Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Con người việt nam hiện nay thực trạng và giải pháp phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.16 KB, 30 trang )

TiÓu luËn triÕt häc

Mục Lục
Lời mở đầu……………………………………………………………………..2
Nội dung………………………………………………………………………..3
1 Cơ sở của việc nghiên cứu..........................................................................................................4
1.1 Cơ sở lý luận (Triết học Mác – Lênin)..............................................................................4
1.1.1 Bản chất con người.......................................................................................................4
1.1.1.1 Bản chất sinh học của con người :.........................................................................5
1.1.1.2 Bản chất xã hội của con người...............................................................................6
1.1.1.3 Mối quan hệ giữa mặt tự nhiên và mặt xã hội.......................................................7
1.1.2 Nguồn lực con người :...................................................................................................7
1.2 Cơ sở thực tế:.....................................................................................................................10
2 Thực trạng các vấn đề nghiên cứu :..........................................................................................11
2.1 Truyền thống con người Việt Nam.....................................................................................11
2.1.1 Ưu điểm – Thành công..............................................................................................11
2.1.2 Hạn chế – thất bại:....................................................................................................13
2.1.3 Nguyên nhân của thực trạng :....................................................................................14
2.2 Nhân cách con người Việt Nam:.......................................................................................15
2.2.1 Ưu điểm – Thành công :............................................................................................15
2.2.2 Thất bại – Hạn chế :.................................................................................................17
2.2.3 Nguyên nhân của thực trạng :....................................................................................18
2.3 Nguồn lực con người:.........................................................................................................19
2.3.1 Ưu điểm – Thành công :............................................................................................20
2.3.2 Thất bại – Hạn chế :.................................................................................................22
2.3.3 Nguyên nhân của thực trạng :....................................................................................24
3. Những kiến nghị đề xuất để phát triển nguồn lực con người Việt Nam trong thời đại Công
nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước...........................................................................................25
- Kinh tế châu á..............................................................................................................29

Häc viªn: NguyÔn ThÞ LÖ Quyªn



1


TiÓu luËn triÕt häc

Lời mở đầu
Hiện nay nước ta đang trong thời kì quá độ lên CNXH. Đây là một
thời kì tất yếu trong quá trình tiến lên CNXH của các nước XHCN nói chung
trong đó có Việt Nam. Nhìn chung thời kì quá độ ở các nước XHCN đều đi từ
CNTB lên CNXH còn ở Việt Nam và một số ít các nước khác thời kì quá độ lại là
quá độ tiến thẳng lên CNXH và bỏ qua chế độ TBCN. Chính vì vậy cơ sở vật
chất kỹ thuật của ta còn rất yếu kém. Do đó toàn Đảng toàn dân ta trong những
năm qua đang đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Với những
hoàn cảnh riêng của nước mình cũng như nhận ra được những bài học từ sự sụp
đổ của Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu ta đã kịp thời có những chuyển
đổi trong định hướng và hoạt động. Từ Đại hội VI của Đảng (1986) ta đã có
những thay đổi kịp thời về việc chuyển đổi nền kinh tế. Phát huy tinh thần của đại
hội VI đến đại hội VII, VIII, IX ta tiếp tục xây dựng nền kinh tế mới – kinh tế thị
trường có sự quản lí, điều tiết của nhà nước theo định hướng XHCN.
Quá trình đổi mới đó nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của
nhân dân. Vì vậy, con người chính là mục tiêu cho sự đổi mới đó và cũng là động
lực cho sự phát triển kinh tế – xã hội. Con người có tác động rất lớn đối với sự
phát triển của đất nước. Mỗi chính sách kinh tế – xã hội đều nhằm phục vụ lợi ích
của con người. Đã không ít sách, không ít bài báo bàn về vấn đề con người trên
các phương diện khác nhau. Đề tài về con người có thể nói là không phải mới
song những vấn đề khai thác về đề tài này trên các lĩnh vực qua từng giai đoạn
luôn luôn là mới mẻ. Bởi lẽ cùng với thời gian con người ngày càng phát huy
được vai trò của mình với tư cách là người chủ xã hội.
Nghiên cứu về con người có rất nhiều mặt, nhiều vấn đề và do sự

phát triển không ngừng của con người thì mỗi vấn đề luôn luôn là sự mới mẻ và
quan trọng, cần thiết đối với sự phát triển của kinh tế – xã hội của nước ta. Trong
giới hạn bài viết này, tôi chọn đề tài “Con người Việt Nam hiện nay. Thực trạng

Häc viªn: NguyÔn ThÞ LÖ Quyªn

2


TiÓu luËn triÕt häc

và giải pháp phát triển”. Trong khuôn khổ tiểu luận, tôi nghiên cứu con người
Việt Nam trên các phương diện:
+ Truyền thống con người Việt Nam
+ Nhân cách con người Việt Nam
+ Nguồn lực con người.
Trên cơ sở nghiên cứu con người Việt Nam ta thấy được vai trò to
lớn của nhân tố con người đối với công cuộc xây dựng đổi mới nền kinh tế đất
nước, từ đó có những biện pháp để khuyến khích, tăng cường hơn nữa tiềm lực,
sức mạnh của con người, từ đó có thêm cơ sở cho lòng tự hào dân tộc của mỗi con
người Việt Nam.

Häc viªn: NguyÔn ThÞ LÖ Quyªn

3


TiÓu luËn triÕt häc

nội dung

1

Cơ sở của việc nghiên cứu

1.1

Cơ sở lý luận (Triết học Mác – Lênin)

1.1.1 Bản chất con người
Cùng với thời gian, với lịch sử phát triển của nhân loại đã có rất nhiều quan
điểm khác nhau xung quanh vấn đề con người. Đứng trên các lập trường khác
nhau người ta có những quan điểm khác nhau về vấn đề này.
- Phần lớn các tôn giáo đều cho rằng con người do thần thánh, thượng đế
sinh ra, cuộc sống của họ do đấng tối cao sắp đặt, an bài. Con người là sự kết hợp
giữa linh hồn và thể xác. Thể xác có thể mất đi nhưng linh hồn còn lại mãi mãi.
Người ta phải chăm lo phần linh hồn của mình vì cho rằng linh hồn là phần cao
quý của con người còn thể xác là phần thấp hèn.
- Các trào lưu triết học duy tâm trong đó đặc biệt là duy tâm khách quan tuy
không trực tiết giải thích nguồn gốc bản chất của con người từ trời, thần thánh
sinh ra nhưng các giải thích cũng không kém phần bí hiểm. Theo Hêghen, ý niệm
tuyệt đối tự tha hóa thành tự nhiên, thành con người.
- Đến quan niệm duy vật trước Mac mà tiêu biểu là Phoiơbắc ông đã tiến
được một bước đáng kể về nhận thức con người. Ông khẳng định rằng ý thức
cũng như tư duy của con người chỉ là sản phẩm của khí quan vật chất nhục thể,
tức là bộ óc, rằng vật chất không phải là sản phẩm của tinh thần mà chính tinh
thần là sản phẩm tối cao của vật chất. Song khi xem xét con người, ông lại tách
con người ra khỏi cái mối quan hệ nhất định của họ, không đặt họ trong những
điều kiện sinh hoạt nhất định của họ những điều kiện làm cho họ trở thành những
con người đúng như đang tồn tại. Ông chỉ coi con người là “đối tượng cảm tính”
mà không phải là “hoạt động cảm tính” tức là chỉ coi con người là một sinh vật

thuần tuý.
- Kế thừa những quan điểm trước đó và khi phê phán quan điểm của
Phoiơbắc, Mác đã khái quát bản chất con người qua một câu nói nổi tiếng
“Phoiơbắc hoà tan bản chất tôn giáo vào bản chất con người. Nhưng bản chất con
Häc viªn: NguyÔn ThÞ LÖ Quyªn

4


TiÓu luËn triÕt häc

người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính
hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội ”. Mác đã
đưa ra một quan niệm hoàn chỉnh về khái niệm con người, bản chất con người
ông chỉ rõ hai mặt của con người là mặt sinh học và mặt xã hội. Nói cách khác
con người là một sinh vật xã hội.
1.1.1.1

Bản chất sinh học của con người :

