Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

TƯ TƯỞNG TRIẾT học của PHẬT GIÁO và sự ANH HƯỞNG của nó đến đời SỐNG văn hóa TINH THẦN của NGƯỜI VIỆT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (842.78 KB, 34 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH
KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

Tiểu luận triết học

TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC
CỦA PHẬT GIÁO
VÀ SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA
NÓ ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA
TINH THẦN CỦA NGƯỜI VIỆT

Giáo viên hướng dẫn : Tiến só Bùi Văn Mưa
Học viên thực hiện : Lý Kim Cương
Lớp
: Cao học đêm 1 – Khóa 19

Năm 2010


LỜI MỞ ĐẦU

N

gay từ buổi bình minh tự chủ của dân tộc, đạo Phật đã
có những mối duyên liên hệ thắm thiết đến sự tồn vong
của dòng sinh mệnh Việt Nam: Dân tộc Việt Nam, về
nhân chủng, có nguồn gốc Mélanesien và Indonesien cùng với các
nước Đông Nam Á láng giềng trực tiếp thu nhận tinh hoa đạo Phật
vốn có chung một truyền thống sinh hoạt văn hóa lúa nước. Một nền
Văn hóa nhân bản bao dung, trí tuệ và khai phóng, đượm sắc thái
hiếu sinh, hiếu hịa, và giải thoát.


Như chúng ta đã biết, khi hệ giáo lý từ bi, bác ái, giải thoát bể
khổ của đạo Phật được truyền vào Việt Nam thì người Việt đã rất
nồng nhiệt hân hoan đón nhận một cách chân tình, coi đó như là
Mạch sống của dân tộc hợp với lối sống tình cảm, tâm linh, đạo đức,
suy tư và hành xử của người bản địa. Do những nhân duyên hội ngộ
ấy, đạo Phật có mặt tại Việt Nam, với chiều sâu và bề dày lịch sử hai
mươi thế kỷ, đã cùng với dân tộc phấn đấu giành quyền cho một
nước Việt Nam tự chủ, độc lập; đã gây dựng nên một nếp sống “dân
phong quốc tục” làm vẻ vang cho nòi giống Việt.
Bởi những điều này, tôi đã quyết định chọn đề tài “Tư tưởng
triết học của Phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa
tinh thần của người Việt” để viết tiểu luận Triết học. Tiểu luận có
giá trị như là tài liệu bổ sung vào kho tàng kiến thức Phật giáo nói
chung và phân tích một số ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa
tình cảm con người Việt nói riêng.
Tơi chân thành cảm ơn Thầy cùng các bạn đã giúp tơi hồn
thành xong tiểu luận này!
Lý Kim Cương


Tiểu luận triết học

GVHD: TS Bùi Văn Mưa

MUÏC LUÏC
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA PHẬT GIÁO ................................. 1
1. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển Phật giáo ...................................... 1
2. Nội dung tư tưởng triết học Phật giáo ............................................................. 2
2.1


Thế giới quan Phật giáo ............................................................................ 2

2.2

Nhận thức luận Phật giáo .......................................................................... 7

2.3

Nhân sinh quan Phật giáo ......................................................................... 9

CHƯƠNG 2: ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA
TINH THẦN CỦA NGƯỜI VIỆT ..........................................................................17
1. Sơ lược sự hình thành và phát triển của Phật giáo Việt Nam........................17
2. Một số đặc điểm của Phật giáo Việt Nam .....................................................18
2.1

Tính tổng hợp ..........................................................................................18

2.2

Tính hài hịa âm dương ...........................................................................20

2.3

Tính linh hoạt ..........................................................................................20

3. Những ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống văn hóa tinh thần của người
Việt........................................................................................................................20
3.1


Những ảnh hưởng tích cực......................................................................20

3.2

Những ảnh hưởng tiêu cực......................................................................28

LỜI KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tư tưởng triết học Phật giáo và những ảnh hưởng …


Tiểu luận triết học

CHƯƠNG 1:

GVHD: TS Bùi Văn Mưa

TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA PHẬT GIÁO

1. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển Phật giáo
Đạo Phật mang tên người sáng lập Buddha. Buddha vốn là một thái tử tên Tất
Đạt Đa (Siddhatha), con trai vua nước Trịnh Phạn phía Bắc Ấn Độ (nay là nước
Nepal). Vào năm 29 tuổi, Ngài nhận thức rằng tiện nghi vật chất và an ninh trong
thế gian khơng bảo đảm hạnh phúc; vì thế, Ngài đi tìm học các lời dạy, tơn giáo và
triết học thời đó, để tìm kiếm chìa khóa đưa đến hạnh phúc. Sau sáu năm học tập và
hành thiền, Ngài tìm ra con đường "Trung Đạo" và giác ngộ. Sau khi chứng đắc,
Ngài dùng quảng đời còn lại tại thế gian để truyền giảng các nguyên lý trong đạo
Phật – gọi là Pháp, hay Chân lý, cho đến khi Ngài nhập diệt vào năm 80 tuổi.


(Nguồn: />Tư tưởng triết học Phật giáo và những ảnh hưởng …

Trang 1


Tiểu luận triết học

GVHD: TS Bùi Văn Mưa

Và sự phát triển của đạo Phật có thể được chia làm bốn giai đoạn:
1. Giữa thế kỷ thứ 6 đến giữa thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên: Giai đoạn
nguyên thủy, do đức Phật giáo hóa và các đệ tử của Phật truyền bá.
2. Kể từ thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên: Giai đoạn bắt đầu phân hóa ra
nhiều trường phái qua các lần kết tập về giáo pháp.
3. Kể từ thế kỷ thứ 1: Xuất hiện giáo phái Đại thừa với hai tông phái quan
trọng là Trung quán tông và Duy thức tông.
4. Kể từ thế kỷ thứ 7: Xuất hiện Phật giáo Mật tông (Phật giáo Tây Tạng,
Kim cương thừa).
Sau thế kỷ thứ 13, Phật giáo được xem là bị tiêu diệt tại Ấn Độ, nơi sản sinh
đạo Phật.
Từ thế kỷ thứ 3, đạo Phật được truyền đi các nước khác ngoài Ấn Độ và mang
nặng bản sắc của các nước đó. Ngày nay, phái Tiểu thừa với quan điểm của
Thượng tọa bộ được truyền bá rộng rãi tại Tích Lan (Sri Lanka), Thái Lan, Miến
Điện (Myanma), Campuchia. Đại thừa được truyền tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn
Quốc và Việt Nam. Giáo pháp Kim cương thừa – cũng được xếp vào Đại thừa –
phát triển mạnh tại Tây Tạng, Mông Cổ.
2. Nội dung tư tưởng triết học Phật giáo
Tư tưởng triết học Phật giáo chủ yếu nói về thế giới quan và nhân sinh quan.
2.1 Thế giới quan Phật giáo

