Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA PHRANXI BÊCƠN VÀ NHỮNG ẢNH HƯỞNG ĐẾN NGÀY NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.48 KB, 18 trang )

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

BỘ MÔN TRIẾT HỌC

TIỂU LUẬN :
TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA PHRANXI BÊCƠN VÀ
NHỮNG ẢNH HƯỞNG ĐẾN NGÀY NAY

Học viên : Lê Thị Hằng
Sinh ngày : 23/08/1989
Lớp Cao học chính trị K20

Hà nội , Tháng 12 năm 2014


MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU..................................................................................................................................................2
Phần 1 : Sơ lược về triết học phương Tây thời kỳ Cận đại............................................................................4

LỜI NÓI ĐẦU
“Triết học chân chính chỉ là triết học truyền đạt chính xác nhất tiếng nói của bản
thân thế giới và được viết dưới những sự chỉ dẫn của thế giới ” ( Ph.Bê Cơn )
Ph. Bê Cơn là nhà triết học duy vật Anh tiêu biểu ở thế kỷ XVII – XVIII , mà
theo nhận định của Mác là người sáng lập ra chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm và là
ông tổ của khoa học thực nghiệm tự nhiên hiện đại.Quan điểm nhận thức luận nói
riêng và quan điểm triết học nói chung của ông có nhiều ảnh hưởng đến triết học
đương thời cũng như các trào lưu triết học sau này.
Với tuyên bố : “Tri thức là sức mạnh” trở thành tuyên ngôn của thời
đại.Đoạn tuyệt với triết học kinh viện và các hình thức tri thức trung cổ, các nhà
khoa học và triết học đã hướng sự nghiên cứu của mình vào việc phục vụ nhu cầu


2


thực tiễn.Tri thức khoa học đã từng bước giúp con người nhận thức được giới tự
nhiên, chinh phục tự nhiên , khẳng định quyền lực con người trước tự nhiên . Sau
gần 400 năm tinh thần triết học đó vẫn đang được chứng minh trong thời đại của
chúng ta – Thời đại kinh tế tri thức .
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này , chúng ta chỉ dừng lại xem xét
những quan điểm triết học Phương Tây thời kỳ Phục hưng – Cận đại, đồng thời đi
sâu vào nghiên cứu tư tưởng triết học của Phranxit Bê Cơn và những ảnh hưởng đến
ngày nay.

3


Phần 1 : Sơ lược về triết học phương Tây thời kỳ Cận đại
1.1. Bối cảnh lịch sử phương Tây thời kỳ Cận Đại
Thời kỳ cận đại ( Thế kỷ XVII – XVIII ) giai cấp tư sản đã giành được chính
quyền. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được xác lập và trở thành phương
thức sản xuất thống trị, nó đã tạo ra những vận hội mới cho khoa học , kỹ thuật phát
triển , trong đó cơ học đã đạt được trình độ là cơ sở cổ điển. Khoa học tự nhiên thời
kỳ này mang đặt trưng là khoa học tự nhiên – thực nghiệm. Đặc trung ấy tất yếu dẫn
đến “thói quen” nhìn nhận đối tượng nhận thức trong sự trừu tượng, tách rời, không
vận động, không phát triển, nếu có đề cập đến vận động thì là sự vận động máy móc
không phát triển .
Trong bối cảnh đó về mặt tư tường giai đoạn này có những bước ngoặt : Thứ
nhất , đã nhận thức được vũ trụ và vạn vật hoạt động thep quy luật tự nhiên. Thứ
hai, khẳng định các quy luật tự nhiên có thể khám phá bằng lý tính.
1.2 Đặc điểm cơ bản triết học Phương Tây thời kỳ Cận Đại
Chính những điều kiện kinh tế- chính trị , khoa học tự nhiên thời kỳ cận đại đã

quy định những đặc trưng về mặt triết học thời kỳ này
Thứ nhất : Trong cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản và phong kiến thì chủ
nghĩa duy vật là thế giới quan và ý thức hệ của giai cấp tư sản đang lên chống lại
phong kiến. Chủ nghĩa duy vật phát triển rực rỡ và có xu hướng đi đến vô thần
Thứ hai : Chủ nghĩa duy vật mới khác về chất so với các chủ nghĩa duy vật
trước đó. Là được gắn với khoa học thực nghiệm, được chứng minh bởi các khoa
học, phương pháp chủ yếu là phương pháp siêu hình. Do cơ học phát triển đã ảnh
hưởng đến phương pháp nhận thức của con người, kinh tế công trường thủ công ảnh
hưởng đến tư duy, và cuối cùng là do giai cấp tư sản muốn duy trì sự thống trị của
mình .
Thứ ba : Triết học thời kỳ này đi sâu vào nghiên cứu vấn đề con người, giải
quyết hai mối quan hệ cơ bản nhất là con người với tự nhiên ( trong đó con người
thống trị, làm chủ tự nhiên) , thứ hai là mối quan hệ giữa con người với con người
( công dân )
Thứ tư :Triết học đi sâu nghiên cứu vấn đề về lý luận nhận thức, hình thành 2
phái cơ bản : duy cảm và duy lý
Thứ năm : Triết học thời kỳ này gắn liền với khoa học tự nhiên và được sự
hẫu thuẫn của khoa học tự nhiên.
4


Thời kỳ cận đại triết học có rất nhiều thành tựu tiến bộ nhưng nhìn chung vẫn
chưa thoát khỏi quan điểm duy tâm trong việc giải thích xã hội , lịch sử , và bị hạn
chế lớn nhất là tính chất siêu hình hay chính là lối tư duy siêu hình máy móc.