Mác đã xem xét con nhười với tư cách là những cá nhân sống. Mác viết “Vì
vậy điều cụ thể đầu tiên cần phải xác định là tổ chức cơ thể của những cá nhân ấy
và mối quan hệ mà tổ chức cơ thể ấy tạo ra giữa họ với phần còn lại của giới tự
nhiên”. Trước hết Mác thừa nhận con người là một động vật cao cấp nhất. Cũng
như mọi động vật khác con người là một bộ phận của tự nhiên nên con người chịu
sự chi phối của các quy luật khách quan trong đó có cả những quy luật sinh học
(đồng hoá - dị hóa; biến dị - di truyền; tương quan giữa cơ thể và môi trường...).
Và cùng với các điều kiện khách quan đã tạo nên nhu cầu sinh học của con người
như ăn, ngủ, giao tiếp, nhận thức, duy trì nòi giống để duy trì sự tồn tại của con
người. Để thực hiện được những nhu cầu đó thì cũng như bao loài vật khác con

người cũng phải đấu tranh. Những nhu cầu đó của con người đòi hỏi phải được
đáp ứng tạo nên lợi ích cho con người từ đó định ra mục đích và hướng dẫn hoạt
động của con người. Tuy nhiên Mác không thừa nhận quan điểm cho rằng: cái
duy nhất tạo nên bản chất con người là đặc tính sinh học là bản năng sinh vật của
con người. Con người có đầy đủ các đặc trưng của sinh vật tuy nhiên cũng lại có
nhiều điểm phân biết với các sinh vật khác. Trước Mác cũng đã có nhiều nhà tư
tưởng lớn đã có những tiêu chí khác nhau phân biệt giữa con người với các động
vật khác như: con người khác con vật ở chỗ con người biết sử dụng công cụ lao
động (Phrankim) Arixtốt đã gọi con người là “một động vật có tính xã hội ”,
Pascal thì nhấn mạnh đặc điểm của con người và sức mạnh của con người là ở
chỗ con người biết suy nghĩ. Các nhận định đó đều đúng khi nêu lên một khía
cạnh nào đó của con người tuy nhiên lại phiến diện vì không nói lên được nguồn
gốc của những đặc điểm ấy và mối quan hệ giữa chúng với nhau. Mác và
Häc viªn: NguyÔn ThÞ LÖ Quyªn

5


TiÓu luËn triÕt häc

Ăngghen đã phân tích vai trò của lao động sản xuất ở con người “Bản thân con
người bắt đầu bằng sự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất
ra những tư liệu sinh hoạt của mình - đó là môt bước tiến do tổ chức cơ thể của
con người quy định ”. Bên cạnh đó việc đáp ứng nhu cầu sinh học của con người
diễn ra trong môi trường xã hội và diễn ra theo phương thức người (các QHXH đã
quy định việc lựa chọn trong tổng thể các nhu cầu đó để đáp ứng), phương thức
đáp ứng nhu cầu sinh học của con người đã mang tính chất xã hội. Như vậy tuy là
một bộ phận của tự nhiên nhưng trong mối quan hệ với tự nhiên con người hoàn
toàn khác con vật. Mác nói “con vật chỉ tái sản xuất ra bản thân nó, còn con người
thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên”. Như vậy chính đi từ nhu cầu con người

đã có những hoạt động để tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên. Và ta cũng thấy
được rằng bản chất sinh học sẽ là nền tảng điều kiện tiền đề cho việc thực hiện
bản chất xã hội của con người.
Kết luận: Như vậy là một mặt của bản chất con người cần phải tôn
trọng và tạo điều kiện đáp ứng thực hiện quyền con người (sống, lao động...)
1.1.1.2

Bản chất xã hội của con người

Con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội
- Con người là chủ thể của các mối quan hệ xã hội. Con người tự tạo nên
các mối quan hệ giữa người với người mà quan hệ đầu tiên và cơ bản nhất là
QHSX. Vậy con người có tính xã hội trước hết bởi bản thân hoạt động sản xuất
của con người là hoạt động mang tính xã hội. Trong hoạt động sản xuất con người
không thể tách khỏi xã hội. Hoạt động sản xuất của con người là để phục vụ cho
con người và cho toàn bộ xã hội. Tính xã hội của con người còn thể hiện ở các
hoạt động và giao tiếp xã hội. Con người luôn có nhu cầu trao đổi giao tiếp điều
đó được thực hiện bằng ngôn ngữ. Ngôn ngữ chính là cái vỏ vật chất của tư duy
và tư duy cũng chính là điểm phân biệt giữa con người và con vật. Tư duy của con
người phát triển trong hoạt động và giao tiếp xã hội mà trước hết là trong hoạt
động lao động sản xuất. Như vậy từ quan hệ sản xuất đã hình thành nên các quan
hệ khác. Do đó con người là chủ thể của xã hội, con người tạo nên xã hội.
Häc viªn: NguyÔn ThÞ LÖ Quyªn

6


TiÓu luËn triÕt häc

- Con người là sản phẩm của các mối quan hệ xã hội, con người chịu sự chi

phối của các quan hệ xã hội sống và hoạt động theo các quy định của xã hội. Thực
vậy vì là một bộ phận của xã hội cũng như là một bộ phận của tự nhiên con người
không tách khỏi được xã hội. Và do mỗi chế độ xã hội khác nhau sẽ định ra
những yêu cầu riêng đối với con người. Như trong chế độ phong kiến và trong
XHCN hoàn toàn có những yêu cầu rất khác nhau về con người như quan niệm về
công – dung – ngôn – hạnh của người phụ nữ ngày nay không còn giống như xưa
nữa mà đã có thay đổi cho phù hợp. Từ đó con người có các nhu cầu xã hội được
hình thành và đáp ứng trên nền tảng đáp ứng các nhu cầu sinh học. Các nhu cầu
xã hội là các nhu cầu hoạt động xã hội trong đó chứa đựng nhu cầu tự khẳng định
và nhu cầu tự do. Như vậy các nhu cầu xã hôi của con người là xuất phát từ nhu
cầu sinh học. Mặt xã hội của con người còn thể hiện ở bản năng xã hội - đó chính
là ý thức. Xuất phát từ bản năng sinh học trong môi trường xã hội bản năng đó đã
trở thành ý thức. Điều đó giúp thoả mãn nhu cầu của con người về nhận thức thế
giới xung quanh.
Kết luận: Là mặt thứ hai của bản chất con người nên cũng cần tôn trọng
bản chất xã hội của con người và thực hiện các quyền lợi xã hội của con người.
1.1.1.3

Mối quan hệ giữa mặt tự nhiên và mặt xã hội
Từ những phân tích trên ta có thể khẳng định rằng giữa bản chất

xã hội và bản chất sinh học của con người là một sự thống nhất không tách rời.
Mặt sinh học và mặt xã hội luôn gắn bó với nhau. Chính mặt sinh học đã thôi thúc
con người hành động để thể hiện được mặt xã hội của mình. Lao động xã hội
quyết định đời sống của con người nên bản năng sinh vật được thu hút và hội
nhập vào bản năng lao động xã hội, cái bản năng xã hội đặc thù của con người.
Như vậy khi nghiên cứu về bản chất con người cần nghiên cứu ở hai mặt tự nhiên
và xã hội, cần phải đặt con người trong các hoàn cảnh, điều kiện lịch sử cụ thể để
nghiên cứu.
1.1.2 Nguồn lực con người :

