ đợi được thanh toán từ phía đối tác đầu ra. Các khoản vay này thường cung cấp
vốn cho DNVVN nhằm mục đích trang trải các khoản chi phí trước mắt như tiền
lương nhân công, nguyên vật liệu xây dựng, chi phí giải phóng mặt bằng hay tiền


19

thuê thiết bị xây dựng,… DNVVN sẽ được đối tác đầu ra thanh toán theo tiến độ
hoàn thành công trình. Sau khi nhận được tiền thanh toán, doanh nghiệp sẽ trả nợ
cho ngân hàng. Cho vay ngắn hạn các công trình xây dựng cũng có thể theo hình
thức quay vòng hoặc không quay vòng dựa trên phương thức thanh toán từ đối tác
đầu ra của DNVVN. Thời hạn vay vốn dựa trên thời gian thi công của DNVVN và
thời hạn thanh toán của đối tác đầu ra.
Thứ ba, hình thức cho vay kinh doanh chứng khoán. Những DNVVN hoạt
động trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán thường cần sự hỗ trợ vốn ngắn hạn để
mua chứng khoán mới hoặc duy trì danh mục đầu tư chứng khoán hiện có của mình
cho tới khi các chứng khoán đó đáo hạn hay được bán ra. Các NHTM thường sẵn
sàng cho vay đối với doanh nghiệp kinh doanh chứng khoán trong tình hình kinh tế
ổn định, bởi những khoản vay này thường có chất lượng cao, đảm bảo bằng chính
những chứng khoán mà doanh nghiệp đang nắm giữ (bao gồm cả chứng khoán
chính phủ) và kỳ hạn vay vốn thường rất ngắn. Vì vậy, với hình thức cho vay kinh
doanh chứng khoán, NHTM có thể đưa ra mức lãi suất cho vay phù hợp, vừa đảm
bảo nguồn thu lớn và thời gian thu hồi vốn nhanh, bên cạnh đó, DNVVN có thể tận
dụng được cơ hội để thực hiện thu lợi từ việc thu mua chứng khoán theo kế hoạch
của mình.

Thứ tư, hình thức cho vay kinh doanh bán lẻ. Hình thức cho vay kinh doanh
bán lẻ đối với DNVVN của NHTM thường được áp dụng đối với các doanh nghiệp
hoạt động trong lĩnh vực thương mại phân phối sản phẩm tiêu dùng, như đồ dùng
gia đình, xe máy, nội thất hay các hàng hóa lâu bền khác. Hình thức cho vay này
được NHTM thực hiện theo hai cách. Cách thứ nhất là việc ngân hàng cho vay đối
với doanh nghiệp bán lẻ thông qua hỗ trợ mua hàng trả góp dựa trên khoản phải thu
hình thành từ hợp đồng mua bán trả góp của doanh nghiệp với người mua. Hợp
đồng mua bán trả góp sẽ được ngân hàng xem xét, nếu đáp ứng đủ các yêu cầu tài
trợ, ngân hàng sẽ mua những hợp đồng này ở mức lãi suất được xác định trên cơ sở
mức độ uy tín của người mua, chất lượng của tài sản đảm bảo và thời hạn khoản
vay. Sau đó, DNVVN sẽ hoàn trả gốc và lãi vay cho ngân hàng khi người mua


20

thanh toán. Cách thứ hai là việc ngân hàng cho vay đối với doanh nghiệp bán lẻ
bằng cách thanh toán cho nhà phân phối, hãng sản xuất để đảm bảo doanh nghiệp
được nhập hàng. Sau khi chuyển hàng cho doanh nghiệp bán lẻ, nhà phân phối,
hãng sản xuất sẽ gửi hóa đơn cho ngân hàng để thực hiện thanh toán. Định kỳ, ngân
hàng sẽ kiểm tra lượng hàng hóa trong kho để xác định lượng hàng bán ra, tồn kho.
Khi hàng hóa được bán ra, doanh nghiệp bán lẻ sẽ dùng tiền thu về để thanh toán
dần khoản vay tại NHTM.