5


Phần 2 : Tư tưởng triết học của Phranxi BêCơn
Pharanxi BêCơn ( 1561-1626 ) tại Anh trong gia đình huân tước Nicolai Bê

Cơn. Cha của Phranxi thuộc tầng lớp quan lại Anh, được chế độ chuyên chế của
triều đại Tuđôrơ trợ cấp, mẹ là Anna Cook xuất thân từ một giai đình quan lại lớn,
là một phụ nữ có học vấn, biết rất tốt về tiếng Hy lạp, am hiểu thần học, có tư tưởng
tự do
Năm 13 tuổi ông nhận học tại Đại học Tổng hợp Cambrigdơ, sau khi tốt
nghiệp ông công tác nhiều năm trong ngành ngoại giao cho vương triều Xtiua. Ông
từng làm việc tại sứ quán Anh ở Pháp, được bầu vào Nghị viện, được làm thượng
thư báo chí, rồi thủ tướng nước Anh. Ông là đại diện tư tưởng của tầng lớp quý tộc
cấp tiến
Những tác phẩm lớn của ông là : Giải thích thiên nhiên, Phê bình triết học , Sợi
chỉ của mê lộ, Mô tả quả cầu tri thức , Đai phục hồi các khoa học, Công cụ mới ,…
Ông là người sáng lập ra chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh và khoa học thực
nghiệm.
BêCơn thừa nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất. Khoa học không
biết một cái gì khác thế giới vật chất, ngoài giới tự nhiên. Ông cho rằng con người
cần phải thống trị , làm chủ giới tự nhiên – điều đó có thực hiện được không hoàn
toàn phụ thuộc vào sự hiểu biết của con người. Ông cho rằng tri thức là sức mạnh,
sức mạnh là tri thức. Do đó cần có một khoa học mới lấy giới tự nhiên làm đối
tượng nghiên cứu nhằm biến tự nhiên thành “giang sơn ” của con người.
Đồng thời ông phê phán gay gắt chủ nghĩa kinh viện vì nó xa rời cuộc sống,
chỉ dựa vào những lập luận tùy tiện không có nội dung và chẳng đem lại lợi ích gì
cho con người. Theo BêCơn , triết học phải giúp con người trở nên mạnh hơn,
nhiệm vụ của triết học là nhận thức giới tự nhiên và các mối lien hệ phức tạp của nó
.
2.1 Quan niệm về Khoa học & Triết học
Sống trong thời kỳ đêm trước của cuộc cách mạng tư sản Anh, BêCơn đã
nhận thấy vai trò đặc biệt quan trọng của khoa học và triết học và sự cần thiết phải
đẩy mạnh sự phát triển của chúng như một nền tảng lý luận của công cuộc phát triển
kinh tế đất nước. Ông coi đó là một phương tiện cơ bản nhằm xóa bỏ những bất
công xã hội, xây dựng cuộc sống phồn vinh. Khác với các nhà nhân đạo cộng sản

không tưởng, Ph.BêCơn khẳng định phải cải tạo chính xã hội hiện thực đương thời
6


trên cơ sở phát triển khoa học, triết học chứ không phải bằng cách tạo ra mô hình lý
tưởng. Ông cho rằng mục đích của xã hội là nhận thức các nguyên nhân và mọi sức
mạnh bí ẩn của các sự vật và mở rộng sự thống trị của con người đối với giới tự
nhiên trong chừng mực có thể làm được.
BêCơn hiểu triết học theo hai nghĩa : Nghĩa rộng là tổng thể các tri thức lý
luận của con người về thượng đế , về giới tự nhiên, về bản thân con người - Ông
đồng nhất triết học với tất cả các khoa học , bao chứa mọi khoa học khác. Còn theo
nghĩa hẹp triết học là bộ phận cơ bản nhất trong tổng thể các khoa học, là nền tảng
và cơ sở của mọi khoa học khác, đồng thời nó bao chứa toàn bộ các lĩnh vực khoa
học tự nhiên
Ông kịch liệt chống lại triết học kinh viện, và chỉ ra những hạn chế của tri
thức triết học kinh viện là được xây dựng trong phạm vi thượng đế là trung tâm, phù
hợp với tư tưởng của giáo hội, biến nhận thức của con người thành nô lệ của giáo
hội và tôn giáo. Không những thế triết học kinh viện dựa vào nguyên lý sự sung bái
ngôn ngữ, tách rời hiện thực, nghiêng về giáo huấn, dạy dỗ, chú giải,thừa nhận hơn
là về khám phá và phê phán .
Ph.Bê Cơn cho rằng nhiệm vụ của triết học là đại phục hồi các khoa học,
nghĩa là phải cải tạo toàn bộ các tri thức mà con người đạt được thời đó.Ông cho
rằng khoa học mang lại lợi ích cho toàn xã hội chứ không đem lại lợi ích cho riêng
một ai. Những quan niệm giản đơn, hẹp hòi, coi khoa học như một nghề thủ công có
lãi chỉ làm cho khoa học què quặt đi mà thôi. Chỉ bằng khoa học con người mới có
thể tiếp cận với thế giới. Muốn đại khôi phục được các khoa học phải xây dựng
phương pháp nhận thức mới khoa học hơn, tiến bộ hơn cung cấp cho con người
những phương pháp khoa học nhận thức thế giới.
Đánh giá cao vai trò của tri thức lý luận trong việc cải tạo xã hội, Ph.Bê Cơn
khẳng định “tri thức là sức mạnh”. Từ đó ông đi đến một kết luận mang tính cách