Con người sáng tạo ra lịch sử của mình
Häc viªn: NguyÔn ThÞ LÖ Quyªn

7


TiÓu luËn triÕt häc

Con người sáng tạo ra lịch sử của mình nhưng con người ở đây là một vào
cá nhân hay là quần chúng nhân dân lao động.
- Tư tưởng tôn giáo cho rằng mọi sự thay đổi trong xã hội là do ý chí của
đấng tối cao, là do “ mệnh trời “, ý chí đó được cá nhân thực hiện.
- Chủ nghĩa duy tâm cho rằng lịch sử nhân loại là lịch sử của các bậc vua
chúa, anh hùng hào kiệt, thiên tài lỗi lạc. Còn quần chúng nhân dân chỉ là lực
lượng tiêu cực, là “phương tiện” mà các vĩ nhân cần đến để đạt mục đích của
mình.
- Những nhà duy vật trước Mác tuy không tin vào thượng đế, thần linh
nhưng lại cho rằng nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội là tư tưởng, đạo
đức, là các vĩ nhân sớm nhận thức được chân lý vĩnh cửu.
- Cũng có những nhà tư tưởng đề cao vai trò của quần chúng nhân dân
nhưng không nhận thức được một cách khoa học vai trò đó. Có người đề cao vai
trò của quần chúng nhân dân nhưng lại phủ nhân hoàn toàn vai trò của cá nhân
đặc biệt.
- Chủ nghĩa Mac- Lênin đã chứng minh môt cách khoa học vai trò quyết
định của quần chúng nhân dân trong lịch sử và xác định đúng đắn mối quan hệ
giữa vai trò cá nhân và vai trò quần chúng trong sự phát triển xã hội.
- Quần chúng nhân dân là người sáng tạo chân chính của lịch sử. Vai trò
của quần chúng nhân dân thể hiện ở các mặt:
- Quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội: Muốn tồn
tại thì con người phải được đáp ứng các nhu cầu ăn, mặc, ở... muốn vậy họ phải

không ngừng sản xuất vì sản xuất vật chất là điều kiện cơ bản quyết định sự tồn
tại và phát triển của xã hội. Lực lượng sản xuất dẫn tới sự thay đổi về mặt phương
thức sản xuất và toàn bộ đời sống xã hội. Quá trình sản xuất là của toàn xã hội.
Thực tiễn sản xuất của loài người của quần chúng nhân dân là cơ sở và động lực
của sự phát triển khoa học kĩ thuật và khoa học kĩ thuật lại làm cho năng suất lao
động nâng cao không ngừng. Nếu tài năng trí tuệ năng suất lao động của đông đảo

Häc viªn: NguyÔn ThÞ LÖ Quyªn

8


TiÓu luËn triÕt häc

những người lao đông không được phát huy, nâng cao thì nền sản xuất sẽ giảm
sút, kém hiệu quả.
- Quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội:
Trong xã hội có giai cấp mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX biểu hiện thành mâu
thuẫn giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Cách mạng xã hội sẽ xảy ra khi
QHXH không còn phù hợp với LLSX để xoá bỏ QHSX cũ thiết lập QHSX mới
phù hợp với sự phát triển của LLSX mới. Quần chúng nhân dân luôn là lực lượng
cơ bản và quyết định thắng lợi của cách mạng. Đó thực sự là sự nghiệp của quần
chúng nhân dân chứ không phải của một vài cá nhân.
- Quần chúng nhân dân có vai trò to lớn, không thể thay thế trong sản xuất
tinh thần: Hồ Chí Minh nhận định “Quần chúng là những người sáng tạo, công
nông là những người sáng tạo. Nhưng, quần chúng không phải chỉ sáng tạo ra
những của cải vật chất cho xã hội. Quần chúng còn là người sáng tác nữa...Những
sáng tác ấy là những hòn ngọc quý”.
Vậy quần chúng nhân dân đóng vai trò quyết định trong sự phát triển lịch
sử, vai trò đó được phát huy cao độ một khi đông đảo quần chúng thoát khỏi sự

trói buộc của những tư tưởng phản động, phản khoa học, những tập quán còn lạc
hậu và được giác ngộ những tư tưởng khoa học và cách mạng.
Theo quan điểm Mác- Lênin vai trò của quần chúng và vai trò của cá nhân
trong lịch sử không tách rời nhau trái lại có quan hệ khăng khít với nhau. Cá nhân
ưu tú lãnh tụ kiệt xuất là sản phẩm là con đẻ của phong trào quần chúng nên sức
mạnh của họ, trí tuệ của họ bắt nguồn từ quần chúng nhân dân. Lênin viết “Trong
lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành được thống trị, nếu nó không đào tạo ra
được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị những đại biểu tiên phong
có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào”. Chủ nghĩa Mac- Lênin đánh giá
rất cao vai trò của cá nhân anh hùng của lãnh tụ trong sự phất triển của lịch sử
nhưng kiên quyết chống lại tề sùng bái cá nhân. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mac- Lênin luôn coi sùng bái cá nhân là hiện tượng hoàn toàn xa lạ với hệ tư
tưởng của giai cấp vô sản.
Häc viªn: NguyÔn ThÞ LÖ Quyªn

9


TiÓu luËn triÕt häc

1.2

Cơ sở thực tế:

Nước ta đang trong thời kì quá độ lên CNXH trong thời kì này giữa cái cũ
và cái mới còn chưa có sự phân chia rõ ràng. Những tàn dư của chế độ xã hội cũ
vẫn còn và những quan hệ sản xuất mới cũng bước đầu được hình thành. Cả nước
đang tiến hành quá trình xây dựng nền kinh tế mới kinh tế thị trường có sự quản
lí, điều tiết của nhà nước theo định hướng XHCN. Trong nền kinh tế mới khi mà
vai trò của con người có đủ mọi khả năng điều kiện để phát triển, để phát huy tài

năng của mình thì vấn để con người càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Với
nền kinh tế nhiều thành phần con người sẽ tham gia vào các môi trường khác
nhau. Vấn đề là cùng với sự thay đổi đó thì con người sẽ thay đổi ra sao để phù
hợp với nó.
Con người là mục tiêu đồng thời cũng là động lực của sự phát triển KTXH. Sự phát triển của xã hội đều nhằm phục vụ lợi ích của con người. Là chủ thể
sáng tạo nên lịch sử con người đã thoả mãn các nhu cầu của mình bằng các hoạt
động từ đó góp phần đưa xã hội đi lên. Tiềm năng phong phú đa dạng của xã hội
loài người văn minh là nguồn tài nguyên vô tận, vô giá, quý báu nhất và ngày
càng phát triển cùng với sự phát triển của nên văn minh nhân loại đó chính là con
người. Như vậy, mọi hoạt động kinh tế – xã hội đều phải bắt nguồn đều phải dựa
trên nguồn lực con người và cũng vì con người mà phát triển. Trong cơ chế thị
trường thì động lực con người và mục tiêu vì con người càng thể hiện rõ hơn, nền
sản xuất mà hàng hoá sản xuất ra để thoả mãn nhu cầu của con người, nền sản
xuất trong đó có sự ứng dụng rộng rãi của các tiến bộ khoa học kĩ thuật thì nguồn
lực con người đặc biệt là trí tuệ của mỗi con người càng trở nên quan trọng hơn.
Trong điều kiện mới với các thành tựu được ứng dụng ngày càng nhiều
trong các ngành, nghề trong nền sản xuất đòi hỏi trình độ lành nghề, khả năng
thành thạo của con người, của người lao động ngày càng cao hơn. Khi mà hầu hết
các công việc đều làm trên máy móc thì chỉ cần một sơ suất nhỏ của người công
nhân đều khiển cũng có thể dẫn tới những hậu quả nghiêm trọng. Có các phương
tiện lao động tiên tiến mà không có đội ngũ lao động tương ứng về trình độ sử
Häc viªn: NguyÔn ThÞ LÖ Quyªn

10


TiÓu luËn triÕt häc

dụng thì hiệu quả sản xuất sẽ không cao. Do đó cần phải chú trọng vấn đề nâng
cao trình độ người lao động. Bên cạnh đó thái độ của người lao động cũng có vai

trò quan trọng. Người lao động có tận tình với công việc thì hiệu quả lao động
mới cao và ngược lại. Do đó khi xem xét vấn đề con người cũng cần phải xem xét
trên khía cạnh này.
Trong một thời gian dài sau chiến tranh nước ta đã duy trì nền kinh tế bao
cấp. Với nền kinh tế đó thì ta đã rơi vào tình trạng trì trệ sa sút. Đã có lúc ta lúng
túng không biết cái nào là động lực thực sự nên đã không tập trung tác động đúng
mục tiêu. Sự yếu kém đó đã kéo nước ta vào tình trạng vô cùng khó khăn cứ mãi
tiếp tục sâu hơn của hố thất bại và kết quả là nền kinh tế kéo theo là đời sống xã
hội của nhân dân rất yếu kém.Từ thực trạng đó tại Đại hội VI Đảng cộng sản Việt
Nam ta đã nhìn lại một chặng đường đã qua và xem xét suy nghĩ lại từ đó đã có
những bước đi mới đầy táo bạo khi chuyển đổi cơ cấu kinh tế sang cơ chế thì
trường có sự quản lí của nhà nước. Cũng từ đó ta đã phải thừa nhận tầm quan
trọng của động lực con người, vấn đề con người đã được quan tâm, chú trọng
nhiều hơn. Từ sự thay đổi quan điểm đó của Đảng thì con người đã có nhiều cơ
hội để phát huy vai trò của mình, phát huy tiềm năng to lớn của mình.
2