Thế giới quan Phật giáo chịu ảnh hưởng của hai luận điểm, thể hiện qua 4 luận
thuyết cơ bản: thuyết vô thường, thuyết vô ngã, thuyết nhân quả, thuyết nhân dun
khởi.
2.1.1

Thuyết vơ thường

Vơ thường là khơng thường cịn, là chuyển biến thay đổi. Luật vô thường chi
phối vũ trụ, vạn vật, thân và tâm ta. Sự vật luôn luôn biến đổi khơng có gì là
thường trụ, bất biến. Với ngũ quan thô thiển của ta, ta lầm tưởng sự vật là yên tĩnh,
là bất động nhưng thật ra là nó ln ln ở thể động, nó chuyển biến khơng ngừng.
Sự chuyển biến ấy diễn ra dưới hai hình thức:

Tư tưởng triết học Phật giáo và những ảnh hưởng …

Trang 2


Tiểu luận triết học

GVHD: TS Bùi Văn Mưa

a) Một là Sátna (Kshana) vô thường: là sự chuyển biến rất nhanh, trong
một thời gian hết sức ngắn, ngắn hơn cả một nháy mắt, một hơi thở, một niệm, một
sự chuyển biến vừa khởi lên đã chấm dứt.
b) Hai là Nhất kỳ vô thường: là sự chuyển biến trong từng giai đoạn. Sự
vô thường thứ nhất là trạng thái chuyển biến nhanh chóng, liên tiếp, ngắn ngủi,
thường là ta khơng nhận ra mà kết quả là gây ra sự vô thường thứ hai. Nhất kỳ vô
thường là trạng thái chuyển biến rõ rệt, kết thúc một trạng thái cũ, chuyển sang một
trạng thái mới. Vạn vật trong vũ trụ đều tuân theo luật: Thành – Trụ – Hoại –

Không.
Vạn vật được cấu thành, trụ một thời gian, sau đó chuyển đến diệt, thành, hoại,
không. Các sinh vật đều tuân theo luật: Sinh, trụ, di, diệt.
Không những thân ta chuyển biến không ngừng mà tâm ta cũng khơng ngừng
chuyển biến. Như dịng nước thác, như bọt bể, trong Satna này, trong tâm ta nổi lên
một ý niệm thiện, chỉ trong Satna sau, trong tâm ta đã có thể khơi lên một ý niệm
ác.
Các hình thái xã hội theo thời gian cũng chuyển biến: Xã hội công xã nguyên
thủy → Xã hội chiếm hữu nô lệ → Xã hội phong kiến → Xã hội tư bản → Xã hội
Xã Hội Chủ Nghĩa. Đó là quy luật xã hội và cũng phù hợp với thuyết vơ thường
của Đạo Phật.
Trong thế gian có những người khơng biết lý vơ thường của Phật, có những
nhận thức sai lầm về sự vật là thường cịn, là khơng thay đổi, khơng chuyển biến.
Vì nhận thức thân ta là thường còn nên nảy ra ảo giác muốn kéo dài sự sống để
hưởng thụ, để thỏa mãn mọi dục vọng. Khi luật vơ thường tác động đến bản thân
thì sinh ra phiền não đau khổ.
Thuyết vô thường là một trong những thuyết cơ bản trong giáo lý Phật, là cơ
sở của lý luận cho phương thức sống, cho triết lý sống của những con người tu
dưỡng theo giáo lý Phật.
2.1.2

Thuyết vô ngã

Từ thuyết vơ thường, Phật nói sang vơ ngã. Vơ ngã là khơng có cái ta. Thực ra
làm gì cũng có cái ta trường tồn, vĩnh cữu vì cái ta nó biến đổi khơng ngừng, biến
Tư tưởng triết học Phật giáo và những ảnh hưởng …

Trang 3



Tiểu luận triết học

GVHD: TS Bùi Văn Mưa

chuyển từng phút, từng giờ, từng Satna.
Một câu hỏi được đặt ra là cái ta ở giây phút nào là cái ta chân thực, cái ta bất
biến? Cái ta mà Phật nói trong thuyết vơ ngã gồm có hai phần: Cái ta sinh lý tức
thân và cái ta tâm lý tức tâm.
Theo kinh Trung Quốc Ahàm, cái ta sinh lý chỉ là kết hợp của bốn yếu tố của
bốn đại là: địa, thủy, hỏa, phong. Những thứ đó khơng phải là ta, ta khơng phải là
những thứ đó, những thứ đó khơng thuộc về ta.
Còn cái ta tâm lý gồm: thụ, tưởng, hành, thức. Bốn ấm này cùng với sắc ấm
che lấp trí tuệ làm cho ta không nhận thấy được cái ta chân thực cái ta Phật tính, cái
chân ngã của chúng ta. Cái chân lý gồm những nhận thức, cảm giác, suy tưởng, là
sự kết hợp của thất tỉnh: hỷ, nộ, ai, lạc, ái, nỗ, dục.
Thuyết vô ngã làm cho người ta khơng cịn ai tin là có một linh hồn vĩnh cửu,
tồn tại kiếp này sang kiếp khác, đời này qua đời khác. Sự tin có một linh hồn dẫn
đến sự cúng tế linh hồn là hành động của sự mê tín.
Đối với những người bị hà hiếp, bị bóc lột thì sự mê tín có cái ta vĩnh cửu dẫn
đến tư tưởng tiêu cực, chán đời phó mặc cho số mệnh, hy vọng làm lại cuộc đời ở
kiếp sau. Quan niệm có một linh hồn bất tử, một cái ta vĩnh cửu là nguồn gốc sinh
ra những tình cảm, những tư tưởng ích kỷ, những tham dục vơ bờ của những kẻ
dựa vào sức mạnh phi nghĩa để làm lợi cho mình, tức là cho cái ta mà họ coi là
thường cịn, bất biến.
Căn cứ trên hai thuyết vơ thường và vô ngã Phật đã xây dựng cho đệ tử một
phương thức sống, một triết lý sống lấy vị tha làm lý tưởng cao cả cho cuộc sống
của mình, hay nói một cách khác một cuộc sống một người vì mọi người, mọi
người vì một người.
2.1.3


Thuyết lý nhân duyên sinh

Với lý nhân duyên sinh Phật muốn nói tới một định lý. Theo định lý ấy sự vật
vạn vật phát triển trên thế gian đều do các nhân duyên hội họp mà thành, sự vật,
vạn pháp sẽ kiến diệt khi nhân duyên tan rã.
Nhân là năng lực phát sinh, duyên là lực hỗ trợ cho nhân phát sinh. Như cây
lúa thì hạt lúa là nhân, nước, ánh sáng mặt trời, công cày bừa gieo trồng là duyên.
Tư tưởng triết học Phật giáo và những ảnh hưởng …