mạng đối với người đương thời , coi “ hiệu quả và sự sáng chế thực tiễn là người
bảo lãnh và ghi nhận tính chân lý của các triết học ”. Muốn chinh phục được tự
nhiên thì con người phải nhận thức được các quy luật của nó và vận dụng , tuân
theo chúng.
Theo Bê Cơn triết học mới gồm có 3 bộ phận là : học thuyết tự nhiên, học
thuyết thượng đế, học thuyết con người. Triết học mới phải được coi là khoa học
7


của mọi khoa học , hoặc là cơ sở của mọi khoa học. Mục đích của triết học và khoa
học mới là xây dựng các tri thức lý luận chặt chẽ đầy tính thuyết phục về ba lĩnh
vực nghiên cứu : Giới tự nhiên, thượng đế và con người. Nhiệm vụ của triết học
mới là đại phục hồi khoa học hay xây dựng khoa học mới bằng cách cải tạo toàn bộ
tri thức hiện có , xóa bỏ những sai lầm chủ quan, sử dụng hiệu quả tư duy khoa học
để khám phá trật tự của thế giới khách quan,tiến đến xây dựng một thế giới trong tư
duy giống như nó tồn tại trong hiện thực . Đồng thời khám phá ra các quy luật của
thế giới .
Với quan niệm thực tiễn , Ph. Bê Cơn đã xây dựng một hệ thống triết học về
khoa học của mình , tách rời giữa thần học và khoa học.
2.2 Quan niệm về thế giới
Ph. Bê Cơn cho rằng để lý giải được tính muôn màu của thế giới , chỉ cần vật
chất là đủ. Giới tự nhiên tồn tại khách quan, đa dạng và thống nhất, con người là
một sản phẩm của thế giới, nó bao gồm thể xác và linh hồn mang tính vật chất. Ông
xóa bỏ nguyên nhân mục đích của các sự vật và cho rằng mọi cái trên thế gian chỉ
tồn tại từ ba nguyên nhân : hình dạng, vật chất và vận động. Khác với Arixtốt có
bốn nguyên nhân là hình dạng, mục đích, vật chất, vận động, ông coi hình dạng của
sự vật là cái nằm chính trong bản thân sự vật, là bản chất hoàn toàn khách quan của
nó; không thể có cái gọi là “hình dạng của hình dạng ” phi vật chất, cũng như “ vật
chất đầu tiên” phi hình dạng là khong có thực ; mọi hình dạng đều chỉ là hình dạng
của vật chất. Cả ba nguyên nhân hình dạng , vật chất, vận động đều là bản tính của

vật chất. Vì thế mà vật chất có bản tính tích cực , có sinh khí chứ không phải thụ
động. Ông cũng đồng ý với tư tưởng của Ampectôclơ là tồng vật chất được bảo
quản, không mất đi. Ông đưa ra khái niệm mới về vật chất để phân biệt với quan
niệm vật chất của triết học kinh viện, “vật chất thứ nhất” – vật chất có tính năng
động , vận động không ngừng, rất phong phú và đa dạng. Từ đó ông có tư tưởng về
mười chín dạng vận động cơ bản như móc nối, giải phóng, liên tục,.. đứng yên cũng
là một dạng vận động.
Thế giới tồn tại một cách khách quan không phụ thuộc vào tình cảm, uy tín,
nhận thức của con người. Triết học và khoa học không thể biết cái gì ngoài thế giới
vật chất khách quan đó. Tính đa dạng của thế giới chỉ có thể được lý giải một cách
đúng đắn và đầy đủ nhờ vào quan niệm về vật chất, hình dạng, vận động. Vật chất
8


là toàn thể các phần tử rất nhỏ có những tính chất khác nhau. Hình dạng là nguyên
nhân dẫn tới mọi sự khác biệt của các sự vật, là lý do để sự vật xuất hiện, là bản
chất chung của các sự vật cùng loại, là quy luật chi phối sự vận động của chúng.
Vận động là bản năng, là sinh khí của sự vật vật chất, là thuộc tính đầu tiên quan
trọng nhất của vật chất.
Ph.Bê cơn đã có những bước tiến rất xa so với các nhà triết học trước đó và
đương thời khi quan niệm rằng có sự thống nhất giữa vật chất và vận động, giữa
bản chất của sự vật và vận động của nó. Vận động là đặc tính của sự vật, nhận thức
được sự vật là nhận thức được sự vận động của chúng. Theo ông có 19 dạng vận
động : vận động xung đối, vận động móc nối, vận động giải phóng mà thông qua
đó sự vật hướng tới thoát khỏi áp lực, vận động trong đó sự vật hướng tới khối
lượng và kính thước mới, vận động trong đó sự vật hướng tới khối lượng và kích
thước mới, vận động liên tục, vận động có lợi, vận động tự hợp lại với quy mô lớn,
vận động tự hợp lại với quy mô nhỏ, vận động từ tính, vận động sản sinh ra, vận
động chạy trốn, vận động thức tỉnh, vận động mô tả, ghi nhận, vận động ngoại
tuyến, vận động theo xu hướng, vận động hùng tráng, vận động tự quay, vận động