Thực trạng các vấn đề nghiên cứu :

2.1

Truyền thống con người Việt Nam.
Nhận thức sâu sắc và định hướng đúng đắn việc kế thừa các

giá trị đạo đức truyền thống là tiền đề cơ bản để tạo dựng nên đạo đức lành mạnh
của xã hội góp phần giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hoá dân tộc phát huy mặt
tích cực và hạn chế đến mức thấp nhất mặt trái của cơ chế thị trường.
2.1.1 Ưu điểm – Thành công
Tiếp tục kế thừa và phát huy các truyền thống dân tộc trong giai đoạn hiện
nay. Các giá trị đạo đức truyền thống là bộ phận cốt lõi trong các giá trị tinh thần

truyền thống Việt Nam.

Häc viªn: NguyÔn ThÞ LÖ Quyªn

11


TiÓu luËn triÕt häc

- Con người Việt Nam có truyền thống yêu nước từ bao đời nay. Chủ nghĩa
yêu nước là cốt lõi của bản sắc văn hoá dân tộc, là giá trị cao nhất trong hệ giá trị
đạo đức của dân tộc, là tình cảm, tư tưởng lớn nhất của nhân dân ta. Lênin đã viết
chủ nghĩa yêu nước là “... một trong những tình cảm sâu sắc nhất được củng cố
qua hàng trăm năm, hàng ngàn năm của các tổ quốc biệt lập ”. Chủ nghĩa yêu
nước của nhân dân ta hoàn toàn xa lạ với chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và chủ nghĩa
sôvanh nước lớn.Yêu nước với mỗi người dân Việt Nam là đặt lợi ích của Tổ
quốc và nhân dân lên trên hết, chăm lo xây dựng đất nước kiên quyết đấu tranh
chống đô hộ và xâm lược bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia giữ gìn bản sắc văn
hoá dân tộc. Yêu nước là tiêu chuẩn cao nhất để xác định tính đúng đắn của hành
vi cá nhân trong tương quan với lợi ích dân tộc. Lòng yêu nước là động lực tinh
thần to lớn có sức cổ vũ mạnh mẽ nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng đất nước
và bảo vệ độc lập dân tộc. Yêu nước bao giờ cũng gắn liền với lòng yêu thương
và quý trọng, tin tưởng ở sức mạnh của con người, nhất là người lao động.
Thương yêu quý trọng, tin tưởng ở sức mạnh của con người là một nội dung chủ
yếu của quan hệ đạo đức giữa người với người. Lòng thương người truyền thống
của nhân dân ta mang nội dung hiện thực tích cực – vừa không khước từ đấu tranh
chống lại những kẻ đi ngược với lợi ích của cộng đồng vừa chứa đựng lòng vị tha,
tính bao dung cao cả và sự hoà nhập rộng lớn. Có thể nói tinh thần yêu nước, lòng
thương người là giá trị định hướng của các giá trị đạo đức tinh thần truyền thống
Việt Nam, là cơ sở của chủ nghĩa anh hùng, tinh thần đoàn kết... của nhân dân ta.

Bên cạnh đó người Việt Nam còn có ý thức tự tôn dân tộc tự hào dân tộc rất cao.
- Hiếu học, trọng học, ham tìm tòi, hiểu biết cũng là một truyền thống quan
trọng của người Việt Nam. Mặc dù Việt Nam là một quốc gia đang phát triển với
những chỉ số còn rất thấp về mức sống và thu nhập nhưng số người có nguyện
vọng cho con học cao chiếm một tỉ lệ khá lớn. Từ xa xưa ta cũng đã có những tấm
gương hiếu học và ngày nay phát huy tinh thần đó lớp trẻ ngày nay không ngừng
muốn trau dồi kiến thức, mở mang thêm tầm hiểu biết về thế giới xung quanh
mình. Họ ngày càng tiếp cận với hệ thống thông tin liên lạc, với các tiến bộ kĩ
Häc viªn: NguyÔn ThÞ LÖ Quyªn

12


TiÓu luËn triÕt häc

thuật trên thế giới nhanh nhạy hơn. Gắn với truyền thống hiếu học trọng học là
truyền thống tôn sư trọng đạo.
- Các mối quan hệ cộng đồng như quan hệ trong gia đình, họ hàng, làng
xóm tiếp tục được phát triển ngày càng tốt đẹp. Đây là một nét đẹp trong văn hoá
của dân tộc ta. Trong gia đình, họ hàng có các mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau ra
ngoài xã hội có hàng xóm “tối lửa tắt đèn có nhau“.
- Đạo hiếu cũng là một tiêu chí để đánh giá một con người. Đạo hiếu, lối
sống thanh bạch, lòng nhân ái, sẵn sàng giúp đỡ người khác khi gặp khó khăn
hoạn nạn vẫn là những khuynh hướng chủ đạo chi phối tâm thức và hành vi của
người Việt Nam hiện nay
- Người Việt Nam có truyền thống cần cù, siêng năng. Đến nay truyền
thống đó vẫn tiếp tục được phát huy.
Bên cạnh những giá trị truyền thống đó thì trong điều kiện nền kinh tế mới
hiện nay một thang trật tự xã hội mới và một thang giá trị mới đang hình thành.
Trong thang giá trị này những truyền thống cơ bản tiêu biểu cho bản sắc và phẩm

giá dân tộc vẫn được tuyệt đại đa số nhân dân ta tôn trọng và tự hào, vẫn làm
những định hướng chủ đạo cho tâm thức, hành vi của con người Việt Nam; những
giá trị truyền thống cũng phải được kế thừa và phát huy theo hướng hiện đại hoá
phù hợp và đáp ứng mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
2.1.2 Hạn chế – thất bại:
Do sự tác động mạnh mẽ của quy luật cạnh tranh của lợi ích nên cơ
chế thị trường “có những tác động tiêu cực mâu thuẫn với bản chất của chủ nghĩa
xã hội” (Đảng cộng sản Việt Nam) là một trong những nguyên nhân gây nên hiện
tượng suy thoái đạo đức ở một bộ phận dân cư. Khát vọng làm giầu bằng mọi giá,
chủ nghĩa thực dụng với việc sùng bái đồng tiền tâm lí thích hưởng thụ... đã dẫn
một số người đến những hành vi vi phạm lợi ích của cộng đồng như tham nhũng
làm ăn bất lương (buôn lậu, làm hàng giả...) và sa vào các tệ nạn xã hội khác
(trộm cướp, cờ bạc...). Đáng chú ý là tệ nạn xã hội trước đây chỉ diễn ra tự phát,

Häc viªn: NguyÔn ThÞ LÖ Quyªn

13


TiÓu luËn triÕt häc

quy mô nhỏ thì nay có nguy cơ lan rộng và mang tính tội phạm có tổ chức cao,
như hình thành các băng nhóm chủ chứa.... với quy mô quốc gia và quốc tế.
Bên cạnh đó là thực trạng thái độ đối với các di sản văn hoá dân tộc.
Kết quả điều tra cho thấy số người quan tâm thăm viếng các công trình văn hoá,
di tích lịch sử của quê hương và đất nước chiếm tỉ lệ rất nhỏ (khoảng dưới 10%)
Và đối với các loại hình nghệ thuật truyền thống số người ham thích cũng ở
những con số rất khiêm tốn (chèo 18,59%, tuồng 6,8%...).
Cuộc sống theo cơ chế thị trường làm cho nhiều giá trị truyền thống trong
lối sống cũng thay đổi theo hướng đó, dần làm mất đi bản sắc dân tộc, một thang

giá trị mới đang được hình thành. Những quan niệm về giá trị đạo đức mới cũng
ngày càng phát triển, con người mới bây giờ đã nhìn xã hội theo cách riêng của họ
mà đôi khi xem nhẹ các giá trị truyền thống.
Mặc dù hiện nay nền giáo dục của ta đang phát triển mạnh, việc tiến hành
giáo dục phổ cập tiểu học đã hoàn thành và đang tiến tới phổ cập giáo dục cấp II,
nhưng do chính sách, biện pháp của ta còn có những sại lệch nhất định nên sự
hiểu biết về lịch sử dân tộc về các giá trị truyền thống khác của dân tộc của con
người còn rất hạn hẹp. Chương trình giáo dục quá nặng khiến cho trẻ suốt ngày
phải học không có thời gian nghỉ ngơi, không có thời gian để tự tìm hiểu thế giới
xung quanh chúng mà chỉ biết tới sách vở. Chúng có thể tính toán rất nhanh sử
dụng vi tính rất thành thạo nhưng không biết một chút gì về lịch sử dân tộc. Đây
là tình trạng khá phổ biến hiện nay trong giới trẻ.
Những thực trạng trên đây đang là thách thức lớn đối với sự nghiệp đổi mới
theo định hướng XHCN ở nước ta.