1.2.2.2. Cho vay trung, dài hạn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân
hàng thương mại
Tương tự như cho vay ngắn hạn, cho vay trung dài hạn đối với DNVVN tại
NHTM cũng chia ra nhiều hình thức khác nhau, bao gồm: Cho vay kinh doanh kỳ
hạn, cho vay dự án trung, dài hạn,… (theo Peter S.Rose (2001)). Cụ thể như sau:
Thứ nhất, hình thức cho vay kinh doanh kỳ hạn. Hình thức này thường được
NHTM tài trợ cho những hoạt động như mua máy móc, thiết bị mới, xây dựng nhà

xưởng, công trình,… tựu chung là đầu tư tài sản cố định nhằm nâng cao năng lực
sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Việc lựa chọn hình thức trả gốc, lãi theo kỳ
thanh toán cũng được NHTM cân nhắc để tránh những trường hợp doanh nghiệp
thiếu hụt vốn tạm thời trong thời kỳ đầu vay vốn, khi mà việc đầu tư vào tài sản cố
định chưa phát huy tác dụng mở rộng, nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh. Tài
sản đảm bảo của khoản vay thường chính là tài sản hình thành từ vốn vay là máy
móc, thiết bị, nhà xưởng. Thời gian cho vay và thời gian để tài sản cố định được đầu
tư của DNVVN phát huy tác dụng thường kéo dài nên ẩn chứa nhiều rủi ro trong
quá trình cho vay. Thực tế này buộc các ngân hàng phải cân nhắc kỹ lưỡng khi thực
hiện cho vay đối với DNVVN dựa trên việc xem xét các nhân tố: trình độ quản lý,
chất lượng hệ thống kế toán đang sử dụng, tính minh bạch về tình hình tài chính,
cam kết thế chấp duy nhất tài sản hình thành từ vốn vay tại ngân hàng tài trợ, bảo
hiểm cho tài sản, rủi ro công nghệ đối với tài sản, thời gian từ khi đầu tư tới khi thu
được lợi nhuận từ việc đầu tư tài sản, xu hướng nhu cầu thị trường và trạng thái tài
sản của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, sau khi cho vay, yêu cầu ngân hàng phải


21

thường xuyên bám sát hoạt động của doanh nghiệp, đảm bảo việc cho vay có hiệu
quả và có thể thực hiện thu hồi vốn vay trước hạn nếu có dấu hiệu bất lợi từ doanh
nghiệp.
Thứ hai, hình thức cho vay dự án trung, dài hạn. Hình thức cho vay này có
mức độ rủi ro cao nhất. Các NHTM thường sử dụng để tài trợ một dự án cụ thể sẽ
dự tính mang lại thu nhập trong tương lai, ví dụ như đầu tư xây dựng nhà máy lọc
dầu, phòng khám đa khoa, dự án nhà ở chung cư,… Đặc trưng của những dự án này
là yêu cầu nguồn vốn lớn và thời gian từ khi đầu tư tới khi lợi nhuận thu hồi thường
kéo dài. Đối với hình thức cho vay này, NHTM thường phải đối diện với những rủi
ro như sau: quy mô vốn lớn, các dự án tuy đã được cấp vốn tuy nhiên phải trì hoãn
do điều kiện thời tiết, tiến độ giải phóng mặt bằng; quy định tại địa phương nơi thực

hiện dự án có thể thay đổi theo hướng tiêu cực làm gia tăng chi phí của dự án; tình
hình kinh tế bất ổn buộc ngân hàng thương mại phải thay đổi lãi suất cho vay. Tất
cả đều làm ảnh hưởng tới nguồn thu từ dự án, gây khó khăn trong quá trình các
DNVVN hoàn trả gốc, lãi vay cho ngân hàng. Bởi vậy, để đảm bảo an toàn và phân
tán rủi ro, đối với các dự án lớn, thường sẽ có sự tham gia của nhiều tổ chức tín
dụng cùng tài trợ và việc cho vay của NHTM cũng phải xem xét cẩn trọng bên cạnh
hiệu quả của dự án là uy tín, năng lực, nguồn vốn đầu tư khác của DNVVN.