rung động, đứng yên.
Ta có thể thấy Ph.Bêcơn đã phân loại vận động theo cảm tính, mô tả mà chưa
phân loại theo cấp độ khác nhau về cấu trúc vật chất, mà quy toàn bộ các dạng vận
động thành các hình thức vận động cơ học, không thấy được sự phát triển của thế
giới vật chất đã dẫn đến xuất hiện những hình thức vận động khác nhau về chất, phù
hợp với trình độ cấu trúc của vật chất . Tuy nhiên việc coi đứng yên cũng là một
dạng vận động của Bê cơn đã là một quan niệm duy vật và cách mạng trong bối
cảnh lịch sử lúc đó. Ông cũng là người đầu tiên nhận thấy tính bảo toàn vật chất của
thế giới.
Về con người ông cho rằng con người là một sản phẩm của thế giới : Khi coi
con người bao gồm thể xác và linh hồn, ông khẳng định rằng không chỉ thể xác mà
cả linh hồn của con người cũng đều là vật chất. Linh hồn của con người giống như
không khí hay lửa, biết cảm giác, tồn tại trong bộ óc, vận động theo dây thần kinh
và mạch máu trong cơ thể. Ngoài việc thừa nhận sự hiện hữu của linh hồn của con
người trong thể xác con người, còn thừa nhận sự hiện hữu của linh hồn thực vật và
9


linh hồn động vật tồn tại trong cơ thể thực vật và động vật. Khoa học nghiên cứu
con người và linh hồn của nó phải là khoa học tự nhiên.
2.3. Quan niệm về nhận thức luận và phương pháp luận
Về mặt nhận thức luận Ph.Bê Cơn cho rằng cảm giác, kinh nghiệm là nguồn
gốc duy nhất của mọi tri thức. Khoa học phải biết sử dụng tư duy tổng hợp và
phương pháp quy nạp khoa học để khái quát các dữ kiệu do kinh nghiệm mang
lại nhằm khám phá ra các quy luật, bản chất của thế giới vật chất khách quan,
đa dạng và thống nhất. Khoa học như thế chỉ có thể là khoa học thực nghiệm.
Và tri thức khoa học thật sự phải luôn mang bản tính khách quan, chúng hoàn
toàn không phụ thuộc vào tình cảm, ý chí, lợi ích chủ quan của con người.
Theo Bê Cơn quá trình nhận thức thế giới khách quan là quá trình xây dựng
các tri thức khách quan về thế giới . Quá trình này phải xuất phát từ bản thân

thế giới khách quan thông qua kinh nghiệm cảm tính, tiến đến tư duy lý tính để
xây dựng các tri thức khách quan về thế giới. Tuy nhiên quá trình nhận thức của
con người còn bị chi phối bởi những yếu tố chủ quan . Ông đồng thời chỉ ra
những hạn chế trong khả năng nhận thức của con người dẫn đến những sai lầm
nghiêm trọng. Ông gọi chúng là các “ngẫu tượng” hay còn gọi là các “ảo ảnh”.
Các ngẫu tượng có nguồn gốc hoàn toàn khách quan, bởi chúng một phần có
trong bản chất của trí tuệ con người, một phần xuất hiện trong quá trình lịch sử
nhận thức của nhân loại, một phần nảy sinh trong sinh lý và nhân cách của mỗi
người. Vì các ngẫu tượng này thường xuyên ám ảnh con người, tạo nên những
tư tưởng, ảo ảnh giả dối, xuyên tạc bộ mặt thật của thế giới, làm cản trở con
người xâm nhập vào thế giới cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Vì vậy quá trình
con người đấu tranh khắc phục những hạn chế khách quan đó cũng là quá trình
con người đấu tranh vì sự hoàn thiện bản thân mình .
Bê Cơn phân loại các dạng ảo ảnh sau :
Ảo ảnh loài : Được sinh ra do việc loài người thường xuyên nhầm lẫn bản chất
trí tuệ của mình với bản chất khách quan của sự vật. Do các giác quan cũng như
trí tuệ của con người còn chưa được hoàn thiện. Biểu hiện của ngẫu tượng này
là ở chỗ người ta thường hay bảo thủ, coi ý kiến và suy nghĩ chủ quan của mình
là thước đo cho tất cả mọi vật. Do vậy mà các ngẫu tượng này rất bền vững.
Chúng ta chỉ có thể hạn chế ảnh hưởng của ngẫu tượng này bằng cách hoàn
thiện các nhận thức của con người như thực nghiệm,… Để loại trừ ảo ảnh này
10