2.1.3 Nguyên nhân của thực trạng :
Con người sống trong môi trường nền kinh tế mới nền kinh tế theo cơ chế
thị trường coi nặng vật chất tinh thần. Con người ngày nay sống trong môi trường
kinh tế luôn có sự cạnh tranh quyết liệt để tồn tại, chính từ lợi ích chính đáng đó
nên dần hình thành nên một nét mới của con người đó là xem nặng giá trị vật
chất. Dường như với họ các giá trị tinh thần đều có thể quy đổi ra giá trị vật chất.
Häc viªn: NguyÔn ThÞ LÖ Quyªn

14


TiÓu luËn triÕt häc

Cùng với xu thế chung của cả nhân loại, các nước trên thế giới đang tăng
cường giao lưu trao đổi văn hoá. Sự mở rộng quan hệ quốc tế bên cạnh những nét

đẹp, nét mới đáng học hỏi từ nước bạn còn có cả những luồng văn hoá xấu xâm
nhập vào mà đối tượng dễ xâm nhập nhất chính là giới trẻ. Bằng các con đường
khác nhau các luồng văn hoá xấu xâm nhập vào nước ta tác động đến giới trẻ _
lứa tuổi luôn thích sự mới mẻ làm thay đổi dần các quan niệm sống của họ và
hình thành nên những quan niệm sống mới.
Sự thờ ơ, thiếu quan tâm của mọi người, của các cấp các ngành đến các giá
trị truyền thống. Đã có những giai đoạn nhà nước đã không quan tâm đến vấn đề
này một cách đúng mức, để nó tự nó nên đã làm cho nó ngày một mai một đi. Mỗi
người đều coi công việc của mình là quan trọng nhất nên đã lãng quên, không
quan tâm đến những giá trị chung của xã hội.
Như vậy những giá trị truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta từ trước tới nay
vẫn đang được phát huy. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân khác nhau mà những
mặt tiêu cực của nó đang có xu hướng tăng lên.
2.2

Nhân cách con người Việt Nam:

Nhân cách là tổng hợp tất cả các yếu tố năng lực, nguyện vọng sở trường,
thể chất, phẩm chất của mỗi cá nhân xét theo yêu cầu xã hội.
Mỗi con người đạt tới sự trưởng thành xã hội phải là một con người có
nhân cách. Nhân cách là nhân cách của từng người trong tính cá thể sinh động của
nó trong sự biểu hiện và tự khẳng định chất lượng của nó với tư cách là một cá
nhân. Mỗi cá nhân mang cái tôi nhân cách như một hình ảnh thu nhỏ cảu nhân
cách xã hội.
2.2.1 Ưu điểm – Thành công :
Khẳng định lòng yêu nước, ý thức bảo vệ Tổ quốc của con người Việt Nam
hình thành và phát triển trên cơ sở lịch sử vững chắc và được tôi luyện trong đấu
tranh dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm. Từ khi có Đảng, lòng yêu nước, ý
thức bảo vệ Tổ quốc phát triển cao, biểu hiện rực rỡ trở thành chủ nghĩa anh hùng


Häc viªn: NguyÔn ThÞ LÖ Quyªn

15


TiÓu luËn triÕt häc

cách mạng, biến thành sức mạnh to lớn chiến thắng hai đế quốc Pháp và Mĩ giành
độc lập tự do cho Tổ quốc.
Xác định đúng đắn về lẽ sống đối với một con người là điểm tựa tinh thần
đầu tiên để con người phát triển thành một nhân cách với nghĩa là biết sống lương
thiện, tử tế, có trách nhiệm với chính mình và xã hội. Môi trường xã hội, hoạt
động của con người và những quan hệ xã hội của nó là những nhân tố trực tiếp
nhất tham gia vào sự hình thành và thực hiện nhân cách của mỗi cá nhân. Tính
hiện thực này của nhân cách xác định hình thức biểu hiện của nhân cách ở lẽ
sống, lối sống và nếp sống. ý thức và tự ý thức về mình trước hết được định hình
ở lẽ sống.
Trong xã hội hiện nay khi đời sống của con người ngày càng được nâng cao
thì tinh thần cách mạng cũng được nâng cao. Người ta nhận ra rằng dưới sự lãnh
đạo của Đảng và sự quản lí của nhà nước thì cuộc sống của nhân dân ngày càng
được cải thiện, ngày càng được chăm lo đầy đủ hơn do đó họ càng tin vào sự lãnh
đạo của Đảng.
Khi đời sống vật chất, các nhu cầu về ăn ở đã được nâng cao thì con người
Việt Nam lại tiếp tục nâng cao trình độ học vấn của mình. Sự hiểu biết ngày càng
được nâng cao, ngày càng mở rộng. Con người bây giờ nhìn nhận một vấn đề đã
có khá đầy đủ các tri thức cần thiết. Lớp người trẻ mang tâm lí và tính cách mới
đang hình thành nên một kiểu nhân cách mới không phủ nhận quá khứ của dân
tộc, họ nhìn cuộc sống hiện nay với con mắt riêng của thế hệ mình. Nếu trước đây
các thế hệ cha ông đấu tranh để giành đọc lập tự do cho dân tộc thì ngày nay lớp
trẻ nối tiếp ý chí đó luôn sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc. Bác Hồ đã viết “nước độc lập

mà dân không được hạnh phúc thì độc lập ấy cũng không có nghĩa lý gì ”. Vì vậy
hiện nay một mặt lớp trẻ luôn sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc họ còn hăng hái
tham gia vào quá trình sản xuất phát triển kinh tế để xây dựng đất nước phát triển.
Một nền kinh tế ổn định là điều kiện tốt để phát triển các mặt hoạt động khác của
đất nước. Sự hình thành nên nhân cách nới là hiện tượng tất nhiên, hợp quy luật.
Nguồn nhân lực ngày càng được phát triển, phát huy hết vai trò của mình.Chính
Häc viªn: NguyÔn ThÞ LÖ Quyªn

