Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

Hỏi và đáp án luật hình sự nhận định đúng sai có đáp án tổng hợp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (400.82 KB, 80 trang )

Hỏi :
Năm 2008, anh trai tôi mâu thuẫn với hai người hàng xóm, dẫn đến xô xát và gây thương tích cho họ tỷ
lệ thương tật của mỗi người là 8%. Gia đình tôi chịu toàn bộ viện phí, phía bị hại cũng không yêu cầu gì
thêm. Đến ngày 22/8/2009, hai người này làm đơn gửi cơ quan công an yêu cầu truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với anh trai tôi về hành vi cố ý người gây thương tích. Vậy xin hỏi, thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với vụ việc này còn không và anh trai tôi có phải chịu trách nhiệm hình sự không?.
Trả lời :
Theo khoản 2, Điều 23, BLHS năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 qui định thời hiệu truy
cứu trách nhiệm hình sự như sau: Năm năm đối với các tội phạm ít nghiêm trọng; mười năm đối với các
tội phạm nghiêm trọng; mười lăm năm đối với các tội phạm rất nghiêm trọng; hai mươi năm đối với các
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Dựa vào tình tiết vụ việc, anh trai ông thuộc trường hợp tội phạm ít nghiêm trọng. Vụ việc xảy ra
cách đây hơn một năm, vì vậy thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với anh trai ông vẫn còn.
Theo khoản 1, Điều 104, BLHS quy định: Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức
khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến dưới 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong
các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu thàng đến ba
năm: “ Dựng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người; gây cố tật nhẹ cho
nạn nhân; phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người…”.
Căn cứ vào quy định này anh trai ông thuộc trường hợp phạm tội với nhiều người và sẽ bị áp dụng
mức hình phạt theo quy định tại khoản 1 điều này.
Hỏi :
Để đùa nghịch, bạn tôi đã viết một số đoạn mã và gửi kèm email cho một số người quen nhằm làm cho
máy tính của người nhận sẽ không chạy được các chương trình khác nhưng đã bị cơ quan điều tra phát
hiện. Xin cho biết liệu bạn tôi có bị xử lý hình sự không? Nếu có thì mức xử phạt thế nào?
Trả lời :
Theo quy định tại Điều 224 Bộ luật Hình sự thì người có hành vi tạo ra và cố ý lan truyền, phát
tán các chương trình virus qua mạng máy tính hoặc bằng các phương thức khác gây rối loạn hoạt động,
phong tỏa hoặc làm biến dạng, làm hủy hoại các dữ liệu của máy tính hoặc đã bị xử lý kỷ luật, xử phạt
hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về "Tội tạo ra và lan
truyền, phát tán các chương trình virus tin học". Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 5 triệu đồng đến
100 triệu đồng hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. Nêu phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc


đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tự từ hai năm đến bảy năm.
Ngoai ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 50 triệu đồng, cấm đảm
nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 năm đến 5 năm.
Theo quy định nói trên, nếu người bạn của anh mới có hành vi vi phạm lần đầu, số máy tính bị lây
nhiễm virus không nhiều, chưa gây hậu quả nghiêm trọng cho những máy bị lây nhiễm thì có thể chỉ bị
xử phạt hành chính về hành vi đã thực hiện
Hỏi :
Con tôi và bạn cùng lớp tên C đều đang ở tuổi 13, do có mâu thuẫn dẫn đến việc đánh lộn nhau, trong lúc
đánh nhau C vớ được một thanh sắt dài quật vào đầu con tôi gây thương tích 12%. Nhưng C không phải
chịu tội về hình sự do lỗi của C đã gây ra cho con tôi vì C mới có 13 tuổi. Về tuổi phải chịu tội hình sự
được quy định như thế nào? Lý do phân biệt độ tuổi? Thương tích mà C gây ra cho con tôi ai sẽ có trách
nhiệm bồi thường?
Trả lời :
Bộ luật Hình sự có quy định về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự tại điều 12 như sau:
1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.


2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất
nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Khoa học hình sự quy định như vậy chủ yếu dựa vào tiêu chuẩn về sự phát triển tâm sinh lý của
con người. Đối với người chưa đủ 14 tuổi là do trí tuệ của họ chưa phát triển đầy đủ nên chưa nhận thức
được tính nguy hiểm cho xã hội về hành vi của mình, chưa đủ khả năng tự chủ khi hành động nên họ
không bị coi là có lỗi về hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ thực hiện.
Chị không nói rõ việc cháu C gây thương tích cho con chị vào thời điểm đang chịu sự quản lý của nhà
trường hay sau giờ học, nên trách nhiệm về bồi thường thiệt hại về vật chất, bồi thường bù đắp tổn thất
về tinh thần cho con chị được quy định tại điều 606 và điều 621 Bộ luật Dân sự như sau:
Người chưa thành niên dưới 15 tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn
bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài
sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu.
Người dưới 15 tuổi trong thời gian học tại trường mà gây thiệt hại thì trường học phải bồi thường

thiệt hại xảy ra.
Nếu trường học nơi các cháu đang theo học chứng minh được mình không có lỗi trong quản lý thì
cha, mẹ cháu C phải có trách nhiệm bồi thường.
Đối với trách nhiệm bồi thường dân sự các chị phải có đơn yêu cầu tòa án cấp có thẩm quyền giải quyết
nếu các bên không thỏa thuận được.
Hỏi :
Tôi bị tòa kết án hai năm tự về tội cố ý gây thương tích. Trước đó tôi được tại ngoại. Nay do hoàn cảnh
gia đình khó khăn, tôi lại là lao động chính trong gia đình nên tôi có thể xin hỗn chấp hành hình phạt tự
hay không?
Trả lời :
Người bị xử phạt tự có thể được hỗn chấp hành hình phạt trong trường hợp là người lao động duy
nhất trong gia đình, nếu phải chấp hành hình phạt tự thì gia đình sẽ gặp khó khăn đặc biệt. Đối tượng này
được hoãn đến một năm, trừ trường hợp người đó bị kết án về các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc
các tội khác là tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng.
Ông có thể nộp đơn đến tòa án đã xét xử vụ án để được xem xét, giải quyết. (Điều 61 BLHS)
Hỏi :
Bạn tôi bị truy tố về tội cướp tài sản và sắp bị đưa ra xét xử. Nếu chú ruột của bạn tôi là liệt sĩ thì liệu
bạn ấy có được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hay không?
Trả lời :
Nếu có vợ, chồng, cha, mẹ, con, anh, chị, em ruột là có người công với nước hoặc có thành tích
xuất sắc được nhà nước tặng một trong các danh hiệu vinh dự như anh hùng lao động, anh hùng lực
lượng vũ trang, người mẹ Việt Nam anh hùng, nghệ sĩ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú, nhà giáo nhân dân, nhà
giáo ưu tú, thầy thuốc nhân dân, thầy thuốc ưu tú hoặc các danh hiệu cao quý khác theo quy định của nhà
nước thì bị cáo sẽ được hưởng tình tiết giảm nhẹ. Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử có thể còn có những
tình tiết khác cũng có thể được coi là tình tiết giảm nhẹ. Vì vậy, tùy từng trường hợp cụ thể và hoàn cảnh
cụ thể của người phạm tội mà có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ nhưng phải ghi rõ trong
bản án. Người bạn của ông có thể trình bày hoàn cảnh gia đình để được tòa xem xét thêm.
(Điểm c mục 5 NQ 01/2000/NQ-HĐTP ngày 4-8-2000 của HĐTP TANDTC; CV 148 ngày 30-9-2002
của TANDTC)
Hỏi :

Khu tập thể nơi chúng cháu ở có một bãi đất trống, từ nhiều năm nay các cơ, bác trong tổ dân phố đó cải
tạo bãi đất này thành sân chơi thiếu nhi. Tuy nhiên khoảng hai tháng gần đây có một gia đình đó cố tình


chiếm một góc sân để căng lều bán nước, thậm chí họ còn đang có định xây thành quán bán hàng kiên
cố. Xin cho chúng cháu biết hành vi của họ có xử lý không?
Trả lời :
Để kịp thời gian ngăn chặn và xử lý những trường hợp cố tình lấn chiếm đất công như cháu nêu,
tại Mục 3 Chương VI của Luật Đất Đai năm 2003 đó quy định về việc xử lý vi phạm này. Cụ thể tại Điều
140 nêu rõ: Người nào lấn, chiếm đất đai, không sử dụng đất hoặc sử dụng đất sai mục đích, chuyển mục
đích sử dụng đất trái phép, huỷ hoại đất, không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các nghĩa vụ tài
chính, các thủ tục hành chính, các quyết định của Nhà nước trong quản lý đất đai, chuyển quyền sử dụng
đất trái phép… thì tuỳ theo tính chất mức độ vi phạm mà bị xử lý hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm
hình sự theo quy định của pháp lụât.
Tại điều 173 Bộ luật Hình sự quy định về tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai. Theo đó
người nào lấn chiếm đất hoặc chuyển quyền sử dụng đất, sử dụng đất trái với các quy định của Nhà
nước… gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đó bị xử lý hành chính mà còn vi phạm thì phạt tiền từ 5 triệu
đến 50 triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 3 năm. Ngoài ra nếu
thuộc một trong các trường hợp như có tổ chức, phạm tội nhiều lần, gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc
đặc biệt nghiêm trọng thì có thể bị phạt tù từ 2 năm đến 7 năm và bị phạt tiền từ 30 triệu đến 100 triệu
đồng.
Hỏi :
Gần đây tôi thấy báo chí nói nhiều về tình trạng khủng bố qua tin nhắn điện thoại. Tôi có một người bạn
hiện nay cũng là nạn nhân của tình trạng này. Chỉ vì một hiểu lầm nhỏ trong gia đình mà ông ta bị một
người em cùng cha khác mẹ liên tục nhắn tin sỉ nhục, lăng mạ, thậm chí còn đe doạ sẽ hành hung, thuê
người chém giết lấy đi sinh mạng anh mình. Từ khi nhận được những tin nhắn khủng bố này, bạn tôi
luôn phải sống trong tâm trạng vô cùng hoảng loạn, mất ăn, mất ngủ và không yên tâm làm việc, thậm
chí ông ta đã phải thuê cả vệ sĩ về nhà để bảo toàn tính mạng cho mình. Tôi vô cùng bức xúc và lo lắng
cho bạn tôi. Tôi muốn biết pháp luật nước ta quy định như thế nào về những trường hợp này?
Trả lời :

Trường hợp mà ông đề cập thời gian gần đây đang là mối quan tâm và nỗi bức xúc của rất nhiều
người và đã được đề cập đến rất nhiều qua các phương tiện thông tin đại chúng.
“Khủng bố” bằng tin nhắn được thể hiện dưới muôn vàn hình thức của người thực hiện bằng cách
nhắn tin qua máy điện thoại di động nhằm mục đích quấy nhiễu, sỉ nhục, chửi bới, lăng mạ, đe doạ hành
hung, đe doạ tống tiền hoặc đe doạ chém, giết, cướp đi sinh mạng của ngời nhận tin nhắn….Hành vi này
cũng có thể xuất phát từ việc trêu, đùa giữa những ngời có quan hệ thân thiết với nhau, nhưng cũng có
thể vì mục đích thù tức cá nhân mà nhằm một mục đích cụ thể nào đó. Mục đích chủ yếu của người
“khủng bố” qua tin nhắn là làm cho người nhận tin nhắn rơi vào trạng thái hoang mang, lo sợ, mất ăn
mất ngủ, không yên tâm sinh sống và làm việc, gây đảo lộn mọi sinh hoạt bình thường của người nhận
tin nhắn, thậm chí trong nhiều trường hợp người bị hại vì lo sợ những lời đe doạ đó sẽ xảy ra ngay tức
khắc dẫn đến những hậu quả vô cùng nghiêm trọng khác.
Để xử lý hành vi này cần căn cứ vào mức độ và hành vi cụ thể của người thực hiện, hậu quả do
hành vi đó gây ra, thiệt hại thực tế xảy ra, mức độ nghiêm trọng của hậu quả đó… để áp dụng hình thức
xử lý hoặc xác định tội danh cho phù hợp. Trong những trường hợp những tin nhắn khủng bố chỉ dừng
lại ở mức độ thông thường, chưa gây hậu quả nghiêm trọng thì người thực hiện có thể chỉ bị xử lý hành
chính kèm theo các biện pháp cưỡng chế khác như buộc công khai xin lỗi, cam kết không tái phạm…Tuy
nhiên trong các trường hợp khác gây hậu quả nghiêm trọng thì có thể bị xử lý hình sự theo các tội danh
tương ứng. (Ví dụ như làm cho người bị hại lo sợ hành vi đe doạ giết người sẽ được thực hiện thì ngời
nhắn tin khủng bố có thể bị khởi tố về tội đe doạ giết người theo quy định tại điều 103 Bộ luật hình
sự….)