con người trong nhận thức phải tôn trọng tính khách quan, không được duy ý
chí, chủ quan tự áp đặt tư tưởng của mình cho các đối tượng, thận trọng thăm
dò, tăng cường quan sát, thực nghiệm, thường xuyên kiểm tra các tài liệu do
cảm tính mang lại , loại bỏ những sai lầm về mặt logic…
Ảo ảnh hang động : xuất hiện trong quá trình nhận thức của từng con
người cụ thể, do mỗi người có những đặc tính chủ quan, tâm lý, tính cách đặc

thù của mình làm xuyên tạc bản chất khách quan của sự vật. Để hạn chế ngẫu
tượng này cần phải hoàn thiện nhân cách của mình, thận trọng trong quá trình
nhận thức, dựa vào ý kiến tập thể.
Ảo tưởng cộng đồng ( thị trường ) : được hình thành khi con người
không xuất phát từ tình hình thực tế của bản thân sự vật mà dựa vào thói quen,
tập quán, quan niệm, thuật ngữ mơ hồ không phản ánh đúng bản chất sự vật.
Nguyên nhân là do thường xuyên sử dụng những danh từ trống rỗng để giao
tiếp trong cuộc sống hàng ngày, do sự ngộ nhận sử dụng các thuật ngữ khoa
học chưa thật chính xác. Vì thế phải bỏ thói quen dựa vào các quan niệm đang
lưu hành và có thái độ phê phán đối với các thuật ngữ mơ hồ không chính xác.
Ảo tượng rạp hát : Bắt nguồn do chúng ta quá tin vào người xưa, diễn ra
trước mắt người ta như diễn ra trên sân khấu. Dạng ảo tưởng này có nguồn gốc
từ những quan niệm sai trái nhưng được củng cố bởi các thế lực chính trị, tôn
giáo ,.. đang thống trị trong đời sống xã hội. Đó là những ảnh hưởng có hại của
nhiều học thuyết quan niệm thống trị làm cản trở quá trình nhận thức chân lý.
Để tìm ra chân lý chúng ta không nên rơi vào chủ nghĩa hoài nghi luận, cũng
không nên giáo điều trong nhận thức.
Ý nghĩa tích cực của những ảo ảnh này không chỉ chống lại các suy luận vô
căn cứ của thần học, kinh viện mà còn đặt cơ sở xã hội cho quá trình nhận thức.
Theo Bê Cơn để khắc phục những ảo tưởng này chúng ta phải khách quan hóa
hoạt động nhận thức , tiếp cận trực tiếp thế giới tự nhiên, ra sức hoàn thiện
phương tiện công cụ nhận thức và nhân cách cá tính của mỗi người, phải biết
làm thí nghiệm, biết sử dụng phép quy nạp khoa học.
Bê Cơn là một trong những người đầu tiên nhận thức được hạn chế của tam
đoạn luận và logic hình thức – cái mà tử trước đến giờ vẫn được coi là phương
pháp nhận thức vạn năng, đồng thời ông khởi xướng ra tư tưởng logic mới. Ông
11


liệt kê , phân tích những phương pháp nhận thức cơ bản đang được sử sụng phổ

biến, từ đó đưa ra một phương pháp nhận thức cao hơn.
Từ trước đến giờ người ta chủ yếu dùng hai phương pháp nhận thức là :
“phương pháp con nhện” và “phương pháp con kiến”.
Phương pháp con nhện là phương pháp xuất phát tử vài bằng chứng, cứ liệu
vụn vặt người ta vội đưa ra các tiền đề khẳng định một cách vô căn cứ về bản
chất sự vật. Chẳng khác gì con nhện giăng tơ, chỉ trong một khoảng khắc đã
xong nhưng không chắc chắn, đây chỉ là những lý luận suông.
Phương pháp con kiến là sự miêu tả, lượm lặt, sưu tầm ít dữ kiện về sự vật,
nhưng lại không biết khái quát, rút ra những kết luận đúng đắn trên cơ sở dữ
kiện đó. Phương pháp này cho ta thấy được bề ngoài vụn vặt chứ không khám
phá được bản chất đích thực của sự vật, là phương pháp thực tiễn mù quáng.
Để khắc phục những hạn chế ông đưa ra “phương pháp con ong” , bản chất là
những tri thức do cảm tính đem lại chế biến chúng, như con ong biến mật hoa
thành mật ong, rút ra những tri thức mới bằng tư duy lý tính.
Ông đánh giá cao vai trò của phương pháp như “ người què chạy đúng hướng
sẽ nhanh hơn kẻ lành chạy sai đường” , hay “phương pháp giống như ngọn đèn
soi đường cho lữ khách trong đêm đông. Ông đưa ra phương pháp 3 bảng :
bảng có mặt , bảng vắng mặt, bảng trình độ. Ông coi phương pháp quy nạp là la
bàn của khoa học. Nó dẫn dắt tư duy khoa học xuất phát từ những sự kiện khoa
học riêng lẻ để đi đến những nguyên lý, quy luật tổng quát khi dựa trên mối
quan hệ nhận quả mang tính quy luật giữa chúng mà không nhất thiết phải dựa
trên số lượng lớn các sự kiện riêng lẻ được khảo sát.
Theo Bê Cơn quá trình nghiên cứu – nhận thức đúng đắn cần phải trải qua 3
bước :
Thứ nhất: Dựa vào giác quan, thông qua quan sát , thí nghiệm chúng ta trực
tiếp tiếp cận thế giới tự nhiên đa dạng và sinh động để thu được những tài liệu
kinh nghiệm cảm tính .
Thứ hai : So sánh đối chiếu, hệ thống hóa, tổng hợp những tài liệu kinh nghiệm
cảm tính này để xây dựng những sự kiện khoa học và phát hiện ra mối liên hệ
nhân quả giữa chúng.