Trang 4


Tiểu luận triết học

GVHD: TS Bùi Văn Mưa

Nhân duyên đó hội họp sinh ra cây lúa. Tất cả mọi hiện tượng đều nương nhau mà
hành động. Nói nương nhau có nghĩa là sự vật tác động, kết hợp, chi phối, ảnh
hưởng lẫn nhau mà thành. Đó là nhân duyên.
Tất cả các pháp đều sinh, diệt và tồn tại trong sự liên hệ mật thiết với nhau,
khơng một pháp nào có thể tồn tại độc lập tuyệt đối.
Sự vật chỉ “có” một cách giả tạo, một cách vô thường.
Nhân duyên hội họp thì sự vật là “có”
Nhân dun tan rã thì sự vật là “không”.
Người thế gian không tu dưỡng tưởng lầm sự vật, vạn pháp là thực có, là vĩnh
viễn nên bám giữ vào các pháp vào sự vật (sinh mệnh, danh vọng, tiền tài...).
Nhưng thực ra các pháp là vơ thường, là chuyển biến và khi tan rã thì người thế
gian thương tiếc, đau khổ.
Lý nhân duyên cho chúng ta thấy sự vật hình thành là do nhân duyên hịa hợp,
sự vật là hư giả, là giả hợp khơng có tính tồn tại. Như vậy con người làm chủ đời

mình, làm chủ vận mệnh của mình.
Cuộc sống của con người có tươi đẹp hạnh phúc hay phiền não đau khổ là đều
do nhân duyên mà con người tạo ra. Với nhận thức như vậy, con người tìm được
một phương thức sống, một cách sống cho ra sống, sống vì hạnh phúc của mọi
người, sống an lạc, tự tại, giải thoát.
2.1.4

Thuyết nhân duyên quả báo hay thuyết nhân quả

Thuyết nhân duyên quả báo hay thuyết nhân quả là một trong những thuyết cơ
bản của giáo lý Phật. Sự vật sinh ra là có nhân, ngun nhân. Cái ngun nhân một
mình cũng khơng tạo ra được sự vật mà phải có đủ dun thì mới tạo ra quả được.
Người ta nói rằng: Trồng đậu được đậu
Trồng dưa được dưa.
Nhưng Phật nhấn mạnh: Quả có thể khác nhân sinh ra nó. Quả có thể hơn
nhân nếu gặp đủ duyên tốt, trái lại có thể kém nhân nếu gặp duyên xấu. Nhân gặp
đủ duyên thì sẽ biến thành quả, quả sinh ra nếu hội đủ duyên lại có thể biến thành
nhân rồi để sinh ra quả khác.

Tư tưởng triết học Phật giáo và những ảnh hưởng …

Trang 5


Tiểu luận triết học

GVHD: TS Bùi Văn Mưa

Sự vật là một chuỗi nhân quả, là một tràng nhân quả nối tiếp nhau, ảnh hưởng
lẫn nhau không bao giờ đứt quãng, khơng bao giờ ngừng.

Trong nhân lại có mầm mống của quả sau này nhưng quả không nhất định
phải đúng như nhân vì dun có thể mang lại sự biến đổi cho quả – Đó là thuyết
“Bất định pháp” trong luật nhân quả.
Sự vật là bất định, người tu hành căn cứ vào thuyết này mà tu dưỡng và tiến
tới trên con đường giải thoát về nhân. Suy rộng ra theo giáo lý Phật thì mỗi ý nghĩ
của tâm ta, mỗi hành động của thân ta, mỗi lời nói của chúng ta cũng là những hạt
nhân của chúng ta gieo hàng ngày. Những hạt nhân khi gặp đủ duyên sẽ nảy nở
thành quả.
Theo danh từ Phật học, những hạt nhân này gọi là nghiệp. Gieo nhân tức là
gây nghiệp. Kết quả đền đáp những hành động nói trên Phật gọi là nghiệp báo.
Người nào gieo nhân, người ấy hái quả, không một hành động nào, thiện hay ác, dù
nhỏ đến đâu, dù ta khơn khéo bưng bít, giấu giếm đến mức nào cũng khơng thể
thốt khỏi cán cân nhân quả. Người học Phật, tu Phật chân chính thấm nhuần
thuyết nhân quả phải là người có đạo lý, khơng thể nào khác được.
Với những luận thuyết cơ bản như trên đã hình thành nên thế giới quan Phật
giáo. Phật quan niệm các hiện tượng trong vũ trụ luôn luôn biến chuyển không
ngừng theo quy luật nhân duyên. Một hiện tượng phát sinh không phải là do một
nhân mà do nhiều nhân và dun. Nhân khơng phải tự mà có mà do nhiều nhân
duyên đã có từ trước. Như vậy một hiện tượng có liên quan đến tất cả các hiện
tượng trong vũ trụ.
Tóm lại thế giới quan Phật giáo là thế giới quan nhân duyên. Tất cả sự vật có
danh có tướng, có thể nhận thức được, ý niệm được. Cảm giác được hay dùng ngôn
ngữ luận bàn, được đều được Phật gọi là pháp. Các pháp đều thuộc một giới gọi là
Pháp giới. Bản tính của pháp giới là các pháp duyên khởi ra nhau. Tính ấy là tính
của pháp giới nên gọi là pháp giới tính. Do pháp giới tính là bản tính của các pháp
nên gọi là chân, vì vậy pháp giới tính cịn gọi là chân như tính.
Giác ngộ được chân như tính thì gọi là tự giác, nhưng thế thì chưa nhận thức
đầy đủ, sâu sắc về pháp giới tính vì vậy các nhà tu hành giác ngộ được bản lai tự
Tư tưởng triết học Phật giáo và những ảnh hưởng …


Trang 6


Tiểu luận triết học

GVHD: TS Bùi Văn Mưa

tính cịn phải vận dụng pháp giới tính vào nhiều trường hợp khác để thấy được cái
dụng to lớn của pháp giới tính.
2.2 Nhận thức luận Phật giáo
2.2.1

Bản chất, đối tượng của nhận thức luận

Bản chất của nhận thức luận Phật giáo là q trình khai sáng trí tuệ. Cịn đối
tượng của nhận thức luận là vạn vật, là mọi hiện tượng, là cả vũ trụ.
Vạn vật là vô thủy vô chung, không có sự vật đầu tiên và khơng có sự vật cuối
cùng. Mọi vật đều liên quan mật thiết đến nhau. Tồn thể dù lớn đến đâu nếu khơng
có quan hệ với hạt bụi thì cũng khơng thành lập được. Để diễn đạt ý trên, một thiền
sư đã dùng hai câu thơ:
Càn khôn tận thị mao đầu thượng
Nhật nguyệt bao hàm giới trí trung.
Có nghĩa là:
Trời đất rút lại đầu lơng nhỏ xíu
Nhật nguyệt nằm trong hạt cải mịng.
Như vậy đạo Phật khơng phân biệt vật chất và tinh thần vì đó chỉ là hai trạng
thái của tâm, của năng lượng khi ở thể tiềm tàng.
Sau khi đã tìm hiểu về sự vật, hiện tượng chúng ta sẽ tìm hiểu cái tâm trong
đạo Phật để thấy được quan niệm của đạo Phật về tâm và vật.
Thông thường người ta cho rằng đạo Phật là duy tâm vì trong kinh Phật có câu