Trường hợp mà ông đưa ra, bạn ông nên tố cáo việc mình bị khủng bố bằng tin nhắn đến cơ quan
công an để có biện pháp xử lý thích đáng đối với người thực hiện.
Hỏi :
Trên các phương tiện thông tin đại chúng thời gian gần đây liên tục đưa tin về các vụ bạo hành, xâm
phạm đến thân thể trẻ em, như vụ em Nguyễn Thị Bình bị hai vợ chồng quán phở hành hạ suốt 10 năm,
vụ bộ Nguyễn Hữu Lợi (9 tuổi) ở huyện Bình Chánh, TP Hồ Chí Minh bị mẹ nuôi hành hạ đánh đập tàn
bạo bằng búa, hay vụ bộ Bông (9 tuổi) ở TP Hồ Chí Minh bị mẹ nuôi hành hạ bằng cách dội nước sôi
vào người…. Chúng tôi muốn biết pháp luật nước ta quy định nh thế nào về loại hình tội phạm này?

Trả lời :
Vấn đề bạo hành trẻ em mà các bác nêu ra không chỉ là nỗi bức xúc của riêng các bác mà còn là
tiếng chuông cảnh báo của toàn xã hội, là sự báo động chung cho tất cả chúng ta, đặc biệt là các nhà làm
công tác xã hội liên quan đến bảo vệ sức khoẻ trẻ vị thành niên. Bất cứ ai trong 1 xã hội văn minh đều
cần phải kịch liệt lên án và có ý thức nhằm tố giác và loại trừ mọi hành vi bạo hành, xâm phạm đến sức
khoẻ vị thành niên ra khỏi đời sống xã hội.
Pháp luật hình sự Việt Nam đã có điều luật tương ứng (Điều 110) quy định về tội hành hạ người
khác. Theo đó hành hạ người khác là hành vi của một người đối xử tàn ác với ngời lệ thuộc mình, như
gây đau đớn về thể xác hoặc đè nén, áp bức về tinh thần người bị lệ thuộc như hành vi: Đánh đập, giam
hãm, không cho ra khỏi nhà, bắt nhịn ăn, uống, không cho mặc đủ ấm….
Về hình phạt dành cho loại tội phạm này, nhẹ thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến
một năm hoặc bị phạt tự từ ba tháng đến hai năm. Trong trường hợp của các bác đề cập được quy định
tại khoản 2 của điều luật này, quy định về trường hợp phạm tội đối với 1 trong các đối tượng như: Đối
với người già, đối với trẻ em (là người cha đủ 16 tuổi), phụ nữ có thai hoặc người tàn tật… thì người
phạm tội có thể bị phạt tù từ một năm đến ba năm.
Tuy nhiên, cần phải phân biệt, nếu hành vi đối xử tàn ác này mà gây thương tích cho ngời bị hành
hạ thì người phạm tội còn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khoẻ của người khác được quy định tại điều 104 Bộ luật hình sự. Ngoài ra nếu hành vi đối xử tàn ác
với người lệ thuộc mình mà đối với nạn nhân là ông bà, cha mẹ, vợ, chồng, con, cháu, người có công
nuôi dưỡng mình thì người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội ngược đãi hoặc hành
hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình (điều 151).
Hỏi :
Con gái của bạn tôi 15 tuổi, là nạn nhân trong một vụ cưỡng dâm. Cháu đó phải rất cố gắng mới vượt
qua được nỗi đau đó. Tuy nhiên hơn một tháng trước, gia đình cháu đã phát hiện cháu bị nhiễm HIV từ
tên phạm tội. Vậy pháp luật sẽ xử lý như thế nào trong trường hợp này? Việc cháu bị nhiễm HIV có làm
tăng nặng hình phạt của kẻ phạm tội hay không?
Trả lời :
Tội cưỡng dâm trẻ em được quy định tại Điều 114 Bộ luật Hình sự năm 1999, cụ thể tại Khoản 1
của điều luật này quy định: “Người nào cưỡng dâm trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi thì bị phạt tự từ
năm năm đến mười năm.” Hành vi này thể hiện ở việc một người dùng mọi thủ đoạn khiến trẻ em từ đủ

13 đến dưới 16 phải miễn cưỡng giao cấu với người đó. Thông thường những thủ đoạn khiến trẻ em đang
lệ thuộc người phạm tội là lợi dụng trẻ em đang ở trong tình trạng quẫn bách hoặc không có điều kiện
kháng cự. Sự lệ thuộc ở đây có thể hiểu về vật chất giữa người nuôi dưỡng với người được nuôi dưỡng;
về xã hội như giữa giáo viên với học sinh, giữa người phụ trách với thiếu niên….
Tuy nhiên, trong trường hợp mà bà nêu thì nạn nhân cũn bị nhiễm HIV từ người phạm tội. Như
vậy, cháu bộ không những bị xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, sự phát triển bình thường về thể chất
và tâm sinh lý mà còn có thể bị người phạm tội trước đi mạng sống của mình. Do đó, hình phạt sẽ nặng
thêm căn cứ vào nội dung quy định tại khoản 3 của điều luật nói trên. Cụ thể: Phạm tội thuộc một trong


các trường hợp sau: nhiều người cưỡng dâm một người; phạm tội nhiều lần; đối với nhiều người, hoặc
biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội, thì bị phạt tự từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tự
chung thân.
Hỏi :
Con trai tôi phạm tội “giết người”. Vì con trai tôi mới 17 tuổi và chưa có thu nhập nên tôi đã chủ động
bồi thường cho gia đình người bị hại. Tuy nhiên, gia đình người bị hại không nhận tiền bồi thường. Xin
cho hỏi, tôi phải làm như thế nào để con trai tôi có thể được hưởng sự khoan hồng của pháp luật?"
Trả lời :
Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự thì “người phạm tội tự nguyện sửa
chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả” là một trong những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự.
Theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 01/2006/NQ - HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán
TANDTC thì khi: “Bị cáo (không phân biệt là người đã thành niên hay người chưa thành niên) hoặc cha,
mẹ của bị cáo chưa thành niên đã tự nguyện dựng tiền, tài sản để sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc
phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, nhưng người bị hại, nguyên đơn dân sự hoặc người
đại diện hợp pháp của họ từ chối nhận, nếu số tiền, tài sản đó đã được giao cho cơ quan tiến hành tố
tụng, cơ quan thi hành án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác quản lý để thực hiện việc sửa chữa, bồi
thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra;” là một trong những trường
hợp được áp dụng tình tiết giảm nhẹ nêu trên.
Do đó, khi bạn đã tự nguyện bồi thường cho gia đình người bị hại nhưng họ từ chối nhận, thì bạn

có thể đem nộp số tiền bồi thường đó cho cơ quan tiến hành tố tụng hoặc cơ quan thi hành án, để con trai
bạn được hưởng tình tiết giảm nhẹ nêu trên và có thể được Toà án xem xét giảm nhẹ hình phạt theo quy
định của pháp luật.
Hỏi :
Con tôi bị TAND Quận X. xét xử về tội “Trộm cắp tài sản”, tuyên phạt 12 tháng tự nhưng cho hưởng án
treo, thời gian thử thách là 24 tháng. Xin cho biết án treo là án như thế nào?
Trả lời :
Án treo là hình phạt tự có điều kiện được quy định tại Điều 60 Bộ luật Hình sự: Khi xử phạt tự
không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy
không cần phải bắt giam, chấp hành hình phạt tự, Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử
thách từ một năm đến năm năm.
Trong thời gian thử thách, Tòa án giao người được hưởng án treo cho cơ quan, tổ chức nơi người
đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó cư trú để giám sát và giáo dục. Gia đình người bị
kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo
dục người bị kết án.
Người được hưởng án treo có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền, cấm đảm nhiệm chức
vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định theo quy định tại Điều 30 và Điều 36 Bộ luật Hình sự.
Khi người được hưởng án treo chấp hành được một nửa thời gian thử thách và có nhiều tiến bộ thì
theo đề nghị của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giám sát và giáo dục, Tòa án có thể quyết định rút ngắn
thời gian thử thách.
Đối với người được hưởng án treo mà phạm tội mới trong thời gian thử thách, Tòa án quyết định
buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định
tại Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Hỏi :


Tôi có con trai mắc nghiện và đã đưa cháu đi cai, cuối năm 2004 cháu hoàn thành tốt đợt cai nghiện trở
về. Đến nay cháu không bị tái nghiện, hiện cháu đã có vợ con và đi làm. Xin hỏi hết 24 tháng quản lý sau
cai của chính quyền địa phương, gia đình tôi phải làm đơn đến các cơ quan nào xin xóa án nghiện cho
cháu?

Trả lời :
Theo quy định từ điều 63 đến điều 67 - Bộ luật Hình sự thì những trường hợp sau đây đương
nhiên được xóa án tích: Người được miễn hình phạt; Người bị kết án không phải về các tội xâm phạm an
ninh quốc gia, các tội phá hoại hòa bình chống loài người và tội phạm chiến tranh, nếu từ khi chấp hành
xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án người đó không phạm tội mới trong thời hạn sau
đây:
- Một năm trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù nhưng được
hưởng án treo.
- Ba năm trong trường hợp hình phạt là tự đến ba năm.
- Năm năm trong trường hợp hình phạt tự từ trên ba năm đến mười lăm năm.
- Bảy năm trong trường hợp hình phạt tự từ trên mười lăm năm.
Xóa án tích theo quyết định của Tòa án: Tòa án quyết định việc xóa án tích đối với những người
đã bị kết án về các tội quy định các tội xâm phạm an ninh quốc gia, các tội phá hoại hòa bình chống loài
người và tội phạm chiến tranh, căn cứ vào tính chất của tội phạm đã được thực hiện, nhân thân, thái độ
chấp hành pháp luật và thái độ lao động của người bị kết án trong các trường hợp sau đây:
- Đã bị phạt tự đến ba năm mà không phạm tội mới trong thời hạn ba năm kể từ khi chấp hành xong bản
án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án.
- Đã bị phạt tự từ trên ba năm đến mười lăm năm mà không phạm tội mới trong thời hạn bảy năm kể từ
khi chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án.
- Đã bị phạt tự trên mười lăm năm mà không phạm tội mới trong thời hạn mười năm kể từ khi chấp hành
xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án.
Xóa án tích trong trường hợp đặc biệt được quy định tại điều 66 - Bộ luật Hình sự: Trong trường
hợp người bị kết án có những biểu hiện tiến bộ rõ rệt và đã lập công, được cơ quan, tổ chức nơi người đó
công tác hoặc chính quyền địa phương nơi người đó thường trú đề nghị thì có thể được xóa án tích nếu
người đó đã đảm bảo được ít nhất một phần ba thời hạn quy định.
Trường hợp bác hỏi, con trai bác đã đi cai nghiện về vào năm 2004, thời gian quản lý sau cai 24
tháng ở xã phường cũng đã hết. Hiện giờ con trai bác không mắc nghiện đã có vợ con và đã đi làm bình
thường, con trai bác cũng không phạm vào các trường hợp nêu trên. Vì vậy, bác không phải làm đơn đến
cơ quan nào để xin xóa án là người nghiện cho con trai bác.
Hỏi :

Do chơi lô đề nên tôi nợ chủ lô khoản tiền lớn bị buộc viết biên nhận với nội dung là vay tiền. Nếu
không trả được tiền, tôi có bị xử lý hình sự không? Người buộc tôi viết giấy vay tiền (chủ lô) bị xử lý thế
nào?
Trả lời :
Theo quy định tại Điều 474 Bộ luật Dân sự thì trả nợ là nghĩa vụ của bên vay. Trong trường hợp
người vay không trả được nợ cho người cho vay thì tùy từng trường hợp, người vay có thể bị người cho
vay khởi kiện ra Tòa dân sự để đòi nợ hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội "lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản" theo quy định tại Điều 140 Bộ luật hình sự.
Nếu giấy vay chỉ thể hiện nội dung là vay tiền, không có chứng cứ để coi số tiền nợ là tiền thua lô
đề và anh không có hành vi “dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó” thì việc anh
không trả được số tiền nợ chỉ có thể được giải quyết tại Tòa dân sự.