Thứ ba : Từ những mối liên hệ nhân quả giữa sự kiện khoa học đó , bằng quy
nạp chúng ta xây dựng giả thuyết khoa học để lý giải các hiện tượng đang
nghiên cứu. Rồi từ những giả thuyết khoa học đó ta rút ra được các hệ quả tất
12


yếu của chúng. Kế đến ta quan sát , thí nghiệm mới để kiểm tra các hệ quả đó,
nếu đúng thì ta có nguyên lý, nếu sai thì ta lập giả thuyết mới.
Phương pháp của Bê Cơn có ý nghĩa rất lớn đến sự hình thành và phát triển
khoa học thực nghiệm và triết học duy vật kinh nghiệm. Ông đòi hỏi quá trình
nhận thức phải xuất phát từ kinh nghiệm cảm tính, còn kinh nghiệm cảm tính
lại xuất phát từ thế giới khách quan. Ông coi nguyên tắc khách quan là nguyên
tắc hàng đầu của khoa học và triết học mới có thể nhận thức đúng đắn về thế
giới, tư duy tổng hợp và phép quy nạp khoa học là những công cụ hiệu quả để
xây dựng khoa học thực nghiệm và chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm nhằm khám
phá các quy luật của thế giới để con người chinh phục nó, bắt nó phục vụ vì lợi
ích cho chính mình.
Ông là người đầu tiên khám phá ra phương pháp quy nạp loại trừ, tức phương
pháp quy nạp mà trong đó có phân tích, loại bỏ những dự kiện phụ, đi đến
khẳng định bản chất của sự vật. Nhìn chung Bê Cơn là nhà duy cảm , thiên về
sự phát triển khoa học tự nhiên thực nghiệm. Là người có công khởi xướng ra
tư tưởng cần thiết phải xây dựng hệ thống phương pháp luận mới phù hợp với
sự phát triển của khoa học thời cận đại.
2.4. Quan niệm về chính trị xã hội, tôn giáo
Là nhà tư tưởng đại diện cho tầng lớp quý tộc cấp tiến, Bê Cơn đã chủ trương
đường lối chính trị phục vụ lợi ích cho giai cấp tư sản và chuẩn bị điều kiện để phát
triển mạnh mẽ chủ nghĩa tư bản. Ông đòi hỏi phải xây dựng một nhà nước tập
quyền đủ mạnh để chống lại mọi đặc quyền , đặc lợi của tầng lớp quý tộc bảo thủ;
phải phát triển một nền công nghiệp, thương nghiệp dựa trên sức mạnh của tri thức
khoa học và tiến bộ của kỹ thuật. Ông chủ trương cải tạo xã hội bằng con đường

khai sáng thông qua sự nghiệp giáo dục và đào tạo , đồng thời ông cũng chống lại
mọi cuộc nổi dậy đấu tranh của nhân dân.
Bê Cơn coi con người là sản phẩm của tạo hóa , do vậy khoa học về con
người cũng là khoa học về tự nhiên. Bê Cơn chia linh hồn con người thành các
dạng : Linh hồn thực vật, linh hồn động vật, linh hồn lý tính. Hai phần đầu thuộc về
linh hồn cảm tính có cả ở động vật và thực vật. Trong con người linh hồn cảm tính
là một dạng chất lỏng, pha loãng trong cơ thể , chúng vận động theo các dây thần
kinh tựa như các đường ống, tác động lên các giác quan, điều khiển chức năng sống
13


của cơ thể. Bộ phận linh hồn này có thể bị hủy hoại cùng cơ thể khi con người chết
đi. Linh hồn lý tính có nguồn gốc từ thượng đế. Đó là một khả năng kỳ diệu mà
chúa ban cho con người, mang tính thần thánh. Vì con người có hai dạng linh hồn
nên con người vừa rất gần với động vật lại vừa có cái gì đó siêu phàm. Do đó bản
chất con người không cho phép con người theo lập trường hoàn toàn vô thần. Con
người cần có tôn giáo để vượt qua những lúc con người mềm yếu, bất lực. Tôn giá
mang lại cho con người niềm tin nhưng nhà thờ không được phép dùng các biện
pháp chống lại các nhà vô thần, không được cản trở các hoạt động khoa học, nghệ
thuật của con người. Bê Cơn thể hiện sự thỏa hiệp giai cấp tư sản Anh thời đó với
các vấn đề tôn giáo.
Phần 3 : Những ảnh hưởng của tư tưởng triết học Ph. Bê Cơn
3.1. Ảnh hưởng đến phương Tây thời kỳ cận đại
Triết học Bê Cơn là triết học duy vật không triệt để khi ông không công khai xung
đột với tôn giáo. Tuy nhiên đã có tác dụng tích cực đối với sự phát triển của khoa
học , đã giáng một đòn rất mạnh vào uy tín của nhà thờ , giáo hội đang lúc hưng
thịnh.
Ông là người đầu tiên phân tích cơ sở lý luận của các nguyên nhân dẫn đến các
xung đột xã hội trong nội bộ đất nước. Đồng thời chú ý đến vai trò quyết định của
các điều kiện vật chất đối với sự hình thành tình trạng mất trật tự xã hội. Một trong