16


TiÓu luËn triÕt häc

nền kinh tế thị trường đã thúc đẩy việc hình thành nên những thang giá trị đạo đức
mới, con người mới sống có lí tưởng lành mạnh, trung thực giàu lòng nhân ái.
Nền kinh tế đó thúc đẩy con người ta phải năng động sáng tạo hơn tự mình phải
làm chủ mình, tự mình quyết định vận mệnh của mình.Từ đó ta đã dần khắc phục
tính trì trệ ỷ lại vào nhà nước như thời bao cấp.
Cùng với sự phát triển chung đó là ý thức pháp luật được nâng cao rõ rệt.
Người dân đã cùng các cơ quan có thẩm quyền của nhà nước cùng phát hiện và
giải quyết các hành vi vi phạm pháp luật. ý thức chấp hành các quy định của pháp
luật cũng nâng cao hơn trước. Họ đã biết dựa vào luật để và để tự bảo vệ mình
bảo vệ các quyền lợi chính đáng do pháp luật quy định.
2.2.2 Thất bại – Hạn chế :
Mặt xấu của cơ chế thị trường đã tác động đên nhân cách con người:
xu thế động cơ vật chất lấn át nhu cầu đạo đức và chính trị. Con người ngày nay
chạy theo lợi nhuận đôi khi đánh mất bản thân mình lúc nào không biết. Không ít
người sẵn sàng chà đạp lên các quan hệ xã hội, quan hệ đạo đức tốt đẹp để thực
hiện được tham vọng của mình. Không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần là nhu cầu tất yếu nhưng vì thế mà lòng tham của nhiều người đã đi quá giới

hạn cho phép là điều đáng lo ngại. Vì địa vị xã hội, vì sự giàu có đôi khi họ đã đi
”đường tắt”, không tự nâng cao trình độ của mình nhưng lại muốn ngồi trên cao
hơn mọi người. Mối quan hệ giữa người với người bị đồng tiền và lợi ích vật chất
len lỏi và chi phối. Không ít các mối quan hệ gia đình, bạn bè... được giải quyết
theo lối sòng phẳng gắn liền với tiền bạc bà các giá trị vật chất khác. Lối sống
thực dụng vừa là nguyên nhân vừa là hậu quả của sự xung đột giữa các thế hệ, các
thành viên trong gia đình, các tầng lớp xã hội do sự nhận thức, tiếp thu, lĩnh hội
và xử lí lệch lạc về giá trị đạo đức. Sự tác động do thay đổi các chuẩn mực đạo
đức đã tạo nên sự mất phương hướng, khủng hoảng niềm tin vào cuộc sống của
bộ phận dân cư trong xã hội, nhất là tầng lớp thanh thiếu niên. Vai trò giáo dục
đạo đức của gia đình, nhà trường xã hội bị buông lỏng, kém hiệu quả. Tình trạng
thanh thiếu niên phạm pháp ngày một gia tăng và có xu hướng phát triển mạnh
Häc viªn: NguyÔn ThÞ LÖ Quyªn

17


TiÓu luËn triÕt häc

mẽ. Nền kinh tế thị trường đang góp phần làm hình thành nên lối sống thực dụng,
dối trá, ích kỉ, ăn bám, chạy theo đồng tiền và lợi ích vật chất. Những chuẩn mực
đạo đức cũng thay đổi. Ví như trước đây các hành vi suy đồi về đạo đức như trai
gái, độc ác, gian dối bị xã hội lên án mạnh mẽ thì ngày nay sự phản ứng của dư
luận xã hội cũng có mức độ. Sự suy đồi về lối sống tạo nên sự li tán gia đình, con
cái có chiều hướng tăng lên. Đó là một trong những tác động làm tăng tỉ lệ phạm
tội ở phụ nữ và trẻ em. Như vậy mặt trái của nên kinh tế thị trường đã làm biến
dạng những giá trị đạo đức truyền thống. Những hành vi lệch chuẩn phổ biến hơn
đồng thời những chuẩn mực đạo đức cũng có những thay đổi nhất định. Chính
những thay đổi này trong ý thức, đạo đức góp phần tác động trực tiếp đến tình
hình trật tự an toàn xã hội ở nước ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường. Bên

cạnh đó tình trạng thi hành pháp luật không nghiêm thiếu đồng bộ trong các cơ
quan thực thi pháp luật và công dân đã góp phần tạo nên tâm lí coi thường pháp
luật. Dưới tác động của cơ chế thị trường nhiều chế tài pháp luật không được thực
hiện nghiêm chỉnh tạo cho quần chúng sự hoài nghi về tính công minh của pháp
luật, không tin vào chính quyền. Do tính nghiêm minh của pháp luật không được
bảo đảm nên nhiều kẻ phạm tội vẫn sống nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật khuyến
khích phạm tội hoặc lôi kéo kẻ khác phạm tội. Mù quáng trước những đồng tiền
tội lỗi nhiều người đã quên đi tất cả các lý tưởng mơ ước và tính nhân bản.
2.2.3 Nguyên nhân của thực trạng :
Đất nước đang trong thời kì quá độ lên CNXH giữa cái mới và cái cũ
chưa có sự phân chia rõ ràng, vẫn đan xen nhau, con người mới và con người cũ
tồn tại nhiều mâu thuẫn. Sự đấu tranh giữa cái mới và cái cũ là quá trình lâu dài
và đôi khi con người ta bị lạc hướng, đi lệch đường, xác định sai lệch những chẩn
mực về lẽ sống tức là lệch lạc về quan niệm sống nhất là ở những người trẻ tuổi
đó là một trở ngại căn bản để hình thành nhân cách của họ đặt họ trước nguy cơ
hư hỏng có khi hư hỏng cả một đời. Với muôn mặt của cuộc sống hiện nay trong
cơ chế kinh tế nhiều thành phần thì việc lựa chọn đúng đắn lối sống của mình đòi
hỏi con người phải cẩn trọng và được giáo dục trong môi trường tốt.
Häc viªn: NguyÔn ThÞ LÖ Quyªn

18


TiÓu luËn triÕt häc

Trong nền kinh tế thị trường nếu bản thân mỗi người không tự cố
gắng, không biết giữ mình thì sẽ tự đào thải mình ra khỏi cuộc sống. Vậy mà hiện
nay trong mỗi bản thân của không ít người đã quá dễ dãi với bản thân mình, tự
buông lỏng không cho mình vào khuôn khổ cuộc sống để cho bản thân tiếp xúc
với những nếp sống mới những luồng văn hoá mới trong đó có cả xấu và tốt mà

không có chọn lọc. Những ảnh hưởng của văn hóa lối sống thực dụng, đồi truỵ từ
bên ngoài xâm nhập vào nước ta qua nhiều đường khác nhau làm ô nhiễm đời
sống văn hoá, tinh thần của xã hội mà đối tượng nhạy cảm nhất là tầng lớp thanh
thiếu niên.
Chạy theo lợi nhuận của cơ chế thị trường con người có khi đánh mất
chính mình khi mà đã mất đi những giá trị đạo đức tốt đẹp được xây dựng từ ngàn
xưa. Lối sống tiêu dùng đã tạo nên một môi trường xã hội luôn kích thích con
người nghĩ tới cuộc sống hưởng thụ. Một bộ phận giầu có làm ăn phát đạt bị sa
đoạ biến chất thường tham gia vào các hoạt động tệ nạn xã hội như cờ bạc, nghiện
hút... Một bộ phận muốn có cuộc sống hưởng thụ nhưng lại vượt quá khả năng
của bản thân thì con đường ngắn nhất để đạt được mục đích là vi phạm pháp luật.
Đó cũng là một nguyên nhân dẫn đến sự tăng gia tội phạm trong thời gian qua.
2.3

Nguồn lực con người:
Thực tiễn cho thấy, sự phát triển kinh tế – xã hội phụ thuộc vào nhiều

yếu tố, nhiều điều kiện nhưng chủ yếu nhất vẫn là phụ thuộc vào con người. Điều
khẳng định trên lại càng đúng với hoàn cảnh đất nước ta đang trong giai đoạn
cách mạng đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. So sánh các nguồn
lực với tư cách là điều kiện tiền đề để phất triển đất nước và tiến hành công
nghiệp hoá, hiện đại hoá thì nguồn nhân lực có vai trò quyết định. Do vậy hơn bất
cứ nguồn lực nào khác nguồn nhân lực phải chiếm vị trí trung tâm trong chiến
lược phát triển kinh tế xã hội nước ta. Nhận thức rõ điều đó Đảng ta xác định con
người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển xã hội bền vững. Đây là
nguồn lực của mọi nguồn lực là nhân tố quan trọng bậc nhất để đưa nước ta nhanh
chóng trở thành một nước công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước Đảng ta đã:
Häc viªn: NguyÔn ThÞ LÖ Quyªn