Tuy nhiên, do lô đề là một hình thức cờ bạc, nên trong trường hợp cơ quan điều tra có chứng cứ
chứng minh số tiền nợ là tiền thua lô đề thì cả người ký giấy vay và người cho vay đều có thể bị truy cứu
trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 248 Bộ luật hình sự về "tội đánh bạc".
Theo điều luật này, người nào đánh bạc dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện
vật có giá trị lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại điều này và Điều 249 của Bộ luật
này (về tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc) hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xóa án
tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ
đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.
Người phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tự từ2 năm đến 7 năm: Có
tính chất chuyên nghiệp; tiền hoặc hiện vật dựng đánh bạc có giá trị rất lớn hoặc đặc biệt lớn; tái phạm
nguy hiểm. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ3 triệu đồng đến 30 triệu đồng.
Tóm lại, do cờ bạc bị coi là hành vi phạm tội; mục đích và nội dung của giao dịch này đã “vi phạm điều
cấm của pháp luật” nên theo quy định của Bộ luật Dân sự, mọi nghĩa vụ phát sinh từ hành vi cờ bạc đều
bị coi là vô hiệu.
Hỏi :
Vừa rồi, Tòa án xét xử hai trường hợp phạm tội: * Trường hợp thứ nhất, một thanh niên 21 tuổi có quan
hệ tình dục với cô gái 15 tuổi 6 tháng, và thanh niên này bị Tòa án xử tội giao cấu với trẻ em với mức

hình phạt là 2 năm tự. * Trường hợp thứ hai, một thanh niên 19 tuổi quan hệ tình dục với cô gái hơn 12
tuổi (nhưng chưa đủ 13 tuổi), Tòa án xử phạt 12 năm tự vì tội hiếp dâm trẻ em. Tôi xin hỏi, cả hai người
bị hại trong cả hai vụ án đều là người chưa đủ 18 tuổi (là người vị thành niên) nhưng tại sao hai bị can:
người thì bị xử phạt tội giao cấu với trẻ em, còn người thì bị xử phạt tội hiếp dâm trẻ em?
Trả lời :
Theo quy định của pháp luật Việt Nam (Luật Bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em; Luật Dân sự,
Luật Hình sự...) thì người chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi, còn trẻ em là người chưa đủ 16 tuổi.
. Tại khoản 1 Điều 115 - Bộ luật Hình sự 1999 có quy định: " Người nào đã thành niên mà giao cấu với
trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, thì bị phạt tự từ một năm đến năm năm..."
Như vậy, theo chị hỏi ở trường hợp thứ nhất bị can giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến chưa đủ
16 tuổi thì bị phạm tội giao cấu với trẻ em (mặc dù người bị hại đồng ý, tự nguyện) và bị xử phạt 2 năm
tự là hợp lý (khung hình phạt ở khoản 1 có mức khởi điểm từ 1 năm tự trở lên).
Trong khi đó, tại khoản 1 và 4 Điều 112 - Bộ luật Hình sự 1999 quy định tội hiếp dâm trẻ em, như
sau: "Người nào hiếp dâm trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, thì bị phạt tự từ bảy năm đến mười lăm
năm" (khoản 1).
- "Mọi trường hợp giao cấu với trẻ em chưa đủ 13 tuổi là phạm tội hiếp dâm trẻ em và người phạm tội bị
phạt tự từ mười hai năm đến hai mươi năm, tự chung thân hoặc tử hình" (khoản 4).
Như vậy, trong trường hợp thứ hai mà chị hỏi thì người bị hại chưa đủ 13 tuổi và theo khoản 4 Điều 112 đã viện dẫn trên đây thì "Mọi trường hợp giao cấu với trẻ em chưa đủ 13 tuổi là phạm tội hiếp
dâm trẻ em". Tòa án phạt bị can 12 năm tự là mức án đầu khoản 4 là nhẹ (vì khoản 4 có khung hình phạt
đến tử hình).
Nội dung chị hỏi có liên quan đến nhiều văn bản pháp luật khác nhau, nhưng nói chung để bảo vệ
sự phát triển lành mạnh, bình thường của trẻ em, pháp luật xử phạt rất nghiêm khắc các hành vi xâm hại
đến trẻ em.
Hỏi :
Con trai tôi học lớp 7 (cháu 13 tuổi). Trong năm học vừa rồi, lúc cháu đang học tại trường thì xảy ra
chuyện đánh nhau giữa cháu với một bạn. Bạn của cháu phải đến bệnh viện khâu vết thương và điều trị
tại bệnh viện 3 ngày, ngoài ra bạn của cháu còn bị vỡ điện thoại di động. Qua sự việc trên, tôi có đưa con
tôi đến xin lỗi gia đình của bạn cháu. Vừa rồi, mẹ của bạn cháu có đến gặp tôi và yêu cầu bồi thường tổn



hại về sức khỏe 5 triệu đồng và bồi thường chiếc điện thoại 2,5 triệu đồng. Trong trường hợp này tôi có
phải bồi thường không? Xin tư vấn giúp.
Trả lời :
Tại Điều 621 - Bộ luật Dân sự quy định về bồi thường thiệt hại do người dưới mười lăm tuổi,
người mất năng lực hành vi dân sự gây ra trong thời gian trường học, bệnh viên, các tổ chức khác trực
tiếp quản lý:
1. Người dưới mười lăm tuổi trong thời gian học tại trường mà gây thiệt hại thì trường học phải bồi
thường thiệt hại xảy ra.
2. Người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại cho người khác trong thời gian bệnh viện, tổ chức
khác trực tiếp quản lý thì bệnh viện, tổ chức khác phải bồi thường thiệt hại xảy ra.
3. Trong các trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 điều này, nếu trường học, bệnh viện, tổ chức
khác chứng minh được mình không có lỗi trong việc quản lý, thì cha, mẹ, người giám hộ của người dưới
mười lăm tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự phải bồi thường.
Theo điều luật đã viện dẫn trên đây, thì trường học có trách nhiệm bồi thường, nếu trường học
chứng minh được là nhà trường không có lỗi trong việc quản lý thì gia đình chị phải bồi thường. Vấn đề
ở chỗ là các tình tiết của vụ việc xảy ra như thế nào? Nội quy của nhà trường ra sao?
Hỏi :
Em gái tôi ở xã Tân Thạnh Đông (huyện Củ Chi -TP.Hồ Chí Minh). Vừa rồi do xích mích (nguyên nhân
là chồng ngoại tình), hai vợ chồng đi ăn giỗ về đến cổng nhà (còn ở ngoài đường) chồng của em gái tôi
đã đánh đập em gái tôi rất tàn nhẫn trước sự chứng kiến của nhiều người hàng xóm và hai đứa con của
nó. Em gái tôi đã đi Bệnh viện huyện Hóc Môn khám và điều trị. Xin cho biết, Chồng có được quyền
đánh vợ không? Hành vi đánh vợ trước mặt nhiều người như vậy phạm tội gì? Thủ tục khởi kiện ra sao?
Trả lời :
Về nguyên tắc, theo quy định của pháp luật thì không ai được phép đánh người. Chồng đánh vợ là
vi phạm pháp luật và vi phạm đạo đức.
Hành vi đánh người nếu tỷ lệ thương tật từ 11% trở lên, hoặc dưới 11% nhưng có dựng hung khí
nguy hiểm; gây cố tật nhẹ cho nạn nhân; phạm tội nhiều lần; phạm tội đối với phụ nữ có thai, người già
yếu, ốm đau hoặc người không có khả năng tự vệ v.v... thì bị xử lý về tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác (Khoản 1 - Điều 104 - Bộ luật Hình sự 1999).
Nếu hành vi đánh vợ trước mặt đông người còn có thể phạm thêm tội "làm nhục người khác"

được quy định tại điều 121 - Bộ luật Hình sự 1999.
Về thủ tục, chị có thể đưa em gái của chị đến điều trị (hoặc khám bệnh) tại một cơ sở y tế, xin
giấy y chứng, sau đó viết đơn khởi kiện tại công an huyện. Cơ quan công an có trách nhiệm giải quyết
vụ việc theo quy định của pháp luật.
Nếu cần trao đổi cụ thể hơn, chị vui lòng điện thoại số 0913.755442 để gặp luật sư. Chúc chị gặp
may mắn.
Hỏi :
Sắp tới, tôi và mấy người bạn đi Lạng Sơn chơi, dự định mua một số thanh kiếm về để treo trang trí
trong nhà. Xin hỏi việc chúng tôi mua dao, kiếm để treo trang trí có bị pháp luật coi là tội phạm không?
Nếu có thì bị xử lý thế nào?
Trả lời :
Theo quy định tại điểm D, khoản 1, Điều 1 Quy chế quản lý vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ
ban hành kèm theo Nghị định số 47/CP ngày 12/8/1996 về quản lý vũ khí - vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ
thì "Vũ khí thô sơ gồm: Dao găm, kiếm, giáo, mác, đinh ba, đại đao, mã tấu, quả đấm bằng kim loại hoặc
chất cứng, cung, nỏ, cơn các loại và các loại khác do Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) quy định".


Người có hành vi chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ
khí thô sơ hoặc công cụ hỗ trợ có thể bị xử lý vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự
theo Điều 233 Bộ luật Hình sự.
Theo điều luật này, người nào chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc
chiếm đoạt vũ khí thô sơ hoặc công cụ hỗ trợ, đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án
về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tự từ ba tháng đến hai năm.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tự từ một năm đến năm năm: Có tổ
chức; vật phạm pháp có số lượng lớn; vận chuyển, mua bán qua biên giới; gây hậu quả nghiêm trọng
hoặc tái phạm nguy hiểm.
Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, phạt
quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm.
Theo các quy định nói trên thì việc mua dao, kiếm là hành vi bị pháp luật cấm. Nếu người có hành
vi trên vi phạm lần đầu thì có thể chỉ bị xử phạt hành chính; trong trường hợp đã bị xử phạt hành chính

về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị truy cứu trách
nhiệm hình sự theo Điều 233 Bộ luật Hình sự đã nêu ở trên
Hỏi :
Con tôi bị TAND Quận X. xét xử về tội “Trộm cắp tài sản”, tuyên phạt 12 tháng tự nhưng cho hưởng án
treo, thời gian thử thách là 24 tháng. Xin cho biết án treo là án như thế nào?
Trả lời :
Án treo là hình phạt tự có điều kiện được quy định tại Điều 60 Bộ luật Hình sự: Khi xử phạt tự
không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy
không cần phải bắt giam, chấp hành hình phạt tự, Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử
thách từ một năm đến năm năm.
Trong thời gian thử thách, Tòa án giao người được hưởng án treo cho cơ quan, tổ chức nơi người
đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó cư trú để giám sát và giáo dục. Gia đình người bị
kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo
dục người bị kết án.
Người được hưởng án treo có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền, cấm đảm nhiệm chức
vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định theo quy định tại Điều 30 và Điều 36 Bộ luật Hình sự.
Khi người được hưởng án treo chấp hành được một nửa thời gian thử thách và có nhiều tiến bộ thì
theo đề nghị của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giám sát và giáo dục, Tòa án có thể quyết định rút ngắn
thời gian thử thách.
Đối với người được hưởng án treo mà phạm tội mới trong thời gian thử thách, Tòa án quyết định
buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định
tại Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Hỏi :
Lái xe uống rượu say, điều khiển xe với tốc độ cao gây tai nạn làm chết một người rồi bỏ chạy thì bị xử
lý thế nào? Trách nhiệm bồi thường của chủ xe và lái xe? Việc công an trả xe gây tai nạn cho chủ xe khi
vụ việc chưa được giải quyết là đúng hay sai?
Trả lời :
Theo quy định tại Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 2/2003 ngày
17/4/2003 thì “Người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao
thông đường bộ, nếu chỉ căn cứ vào thiệt hại xảy ra, thì gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại

nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác” mà làm chết một người thì phải chịu trách nhiệm
hình sự theo khoản 1 Điều 202 Bộ luật Hình sự, tức là có thể bị phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 50 triệu
đồng, cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 5 năm.