“Nhất thiết duy tâm tạo”. Nhưng chữ “duy tâm” ở đây không phải là duy tâm trong
triết học Tây phương nên ta không thể nhận định như trên. Chữ tâm trong đạo Phật
có nghĩa là một năng lượng, nó làm bản thể cho tất cả mọi hiện tượng tâm lý, cho
mọi hiện hành. Bản thể là cái chất, là cội gốc của vạn vật. Khi ta phân tích, chia chẻ
một vật đến một phần tử nhỏ nhất, đến phần cuối cùng thì phần tử ấy là bản thể mà
ở đây cũng có vật có chất nên đâu đâu cũng thấy có bản thể, vì vậy tâm cũng lại là
to lớn vơ biên.
Những tình cảm, ý thức phát sinh phải nương vào hiện tượng sinh lý, vật lý.
Nói nương nhau để phát sinh chứ không phải các hiện tượng sinh lý, vật lý sinh ra
Tư tưởng triết học Phật giáo và những ảnh hưởng …

Trang 7


Tiểu luận triết học

GVHD: TS Bùi Văn Mưa

các hiện tượng tâm lý.
Hiểu như vậy thì thấy rõ khơng phải tâm sinh vật hay vật sinh tâm. Những
hiện tượng sinh lý vật lý và những hiện tượng tâm lý ấy chỉ tương sinh tương thành.
2.2.2

Quy trình, con đường và phương pháp nhận thức

Sự nhận thức phát triển theo hai con đường tư trào là hướng nội và hướng
ngoại. Phật giáo thường quan tâm đến tư trào hướng nội tức là mỗi người tự chiêm
nghiệm suy nghĩ của bản thân. Có hai phương pháp để nhận thức là :
Tiệm ngộ: là sự giác ngộ, nhận thức một các dần dần, có tính chất là “trí
hữu sư”.

Đốn ngộ: là sự giác ngộ bộc phát, bùng nổ có tính chất là “trí vơ sư”.
Với hai phương pháp ấy sự nhận thức Phật giáo được chia làm hai giai đoạn:
Giai đoạn một là từ tùy giác đến thể nhập. Nhận thức bắt đầu từ cảm giác
và phụ thuộc vào cảm giác đưa lại. Kết quả là con người biết được cái tiếp xúc giữa
thế giới khách quan và giác quan của con người và từ sự tiếp xúc này tạo nên yếu
tố “thọ” trong ngũ uẩn. Theo nhà Phật nói chữ thọ ở đây là sự tiếp xúc của sáu căn
với sáu trần tạo nên yếu tố thọ. Căn cứ ở đây là những khả năng nhận thức của các
giác quan. Trần là loại kích thích từ thế giới bên ngồi. Nếu kích thích tương ứng
với các căn thì con người có cảm giác. Sáu căn là: nhăn, nhỉ, tù, thiệt, thân, ý. Sáu
trần là: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. “Thọ”, cho chúng ta nhận biết được những
hiện tượng riêng lẻ, những cái bề ngồi, ngẫu nhiên. Trong một số trường hợp khác
gọi đó là kinh nghiệm. Từ những tri thức cảm tính kinh nghiệm nêu trên, con người
sẽ đi sâu để nhập vào bản thể của sự vật để biết được cái bên trong, bản chất đó là
tri thức định lý.
Giai đoạn hai là sự nhận thức đi từ cái tâm tại đến cái tâm siêu thể. Từ kết
quả của giai đoạn trước, con người bắt được cái tâm tính của những sự vật hữu hình
tái thế và đặc biệt là cái tâm ở trong mỗi con người và nâng lên để nắm được cái
tâm siêu thoát, cái tâm trung.
Để đạt được sự nhận thức đó thì có nhiều phương pháp song hai phương pháp
sau: Tam học và Tam huệ là chủ yếu.
Tam học là giới, định, tuệ.
Tư tưởng triết học Phật giáo và những ảnh hưởng …

Trang 8


Tiểu luận triết học

GVHD: TS Bùi Văn Mưa


− Giới: gồm có những phương tiện để thay đổi lối suy nghĩ, lối sinh hoạt
hàng ngày của con người sống theo đạo, thích hợp với đạo là ln hướng về thiện.
− Định: là đình chỉ mọi tư tưởng xấu, ý nghĩ xấu và còn là tập trung tư
tưởng suy nghĩ để làm mọi việc yên lành.
− Tuệ: là trí tụê sáng suốt, đã thấu được lý vơ thường, vơ ngã, do đó chỉ nghĩ
đến làm việc thiện, mưu lợi cho chúng sinh.
Tam huệ là văn, tu, tư.
− Văn: là nghe pháp Phật, hiểu rõ ý nghĩa, quan niệm được bản tính thanh
tịnh, sáng suốt của mình, do đó mà có một lịng tin vững chắc nơi Phật pháp.
− Tư: là suy nghĩ về các pháp Phật đã nghe được, học được đi đến giác ngộ
bản lai tư tính của mình.
− Tu: là nương theo trí tuệ, bắt đầu trực nhận được bản tính chân như, mà tụ
tập gột rửa những thói quen mà lầm từ nhiều kiếp để lại đi đến nhập với một pháp
giới tính.
Các phương pháp trên đã phá tan các kiến chấp sai lầm chấp ngã, chấp pháp
để đi đến trung đạo và nhận rõ trung đạo là chẳng có, chẳng khơng. Với nhận thức
như thế, người tu hành sẽ được sống trong sự giải thoát, sinh tử luân hồi sẽ khơng
cịn nữa.
2.3 Nhân sinh quan Phật giáo
Từ một vũ trụ quan căn cứ trên những thuyết nhân duyên sinh, thuyết sự vật
duyên khởi,... chúng ta sẽ tìm hiểu về những quan niệm của đạo Phật về vấn đề
nhân sinh quan. Ở đây chúng ta sẽ lần lượt trả lời các câu hỏi:
Có phải cuộc sống chỉ tồn là đau khổ? Và vấn đề giải thoát trong đạo
Phật là gì?
Con người là gì? Từ đâu mà sinh ra? Chết rồi đi đâu? Vị trí của con người
trong đạo Phật.
Quan niệm của Phật về các vấn đề: bình đẳng, tự do, dân chủ...
Trước khi trả lời các câu hỏi trên chúng ta sẽ tìm hiểu và phân tích Tứ diệu đế
vì đây là giáo lý kinh điển của Phật giáo bao quát toàn bộ các vấn đề trên.
Tư tưởng triết học Phật giáo và những ảnh hưởng …