1.3. Mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng
thương mại
1.3.1. Quan niệm về mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại
ngân hàng thương mại
Như đã trình bày tại lời mở đầu, đứng trước nhu cầu tiếp cận nguồn vốn ngân
hàng của các DNVVN cũng như đảm bảo sự tăng trưởng của các ngân hàng thì việc
mở rộng cho vay đối với loại hình doanh nghiệp này là thực sự cần thiết ở các ngân
hàng thương mại.
Nói về vấn đề mở rộng, trước hết luận văn xin được đưa ra quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin (1900s) về tái sản xuất mở rộng. Tái sản xuất mở rộng theo


22

chủ nghĩa Mác Lênin có thể thực hiện theo hai hướng: tái sản xuất mở rộng theo
chiều rộng và tái sản xuất mở rộng theo chiều sâu. Tái sản xuất mở rộng theo chiều
rộng tức là việc gia tăng số lượng sản phẩm bằng cách gia tăng quy mô sản xuất
thông qua việc gia tăng các yếu tố đầu vào mà không làm tăng năng suất lao động
và hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào không đổi. Tái sản xuất mở rộng theo chiều
sâu là việc gia tăng số lượng sản phẩm bằng cách nâng cao năng suất lao động và
hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào trong khi số lượng yếu tố đầu vào không đổi,
tức là chất lượng của hoạt động sản xuất được nâng cao, việc mở rộng theo chiều

sâu thường do thay đổi phương thức sản xuất hay ứng dụng công nghệ mới,.. Dựa
trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin (1900s) về mở rộng trong tái sản xuất,
mở rộng cho vay đối với DNVVN ở NHTM cũng có thể hiểu theo hai hướng tương
tự: mở rộng theo chiều rộng về quy mô và mở rộng theo chiều sâu về chất lượng.
Mở rộng cho vay về quy mô được thể hiện thông qua mức dư nợ cho vay, số lượng
khách hàng DNVVN tăng lên. Còn mở rộng cho vay về chất lượng tức là nâng cao
chất lượng cho vay đối với DNVVN. Theo nghiên cứu của (Cronin & Taylor, 1992;
Spreng & Taylor, 1996) thì chất lượng dịch vụ là nguyên nhân dẫn tới sự hài lòng
của khách hàng với lý do chất lượng dịch vụ liên quan đến việc cung cấp dịch vụ
còn sự hài lòng chỉ được khách hàng đánh giá sau khi đã sử dụng dịch vụ đó. Liên
hệ với nghiên cứu trên có thể thấy chất lượng cho vay đối với DNVVN tăng lên
đồng nghĩa với việc sự hài lòng của DNVVN về sản phẩm cho vay tại ngân hàng
thương mại cũng tăng lên hay nói cách khác sự hài lòng của DNVVN phản ánh chất
lượng cho vay của ngân hàng thương mại. Như vậy, mở rộng hoạt động cho vay
không chỉ dừng lại ở việc gia tăng khả năng đáp ứng nhu cầu vốn của DNVVN
thông qua việc tăng mức dư nợ cho vay đối với loại hình khách hàng này, tăng số
lượng khách hàng của ngân hàng mà còn là sự gia tăng về mức độ hài lòng của
DNVVN với sản phẩm cho vay, nói cách khác là sự mở rộng cho vay về chất lượng.
Tóm lại, mở rộng cho vay trong nội dung luận văn được hiểu là sự mở rộng
theo chiều rộng về quy mô và mở rộng theo chiều sâu về chất lượng cho vay đối với
doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng thương mại.