Tuy nhiên, trong trường hợp bạn nêu, lái xe gây tai nạn khi say rượu và sau khi gây tai nạn lại bỏ
chạy để trốn tránh trách nhiệm thì hành vi phạm tội lại có tới hai tình tiết định khung quy định tại khoản
2 Điều 202 Bộ luật Hình sự là phạm tội “Trong khi say rượu hoặc say do dựng các chất kích thích mạnh
khác” và “Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm…” nên lái xe sẽ bị xét xử theo khoản này,
với mức hình phạt tự từ 3 năm đến 10 năm.
Về việc trả lại phương tiện: Theo quy định tại Điều 74 Bộ luật tố tụng hình sự thì trong vụ án giao
thông nói trên, chiếc ôtô gây tai nạn được coi là vật chứng của vụ án. Khoản 3 Điều 76 Bộ luật tố tụng
hình sự quy định về việc xử lý vật chứng cũng có quy định cho phép “Trong quá trình điều tra, truy tố,
xét xử, cơ quan có thẩm quyền… có quyền quyết định trả lại những vật chứng… cho chủ sở hữu hoặc
người quản lý hợp pháp, nếu xét thấy không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án.”. Do vậy, việc Cơ quan
điều tra trả xe gây tai nạn cho chủ xe sử dụng khi vụ việc đang được giải quyết là phù hợp với quy định
vừa trích dẫn.
Hỏi :
Ngày 14-8-2007, tôi có đến một thẩm mỹ viện để điều trị mụn. Tại đây, cơ V. cam kết bằng giấy tay rằng
đến ngày 24-11-2007 sẽ trị hết mụn cho tôi với giá 4 triệu đồng và nếu không trị hết mụn thì trả lại cho
tôi toàn bộ số tiền đã nhận. Khi đến hạn cơ V. đưa ra mà mụn của tôi vẫn y như cũ nên cơ V. viết giấy
cam kết trả tiền cho tôi lúc 4g ngày 28-11-2007. Thế nhưng, đến đúng hạn trả tiền thì cơ V. không trả
cho tôi mà còn thách thức tôi đi kiện. Xin hỏi cơ V. có phạm tội lừa đảo không? Làm sao để tôi lấy lại
tiền?
Trả lời :
- Theo thông tin mà bạn cung cấp thì hành vi của cơ V. chưa đủ yếu tố cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản qui định tại điều 139 Bộ luật hình sự, mà chỉ dừng lại ở quan hệ hợp đồng dân sự. Theo đó, cơ V.
đã không thực hiện đúng trách nhiệm theo hợp đồng thì phải thực hiện cam kết của mình. Bạn có quyền
gửi đơn khởi kiện đến tòa án cấp huyện nơi cơ V. cư trú, làm việc để yêu cầu tòa án buộc cơ V. phải trả
lại tiền theo cam kết.

Hỏi :
Tôi mua và sử dụng tiền Nhân dân tệ tương đương 10 triệu đồng thì có bị coi là phạm tội lưu hành tiền
giả không? Số lượng tiền giả đến bao nhiêu thì bị xử lý hình sự?".
Trả lời :
Theo quy định tại Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 02/2003/NQHĐTP ngày 17/4/2003 thì tiền giả bao gồm tiền Việt Nam đồng giả và ngoại tệ giả; ngân phiếu giả, công
trái giả bao gồm ngân phiếu, công trái giả ngân phiếu, công trái của Việt Nam hoặc của nước ngoài phát
hành, nhưng có giá trị thanh toán tại Việt Nam.
Người làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả phải chịu trách
nhiệm hình sự theo Điều 180 Bộ luật Hình sự (với mức hình phạt tự từ 3 năm đến 20 năm, tự chung thân
hoặc tử hình).
Nghị quyết hướng dẫn việc xác định trách nhiệm hình sự theo số lượng tiền giả như sau:
- Nếu tiền giả có trị giá tương ứng dưới 3 triệu đồng tiền Việt Nam thì người phạm tội bị phạt tự từ 3
năm đến 7 năm;
- Nếu tiền giả có trị giá tương ứng từ 3 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng tiền Việt Nam thì người phạm
tội bị phạt tự từ 5 năm đến 12 năm.
- Nếu tiền giả có trị giá tương ứng từ 50 triệu đồng tiền Việt Nam trở lên thì người phạm tội bị phạt tự từ
10 năm đến 20 năm, tự chung thân hoặc tử hình.
Theo các quy định vừa viện dẫn thì do tính chất đặc biệt nguy hiểm của hành vi phạm tội đối với
nền kinh tế nên làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả sẽ bị coi là phạm tội, không phân biệt số
lượng tiền giả nhiều hay ít.


Như vậy, việc một người mua và sử dụng đô la Mỹ giả với số lượng dưới 10 triệu đồng cũng bị
coi là phạm tội lưu hành tiền giả; người phạm tội trong trường hợp này có thể bị phạt tù từ 5 năm đến 12
năm.
Hỏi :
Xin cho biết những người phạm tội cố ý tạo ra và làm lan truyền, phát tán các chương trình virus tin học,
gây nhiễu loạn hệ thống mạng sẽ bị xử lý như thế nào?
Trả lời :
Theo quy định tại Ðiều 224 Bộ luật Hình sự quy định:

1- Người nào tạo ra và cố ý lan truyền, phát tán các chương trình virus qua mạng máy tính hoặc bằng
các phương thức khác gây rối loạn hoạt động, phong tỏa hoặc làm biến dạng, hủy hoại các dữ liệu của
máy tính hoặc đã bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ
năm triệu đồng đến một trăm triệu đồng hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2- Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tự từ hai năm đến bảy
năm.
3- Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm
chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.
Hỏi :
Đề nghị cho biết, Bộ luật Hình sự quy định mức hình phạt người có hành vi tổ chức đua xe trái phép như
thế nào?
Trả lời :
Vấn đề bạn hỏi, tại Ðiều 206, Bộ luật Hình sự quy định:
1.Người nào tổ chức trái phép việc đua xe ô-tô, xe máy hoặc các loại xe khác có gắn động cơ thì bị phạt
tiền từ 10 triệu đồng đến 50 triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ một năm đến
năm năm.
2.Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau thì bị phạt tự từ ba năm đến 10 năm: Tổ chức đua xe có
quy mô lớn; tổ chức cá cược; tổ chức việc chống lại người có trách nhiệm bảo đảm trật tự an toàn giao
thông hoặc người có trách nhiệm giải tán cuộc đua xe trái phép; tổ chức đua xe nơi tập trung đông dân
cư; tháo dỡ các thiết bị an toàn khỏi phương tiện đua; gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại
nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác; tái phạm về tội này hoặc tội đua xe trái phép.
3.Phạm tội trong trường hợp tái phạm nguy hiểm hoặc gây hậu quả rất nghiêm trọng thì bị phạt tự từ bảy
năm đến 15 năm.
4.Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tự từ 12 năm đến 20 năm hoặc tự chung thân.
5.Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến 30 triệu đồng.
Hỏi :
Em tôi đã 20 tuổi, lúc nhỏ thần kinh không bình thường, gia đình đã có lần cho đi điều trị tại bệnh viện
tâm thần. Do bạn rủ đi chơi bằng xe máy ngồi sau không đội mũ bảo hiểm, bị cảnh sát giao thông kiểm
tra em tôi sợ bị giữ xe nên chỉ ôm giữ người cảnh sát để bạn phóng xe bỏ chạy, không hề hành hung
người cảnh sát nhưng em tôi bị bắt giữ về hành vi chống người thi hành công vụ, như vậy có đúng

không? Tôi phải làm gì trong trường hợp này?
Trả lời :
Hành vi chống người thi hành công vụ được hiểu là hành vi xâm phạm vào hoạt động bình thường
của cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội trong lĩnh vực quản lý hành chính Nhà nước.
Người thi hành công vụ là người đang thực hiện nhiệm vụ do cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội
giao vì lợi ích chung của toàn xã hội. Em chị đã dùng sức mạnh ôm giữ người cảnh sát, tác động lên thân
thể họ buộc họ không thể thực hiện được nhiệm vụ mặc dù chưa gây thương tích cho họ, nhưng lại tạo


điều kiện để một hành vi vi phạm khác trốn tránh pháp luật. Ngoài ra em chị còn vi phạm vào Nghị quyết
32 năm 2007 của Chính phủ về việc tham gia giao thông phải đội mũ bảo hiểm.
Theo khoản 1, điều 257 - Bộ luật Hình sự thì em chị có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3
năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm.
Song, hành vi chống người thi hành công vụ được thực hiện bởi những người có đủ năng lực trách
nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo luật định.
Về cơ bản, hành vi của em chị đã có dấu hiệu cấu thành tội chống người thi hành công vụ. Việc
bắt giữ em chị là đúng pháp luật, còn việc xử lý em chị như thế nào còn phải dựa trên một số căn cứ khác
như năng lực trách nhiệm hình sự.
Chị cần thông báo sớm để cơ quan pháp luật biết về bệnh tâm thần của em chị, xuất trình những
giấy tờ liên quan đến bệnh tâm thần của em chị cho cơ quan pháp luật xem xét.
Hỏi :
Năm 2007 con trai tôi bị Tòa án quận Đống Đa xử về hành vi trộm cắp, tòa án tuyên con tôi 10 tháng tự
nhưng cho hưởng án treo, 24 tháng thử thách. Năm 2008 con tôi lại bị Tòa án quận Đống Đa xử 30 tháng
tự về tội tàng trữ ma túy. Tổng hợp hình phạt con tôi phải chấp hành là 40 tháng. Thời gian tạm giam,
tạm giữ của bản án năm 2007 khi chuyển thành án giam cháu không được trừ có đúng không? Điều kiện
để được xét giảm thời gian thi hành án như thế nào?
Trả lời :
Trong các hình phạt của Nhà nước, thì án treo không phải là hình phạt đối với người có hành vi
phạm tội, khi xử tự thời gian không quá 3 năm, căn cứ vào nhân thân, và các tình tiết giảm nhẹ đối với
người phạm tội, xét không cần thiết phải áp dụng hình phạt tự, căn cứ theo điều 60 - Bộ luật Hình sự.

Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách .
Với trường hợp của con ông, phải được hiểu con ông bị phạt bằng hình phạt tự có thời hạn, sau
khi tòa án đã xem xét các tình tiết giảm nhẹ, trừ khoảng thời gian tạm giữ, tạm giam còn lại tòa án tuyên
án con ông 10 tháng tự nhưng cho hưởng án treo kèm theo thời gian thử thách là 24 tháng để gia đình,
chính quyền địa phương quản lý giáo dục và con ông tự cải tạo nhưng con ông không tiến bộ tiếp tục
phạm tội mới .
Theo điểm 5, điều 60 - Bộ luật Hình sự thì những người được hưởng án treo mà phạm tội mới
trong thời gian thử thách thì tòa quyết định buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp
với bản án mới, khi tổng hợp hai bản án tòa án không trừ thời hạn tạm giam, tạm giữ của bản án năm
2007. Như vậy việc tổng hợp hai bản án đối với con ông là hoàn toàn đúng pháp luật
Theo điều 58 - Bộ luật Hình sự con ông bị kết án hình phạt tự nếu thi hành được 1/3 thời gian có
tiến bộ, theo đề nghị của cơ quan thi hành án phạt tù thì sẽ được xét giảm lần đầu. Một người có thể được
giảm nhiều lần nhưng phải đảm bảo thi hành được 1/2 thời gian mức hình phạt đã tuyên. Ông và gia đình
động viên anh ấy cải tạo tiến bộ để được giảm án nhanh về với gia đình, là người công dân tốt hòa nhập
vào xã hội.

Hỏi :
Em trai tôi bị phạt 5 năm tự về tội tham ô, phạt tiền 15 triệu đồng, đã thụ án xong và nộp được 5 triệu.
Nay gia đình khó khăn, em tôi có thể được xét miễn, giảm khoản tiền phạt còn lại không?
Trả lời :
Điểm 3.4, Mục 3 Thông tư liên tịch số 02/2005/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-BTP-BCA-BTC
ngày 17/6/2005 quy định: Khi chưa hết thời hạn 10 năm, kể từ ngày ra quyết định thi hành án lần đầu,
người phải thi hành khoản tiền phạt trong các vụ án hình sự về các loại tội phạm không phải là tội phạm
về ma túy; hoặc trường hợp phải thi hành khoản tiền phạt trong các vụ án hình sự về ma túy (các tội


phạm về ma túy) là người phạm tội có tổ chức, phạm tội nhiều lần, lợi dụng chức vụ, quyền hạn, thu lợi
bất chính lớn được miễn thi hành án khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Số tiền phạt còn lại từ 20 triệu đồng trở xuống;
b) Đã chấp hành được một phần hình phạt tiền, trừ trường hợp người chưa thành niên khi phạm tội;

c) Bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn hoặc ốm đau
gây ra mà không thể chấp hành được số tiền phạt còn lại hoặc lập công lớn.
Theo các quy định nói trên, em trai anh có thể làm đơn gửi cơ quan thi hành án đề nghị được
miễn, giảm khoản tiền còn lại.
Hồ sơ đề nghị xét miễn giảm gồm: đơn xin miễn giảm thi hành án của người phải thi hành án kèm
theo các giấy tờ chứng minh điều kiện để miễn, giảm thi hành án. Đơn xin miễn, giảm thi hành án phải
có xác nhận của UBND xã, phường nơi người xin miễn, giảm thi hành án cư trú xác nhận. Ngoài ra, cần
gửi kèm theo đơn: Bản sao bản án, quyết định (hoặc trích lục bản án, quyết định) của tòa án; các quyết
định về thi hành án; chứng từ thu chi về thi hành án;
Đơn và hồ sơ gửi kèm được gửi đến cơ quan thi hành án đang thụ lý việc thi hành án.
Hỏi :
Con tơi cùng một người bạn của cháu phạm tội cướp tài sản khi cả hai còn ở tuổi vị thành niên. Xin hỏi,
theo pháp luật thì tội cướp tài sản sẽ bị xử phạt như thế nào? Trường hợp con tôi phạm tội còn ở tuổi vị
thành niên thì pháp luật quy định việc xử phạt đối với người chưa thành niên phạm tội ra sao?
Trả lời :
Theo điều 133 - Bộ luật Hình sự quy định tội cướp tài sản như sau: Người nào dùng vũ lực, đe
dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không
thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tự từ ba năm đến mười năm.
Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên phạm tội và áp dụng hình phạt đối với
họ được thực hiện chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, vào
những đặc điểm về nhân thân và yêu cầu việc phòng ngừa tội phạm. Khi xét xử, nếu thấy không cần thiết
phải áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, thì tòa án áp dụng một trong các biện
pháp tư pháp được quy định tại điều 70 của Bộ luật Hình sự.
Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội. Khi xử phạt tự
có thời hạn, tòa án cho người chưa thành niên phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối
với người đã thành niên phạm tội tương ứng.
Không áp dụng hình phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội ở độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến
dưới 16 tuổi. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội. án đã tuyên đối
với người chưa thành niên phạm tội khi chưa đủ 16 tuổi thì không tính để xác định tái phạm hoặc tái
phạm nguy hiểm.