19



TiÓu luËn triÕt häc

“lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho việc phát triển
nhanh và bền vững” còn việc “nâng cao dân trí bồi dưỡng và phát huy nguồn lực
to lớn của con người Việt Nam là nhât tố quyết định thắng lợi của công cuộc công
nghiệp hoá hiện đại hoá ” (trích văn kiện Đại hội Đảng VIII). Do vậy khai thác sử
dụng và phát triển nguồn nhân lực là vấn đề quan trọng góp phần thực hiện thành
công quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước. Trong đó trí tuệ trong mỗi
con người là quan trọng nhất.
2.3.1 Ưu điểm – Thành công :
Trước hết phải nói rằng nước ta có nguồn nhân lực rất dồi dào. Số
người ở độ tuổi lao động chiếm tỉ lệ cao trong xã hội. Hàng năm tỉ lệ người lao
động càng ngày càng cao hơn. Con người được coi là nguồn lực cơ bản để tăng
trưởng và phát triển kinh tế xã hội. ở các giai đoạn khác nhau nhận thức về vai trò
của con người có khác nhau. Giai đoạn đầu của cuộc cách mạng khoa học vai trò
của con người đã bị che lấp bởi giới tự nhiên hay kĩ thuật. Đến nay vai trò của con
người ngày càng được củng cố và thể hiện là vai trò có ý nghĩa quyết định. Khi
mà các tài nguyên khoáng sản khác trong tự nhiên đang bị cạn kiệt dần thì trong
xã hội loài người văn minh lại có một nguồn tài nguyên vô tận, vô giá, quý báu
nhất và ngày càng phát triển cùng với sự phát triển của nền văn minh nhân loại.
Đó là tiềm năng phong phú đa dạng con người. Đất nước đang trong thời kì đổi
mới nguồn lực con người càng có vai trò quan trọng hơn. Phát triển nguồn tài
nguyên này ra sức đào tạo nguồn nhân lực, đào tạo nhân tài là đường hướng đi tới
tương lai của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa.Mà đội ngũ lao động của
nước ta là khá đông nên đó là một điều kiện thuận lợi cho đất nước trong công
cuộc đổi mới hiện nay. Con người không những là động lực mà còn là mục tiêu
của sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội. Chính con người đã thúc đẩy sản xuất phát
triển và do đó với một lực lượng đông đảo nước ta sẽ kích cho quá trình sản xuất

phát triển nhanh chóng từ đó nâng cao đời sống nhân dân.
Với một nguồn lực như vậy đã là một thế mạnh của ta. Hơn nữa người
Việt Nam còn có truyền thống chăm chỉ cần cù khéo léo ham học hỏi và chịu
Häc viªn: NguyÔn ThÞ LÖ Quyªn

20


TiÓu luËn triÕt häc

đựng tốt. Đó là truyền thống từ xa xưa của ông cha ta và đến nay vẫn tiếp tục
được phát huy. Luôn luôn có ý chí phấn đấu nâng cao trình độ học tập, tiếp cận
với các tiến bộ khoa học, có ý thức học hỏi người đi trước, học hỏi các nước bạn.
Không ngừng học hỏi nâng cao tay nghề và trình độ của mình. Số người lao động
có trình độ đại học và sau đại học ngày càng tăng, tay nghề của đội ngũ công nhân
cũng được nâng lên đáng kể. Ngày nay ngày càng có nhiều các xí nghiệp, công ti
ứng dụng các máy móc tiên tiến trên thế giới vào quy trình sản xuất của mình.
Tiếp cận với những tiến bộ khoa học kĩ thuật nhanh, không chỉ thế
bước đầu ta đã có những thành tựu đáng khen ngợi trong lĩnh vực công nghệ
thông tin. tuy mới tiếp cận với máy vi tính không lâu xong đội ngũ kĩ sư, lập trình
viên của ta đã có tay nghề cao. Phần lớn người đứng đầu và tham gia vào mạng
lưới công nghệ này đều ở lứa tuổi trẻ. Chính sức trẻ đã mang đến cho họ những
khả năng mới họ bạo dạn và nắm bắt thời cơ nhanh.
Nguồn lực con người đã là động lực, mục tiêu quan trọng cho sự phát
triển kinh tế – xã hội trong đó trí tuệ trong mỗi con người mới thực sự quan trọng
hơn. Cố vấn Đỗ Mười đã từng khẳng định “Có trình độ có kiến thức mới nắm bắt
được thời cơ, thực hiện được nhiệm vụ khó khăn phức tạp trong hoàn cảnh mới...
không có kiến thức, thiếu trình độ hiểu biết sẽ trở thành lực cản của sự phát triển”.
Phát huy tinh thần của công cuộc đổi mới được đề ra từ đại hội VI và kế tục
truyền thống hiếu học từ xa xưa lớp trẻ ý thức rõ được tầm quan trọng của việc

nâng cao kiến thức. Chính điều này đã góp phần không nhỏ vào việc xúc tiến quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Sự thay đổi chuyển từ kinh tế bao cấp sang
kinh tế thị trường là một bước ngoặt lơn đánh dấu một bước phát triển mới đòi hỏi
người lao động phải tăng khả năng thích ứng của mình. Chính nhờ vào tinh thần
ham học hỏi vượt khó mà trong thời gian ngắn người lao động Việt Nam đã dần
bắt nhịp được với cuộc sống mới. Như đã nói vai trò của con người qua mỗi giai
đoạn lịch sử khác nhau là khác nhau cho nên tính tích cực của con người sẽ chỉ
thực sự trở thành động lực hùng mạnh của sự phát triển xã hội khi nó được hướng
theo quỹ đạo phát triển khác quan của sự vật, khi niềm tin, ý chí, nghị lực, óc sáng
Häc viªn: NguyÔn ThÞ LÖ Quyªn

21


TiÓu luËn triÕt häc

tạo, nhiệt tình cách mạng của quần chúng được kết hợp chặt chẽ với sự hiểu biết
sâu sắc của các quy luật phát triển khách quan. Như vậy nguồn lực con người Việt
Nam phải dưới sự lãnh đạo của Đảng mới phát huy được vai trò, sức mạnh của
mình
2.3.2 Thất bại – Hạn chế :
Mặt bằng trình độ tay nghề, trình độ văn hóa chưa đồng đều. Chúng ta
đang đứng trước tình trạng báo động đó là thiếu chuyên gia về công nghệ, thiếu
cán bộ đầu đàn trong khoa học. Số đông cán bộ giỏi, trình độ cao đều lớn tuổi.
Trong khi đó sinh viên giỏi tốt nghiệp ra trường đa số không muốn ở lại trường,
vì vậy gặp không ít khó khăn trong việc chuẩn bị đội ngũ trí thức và quản lí kinh
tế xã hội kế cận sự phân bố lực lượng lao động trí thức cũng chưa hợp lí. ở các
ngành như giáo dục, y tế lực lượng lao động trí thức khá đông trong khi đó trong
các ngành như công nghiệp chế biến, chế tạo, khai thác mỏ, sản xuất và phân phối
điện khí đốt nước thì lực lượng lao động chiếm tỉ lệ thấp dưới 2,5%. Sự xuất hiện

của lao động là trí thức trong các doanh nghiệp tạo điều kiện cho việc áp dụng
mạnh mẽ khoa học kĩ thuật vào sản xuất kinh doanh phù hợp với xu hướng tăng
dần “công nhân áo trắng” trên thế giới. Mặc dù vậy tình trạng thiếu lao động là trí
thức còn phổ biến. Nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong tuyển dụng lao động
phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế đổi mới công nghệ và mở rộng quy mô sản xuất của
các doanh nghiệp cũng như nâng cao năng suất lao động và hiệu quả sản xuất.
Đây là khó khăn cho đất nước khi thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hóa. Bên
cạnh việc thiếu thốn về người lao động có kĩ thuật, tay nghề thì còn có một bộ
phận không nhỏ những người thiếu năng lực vẫn giữ chức quản lí các chức vụ
lãnh đạo quan trọng. Sự thiếu hiểu biết của số người này đưa các doanh nghiệp
đến chỗ làm ăn sa sút, gây khó khăn cho sự phát triển kinh tế đất nước.
Chuyển đổi nền kinh tế sang kinh tế theo cơ chế thị trường tạo khả
năng cho các cá nhân, tổ chức phát huy năng lực của mình song cũng từ đó đã có
những người vì lòng tham vì các lợi ích trước mắt chay theo đồng tiền đã làm
Häc viªn: NguyÔn ThÞ LÖ Quyªn