23

1.3.2. Các chỉ tiêu phản ánh mức độ mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp
vừa và nhỏ tại ngân hàng thương mại
1.3.2.1. Nhóm chỉ tiêu phản ánh mức độ mở rộng về quy mô
Có nhiều chỉ tiêu phản ánh mức độ mở rộng hoạt động cho vay đối với
doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng thương mại. Căn cứ vào quan niệm đưa ra

ở trên về mở rộng cho vay, các chỉ tiêu phù hợp với quan niệm này bao gồm:
Thứ nhất là chỉ tiêu mức độ gia tăng số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ vay
vốn tại ngân hàng thương mại. Đây là chỉ tiêu cho biết số lượng khách hàng doanh
nghiệp vừa và nhỏ vay vốn tại NHTM có biến động như thế nào qua các thời điểm
đánh giá. Thời điểm đánh giá có thể là cuối kỳ tháng, kỳ 6 tháng hoặc cuối năm…
Mức độ gia tăng số lượng DNVVN vay vốn tại NHTM phản ánh số lượng DNVVN
được vay vốn ở thời điểm sau tăng (giảm) so với thời điểm trước đó.
Mức độ gia tăng (thu hẹp) số lượng DNVVN vay vốn năm t của ngân hàng =
Số lượng DNVVN vay vốn cuối năm t – Số lượng DNVVN vay vốn cuối năm t-1
(đơn vị: khách hàng)
Nếu mức độ gia tăng số lượng DNVVN vay vốn năm t của tại ngân hàng
trong năm t dương (lớn hơn 0) chứng tỏ đã có nhiều hơn các DNVVN vay vốn tại
ngân hàng. Mức độ gia tăng số lượng DNVVN vay vốn tại NHTM càng lớn thì mức
độ mở rộng cho vay đối với DNVVN của ngân hàng cũng lớn và ngược lại. Khi
mức độ gia tăng số lượng DNVVN vay vốn năm t tại ngân hàng âm (nhỏ hơn 0) tức
là số lượng DNVVN vay vốn ở thời điểm sau thấp hơn so với thời điểm trước thể
hiện đã có doanh nghiệp từ bỏ, không vay vốn tại ngân hàng nữa. Khi đó, doanh số
cho vay và dư nợ thời điểm đối với DNVVN có thể giảm xuống do suy giảm về số
lượng khách hàng. Điều này cho thấy cho vay đối với DNVVN bị thu hẹp.
Thứ hai là chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng dư nợ bình quân của doanh nghiệp vừa
và nhỏ tại ngân hàng thương mại. Dư nợ bình quân của doanh nghiệp vừa và nhỏ tại
ngân hàng thương mại là tổng số tiền mà ngân hàng thương mại đang cho doanh
nghiệp vừa và nhỏ vay bình quân trong một thời kỳ nhất định. Thời kỳ đánh giá


24

thường theo quý, kỳ 6 tháng hoặc theo năm,… Tốc độ tăng trưởng dư nợ bình quân
của của doanh nghiệp vừa và nhỏ năm t tại NHTM được tính như sau:
Tốc độ tăng trưởng dư nợ bình quân của DNVVN năm t của ngân hàng =

(đơn vị: %)
Chỉ tiêu này cho biết dư nợ bình quân của DNVVN năm sau (năm t) tăng
(giảm) bao nhiêu phần trăm so với dư nợ bình quân năm trước đó (năm t-1). Tốc độ
tăng trưởng dư nợ bình quân của DNVVN năm t tại ngân hàng dương (lớn hơn 0)
thể hiện dư nợ bình quân của DNVVN năm sau (năm t) cao hơn năm trước đó. Tốc
độ tăng trưởng dư nợ bình quân của DNVVN năm sau cao (thấp) hơn năm trước thể
hiện rằng dư nợ bình quân của DNVVN năm sau tăng với tốc độ nhanh (chậm) hơn
năm trước. Vì vậy tốc độ tăng trưởng dư nợ bình quân của DNVVN càng lớn (nhỏ)
chứng tỏ dư nợ bình quân của DNVVN tăng càng nhanh (chậm) và mức độ mở
rộng cho vay đối với DNVVN của ngân hàng càng lớn (nhỏ). Tốc độ tăng trưởng
dư nợ bình quân của DNVVN tương tự chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng tín dụng của
ngân hàng. Bởi vậy nếu tốc độ tăng trưởng dư nợ bình quân của DNVVN tại ngân
hàng thương mại càng gần với tốc độ tăng trưởng tín dụng của ngành thì mức độ
mở rộng cho vay đối với DNVVN ở mức trung bình. Nếu tốc độ tăng trưởng dư nợ
bình quân của DNVVN tại ngân hàng thương mại cao hơn tốc độ tăng trưởng tín
dụng của ngành đồng nghĩa với việc mở rộng cho vay đối với DNVVN ở mức cao.
Ngược lại nếu tốc độ tăng trưởng dư nợ bình quân của DNVVN tại ngân hàng
thương mại thấp hơn tốc độ tăng trưởng tín dụng của ngành đồng nghĩa với việc mở
rộng cho vay đối với DNVVN ở mức thấp. Trong trường hợp, tốc độ tăng trưởng dư
nợ bình quân của DNVVN tại ngân hàng thương mại âm (nhỏ hơn 0) tức là dư nợ
bình quân của DNVVN tại ngân hàng thương mại năm sau nhỏ hơn năm trước,
ngân hàng đang cho DNVVN vay ít đi, thu hẹp cho vay đối với DNVVN.
Thứ ba là chỉ tiêu mức độ gia tăng tỷ trọng dư nợ của doanh nghiệp vừa và
nhỏ trong tổng dư nợ tại ngân hàng thương mại. Tỷ trọng dư nợ của DNVVN cho
biết dư nợ của DNVVN chiếm bao nhiêu phần trăm trong tổng dư nợ của ngân hàng