Điều 70 Bộ luật Hình sự quy định các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên
phạm tội. Việc con của chị phạm tội bị xử phạt cụ thể như thế nào sẽ tùy thuộc vào tính chất, mức độ
phạm tội, thái độ khai báo và do Hội đồng xét xử quyết định.
Tại điều 45 - Bộ luật Hình sự cũng quy định rõ: Khi quyết định hình phạt, tòa án căn cứ vào quy
định của Bộ luật Hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân
thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự để xử phạt.
Hỏi :
Hiện nay, tình trạng đánh bạc diễn ra khá phổ biến với nhiều hình thức khác nhau. Xin cho biết, pháp
luật đã quy định xử phạt hành vi đánh bạc như thế nào?
Trả lời :
Theo quy định tại điều 248 - Bộ luật Hình sự quy định về tội đánh bạc như sau:


Người nào đánh bạc dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật có giá trị lớn
hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại điều này và điều 249 - Bộ luật này hoặc đã bị kết
án về một trong các tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến
năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tự từ hai năm đến bảy năm: Có tính
chất chuyên nghiệp; tiền hoặc hiện vật dựng để đánh bạc có giá trị lớn hoặc đặc biệt lớn; tái phạm nguy
hiểm.
Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng.
Nghị quyết số 150/2005/NĐ-CP của Chính Phủ quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực an
ninh và trật tự, an toàn xã hội, người có hành vi đánh bạc như sau:
Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.500.000 đồng đối với một trong các hành vi đánh bạc sau đây:
Đánh bạc bằng một trong các hình thức như xóc đĩa, tỏ lả, tổ tôm, tú lơ khơ, tam cúc, 3 cây, tứ sắc, đỏ
đen, cờ thế hoặc các hình thức khác mà được, thua bằng tiền, hiện vật, đánh bạc bằng máy, trò chơi điện
tử trái phép, cá cược, cá độ bằng tiền hoặc dưới các hình thức khác trong hoạt động thi đấu thể thao, vui
chơi giải trí, các hoạt động khác, bán thơ đề, bán số lô, số đề.
Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với một trong các hành vi tổ chức đánh bạc
như: Rủ rê, lôi kéo, tụ tập người khác để đánh bạc, dựng nhà của mình hoặc địa điểm khác để chứa bạc,

gạ bạc, đặt máy đánh bạc, trò chơi điện tử trái phép, tổ chức hoạt động cá cược ăn tiền.
Phạt từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các hành vi tổ chức đánh đề sau
đây: Làm chủ lô, đề, tổ chức sản xuất, phát hành bảng đề, ấn phẩm khác cho việc đánh lô, đề, tổ chức
mạng lưới bán số lô, số đề; tổ chức các loại chơi cá cược cá độ trong hoạt động thi đấu thể dục thể thao,
vui chơi giải trí hoặc dưới các hoạt động khác để đánh bạc, ăn tiền.
Hỏi :
Xin hỏi tội vu khống được xác định như thế nào và hình phạt đối với tội này?
Trả lời :
Theo điều 122 Bộ luật hình sự: "Người nào bịa đặt, loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt nhằm
xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác hoặc bịa đặt là người
khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ
đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm"
Nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau thì bị phạt từ từ một năm đến bảy năm:
1. Có tổ chức
2. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn
3. Đối với nhiều người
4. Đối với ông, bà, cha, mẹ, người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh cho mình
5. Đối với người thi hành công vụ
6. Vu khống người khác phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng
Ngoài ra người phạm tội có thể bị phạt tiền từ một triệu đồng đến mười tám triệu đồng, cấm đảm
nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.
Hỏi :
Em trai tôi phạm tội cố ý gây thương tích, bị tạm giam 3 tháng, sau đó được Tòa xử 12 tháng tù treo, thời
gian thử thách là 18 tháng. Xin quý báo cho biết thời gian thử thách Tòa tuyên đối với em tôi có đúng
không? Pháp luật quy định thế nào về thời gian thử thách của người được hưởng án treo?
Trả lời :
Theo quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự và hướng dẫn tại Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán
TAND Tối cao số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 2/10/2007 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật
hình sự về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt, khi



cho người bị xử phạt tự hưởng án treo, trong mọi trường hợp Toà án phải ấn định thời gian thử thách từ
một năm đến năm năm và phân biệt như sau:
a) Trường hợp người bị xử phạt tự không bị tạm giam, thời gian thử thách bằng hai lần mức hình phạt tự,
nhưng không được dưới một năm và không được quá năm năm.
b) Trường hợp người bị xử phạt tự đã bị tạm giam, lấy mức hình phạt tự trừ đi thời gian đã bị tạm giam
để xác định mức hình phạt tự còn lại phải chấp hành. Thời gian thử thách trong trường hợp này bằng hai
lần mức hình phạt tự còn lại phải chấp hành, nhưng không được dưới một năm và không được quá năm
năm.
c) Trong trường hợp đặc biệt, Toà án có thể ấn định thời gian thử thách ngắn hơn mức nói trên nhưng
phải ghi rõ lý do trong bản án.
Đối chiếu các quy định nói trên với trường hợp bạn nêu thì thấy: Em bạn đã bị tạm giam 3 tháng,
như vậy mức hình phạt tự còn lại em bạn phải chấp hành là 12 tháng – 3 tháng = 9 tháng. Toà án ấn định
thời gian thử thách đối với em bạn là 18 tháng (9 tháng x 2 = 18 tháng) là đúng.
Hỏi :
Thời hiệu thi hành bản án hình sự là bao nhiêu năm? Ở địa phương tôi có người bị kết án 5 năm tự nhưng
cố tình trốn tránh thì thời gian trốn tránh có được tính để xác định thời hiệu thi hành bản án hình sự
không?
Trả lời :
Theo quy định tại Điều 55 Bộ luật hình sự (BLHS), thời hiệu thi hành bản án hình sự là thời hạn
do BLHS quy định mà khi hết thời hạn đó người bị kết án không phải chấp hành bản án đã tuyên.
Thời hiệu thi hành bản án hình sự được quy định như sau:
a) 5 năm đối với các trường hợp xử phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc xử phạt tự từ 3 năm trở
xuống.
b) 10 năm đối với các trường hợp xử phạt tự từ trên 3 năm đến 15 năm.
c) 15 năm đối với các trường hợp xử phạt tự từ trên 15 năm đến 30 năm.
Thời hiệu thi hành bản án hình sự được tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật. Nếu trong thời
hạn nói trên người bị kết án cố tình trốn tránh và đã có lệnh truy nã, thì thời gian trốn tránh không được
tính và thời hiệu tính lại kể từ ngày người đó ra trình diện hoặc bị bắt giữ.
Theo Nghị quyết Hội đồng thẩm phán TAND tối cao số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 2/10/2007

hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành
hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt, trường hợp người bị kết án cố tình trốn tránh và cơ quan
công an đã cú quyết định truy nã theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì thời gian trốn tránh
không được tính và thời hiệu thi hành bản án hình sự tính lại kể từ ngày người đó ra trình diện hoặc bị
bắt giữ. Cố tình trốn tránh là cố tình giấu địa chỉ, ẩn náu, thay đổi họ tên, hình dạng... làm cho cơ quan có
thẩm quyền thi hành án không biết họ ở đâu hoặc không phát hiện được.
Hỏi :
Con trai tôi gây thương tích một người hàng xóm mất 43% sức khỏe, đã bị tạm giam. Tôi đã bồi thường
cho nạn nhân nhưng gia đình nạn nhân không nhận, nói để chờ Tòa xử. Xin hỏi con tôi có được Tòa
giảm nhẹ hình phạt không?
Trả lời :
Theo quy định tại điểm b, khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự, người phạm tội tự nguyện sửa chữa,
bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả là một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Nghị quyết của
Hội đồng thẩm phán TAND tối cao số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 hướng dẫn áp dụng một số
quy định của Bộ luật Hình sự cũng hướng dẫn rõ: Được áp dụng tình tiết nêu trên nếu thuộc một trong
các trường hợp sau đây:


a) Bị cáo là người từ đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 15 tuổi khi phạm tội và cha, mẹ của họ đã tự nguyện sửa
chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra;
b) Bị cáo là người từ đủ 15 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi khi phạm tội và cha, mẹ của họ đã tự nguyện sửa
chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, nếu bị cáo không có
tài sản;
c) Bị cáo (không phân biệt là người đã thành niên hay người chưa thành niên) hoặc cha, mẹ của bị cáo
chưa thành niên đã tự nguyện dựng tiền, tài sản để sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do
hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, nhưng người bị hại, nguyên đơn dân sự hoặc người đại diện hợp pháp
của họ từ chối nhận, nếu số tiền, tài sản đó đã được giao cho cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan thi hành
án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác quản lý để thực hiện việc sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục
hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra;
Như vậy, nếu bạn đã tự nguyện bồi thường cho nạn nhân nhưng gia đình nạn nhân không nhận thì

khi xét xử, con bạn vẫn được Tòa án xem xét, áp dụng tình tiết giảm nhẹ nói trên và giảm nhẹ hình phạt.
Hỏi :
Xin cho biết những hàng hóa nào bị coi là hàng giả? Kinh doanh hàng giả có giá trị 25 triệu đồng thì đã
đến mức bị truy tố chưa ?
Trả lời :
Theo quy định tại Nghị định số 06/2008/NĐ-CP ngày 16/1/2008 quy định về xử phạt vi phạm
hành chính trong hoạt động thương mại, hàng giả bao gồm:
- Giả chất lượng và công dụng: hàng hoá không có giá trị sử dụng hoặc giá trị sử dụng không đúng với
nguồn gốc, bản chất tự nhiên, tên gọi và công dụng của hàng hoá;
- Giả mạo nhãn hàng hoá, bao bì hàng hoá: hàng hoá giả mạo tên, địa chỉ của thương nhân khác trên
nhãn hoặc bao bì cùng loại hàng hoá; hàng hoá giả mạo chỉ dẫn về nguồn gốc hàng hoá hoặc nơi sản
xuất, đóng gói, lắp ráp trên nhãn hoặc bao bì;
- Giả mạo về sở hữu trí tuệ theo quy định tại Điều 213 Luật Sở hữu trí tuệ bao gồm hàng hoá có gắn
nhãn hiệu, dấu hiệu trùng hoặc khó phân biệt với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ dùng cho
chính mặt hàng đó mà không được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc của tổ chức quản lý chỉ dẫn địa
lý; hàng hoá là bản sao được sản xuất mà không được phép của chủ thể quyền tác giả hoặc quyền liên
quan;
- Các loại đề can, nhãn hàng hoá, bao bì hàng hoá, tem chất lượng, tem chống giả, phiếu bảo hành, niêm
màng co hàng hoá có nội dung giả mạo tên, địa chỉ thương nhân, nguồn gốc hàng hoá, nơi sản xuất, đóng
gói, lắp ráp hàng hoá (sau đây gọi tắt là tem, nhãn, bao bì hàng hoá giả);
Đối với hàng hoá thuộc diện quản lý chuyên ngành nếu pháp luật có quy định riêng thì áp dụng các quy
định đó để xác định hàng giả.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 156 Bộ luật hình sự, người nào sản xuất, buôn bán hàng giả tương
đương với số lượng của hàng thật có giá trị từ ba mươi triệu đồng đến dưới một trăm năm mươi triệu
đồng hoặc dưới ba mươi triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng… sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình
sự về tội sản xuất, buôn bán hàng giả.
Như vậy trường hợp kinh doanh hàng giả có giá trị 25 triệu đồng thì chưa đến mức bị truy tố. Tuy
nhiên, cũng theo quy định tại Nghị định nói trên, người kinh doanh hàng giả có giá trị từ trên 20 đến
dưới 30 triệu đồng sẽ bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 20 triệu đồng; bị buộc tiêu hủy hàng giả hoặc tịch
thu tang vật, phương tiện được sử dụng để làm hàng giả…