22


TiÓu luËn triÕt häc

những việc như tham ô, tham nhũng... gây ảnh hưởng xấu tới nền kinh tế. Việc
nhà nước thực hiện quản lí ở tầm vĩ mô đã tạo điều kiện cho không ít kẻ cơ hội vì
lợi ích của bản thân mà thực hiện những việc làm trái pháp luật, bòn rút ngân sách
nhà nước. Tuy đã chuyển sang kinh tế thị trường nhưng bộ máy nhà nước của ta
còn khá cồng kềnh. Sự cồng kềnh này ít nhiều cũng gây ảnh hưởng xấu tới hiệu
quả hoạt động của các tổ chức kinh tế. Bên cạnh đó sự cồng kềnh này cũng là một
mặt để cho những kẻ cơ hội dựa vào đó để thu lợi cho mình.
Số người ở tuổi lao động khá cao. Tỉ lệ này chiếm trong dân số là

không nhỏ. Chuyển đổi xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần thực sự
đòi hỏi một lượng lao động không nhỏ. Tuy nhiên trong thời đại này thì lực lượng
lao động đó phải có tay nghề cao còn những công việc chỉ đòi hỏi sức khỏe của
người lao động đang giảm dần. ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ ngày
nay hầu hết các dây chuyền sản xuất đều được tự động hoá nên cho dù có nhiều
thành phần kinh tế thì lượng lao động trong các thành phần đó cũng không nhiều
như trước kia. Số người lao động hàng năm vẫn tăng nhiều đặc biệt sinh viên tốt
nghiệp ra trường không có việc làm là khá phổ biến. Một lực lượng trí thức đông
đảo như vậy nhưng lại không được sử dụng thực sự là một sự lãng phí. Nước ta
con đang trong tình trạng “thừa thầy thiếu thợ “. Thường trước đây sau khi tốt
nghiệp PTTH thì phần lớn mọi người đều xác định là vào đại học hoặc nếu trượt
thì ở nhà, ít ai nghĩ tới việc học nghề. Do đó hàng năm tuy số sinh viên tốt nghiệp
nhiều nhưng họ lại không phải là những người được đào tạo ra để tham gia trực
tiếp vào các quá trình sản xuất nên dù thừa lao động nhưng ta vẫn rơi vào tình
trạng thiếu nhân công lành nghề.
Hiện nay các đô thị, thành phố đang là nơi thu hút đông đảo lực lượng
lao động. Sinh viên tốt nghiệp không muốn trở về quê ở lại thành phố mong tìm
được một công việc tốt, người lao động từ nông thôn kéo ra cũng ngày một nhiều.
ở các đô thị đã xuất hiện cái gọi là “chợ lao động“. Họ bỏ ruộng vườn ra đây chấp
nhận làm bất cứ việc gì khi có người thuê. Điều đó dẫn tới lao động ở nông thôn
giảm dần trong khi ở thành thị thì quá thừa.
Häc viªn: NguyÔn ThÞ LÖ Quyªn

23


TiÓu luËn triÕt häc

2.3.3 Nguyên nhân của thực trạng :
Trong một thời gian dài ta đã không quản lí được việc gia tăng dân số. Sự

gia tăng nhanh của dân trong giai đoạn trước tất yếu đến giai đoạn này sẽ là sự gia
tăng nhanh của lực lượng lao động. Việc mỗi gia đình có nhiều con cũng đã ảnh
hưởng tới chất lượng giáo dục. Các gia đình nhất là gia đình ở nông thôn ít có
điều kiện cho con cái họ học hành tới nơi tới chốn, ít được học cao. Đó chính là
hạn chế làm cho trình độ người lao động của ta không cao và không đều.
Sự mất cân đối trong giáo dục, đào tạo được thể hiện ở cơ cấu, trình độ hiện
có của người lao động và cơ cấu ngành nghề đào tạo đội ngũ lao động. Sự đa dạng
hoá các loại hình đào tạo dẫn đến tình trạng khó kiểm soát về mặt chất lượng.
Nhiều địa phương, cơ sở không đủ điều kiện nhưng cũng tìm mọi cách mở
trường, mở lớp dưới các hình thức liên doanh, liên kết, đào tạo tại chức... Các
hình thức kinh doanh giáo dục đào tạo được tổ chức ở khắp mọi nơi. Nhiều tác
động tiêu cực của cơ chế thị trường, của đồng tiền đã len lỏi vào tận bục giảng.
Có lẽ chưa bao giờ chúng ta bắt gặp nhiều hiện tượng tiêu cực trong lĩnh vực giáo
dục và đào tạo như hiện nay. Điều đó không chỉ ảnh hưởng đến chất lượng giáo
dục mà còn tác động xấu tới nhân cách của những con người sẽ là chủ nhân tương
lai của đất nước. Kết quả là chúng ta đã đào tạo ra không ít những người có bằng
cấp nhưng trình độ và khả năng thực tế không tương đương với bằng cấp đã được
nhận.
Sự quản lí thiếu chặt chẽ của các cấp, các ngành đã không có chính sách cụ
thể đối với nguồn lực con người trong thời gian dài, không thực hiện tốt việc giáo
dục đào tạo, việc điều tiết nên kinh tế không thực hiện việc phân công lao động
cho hợp lí.
Nước ta có xuất phát điểm thấp, đi lên từ một nước nông nghiệp lạc hâu từ
bao đời. Đó thực sự là một trở ngại lớn của ta. Phần lớn người lao động quen với
cái cày cái cuốc chua theo kịp sự phát triển nhanh của khoa học công nghệ. Cái
nhìn của họ về nền kinh tế mới còn e dè thậm chí có nơi có lúc còn thiếu tin
tưởng. đi lên từ nước nông nghiệp lạc hậu nên ta có cơ sở hạ tầng yếu kém người
Häc viªn: NguyÔn ThÞ LÖ Quyªn

24



TiÓu luËn triÕt häc

dân ít được tiếp xúc với các phương tiện hiện đại nên cần phải có thời gian để họ
thích nghi dần. Việc duy trì quá lâu phương thức sản xuất hoàn toàn khác với
phương thức sản xuất mới cũng cần phải có thời gian để thích ứng.
3. Những kiến nghị đề xuất để phát triển nguồn lực con người Việt Nam
trong thời đại Công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Trước hết ta cần phải phát huy những thành tựu đã đạt được. Vấn đề
con người và nguồn lực con người ngày nay đã được xem xét và nhìn nhận một
cách đúng đắn. Trong điều kiện cách mạng khoa học công nghệ phát triển như vũ
bão đòi hỏi đối với nguồn nhân lực vừa cao hơn vừa đa dạng hơn và khắt khe hơn.
Thời đại ngày nay là thời đại cạnh tranh quyết liệt về khoa học công nghệ. Sự ra
nhập các tổ chức quốc tế và khu vực của Việt Nam đã tạo ra môi trường và điều
kiện thuận lợi hơn để đội ngũ khoa học rèn luyện, cống hiến và trưởng thành. Bởi
vậy hơn bao giờ hết chúng ta phải quan tâm nâng cao số lượng và chất lượng đội
ngũ trí thức phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hóa. Mở rộng quy mô
đào tạo đại học và sau đại học. Tuy nhiên đào tạo phải căn cứ vào nhu cầu của
từng ngành, nghề và địa phương, tránh tình trạng như những năm qua số người
được đào tạo không làm đúng nghề nghiệp của mình rất nhiều. Đào tạo cần phải
gắn liền với sử dụng. Nhà nước cần có chính sách sử dụng hợp lí lao động trí óc
đã được đào tạo.
- Việt Nam bước vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở điểm xuất phát thấp.
Cụ thể là thiếu vốn, thiếu công nghệ và nguồn nhân lực chưa đủ cơ sở chắc chắn
bảo đảm cho quá trình này. Do đó, không tránh khỏi tình trạng vay mượn công
nghệ. Muốn làm công nghệ phải phát triển nhanh đội ngũ trí thức công nhân lành
nghề. Đồng thời phải tăng cường số lượng và nâng cao chất lượng đội ngũ trí thức
khoa học kĩ thuật có trình độ cao trong mọi lĩnh vực nhất là trong quản lí kinh
doanh để họ trở thành đội ngũ hùng mạnh đủ năng lực tiếp thu và làm chủ công

nghệ tiến tới khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Häc viªn: NguyÔn ThÞ LÖ Quyªn

25


×