Trang 9


Tiểu luận triết học

2.3.1

GVHD: TS Bùi Văn Mưa

Tứ diệu đế

Tứ diệu đế còn gọi là tứ chân đế hay tứ thánh đế, là bài thuyết pháp đầu tiên
của Phật sau khi thành đạo tại vườn Lộc Uyển cho năm từ khưu trước kia đi theo
Phật. Tứ đế là đạo lý căn bản của Thanh Văn Thừa, đồng thời cũng là cơ sở của các
thuyết khác trong giáo lý Phật. Tứ đế gồm có: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế.
a)

Khổ đế

Trong tứ diệu đế, Phật đưa ra đầu tiên vấn đề khổ, rồi giảng cho ta thấy vì sao
mà khổ, phương pháp diệt khổ và con đường đi đến diệt khổ.
Nói như thế có người hiểu lầm cho rằng đạo Phật chủ trương cuộc đời chỉ toàn
là khổ, và đạo Phật là đạo yếm thế. Thực ra, đạo Phật nhìn cuộc đời một cách khách
quan, khơng ru người ta vào một giấc mơ Niết Bàn hay cực lạc và cũng không làm
cho người ta sợ hãi, chán nản bởi những đau khổ trong cuộc sống. Phật chỉ cho
chúng ta nhận thức sự vật, cuộc đời theo chân tướng của nó và chỉ dẫn cho chúng ta
đi đến giải thốt.
Danh từ Dukkha của tiếng Xantít ta thường dịch là khổ là chưa thật hết nghĩa
nên mới dẫn đến những hiểu lầm trên.

Trong phép tướng duy thức có nói đến ba loại thụ: khổ thụ, lạc thụ, xả thụ.
Như vậy không phải chỉ có khổ thụ mà cịn có lạc thụ. Đối với cảnh nghịch sinh ra
khổ thụ nhưng đối với cảnh thuận thì sinh ra lạc thú. Các cảnh có thể làm cho
người ta vui hoặc khổ hoặc không vui, không khổ. Đạo phật không phủ nhận những
cảm giác vui (lạc thú) của cuộc đời mà cịn phân tích ra nhiều hình thức vui. Nhưng
những cái vui ấy, cũng như những cái khổ ấy đều bao gồm trong danh từ Dukkha,
vì những cái vui, cũng như những cái khổ ấy đều là vô thường hư giả.
Dù người tu hành chứng được những trạng thái thiền định cao siêu thì những
lạc thú siêu thốt ấy vẫn là Dukkha vì những người tu hành ấy chưa thốt khỏi tam
giới vơ thường, hư giả.
Khổ thụ và lạc thụ đều là Dukkha cả, do đó chúng ta phải diệt là diệt cái
Dukkha ấy chứ khơng phải là tránh khổ, tìm vui như thế gian thường hiểu, thường
lầm.
Theo cách phân tích khác, Phật chia cái khổ ra làm 8 loại:
Tư tưởng triết học Phật giáo và những ảnh hưởng …

Trang 10


Tiểu luận triết học

GVHD: TS Bùi Văn Mưa

1. Sinh khổ: đã có sinh là có khổ vì đã sinh nhất định có diệt, bị luật vơ
thường chi phối nên khổ.
2. Lão khổ: người ta mong muốn trẻ mãi nhưng cái già theo thời gian vẫn cứ
đến. Cái già vào mắt thì mắt bị mờ đi, cái già vào lỗ tai thì tai bị điếc, vào da,
xương tủy thì da nhăn nheo, xương tủy mệt mỏi. Cái già tiến đến đâu thì suy
yếu đến ấy làm cho người ta phiền não.
3. Bệnh khổ: trong cuộc sống, thân thể thường ốm đau, nhất là khi già yếu,

thân thể suy nhược, bệnh tật dễ hoành hành làm cho người ta đau khổ.
4. Tử khổ: là cái khổ khi người ta chết. Chứng sinh do nghiệp báo chịu cái
thân nào thì gắn bó với cái thân ấy coi như cái thân duy nhất của mình thì khi
chết thì phiền não vơ cùng.
5. Cầu bất đắc khổ (thất vọng): người ta thường chạy theo những điều mình
ưa thích, mong cầu hết cái này đến cái khác. Khi chưa cầu được thì phiền não,
khi cầu được rồi thì phải lo giữ nó, nếu nó mất đi thì lại luyến tiếc.
6. Ái biệt ly khổ: nỗi khổ khi phải chia ly.
7. Oán tắng hội khổ: những điều mình chán ghét thì nó cứ tiến đến bên mình.
8. Ngũ ấm xí thịnh khổ: ngũ ấm ấy là sắc ấm, thụ ấm, tưởng ấm, hành ấm,
thức ấm. Ngũ ấm ấy che lấp trí tuệ, phải chịu cái khổ luân hồi trong vơ lượng
kiếp.
b)

Tập đế

Nếu chúng ta muốn tự mình thốt khỏi khổ đau, trước hết chúng ta phải tìm ra
nguyên nhân, đó là Tập đế. Những nguyên nhân đó khơng phải tìm đâu xa mà ở
ngay trong mỗi chúng ta. Ngun nhân thì có nhiều nhưng có thể tóm lại như sau:
1. Tham: là tham lam.
2. Sân: là giận dữ.
3. Si: là si mê, mờ ám.
4. Mạn: là tự nâng cao mình lên, hạ người khác xuống.
5. Nghi: là nghi ngờ, khơng có lịng tin.
6. Thân kiến: tưởng thân thể là thực có là trường tồn.
Tư tưởng triết học Phật giáo và những ảnh hưởng …

Trang 11



Tiểu luận triết học

GVHD: TS Bùi Văn Mưa

7. Biên kiến: sự hiểu biết một mặt như chấp đoạn, chấp thưởng.
8. Tà kiến: sự hiểu biết không đúng, là chấp theo lối tà, khơng chân chính,
trái với sự thật, trái với quy luật nhân quả.
9. Kiến thử: chấp nhặt hiểu biết sai trái của riêng mình là đúng.
10. Giới cấm thủ: tu hành khơng chính đạo.
Ba ngun nhân chính (tham, sân, si) Phật còn gọi là tam độc, là nguồn gốc
của mọi sự khổ. Nguyên nhân của tam độc là do ái dục và vô minh được thể hiện
trong công thức sau:
Nghiệp
Ái dục + Vô minh



Sự khổ.