Hỏi :
Hỏi: Xin cho biết quy định của pháp luật về xóa án.
Trả lời :


Việc xóa án tích là thể hiện tính nhân đạo của Nhà nước đối với người đã phạm tội hình sự. Người
được xóa án tích được coi như chưa bị kết án.
Tại các Điều 63, 64, 65, 66 và 67 của Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định về việc xóa án tích như
sau:
* Xóa án tích
Người bị kết án được xóa án tích theo quy định tại các điều từ Điều 64 đến Điều 67 của Bộ luật
này.
Người được xóa án tích coi như chưa bị kết án và được Tòa án cấp giấy chứng nhận.
* Đương nhiên được xóa án tích
Những người sau đây đương nhiên được xóa án tích:
1. Người được miễn hình phạt.
2. Người bị kết án không phải về các tội quy định tại Chương XI và Chương XXIV của Bộ luật này, nếu
từ khi chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án, người đó không phạm tội mới
trong thời hạn sau đây:
a. Một năm trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền. Cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù nhưng
được hưởng án treo;
b. Ba năm trong trường hợp hình phạt là tự đến ba năm;
c. Năm năm trong trường hợp hình phạt là tự từ trên ba năm đến mười lăm năm;
d. Bảy năm trong trường hợp hình phạt là tự từ trên mười lăm năm.
* Xóa án tích theo quyết định của Tòa án
1. Tòa án quyết định việc xóa án tích đối với những người đã bị kết án về các tội được quy định tại
Chương XI và Chương XXIV của Bộ luật này, căn cứ vào tính chất của tội phạm đã được thực hiện,
nhân thân, thái độ chấp hành pháp luật và thái độ lao động của người bị kết án, trong các trường hợp sau
đây:
a. Đã bị phạt tự đến ba năm mà không phạm tội mới trong thời hạn ba năm, kể từ khi chấp hành xong

bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án;
b. Đã bị phạt tự từ trên ba năm đến mười lăm năm mà không phạm tội mới trong thời hạn bảy năm, kể từ
khi chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án;
c. Đã bị phạt tự trên mười lăm năm mà không phạm tội mới trong thời hạn mười năm, kể từ khi chấp
hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án.
2. Người bị tòa án bác đơn xin xóa án tích lần đầu phải chờ một năm sau mới được xin xóa án tích. Nếu
bị bác đơn lần thứ hai trở đi thì phải sau hai năm mới được xin xóa án tích.
* Xóa án tích trong trường hợp đặc biệt
Trong trường hợp người bị kết án có những biểu hiện tiến bộ rõ rệt và đã lập công, được cơ quan, tổ chức
nơi người đó công tác hoặc chính quyền địa phương nơi người đó thường trú đề nghị, thì có thể được
Tòa án xóa án tích nếu người đó đã bảo đảm được ít nhất một phần ba thời hạn quy định.
* Cách tính thời hạn để xóa án tích
1. Thời hạn để xóa án tích quy định tại Điều 64 và Điều 65 của Bộ luật này căn cứ vào hình phạt chính
đã tuyên.
2. Nếu chưa được xóa án tích mà phạm tội mới, thì thời hạn để xóa án tích cũ tính từ ngày chấp hành
xong bản án mới.
3. Việc chấp hành xong bản án bao gồm việc chấp hành xong hình phạt chính, hình phạt bổ sung và các
quyết định khác của bản án.
4. Người được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại cũng được coi như đã chấp hành xong hình phạt.
Hỏi :


Gia đình tôi có các cháu còn đang là học sinh chưa đủ 16 tuổi theo bạn bè rủ rê mà phạm tội. Nay vụ việc
đang được điều tra chờ ngày xét xử. Xin hỏi trường hợp các cháu là người chưa thành niên phạm tội thì
luật pháp quy định xử phạt như thế nào, được giảm nhẹ không. Xin luật sư hướng dẫn.
Trả lời :
Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội là một trường hợp quyết định đặc
biệt.Tính chất đặc biệt của trường hợp này là ở chỗ, hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên
phạm tội được giảm nhẹ hơn so với người đã thành niên phạm tội, mức giảm nhẹ phụ thuộc mức tuổi của
người phạm tội.

Theo quy định tại Điều 69 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định:
Toà án không xử phạt chung thân hoặc tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội; Không áp dụng
các hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội; Không áp dụng hình phạt tiền đối với
người chưa thành niên phạm tội ở độ tuổi từ 14 đến dưới 16 tuổi. Khi xử phạt tự có thời hạn, Toà án cho
người chưa thành niên phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức áp dụng đối với người đã thành niên
phạm tội tương ứng. Án đã tuyên với người chưa thành niên phạm tội khi chưa đủ 16 tuổi thì không tính
để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.
Từ những quy định của điều luật có thể hiểu như sau:
+ Đối với hình phạt tiền: Được áp dụng là hình phạt chính đối với người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi
đến dưới 18 tuổi nếu người phạm tội có thu nhập hoặc có tài sản riêng. Như vậy quy định này nhằm hạn
chế việc áp dụng hình phạt tự đối với người chưa thành niên phạm tội. Mức phạt tiền đối với người chưa
thành niên phạm tội không vượt quá 1/2 mức tiền phạt mà điều luật quy định.
+ Đối với hình phạt cải tạo không giam giữ: Luật quy định giới hạn hình phạt áp dụng cho người chưa
thành niên phạm tội không quá 1/2 thời hạn mà điều luật quy định và người bị kết án không bị khấu trừ
thu nhập.
Đối với hình phạt tự: Bộ luật phân hoá người chưa thành niên làm hai đối tượng là người từ đủ 16 tuổi
đến dưới 18 tuổi và người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì đường lối xử lý khác nhau. Người từ đủ 14
tuổi đến đủ 16 tuổi xử lý nhẹ hơn đối với người từ đủ 16 tuổi đến đủ 18 tuổi. Trong từng trường hợp cụ
thể mà luật áp dụng mức hình phạt khác nhau phù hợp với độ tuổi của người chưa thành niên phạm tội
cũng như yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm.
Như luật sư đã nêu thì pháp luật quy định rất rõ ràng, cụ thể đối với xử lý người chưa thành niên
phạm tội; nên con của ông sẽ được áp dụng theo nguyên tắc này khi Toà án đưa ra xét xử.
Hỏi :
Ở địa phương tôi có một số đối tượng phạm tội, bị Toà án xử tự, xử cải tạo tại địa phương. Hàng năm số
đối tượng này được nhà nước xét giảm án, trong số này có người thực sự đã cải tạo tốt song cũng có
những đối tượng ra tù lại tiếp tục phạm tội, đi tù một thời gian lại được tha, có những người bị xử tự
chung thân mà 12 năm họ đã được xét giảm. Chúng tôi chưa nắm rõ quy định của pháp luật về vấn đề
này nhưng thấy việc tha tự trước thời hạn như vậy là chưa đúng, không có tác dụng trong đấu tranh
phòng ngừa tội phạm. Rất mong chuyên mục bớt thời gian tư vấn để chúng tôi hiểu luật và phản ảnh
những tiêu cực trong chấp hành pháp luật.

Trả lời :
Theo quy định tại Điều 58 Bộ luật hình sự (BLHS) về giảm mức hình phạt đã tuyên và các văn
bản hướng dẫn thi hành thì người đang chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc hình phạt tự
được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt khi có đủ các điều kiện sau đây:
+ Đã chấp hành được một phần ba thời hạn đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, hình phạt tự từ ba
năm trở xuống hoặc 12 năm đối với hình phạt tự chung thân.
+ Chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật; thành thật hối cải, tích cực lao động, học tập.
+ Không vi phạm chế độ, nội quy của trại giam (Trại tạm giam) đối với người đang chấp hành hình phạt
tự.


+ Được cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền địa phương được giao trách nhiệm trực tiếp giám sát, giáo
dục ( đối với trường hợp người đang chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ) hoặc cơ quan thi hành
án phạt tù ( đối với người đang chấp hành hình phạt tự) đề nghị bằng văn bản xét giảm thời hạn chấp
hành hình phạt.
Về mức giảm thời hạn chấp hành hình phạt được quy định như sau:
+ Người bị kết án cải tạo không giam giữ thì mỗi lần có thể được giảm từ 3 tháng đến 9 tháng.
+ Người bị kết án phạt tù từ 30 năm trở xuống thì mỗi lần có thể được giảm từ 3 tháng đến 3 năm.
Trường hợp được giảm 3 năm phải là người bị kết án phạt tù có thành tích đặc biệt xuất sắc trong lao
động cải tạo và chấp hành nghiêm chỉnh nội quy của trại giam.
+ Người bị kết án tự chung thân lần đầu được giảm xuống 30 năm.
+ Mỗi người có thể được giảm thời hạn chấp hành hình phạt làm nhiều lần, nhưng phải bảo đảm thời hạn
thực tế chấp hành hình phạt là một phần hai mức hình phạt đã tuyên hoặc hai mươi năm đối với hình
phạt tự chung thân.
+ Mỗi người mỗi năm chỉ được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt một lần. Trường hợp trong năm
đó sau khi được giảm thời hạn chấp hành hình phạt mà có lý do đặc biệt đáng được khoan hồng như lại
lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo thì có thể được xét giảm thêm tối đa là hai lần trong một năm.
Hỏi :
Gia đình tôi có người thân công tác ở xã bị khởi tố điều tra về tội làm trái. Tuy nhiên trong điều tra
không chứng minh được việc chiếm đoạt, tư túi cá nhân tham ô tài sản của tập thể. Hiện nay vụ án chuẩn

bị được đưa ra xét xử. Xin hỏi luật sư nếu người bị xử về tội này được hưởng án treo tại địa phương thì
cần có những điều kiện như thế nào. Tôi rất muốn biết pháp luật quy định về vấn đề này như thế nào, để
biết trường hợp người thân của gia đình tôi.
Trả lời :
Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về án treo (Điều 60) như sau: Khi người bị xử phạt tự không
quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần
thiết phải chấp hành hình phạt tự, thì Toà án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một
năm đến 5 năm. Trong thời gian thử thách, Toà án giao người được hưởng án treo cho cơ quan, tổ chức,
nơi người đó làm việc hoặc thường trú để giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm
phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục người đó.
Những quy định của Bộ luật hình sự được Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng
dẫn cụ thể như sau:
Chỉ cho người bị xử phạt tự hưởng án treo khi có đủ các điều kiện sau đây:
+ Bị xử phạt tự không quá 3 năm không phân biệt tội gì.Trong trường hợp người bị xét xử trong cùng
một lần về nhiều tội mà khi tổng hợp hình phạt, hình phạt chung không quá 3 năm tự, thì cũng có thể cho
hưởng án treo.
+ Có nhân thân tốt được chứng minh là ngoài lần phạm tội này họ luôn chấp hành đúng chính sách, pháp
luật, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân, chưa có tiền án, tiền sự, có nơi làm việc ổn định hoặc
có nơi thường trú cụ thể rõ ràng;
+ Có từ hai tình tiết giảm nhẹ (Điều 46 BLHS) trở lên và không có tình tiết tăng nặng (Điều 48 BLHS),
trong đó có ít nhất là một tình tiết giảm nhẹ quy định ở khoản 1 Điều 46 của BLHS. Trường hợp vừa có
tình tiết giảm nhẹ, vừa có tình tiết tăng nặng, thì tình tiết giảm nhẹ phải nhiều hơn tình tiết tăng nặng từ
hai tình tiết trở lên;
+ Không bắt họ đi chấp hành hình phạt tự thì không gây nguy hiểm cho xã hội hoặc không gây ảnh
hưởng xấu trong cuộc dấu tranh phòng chống tội phạm.
Khi giao người bị xử phạt tự cho hưởng án treo cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc
cho chính quyền địa phương nơi người đó thường trú để giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Nếu
người được hưởng án treo là cán bộ công chức thì giao cho cơ quan, tổ chức trực tiếp quản lý người được
hưởng án treo giám sát và giáo dục.