25

tại một thời điểm xác định. Thời điểm đánh giá thường là cuối quý, cuối kỳ 6 tháng

hoặc cuối năm.
Tỷ trọng dư nợ của DNVVN trong tổng dư nợ của ngân hàng thương mại cuối năm
t
= (đơn vị: %)
 Mức độ gia tăng tỷ trọng dư nợ của DNVVN trong tổng dư nợ của NHTM

năm t = Tỷ trọng dư nợ của DNVVN trong tổng dư nợ của NHTM cuối năm
t - Tỷ trọng dư nợ của DNVVN trong tổng dư nợ của NHTM cuối năm t-1
(đơn vị: %)
Chỉ tiêu này cho biết, tỷ trọng dư nợ của DNVVN trong tổng dư nợ của
NHTM ở thời điểm sau cao (hay thấp) hơn thời điểm trước bao nhiêu phần trăm.
Khi so sánh tỷ trọng dư nợ của DNVVN giữa hai thời điểm, nếu tỷ trọng dư nợ của
DNVVN thời điểm sau cao hơn thời điểm trước hay mức độ gia tăng tỷ trọng dư nợ
của DNVVN trong tổng dư nợ của NHTM năm t có giá trị dương (lớn hơn 0) cho
thấy trong cơ cấu cho vay, ngân hàng đang chuyển dịch cho vay đối với DNVVN
nhiều hơn trước và ngược lại. Nếu tỷ trọng dư nợ của DNVVN thời điểm sau thấp
hơn thời điểm trước hay mức độ gia tăng tỷ trọng dư nợ của DNVVN trong tổng dư
nợ của NHTM năm t có giá trị âm (nhỏ hơn 0) thể hiện trong cơ cấu cho vay, ngân
hàng đang điều chỉnh cho vay đối với DNVVN ít đi. Mức độ gia tăng tỷ trọng dư nợ
của DNVVN trong tổng dư nợ của NHTM càng lớn chứng tỏ NHTM càng mở rộng
cho vay nhiều hơn đối với DNVVN. Vì vậy mức độ gia tăng tỷ trọng dư nợ của
DNVVN trong tổng dư nợ của NHTM phản ánh mức độ mở rộng cho vay của ngân
hàng đối với DNVVN.

1.3.2.2. Nhóm chỉ tiêu phản ánh mức độ mở rộng về chất lượng
Để đánh giá mức độ mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ,
song song với khía cạnh mở rộng theo quy mô, chúng ta còn phải kể tới mở rộng về
chất lượng của hoạt động cho vay. Hoạt động cho vay là một hoạt động cung ứng
sản phẩm dịch vụ của ngân hàng. Bởi vậy, đánh giá mức độ mở rộng cho vay đối



×