Ái dục: là tham ái, yêu thích do cảm thụ đi đến say đắm trước những cảnh u
thích, vừa lịng, chán ghét cảnh trái ý. Vì say đắm với những cảnh nên rong ruổi
theo cảnh, bám lấy cảnh hình thành nên tham vọng và ước muốn.
Vô minh: là mê lầm, không sáng suốt. Đối với những hiện tượng trụ không
nhận rõ chân tướng, thực tướng của nó là sự chuyển biến khơng ngừng, là vơ
thường mà lại lầm tưởng các hiện tượng đó là thực có, là thường cịn. Vơ minh che
lấp ta khơng nhận thấy được chân tâm mà luôn luôn chạy theo vọng tâm, làm ta
thấy có thân, có cảnh, có ta, có người của ta và thấy quý thân ta, không quan tâm
đến người sống quanh ta.
Nghiệp: là những hoạt động về thân thể, về lời nói nên Phật gọi là thân nghiệp,
khẩu nghiệp và ý nghiệp. Kết quả của hành động ấy gọi là nghiệp báo. Không phải

hoạt động nào của ta cũng gây nghiệp báo. Những việc như: đi, đứng, nhìn, ngồi,...
thì khơng gây nghiệp báo. Nghiệp có hai loại: Nghiệp thiện và nghiệp ác. Như vậy,
Phật đặt số mệnh của con người trong chính tay họ. Tự con người đã gây nên nỗi
khổ cho mình.
Tập đế là một chân lý thể hiện tính biểu chứng sâu sắc trong mối quan hệ nhân
quả và đã tìm tới các nguyên nhân rất đa dạng, phong phú. Các nguyên nhân ấy
quan hệ với nhau, cái nào cũng có thể làm nhân làm duyên cho cái khác, như làn
sóng trên mặt biển, lớp trước là lớp nhân là duyên cho lớp sau và cứ thế tiếp diễn.
Nhưng cái hạn chế của tập đế là chưa đề cập đến nguyên nhân từ xã hội. Đặc biệt là
Tư tưởng triết học Phật giáo và những ảnh hưởng …

Trang 12


Tiểu luận triết học

GVHD: TS Bùi Văn Mưa

chưa nhắc tới quan hệ giai cấp, bóc lột trong xã hội. Luận điểm này thể hiện rõ từ
trào hướng nội trong nhận thức luận Phật giáo.
c)

Diệt đế

Diệt đế là tích quả Niết bàn do thực hành tịnh nghiệp mà đạo đế mang lại.
Diệt đế là trừ diệt sự khổ để đi đến chỗ an lạc là chỗ kết nghiệp đã hết khơng
cịn luân hồi sinh tử nữa.
Có tịnh nghiệp tất sinh tịnh quả. Ấy là khi diệt đế vọng niệm khơng cịn khởi
lên, tâm hồn luôn an trụ trong cảnh vắng lặng là do cảnh giới Niết Bàn.
Niết Bàn có bốn đặc điểm: Thường – Lạc – Ngã – Tịnh.

Thường là thường cịn, khơng biến đổi.
Lạc là an lạc, giải thốt hết phiền não, thâm tâm tự tại.
Ngã là chân ngã, chân thực, thường cịn.
Tịnh là thanh tịnh, trong sạch khơng cịn ô nhiễm.
Niết Bàn là sự chấm dứt mọi phiền não được thực hiện không phải ở một nơi
nào khác, một cõi nào khác mà thực hiện ngay trong cõi thế gian này, nhờ sự tu
hành nghiêm túc mang lại cho ta mọi trạng thái tinh thần đặc biệt: Trạng thái an lạc,
siêu thốt, tịnh diệt.
Phật dạy rằng: khi mơn đệ làm cho lịng mình sạch hết tham lam, nóng giận và
si mê thì mơn đệ đã đến được bến giác, tức là cảnh giới Niết Bàn. Do đó, con người
phải dày cơng tu dưỡng, xố bỏ được lửa dục, lửa sân, lửa si mê để chứng được
cảnh giới Niết Bàn ngay trong cõi đời hiện tại.
d)

Đạo đế

Đạo đế là con đường, là môn pháp hướng dẫn cho chúng sinh đạt được đến
quả giải thoát, ra khỏi luân hồi sinh tử.
Pháp môn tu dưỡng ra khỏi luân hồi sinh tư rất nhiều, nhưng thường được đề
cao là phương pháp 37 đạo phẩm. Phương pháp này gồm có:
1. Tứ niệm xứ:

4

2. Tứ chính cần: 4
3. Tứ như ý túc:

4

Tư tưởng triết học Phật giáo và những ảnh hưởng …


Trang 13


Tiểu luận triết học

GVHD: TS Bùi Văn Mưa

4. Ngũ cân:

5

5. Ngũ lực:

5

6. Bát chính đạo: 8
7. Thất giác :

7

Trong 37 đạo phẩm, bát chính đạo là quan trọng nhất. Nó là con đường giúp
người ta thoát khỏi phiền não, đau khổ đi tới cảnh giới Niết Bàn tự tại, an lạc. Bát
chính đạo gồm có:
1. Chính ngữ: tu nghiệp thanh tịnh, khơng phát ra lời nói sai trái.
2. Chính nghiệp: hành động chân chính, mang lại lợi ích cho mọi người.
3. Chính mệnh: sống bằng nghề nghiệp chân chính.
4. Chính tịnh tiến : tiến tới trên con đường đạo, không đi vào các đường tà.
5. Chính niệm: tâm trí ln luôn nghĩ đến đạo lý vô ngã, diệt trừ những kiến
chấp mê lầm, đoạt trừ những tư tưởng, hành động bất chính.

6. Chính định: giữ tâm vắng lặng khơng một vọng niệm khởi lên để trí tuệ
xuất hiện, chứng quả tu đà hồn.
7. Chính kiến: kết quả của việc sống, tư duy con người phải có ý biến lấy
tiêu biểu là các vị Phật.
8. Chính tư duy: sau khi có niệm khởi, con người sẽ tư duy, suy nghĩ một
cách chân chính, làm chủ được dịng tư duy.
Để đi qua tám con đường trên thì khơng ngồi ba ngun tắc: giới, định, tuệ
hay còn gọi là tam học. Các nguyên tắc này có sự liên hệ mật thiết bổ sung cho
nhau.
Với pháp tứ diệu đế Phật muốn cho chúng sinh thấy 2 cảnh giới khác nhau là
Niết Bàn và Thân Lụy: một con đường giác ngộ, an lạc và một con đường mê lầm
tội lỗi. Và cùng phương pháp tứ diệu đế, bây giờ chúng ta có thể trả lời được các
câu hỏi đã đặt ra ở trên.
2.3.2

Những quan điểm về nhân sinh quan Phật giáo
a)

Con người

Con người là sự kết hợp của ngũ uẩn (sắc, thụ, tưởng, hành, thức) gồm hai yếu
Tư tưởng triết học Phật giáo và những ảnh hưởng …