Người được hưởng án treo được rút ngắn thời gian thử thách khi chấp hành nghiêm chỉnh pháp
luật, thành thực hối cải, tích cực lao động học tập; được cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương có
trách nhiệm giám sát, giáo dục đề nghị bằng văn bản xem xét rút ngắn thời gian thử thách.
Trên đây là những quy định cơ bản của pháp luật đối với người phạm tội được Toà án cho hưởng
án treo. Chị nghiên cứu kỹ và tham khảo thêm các văn bản pháp luật để vận dụng vào trường hợp của gia
đình.
Hỏi :
Con tôi là người bị hại trong vụ án “cố ý gây thương tích”. Bị cáo đã bị Toà án phạt tù được 1 năm thì
được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt vì lý do ốm đau, hiện nay đối tượng đang điều trị tại bệnh viện.
Tuy nhiên về phần bồi thường dân sự cho con tôi và gia đình anh ta đã xong, gia đình tôi và gia đình anh
ta không thù oán gì, tôi cũng mong anh ta trở thành con người tốt cho xã hội. Nay tôi muốn luật sư cho
biết rõ các quy định của pháp luật để được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù và khi người được tạm
đình chỉ này về địa phương thì cơ quan nào quản lý, theo dõi giúp đỡ họ, nếu họ chữa khỏi bệnh thì họ
có phải chấp hành hình phạt tự nữa không?.
Trả lời :
Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản hướng dẫn thi hành thì người đang chấp
hành hình phạt tự có thể được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tự khi có các diều kiện như sau:
Trong trường hợp bị bệnh nặng; bị bệnh nặng là người bị bệnh đến mức không thể tiếp tục chấp
hành hình phạt tự được và nếu để tiếp tục chấp hành hình phạt tự thì sẽ nguy hiểm đến tính mạng, sức
khoẻ của họ; do dĩ cần thiết phải cho họ được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tự để họ có điều kiện
chữa bệnh.
Phải có kết luận của bệnh viện cấp tỉnh trở lên về việc người đang chấp hành hình phạt tự bị bệnh
nặng và nếu để họ chấp hành hình phạt tự sẽ ảnh hưởng đến tính mạng của họ.
Người đang chấp hành hình phạt tự phải có nơi cư trú tại xã, phường, thị trấn.
Khi họ đã cú quyết định của Toà án cho họ được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tự thì phải giao
người được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tự cho chính quyền xã, phường, nơi họ cư trú để quản lý.
Trại giam, trại tạm giam có trách nhiệm phối hợp với Toà án ra quyết định tạm đình chỉ chấp hành hình
phạt tự trong việc giao người được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tự cho chính quyền xã, phường, thị
trấn.

Nếu trong quá trình được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tự mà người đó có hành vi vi phạm
pháp luật nghiêm trọng hoặc có căn cứ cho rằng người đó sẽ bỏ trốn thì chính quyền xã, phường được
giao quản lý người được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tự có trách nhiệm báo cho Chánh án đã ra
quyết định tạm đình chỉ để huỷ bỏ quyết định tạm đình chỉ đó và bắt họ đi chấp hành hình phạt tự. Cơ
quan công an cấp tỉnh có nhiệm vụ tổ chức bắt, áp giải họ về trại giam để tiếp tục chấp hành hình phạt tự.
Nếu họ chữa bệnh mà sức khoẻ đã hồi phục hồi thì chính quyền địa phương được giao quản lý
người được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tự phải báo cho Chánh án đã ra quyết định biết để ra ngay
quyết định tiếp tục thi hành án phạt tù đối với họ.
Như vậy, pháp luật quy định rất cụ thể về chính sách nhân đạo của nhà nước đối với người đang
chấp hành hình phạt tự bị ốm đau, tạo diều kiện cho họ chữa bệnh, ổn định sức khoẻ đồng thời nâng cao
trách nhiệm của chính quyền xã, phường nơi người được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tự cư trú. Nếu
họ có ý định bỏ trốn hay trốn tránh việc chấp hành hình phạt tự thì pháp luật sẽ cưỡng chế để họ phải
thực hiện đúng pháp luật.
Hỏi :
Đầu năm 2007 con tôi bị xử phạt hành chính về hành vi phát rừng làm rẫy và buộc phải trồng lại rừng
cho Lâm trường. Đến tháng 8/2007 gia đình tôi tiếp tục phát rừng phần đất giáp ranh với đất của gia đình
thì lực lượng Kiểm lâm lại tiếp tục xử phạt hành chính đối với con tôi. Việc xử phạt, gia đình đã nộp tiền


phạt và phần đất phát rừng Lâm trường giao lại cho gia đình quản lý và có trách nhiệm trồng rừng và nộp
một phần hoa lợi từ rừng cho Lâm trường, đóng thuế cho Nhà nước. Đầu năm 2008 do có một số hộ dân
kiện tụng đối với gia đình và Lâm trường nên Công an có gọi con tôi lên lấy lời khai và nói sẽ truy cứu
trách nhiệm hình sự. Xin hỏi luật sư việc Công an khởi tố hình sự đối với con tôi như vậy có đúng pháp
luật không, xin nêu quy định của pháp luật về vấn đề này?
Trả lời :
Điều 175 Bộ luật Hình sự quy định: Người nào có một trong các hành vi sau đây gây hậu quả
nghiêm trọng hoặc đã bị xử lý hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án
tích mà còn vi phạm thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ
đến 3 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 3 năm.
Đối chiếu với trường hợp của con ông đầu năm 2007 đã bị cơ quan có thẩm quyền xử phạt hành

chính về hành vi phá rừng. Thời hiệu của quyết định xử phạt hành chính là 1 năm nhưng chưa hết thời
gian 1 năm con ông lại tiếp tục vi phạm và lại bị xử lý hành chính tiếp. Đúng ra thì lần thứ hai con ông vi
phạm thì đã đủ yếu tố cấu thành tội theo quy định tại Điều 175 BLHS nhưng cơ quan Kiểm lâm lại xử lý
hành chính mà không xử lý bằng hình sự là không đúng. Nhưng ở thời điểm đó không ai phát hiện vi
phạm, đến năm 2008 do có khiếu kiện nên vụ việc được nêu ra nên cơ quan Công an mới điều tra xem
xét và thấy con ông đủ các yếu tố cấu thành tội theo Điều 175 BLHS nên đã khởi tố.
Các quy định về xử lý hành chính thì tại Nghị định số 159 ngày 30/10/2007 về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản cũng nêu rõ: Khi xem xét vụ vi
phạm để quyết định xử phạt, nếu thấy hành vi vi phạm có dấu hiệu tội phạm thì người có thẩm quyền
phải khởi tố vụ án hình sự hoặc chuyển ngay hồ sơ vụ việc cho cơ quan tố tụng hình sự có thẩm quyền.
Nghiêm cấm việc giữ lại các vụ việc vi phạm có dấu hiệu tội phạm để xử phạt hành chính. Đối với
các trường hợp đã ra quyết định xử phạt hành chính, nếu sau đó phát hiện hành vi vi phạm có dấu hiệu
tội phạm mà chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì người đã ra quyết định xử phạt vi phạm
hành chính phải huỷ quyết định đó trong thời hạn 3 ngày, kể từ ngày huỷ quyết định xử phạt vi phạm
hành chính, phải chuyển hồ sơ cho cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền.
Cơ quan tiến hành tố tụng không được từ chối việc tiếp nhận hồ sơ. Khi có đủ căn cứ hành vi vi
phạm không đủ các yếu tố cấu thành tội phạm, cơ quan tiến hành tố tụng phải làm đầy đủ thủ tục theo
quy định tại điều 63 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính và các quy định khác của pháp luật, chuyển lại
hồ sơ cho cơ quan có thẩm quyền để xử phạt vi phạm hành chính.
Như các văn bản pháp luật đã quy định ở phần trên thì việc cơ quan Công an khởi tố con ông theo
Điều 175 là có căn cứ. Tuy nhiên đây mới là quá trình điều tra, làm rõ các hành vi vi phạm.
Hỏi :
Trường hợp sau đây thì pháp luật quy định xử lý như thế nào: Tôi có người con nghiện ma tuý. Gia đình
đã tổ chức cai nghiện cho cháu. Sau hơn một năm cháu đã trở lại bình thường và không nghiện lại, cháu
đã mở cửa hàng kinh doanh và cuộc sống đi vào ổn định. Vừa qua qua nguồn tin của gia đình, hàng xóm
tôi được biết có một số đối tượng đang tìm cách lôi kéo con tôi quay trở lại với ma tuý. Đối tượng này
thường rủ rê các con nghiện tụ tập để tiêm chích và cũng là nơi bọn chúng bán thuốc cho các con nghiện.
Xin hỏi luật sư trường hợp trên thì người đó phạm tội gì? Những người bị họ rủ sử dụng ma tuý bị xử tội
gì?
Trả lời :

Đối với người tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý, luật hình sự và các Nghị quyết của Hội đồng
Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đều quy định rõ.
Khi một người có các hành vi sau đây thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 197 Bộ luật
hình sự( BLHS):


+ Chỉ huy, phân công, điều hành các hoạt động đưa trái phép chất ma tuý vào cơ thể người khác; chỉ huy,
phân công, điều hành việc chuẩn bị, cung cấp chất ma tuý, địa điểm. Phương tiện, dụng cụ dựng vào việc
sử dụng trái phép chất ma tuý, tìm người sử dụng trái phép chất ma tuý;
+ Những người thực hiện một trong những hành vi sau đây theo sự chỉ huy, phân công điều hành của
người khác thì bị coi là đồng phạm về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý: đưa trái phép chất ma
tuý vào cơ thể người khác; cung cấp trái phép chất ma tuý cho người khác để họ sử dụng, chuẩn bị chất
ma tuý dưới bất kỳ hình thức nào nhằm đưa trái phép chất ma tuý vào cơ thể người khác; chuẩn bị địa
điểm, chuẩn bị dụng cụ, phương tiện dựng vào việc sử dụng trái phép chất ma tuý dưới bất kỳ hình thức
nào nhằm sử dụng để đưa trái phép chất ma tuý vào cơ thể người khác…
Đối với trường hợp tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý mà gây tổn hại sức khoẻ của nhiều
người mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% thì bị phạt tự từ 15 năm đến 20 năm tự.
Như luật sư đã nêu các quy định của pháp luật ở phần trên, đối chiếu với trường hợp bà hỏi thì
người rủ rê, lôi kéo người khác sử dụng chất ma tuý sẽ bị xử lý về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma
tuý được quy định tại khoản 3 Điều 197 BLHS năm 1999 . Những người bị họ rủ vào sử dụng chất ma
tuý thì tuỳ từng trường hợp cụ thể họ có thể bị xử lý theo điều 199 BLHS9 Tội sử dụng trái phép chất ma
tuý.
Hỏi :
Hiện nay trong tội phạm về ma tuý có rất nhiều những khái niệm về chất ma tuý, tiền chất ma tuý…Tôi
xin hỏi đối với người bán xái thuốc phiện thì việc xác định như thế nào để tính hàm lượng thuốc phiện
xem người đó có phạm tội hay không? (căn cứ để tính dựa vào quy định như thế nào). Khi người phạm
tội phạm các tội về ma tuý nếu không giám định thì có thể xử lý họ bằng hình sự được không?. Xin nêu
các quy định của pháp luật về các vấn đề nêu trên?
Trả lời :
Theo quy định của Bộ luật hình sự và Thông tư liên tịch của liên bộ Bộ Công an, Viện kiểm sát

nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao, Bộ tư pháp, hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương
các tội phạm về ma tuý của Bộ luật hình sự năm 1999 như sau:
Về một số khái niệm được hiểu như sau: “chất ma tuý” là các chất gây nghiệm, chất hướng thần
được quy định trong các danh mục chất ma tuý do chính phủ ban hành. Trong đó, cần phân biệt các
trường hợp sau:
Đối với các chất ma tuý ở thể rắn được hồ thành dung dịch ( như dung dịch thuốc phiện, dung
dịch hêrôin dựng để tiêm, chích ) hoặc chất ma tuý ở thể lỏng đã pha loãng để tiện cho việc sử dụng thì
không coi toàn bộ dung dịch này là chất ma tuý ở thể lỏng mà cần xác định hàm lượng moocphin trong
dung dịch để tính trọng lượng của chất ma tuý đó.
Đối với xái thuốc phiện thì không coi là nhựa thuốc phiện mà phải xác định hàm lượng moocphin
trong xái thuốc phiện để tính trọng lượng của thuốc phiện.
Về “ Tiền chất dựng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý” là các hoá chất không thể thiếu được
trong quá trình điều chế, sản xuất chất ma tuý được quy định trong các danh mục tiền chất do Chính phủ
ban hành
Về “ Phương tiện dụng cụ dựng vào việc sản xuất hoặc sử dụng traí phép chất ma tuý” là những
vật được sản xuất ra với chức năng chuyên dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma tuý
hay tuy được sản xuất ra với mục đích khác, nhưng đã được sử dụng chuyên vào mục đích sản xuất hoặc
sử dụng trái phép chất ma tuý.
Trong mọi trường hợp, khi lưu giữ được các chất nghi là chất ma tuý hoặc tiền chất dựng vào việc
sản xuất trái phép chất ma tuý thì đều phải trưng cầu giám định để xác định loại, hàm lượng, trọng lượng
chất ma tuý, tiền chất. Nếu chất giám định không phải là chất ma tuý hoặc không phải là tiền chất dựng
vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý, nhưng người thực hiện hành vi ý thức rằng chất ma tuý hoặc chất
đó là tiền chất dựng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý, thì tuỳ hành vi phạm tội cụ thể mà truy cứu