những nguyên nhân đó theo Bê Cơn là do sự đói nghèo về vật chất của nhân dân.
“Trong quốc gia có bao nhiêu người bị bần cùng hóa thì có bấy nhiêu người sẵn
sang trở thành kẻ nổi loạn”. Và nếu như giới quý tộc bị khánh kiệt về tài sản, bị bần
cùng hóa và trở thành dân thường thì sự nguy hiểm lại càng lớn và càng không thể
tránh khỏi những vụ nổi loạn, bởi lẽ những vụ nổi loạn, xuất phát từ những “miếng
ăn” là những “ vụ nổi loạn tồi tệ nhất”.
Về nguyên nhân chính trị của những cuộc xung đột, Bê Cơn nhấn mạnh rằng các vị
Quốc Vương bị ràng buộc bởi địa vị đứng đầu quốc gia nên giải quyết mọi vấn đề
một cách tùy tiện theo suy xét của mình, không cần phải tôn trọng ý kiến của các
tầng lớp và của nghị viện. “Nhân dân” thì không thể chịu đựng được sự tùy tiện đó
và họ tự suy nghĩ về việc thành lập và cũng có các hình thức cai trị mới. Các quan
đại thần, giới quý tộc bắt đầu ngấm ngầm xúi giục dân chúng thực hiện điều đó.
14


Một khi nhận được sự giúp đỡ nhân dân lại dấy lên những phòng trào phản đối
chống lại nhà nước.
Ngoài việc chỉ ra những sai lầm về chính trị trong phong cách cai trị Bê Cơn còn
chỉ ra các yếu tố thuộc về tâm lý của các vụ lộn xộn trong xã hội. Trong những yếu
tố đó , những lời châm chọc gay gắt và độc ác “từ miệng lưỡi của Hoàng đế” , “ Sự
ghen tỵ, đố kỵ trong xã hội” , “ những
lời nhục mạ, đồn thổi giả tạo phê phán chính phủ”…
Bê Cơn nhấn mạnh các phương tiện nhằm ngăn ngừa những cuộc xung đột xã hội,
theo ông mỗi một căn bệnh đều có thứ thuốc của mình. Thứ thuốc đầu tiên là bằng
tất cả các phương thức có thể để xóa bỏ các nguyên nhân mang tính vật chất của các
cuộc xung đột xã hội. Trong đó có việc khắc phục tình trạng sống dưới mức yêu cầu
của các tầng lớp , đẳng cấp cụ thể trong xã hội. Theo ông sự không hài lòng của một
trong những tầng lớp cơ bản chưa tạo ra sự nguy hiểm thật sự, vì nhân dân chưa
cùng nhau tụ tập để vùng lên phản kháng một khi các vị đại thần chưa thức tỉnh họ
làm điều đó, còn các vị đại thần cũng sẽ không có sức mạnh nếu họ chưa gây dựng

trong bản thân nhân dân sự phẫn nộ đối với chính thể hiện thời. Sự nguy hiểm chỉ
thực sự lớn khi những vụ nổi loạn mà giới quý tộc mong đợi xảy ra trong dân chúng
và ngay lập tức giới quý tộc thể hiện vai trò lãnh đạo của mình.
Phương tiện quan trọng để ngăn ngừa các cuộc xung đột xã hội , theo BêCơn đó là
nghệ thuật sử dụng các thủ đoạn chính trị. Quan tâm đến việc làm sao để những
người không hài lòng có được vị lãnh tụ thích hợp có khả năng tập hợp họ lại với
nhau, làm sao để có được một hoặc một số người có khả năng đàn áp các vụ lộn xộn
, nổi loạn của dân chúng. Ph Bê Cơn không những chỉ ra sự cần thiết phải có những
người như vậy mà còn nêu những phẩm chất cơ bản mà họ cần phải có. Phải làm
sao để cho những vị thủ lĩnh quân sự đó trở thành những người đáng tin cậy, đáng
kính chứ không phải là những người thích chia rẽ, thích đi tìm sự nổi tiếng, làm sao
để họ hòa hợp được với những nhân vật quan trọng khác trong nhà nước.
3.2. Ảnh hưởng đến giai đoạn hiện nay
Trong giai đoạn toàn cầu hóa như hiện nay , để giúp cho con người vượt qua
những khó khăn, thử thách, giải thoát con người khỏi những vướng mắc của cuộc
sống, đáp ứng nhu cầu thường nhật và lâu dài của nhân loại không chỉ là kinh tế, kỹ
thuật hiện đại và công nghệ cao mà còn là triết học. Triết học giúp con người ta tìm
ra lời giải của những thách đố muôn thủa, và những vấn đề hoàn toàn mới do quá
15