Trang 14


Tiểu luận triết học

GVHD: TS Bùi Văn Mưa


tố chính: yếu tố sinh lý (sắc) và yếu tố tinh thần (thụ, tưởng, hành, thức).
Yếu tố tinh thần chỉ phát huy tác dụng khi nó được gắn với một thân thể. Sắc
thân chỉ tồn tại trong một thời gian rồi bị huỷ diệt.
Như vậy, con người chỉ là một giả hợp sinh lý tuân theo quy luật: sinh, tục, dị,
diệt. Con người là do nhân dun hịa hợp, khơng có một đấng tối thượng siêu
nhiên tạo ra con người cũng như con người không phải tự nhiên mà sinh ra. Khi
nhân duyên hịa hợp thì con người sinh, khi nhân dun tan rã thì con người chết.
Song chết chưa phải là hết, linh hồn cũng không bất tử chuyển từ kiếp này sang
kiếp khác. Con người ở kiếp này sinh ra thì con người ở kiếp trước diệt, nhưng con
người ở kiếp sau không phải là con người ở kiếp trước nhưng cũng không khác với
con người ở kiếp trước. Con người không phải là một thực thể trường tồn mà chỉ là
một giả hợp của ngũ uẩn. Trong thời gian ngũ uẩn kết hợp, các việc thiện, ác được
thực hiện. Con người gây nghiệp và tạo ra một động lực làm xuất hiện nghiệp báo ở
kiếp sau.
Từ nhận thức trên, con người tu Phật lúc nào cũng phải cẩn thận trong một ý
nghĩ, lời nói việc làm.
b)

Nhân vị trong đạo Phật

Đạo Phật là đạo chủ trương tự do, bình đẳng, từ bi.
Tự do theo quan niệm của Phật là con người sống trong an lạc, giải thốt,
khơng có áp bức, nơ lệ, cũng không bị chi phối bởi ngũ dục. Con người bị ràng
buộc bởi ngoại cảnh và một phần bởi nội tâm. Những sự áp bức, những day dứt gây
ra bởi dục vọng còn khắc nghiệt bằng vạn ngoại cảnh. Nhà lao, cường quyền, tham
nhũng, tàn ác còn chưa khắc nghiệt bằng cái ta ích kỷ. Từ đó, Phật chú trọng đến
giải phóng con người ra khỏi xiềng xích của dục vọng bằng phương pháp tu hành
diệt dục. Để sống tự do Phật tử phải đấu tranh với bản thân mình để diệt trừ dục
vọng và đấu tranh để chống mọi sự áp bức bất công.
Ở một thời đại cổ xưa cách chúng ta trên 25 thế kỷ Phật đã có một quan

niệm hết sức tiến bộ đối với vấn đề bình đẳng trong xã hội. Phật đã từng nói:
“Khơng có đẳng cấp trong dịng máu đỏ như nhau, trong dòng nước mắt cũng mặn
như nhau. Mỗi người sinh ra không phải ai cũng mang sẵn dây chuyền ở cổ hay dấu
Tư tưởng triết học Phật giáo và những ảnh hưởng …

Trang 15


Tiểu luận triết học

GVHD: TS Bùi Văn Mưa

tica trên trán (dấu hiệu đẳng cấp của Ấn Độ)” ( trích từ Website thuvienhoasen.org).
Và những quan niệm đó được Phật thực hiện ngay trong giáo hội của mình. Phật
thu nạp vào giáo hội của Người tất cả mọi đẳng cấp, không phân biệt sang hèn,
giàu nghèo. Khơng dừng lại ở sự bình đẳng giữa con người với con người mà Phật
còn đi xa hơn, nêu lên sự bình đẳng giữa các chúng sinh đều có Phật tính như nhau
và đang cùng nhau: người trước, vật sau, tiến bước trên con đường giải thoát.
Người ta gọi đạo Phật là đạo từ bi, người tu hành là người giàu lòng từ bi.
Từ là hiền hịa, cho vui. Bi là thương xót, cứu khổ. Từ bi là đem lại an lạc, hạnh
phúc cho người khác, cứu khổ, cứu nạn cho chúng sinh, quên đi mọi ích lợi của bản
thân mình. Nhưng từ bi khơng phải là thủ tiêu mọi sự đấu tranh, giữ thái độ tiêu
cực, thụ động trước mọi sự bất công, áp bức, tham nhũng. Có sức mạnh hung bạo
thì phải có sức mạnh của từ bi để chống lại. Sức mạnh đó thể hiện bằng sự giáo hóa
và bằng cả bạo lực, bạo lực từ bi. Hai chữ từ bi càng đẹp biết bao nhiêu đối với
những con người thực tâm tu luyện thì càng xấu xa bao nhiêu đối với những kẻ lợi
dụng đạo để mưu cầu lợi ích cho mình. Vấn đề giải thoát là vấn đề cơ bản trong
đạo Phật vì mục đích cuối cùng của đạo Phật là giải thốt con người khỏi cuộc sống
đau khổ trong vơ minh. Việc giải phóng này là con người phải tự lực đảm nhiệm,
khơng ai có thể làm thay được và mỗi người phải coi sự giải thoát là cứu cánh cuối

cùng của cuộc đời.
Như vậy, đạo Phật đã đặt con người lên một vị trí hết sức quan trọng và cao
quý. Hạnh phúc của con người là do con người xây đắp nên. Con người thấm
nhuần giáo lý Phật, con người vị tha, từ bi, hỉ xả sẽ kiến lập một xã hội hịa bình, an
lạc, cơng bằng, mọi người sống vì lợi ích của nhau, của tập thể. Trái lại, con người
ích kỷ chỉ biết mình, hại người, con người sống tàn bạo, độc ác thì cái gì trong tay
con người cũng sẽ trở thành khí cụ sát hại và xã hội của những con người ấy là xã
hội của địa ngục, xã hội áp bức bóc lột.