trách nhiệm hình sự người đó theo tội danh quy định tại điều luật tương ứng đối với các tội phạm về ma
tuý.
Như luật sư đã nêu thì đối với loại tội phạm về ma tuý, để xác định 1 người nào đó có phạm tội
hay phạm tội ở mức độ nào thì giám định chất ma tuý là yêu cầu bắt buộc và kết quả giám định là quan
trọng. Từ kết quả giám định mà các cơ quan tiến hành tố tụng xem xét áp dụng điều luật và mức hình

phạt đối với họ.
Hỏi :
Em trai tôi bị kết án 15 năm tự về tội giết người, đến nay đã chấp hành án được 6 năm và đang bị suy tim
độ 3. Xin hỏi những phạm nhân nào được xét đặc xá? Em tôi có được đặc xá nhân dịp 2/9 sắp tới không?
Trả lời :
Theo quy định tại khoản 2 Điều 10 của Luật Đặc xá, người bị kết án phạt tù có thời hạn, tự chung
thân đã được giảm xuống tự có thời hạn đang chấp hành hình phạt tự được đề nghị đặc xá khi có đủ các
điều kiện sau đây:
- Có đủ điều kiện (chấp hành tốt quy chế, nội quy của trại giam, trại tạm giam; tích cực học tập, lao
động; trong quá trình chấp hành hình phạt tự được xếp loại cải tạo từ loại khá trở lên; khi được đặc xá
không làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; đối với người bị kết án phạt tù về các tội phạm
về tham nhũng hoặc một số tội phạm khác được Chủ tịch nước quyết định trong mỗi lần đặc xá phải chấp
hành xong hình phạt bổ sung là phạt tiền, bồi thường thiệt hại, án phí hoặc nghĩa vụ dân sự khác) được
Chủ tịch nước quyết định thời gian đã chấp hành hình phạt tự ngắn hơn so với thời gian (ít nhất là một
phần ba thời gian đối với hình phạt tự có thời hạn; ít nhất là mười bốn năm đối với hình phạt tự chung
thân) khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Đã lập công lớn trong thời gian chấp hành hình phạt tự, có xác nhận của trại giam, trại tạm giam.
b) Là thương binh; bệnh binh; người có thành tích trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, xây dựng chủ nghĩa
xã hội được tặng thưởng một trong các danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng lao
động, Huân chương, Huy chương kháng chiến, các danh hiệu Dũng sỹ trong kháng chiến chống Mỹ cứu
nước; người có thân nhân là liệt sỹ; con của Bà mẹ Việt Nam anh hùng; con của Gia đình có công với
nước
c) Là người đang mắc bệnh hiểm nghèo hoặc ốm đau thường xuyên, có kết luận giám định y khoa hoặc
xác nhận bằng văn bản của cơ quan y tế có thẩm quyền.
d) Khi phạm tội là người chưa thành niên
đ) Là người từ 70 tuổi trở lên.
e) Có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn, bản thân là lao động duy nhất trong gia đình, có xác nhận
của Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi gia đình người đó cư trú
g) Trường hợp khác do Chủ tịch nước quyết định.
Theo Nghị định của Chính phủ số 76/2008/NĐ-CP ngày 4/7 quy định chi tiết thi hành một số điều

của Luật đặc xá, người được coi là người đang mắc bệnh hiểm nghèo là người mắc một trong các bệnh
sau: ung thư, bại liệt, lao nặng kháng thuốc, xơ gan cổ chướng; suy tim độ III hoặc suy thận độ IV trở
lên, có kết luận của Hội đồng Giám định y khoa hoặc bản sao Bệnh án của bệnh viện cấp tỉnh trở lên;
nhiễm HIV đã chuyển sang giai đoạn AIDS đang có những nhiễm trùng cơ hội và có tiên lượng xấu, có
phiếu xét nghiệm HIV và kết luận của Trung tâm Y tế cấp huyện trở lên.
Theo các quy định vừa trích dẫn, em bạn đang bị suy tim độ III được coi là người đang mắc bệnh
hiểm nghèo, nếu đáp ứng được các điều kiện khác như đã nói ở trên, em bạn thuộc phạm nhân xét đặc
xá.
Hỏi :
Em trai tôi bị kết án 15 năm tự về tội giết người, đến nay đã chấp hành án được 6 năm và đang bị suy tim
độ 3. Xin hỏi những phạm nhân nào được xét đặc xá? Em tôi có được đặc xá nhân dịp 2/9 sắp tới không?


Trả lời :
Theo quy định tại khoản 2 Điều 10 của Luật Đặc xá, người bị kết án phạt tù có thời hạn, tự chung
thân đã được giảm xuống tự có thời hạn đang chấp hành hình phạt tự được đề nghị đặc xá khi có đủ các
điều kiện sau đây:
- Có đủ điều kiện (chấp hành tốt quy chế, nội quy của trại giam, trại tạm giam; tích cực học tập, lao
động; trong quá trình chấp hành hình phạt tự được xếp loại cải tạo từ loại khá trở lên; khi được đặc xá
không làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; đối với người bị kết án phạt tù về các tội phạm
về tham nhũng hoặc một số tội phạm khác được Chủ tịch nước quyết định trong mỗi lần đặc xá phải chấp
hành xong hình phạt bổ sung là phạt tiền, bồi thường thiệt hại, án phí hoặc nghĩa vụ dân sự khác) được
Chủ tịch nước quyết định thời gian đã chấp hành hình phạt tự ngắn hơn so với thời gian (ít nhất là một
phần ba thời gian đối với hình phạt tự có thời hạn; ít nhất là mười bốn năm đối với hình phạt tự chung
thân) khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Đã lập công lớn trong thời gian chấp hành hình phạt tự, có xác nhận của trại giam, trại tạm giam.
b) Là thương binh; bệnh binh; người có thành tích trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, xây dựng chủ nghĩa
xã hội được tặng thưởng một trong các danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng lao
động, Huân chương, Huy chương kháng chiến, các danh hiệu Dũng sỹ trong kháng chiến chống Mỹ cứu
nước; người có thân nhân là liệt sỹ; con của Bà mẹ Việt Nam anh hùng; con của Gia đình có công với

nước
c) Là người đang mắc bệnh hiểm nghèo hoặc ốm đau thường xuyên, có kết luận giám định y khoa hoặc
xác nhận bằng văn bản của cơ quan y tế có thẩm quyền.
d) Khi phạm tội là người chưa thành niên
đ) Là người từ 70 tuổi trở lên.
e) Có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn, bản thân là lao động duy nhất trong gia đình, có xác nhận
của Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi gia đình người đó cư trú
g) Trường hợp khác do Chủ tịch nước quyết định.
Theo Nghị định của Chính phủ số 76/2008/NĐ-CP ngày 4/7 quy định chi tiết thi hành một số điều
của Luật đặc xá, người được coi là người đang mắc bệnh hiểm nghèo là người mắc một trong các bệnh
sau: ung thư, bại liệt, lao nặng kháng thuốc, xơ gan cổ chướng; suy tim độ III hoặc suy thận độ IV trở
lên, có kết luận của Hội đồng Giám định y khoa hoặc bản sao Bệnh án của bệnh viện cấp tỉnh trở lên;
nhiễm HIV đã chuyển sang giai đoạn AIDS đang có những nhiễm trùng cơ hội và có tiên lượng xấu, có
phiếu xét nghiệm HIV và kết luận của Trung tâm Y tế cấp huyện trở lên.
Theo các quy định vừa trích dẫn, em bạn đang bị suy tim độ III được coi là người đang mắc bệnh
hiểm nghèo, nếu đáp ứng được các điều kiện khác như đã nói ở trên, em bạn thuộc phạm nhân xét đặc
xá.

Hỏi :
Đề nghị cho biết những vụ tai nạn giao thông (TNGT) nào sẽ bị khởi tố và xử lý về hình sự? Vụ TNGT
thế nào thì được coi là nghiêm trọng ?
Trả lời :
Theo quy định của pháp luật hiện hành, vụ TNGT gây hậu quả từ mức nghiêm trọng trở lên, có
dấu hiệu của tội phạm thì cơ quan công an thụ lý vụ tai nạn (Cơ quan Cảnh sát điều tra tội phạm về trật
tự xã hội; Phòng Cảnh sát giao thông công an cấp tỉnh) sẽ khởi tố vụ án để điều tra. Phòng Cảnh sát giao
thông công an cấp tỉnh, trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày ra quyết định khởi tố phải củng cố tài liệu, hồ
sơ và chuyển cho cơ quan cảnh sát điều tra về trật tự xã hội có thẩm quyền để điều tra, xử lý theo quy
định của pháp luật.



Điều 3 Quy định phân công trách nhiệm và quan hệ phối hợp trong công tác điều tra, giải quyết
TNGT của lực lượng cảnh sát nhân dân (ban hành kèm theo Quyết định số 768/2006/QĐ- BCA (C11)
ngày 20-6-2006 của Bộ trưởng Bộ Công an quy định vụ TNGT thuộc một trong các trường hợp sau đây
là vụ TNGT nghiêm trọng: Làm chết người; Gây tổn hại cho sức khỏe của 1 đến 2 người với tỷ lệ thương
tật của mỗi người từ 31% trở lên; Gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi
người dưới 31%, nhưng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 41% đến 100%; Gây tổn hại sức
khỏe của một người với tỷ lệ thương tật từ 21% đến 30% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 30
triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng; Gây tổn hại sức khỏe cho nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi
người dưới 21%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 30% đến 40% và còn gây
thiệt hại về tài sản có giá trị từ 30 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng; Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ
50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng.
Hỏi :
P là con nghiện đã bị kết án về hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý. Sau khi chấp hành xong
hình phạt tự, trở về gia đình, P đã rủ rê, lôi kéo một số người sử dụng trái phép chất ma tuý, trong đó có
H. Do H chưa biết sử dụng ma tuý, nên rất sợ không dám chích ma tuý. P ra lệnh cho đồng bọn trói H và
dựng tay chân đấm đá H. Vì bị đánh và sợ P, nên H đã miễn cưỡng sử dụng ma tuý và bị bắt quả tang. P
phạm tội gì?
Trả lời :
Hành vi dùng vũ lực của P để bắt H phải miễn cưỡng sử dụng ma tuý đã phạm vào “ tội cưỡng
bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma tuý” được quy định tại Điều 200 của Bộ luật hình sự
năm 1999.
Cưỡng bức người khác sử dụng trái phép chất ma tuý là hành vi dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ
lực hoặc dựng những thủ đoạn làm cho người bị đe doạ sợ hãi phải miễn cưỡng sử dụng trái phép chất
ma tuý.
Lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma tuý là hành vi dựng lời lẽ hoặc thủ đoạn nhằm mua
chuộc, rủ rê, dụ dỗ, xúi giục hoặc bằng các thủ đoạn khác khêu gợi sự ham muốn sử dụng ma tuý của
người khác để họ tự nguyện sử dụng trái phép chất ma tuý.
Hình phạt đối với tội danh này quy định như sau:
- Người nào cưỡng bức hoặc lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma tuý, thì bị phạt tự từ hai năm
đến bảy năm

- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tự từ bảy năm đến mười lăm năm: Có tổ
chức; phạm tội nhiều lần; vì động cơ đê hèn; đối với người chưa thành niên từ đủ 13 tuổi trở lên; đối với
phụ nữ mà biết là đang có thai; đối với nhiều người; đối với ngươi đang cai nghiện; gây tổn hại cho sức
khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%; gây bệnh nguy hiểm cho người khác; tái phạm
nguy hiểm.
- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tự từ mười lăm năm đến hai mươi năm:
Gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc gây chết người; gây
bệnh nguy hiểm cho nhiều người; đối với trẻ em dưới 13 tuổi.
- Phạm tội trong trường hợp gây chết nhiều người hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị
phạt tự từ hai mươi năm hoặc tự chung thân.
- Ngoài việc phải chịu hình phạt theo quy định của pháp luật, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ
năm triệu đồng đến một trăm triệu đồng tuỳ theo tính chất và mức độ phạm tội.
Hỏi :
Con trai tôi,chơi thân với B là một con nghiện. Vì nể bạn nên thỉnh thoảng con tôi đã đồng ý cho B vào
nhà để hút heroin. Ngày 25/3/2008, công an đã bắt quả tang B đang hút heroin tại nhà tôi. Công an đã gọi


×