trình toàn cầu hóa đặt ra. Triết học giúp con người nhận thức được rõ địa vị của
mình , lối sống xứng đáng với con người, mà còn giúp họ xác định được mục tiêu,
lý tưởng sống, góp phần biến đổi hiện thực để phục vụ cho chính mình. Hiện nay
triết học còn giúp ta có những định hướng đúng đắn trong hành động, đánh giá
những biến động đang diễn ra, gợi mở cách đi, hướng giải quyết các vấn đề mà
cuộc sống đặt ra. Trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay , triết học cũng đang
thực hiện chính những vai trò to lớn đó.
Cùng với những biến động, sự tăng trưởng và phát triển mạnh mẽ của nền
kinh tế toàn cầu,các thành tựu tuyệt vời của khoa học và công nghệ trong kỷ nguyên

toàn cầu hóa đang tạo nên những bước tiến mới trong lĩnh vực của cuộc sống đương
đại,đang tác động mạnh đến tất cả các nền văn hóa dân tộc và đến văn minh nhân
loại nói chung. Công nghệ thông tin, các phương tiện liên lạc và giao thông hiện đại
cực kỳ thuận lợi và hiệu quả dường như đang thu nhỏ trái đất lại và biến nó thành
“ngôi làng toàn cầu”. Trong một bối cảnh như vậy đã có người nghĩ rằng, trong giai
đoạn hiện nay, chỉ có kinh tế kĩ thuật hiện đại và công nghệ cao mới có thể là cứu
cánh giúp cho con người vượt qua những khó khăn, giải thoát con người khỏi
những thách đố và vướng mắc của cuộc sống, mới có thể đáp ứng được cả các nhu
cầu lâu dài của nhân loại .
Trong kỷ nguyên toàn cầu hóa , một mặt là thắng lợi cực kỳ to lớn không thể chối
bỏ của khoa học và công nghệ , sự phát triển kinh tế mặt khác chính nó cũng góp
phần hủy hoại nặng nề đối với thiên nhiên và ẩn chứa đầy nguy cơ đối với con
người.
Dựa vào những thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ , xuất phát từ thực tế
cuộc sống đương đại, con người đã có thể tự giải đáp được rất nhiều vấn đề mà họ
quan tâm. Song đúng như Bê Cơn từng nhận xét , những điều mà con người đã biết
được chưa thấm vào đâu so với những điều mà con người còn chưa biết. Vì vậy con
người vẫn phải tiếp tục tìm kiếm lời giải cho những thách đố muôn thủa , vừa phải
trả lời cho những câu hỏi hoàn toàn mới do quá trình toàn cầu hóa đặt ra. Đó là
những câu hỏi đại loại như : Thế giới này là gì ? Vị trí của con người trong thế giới
đó ra sao ? Số phận của con người do ai quyết định ? Con người có thể tránh được
những tai họa thảm khốc do thiên nhiên đang bị chính con người tàn phá nặng nề
gây ra hay không ?...
16


Tất cả các câu hỏi trên có thể phải mất nhiều thời gian con người mới có thể trả lời
được , mà cũng có thể mãi mãi con người không tìm thấy câu trả lời. Ph Bê Cơn nói
rằng : “ Thời gian là nhà cách tân vĩ đại nhất” Câu nói này sẽ luôn đúng với mọi
thời đại.

Mặc dù trong tư tưởng vẫn còn nhiều hạn chế, như ông không đứng trên lập trường
duy vật , chư thấy rõ được hạn chế lịch sự của thời đại , của cơ sở kinh tế - xã hội,
của các quan hệ xã hội ảnh hưởng đến quá trình nhận thức. Về chính trị - xã hội ông
chủ trương xây dựng nhà nước tập quyền, bảo vệ lợi ích xã hội tư bản, biện hộ cho
sự xâm chiếm thuộc địa của Anh. Nhưng ông là nhà triết học thực nghiệm đầu tiên
của nước Anh, đã để lại cho nhân loại những kiến thức vô cùng bổ ích và nhiều ứng
dụng. Đóng góp của ông là vô cùng to lớn đối với xã hội ngay cả ở thời của ông và
cho đến tận bây giờ.
“Con ong khai thác vật liệu từ hoa ngoài vườn và ruộng đồng, nhưng sử dụng và
biến đổi nó phù hợp với khả năng và chủ định của mình. Công việc đích thực của
nhà triết học cũng không khác gì công việc đó.”(Ph. Bê Cơn )

17


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Khoa Triết học, Học Viện Báo Chí và Tuyên Truyền, Khái lược lịch sử triết
học, NXB Chính trị - hành chính , Hà Nội , 2013.
2. Nguyễn Thế Nghĩa – Doãn Chính ( 2002 ) , Lịch sử Triết học, Tập 1 , Triết
học Cổ Đại , NXB Khoa học xã hội, Hà Nội
3. Hà Thiên Sơn , Những bước đi đầu tiên của Ph.BêCơn tới việc xây dựng
phương pháp quy nạp, Tạp chí triết hoc số 1/1996.
4. Lê Thị Huyền ( 2010), Ph.BêCơn với dự án “ Đại phục hồi khoa học”. Tạp
chí triết học số 2/2010
5. Trần Văn Phòng ( 2011) , Phương pháp luận cải tiến của Ph BêCơn, Tạp trí
triết học số 1/2011
6. Đỗ Minh Hợp ( 2010), Lịch sử triết học đại cương, NXB Giáo dục Việt
Nam , Hà Nội

18




×