Tư tưởng triết học Phật giáo và những ảnh hưởng …

Trang 16


Tiểu luận triết học

GVHD: TS Bùi Văn Mưa

CHƯƠNG 2: ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG
VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI VIỆT
1. Sơ lược sự hình thành và phát triển của Phật giáo Việt Nam
Phật giáo được du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, ngay từ đầu Công nguyên
với truyện cổ tích Chử Đồng Tử (ở Hưng Yên ngày nay) học đạo của một nhà sư
Ấn Độ. Luy Lâu (thuộc tỉnh Bắc Ninh) là trị sở của quận Giao Chỉ sớm trở thành
trung tâm Phật giáo quan trọng. Các truyền thuyết về Thạch Quang Phật và Man
Nương Phật Mẫu xuất hiện cùng với sự giảng đạo của Khâu Đà La (Ksudra) trong
khoảng các năm 168 – 189.
Do tiếp thu Phật giáo trực tiếp từ Ấn Độ nên từ Buddha (bậc giác ngộ) được
phiên âm trực tiếp thành “Bụt”, từ “Bụt” được dùng nhiều trong các truyện dân
gian. Phật giáo Việt Nam lúc ấy mang màu sắc của Tiểu thừa, Bụt được coi như

một vị thần chuyên cứu giúp người tốt, trừng phạt kẻ xấu. Sau này, vào thế kỷ thứ 4
– 5, do ảnh hưởng của Đại thừa đến từ Trung Quốc mà từ “Bụt” bị mất đi và được
thay thế bởi từ “Phật”. Trong tiếng Hán, từ Buddha được phiên âm thành “Phật đà”,
“Phật đồ” rồi được rút gọn thành “Phật”.
Phật giáo ăn sâu, bám rễ vào Việt Nam từ rất sớm. Đến đời nhà Lý, nhà Trần,
Phật giáo phát triển cực thịnh, được coi là quốc giáo, ảnh hưởng đến tất cả mọi vấn
đề trong cuộc sống. Đến đời nhà Hậu Lê thì Nho giáo được coi là quốc giáo và Phật
giáo đi vào giai đoạn suy thoái. Đến đầu thế kỷ 17, vua Quang Trung cố gắng chấn
hưng đạo Phật, chỉnh đốn xây chùa, nhưng vì mất sớm nên việc này khơng có nhiều
kết quả. Đến thế kỷ 20, mặc dù ảnh hưởng mạnh của q trình Âu hóa, Phật giáo
Việt Nam lại phát triển mạnh mẽ khởi đầu từ các đô thị miền Nam với các đóng
góp quan trọng của các nhà sư Khánh Hịa và Thiện Chiếu.
Tóm lại, lịch sử Phật giáo Việt Nam trải qua bốn giai đoạn:
Từ đầu công nguyên đến hết thời kỳ Bắc thuộc là giai đoạn hình thành và
phát triển rộng khắp
Thời nhà Lý – nhà Trần là giai đoạn cực thịnh
Từ đời Hậu Lê đến cuối thế kỷ 19 là giai đoạn suy thoái
Tư tưởng triết học Phật giáo và những ảnh hưởng …

Trang 17


Tiểu luận triết học

GVHD: TS Bùi Văn Mưa

Từ đầu thế kỷ 20 đến nay là giai đoạn phục hưng.
Trên bước đường truyền bá và hội nhập, Phật giáo luôn luôn cố gắng thực
hiện hai điều đó là khế lý và khế cơ. Khế lý là nói về mặt tư tưởng nhờ khế lý nên
dù ở thời gian và không gian nào, giáo lý Phật đà vẫn hợp với chân lý, tư tưởng vẫn

luôn luôn phong phú, sâu sắc mà vẫn giữ được bản chất của mình và chỉ có một vị
đó là vị giải thốt.
Khế cơ thiên về mặt lịch sử, nhờ khế cơ nên dù trong hoàn cảnh và quốc độ
nào thì sự sinh hoạt, thể hiện, truyền đạt cũng luôn luôn đa dạng. Tùy theo phong
tục tập quán của mỗi quốc gia mà vẫn không hề mất gốc (Phật giáo). Nói một cách
khác thì có thể tùy nghi phương tiện theo từng vùng miền để truyền bá giáo lý Phật
đà nhưng không làm mất đi bản sắc của Phật giáo là ứng hợp với mọi tầng lớp và
căn cơ chúng sinh.
Tên gọi tuy có khác nhưng giáo lý vẫn là một nên gọi là khế lý, dù một mà
khơng phải một, nên có lắm tên Phật giáo Việt Nam, Phật giáo Tây Tạng, Phật giáo
Thái Lan, v.v. tất cả đều có tên chung là Phật giáo. Đây gọi là khế cơ là bản địa hóa,
hay sắc thái Phật giáo của từng vùng miền.
Khi Phật giáo được truyền vào Việt Nam đã được các vị thiền sư người Việt
bản địa hóa, khiến Phật giáo hịa mình vào lịng dân tộc tạo nên một sắc thái đặc
biệt của riêng Việt Nam. Phật giáo đã cùng sinh tồn cùng dân tộc. Điểm này dễ
dàng nhận thấy trong những thời đại hưng thịnh của đất nước như Đinh, Lê, Lý
Trần đều là những lúc Phật giáo cũng song hành hưng thịnh và các vị thiền sư có vị
trí quan trọng trong các triều đại đó.
2. Một số đặc điểm của Phật giáo Việt Nam
2.1 Tính tổng hợp
Tổng hợp là một trong những đặc tính của lối tư duy nơng nghiệp, chính vì thế
tổng hợp là đặc tính nổi bật nhất của Phật giáo Việt Nam.
2.1.1

Tổng hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng truyền thống

Phật giáo thờ Phật trong chùa, tín ngưỡng truyền thống Việt Nam là thờ thần
trong miếu và thờ Mẫu trong phủ, bốn vị thần được thờ nhiều nhất là Tứ pháp: Mây
– Mưa – Sấm – Chớp. Tuy nhiên bốn vị thần này đã được “Phật hóa”. Các pho
Tư tưởng triết học Phật giáo và những ảnh hưởng …


Trang 18


Tiểu luận triết học

GVHD: TS Bùi Văn Mưa

tượng này thường được gọi tượng Phật Pháp Vân, Phật Pháp Vũ, Phật Pháp Lôi và
Phật Pháp Điện, trên thực tế các tượng này hoàn toàn điêu khắc theo tiêu chuẩn của
một pho tượng Phật. Nghĩa là đầy đủ 32 tướng tốt cùng 80 vẻ đẹp, mà một trong
những nét tiêu biểu chính là tướng nhục kế, những khế ấn, và khuôn mặt đầy lòng
từ mẫu... Các hệ thống thờ phụ này tổng hợp với nhau tạo nên các ngôi chùa “tiền
Phật, hậu thần” hay “tiền Phật, hậu Mẫu”. Người Việt Nam đưa các vị Thần, Thánh,
Mẫu, thành hoàng thổ địa, anh hùng dân tộc... vào thờ trong chùa. Đa số các chùa
còn để cả bia hậu, bát nhang cho các linh hồn đã khuất.
2.1.2

Tổng hợp giữa các tông phái Phật giáo

Các tông phái Phật giáo Đại thừa sau khi du nhập vào Việt Nam trộn lẫn với
nhau. Dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi pha trộn với Mật giáo. Nhiều vị thiền sư đời
Lý như Vạn Hạnh, Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Khơng,... đều giỏi pháp thuật và
có tài thần thơng biến hóa. Thiền tơng cịn kết hợp với Tịnh Độ tơng như là trong
việc tụng niệm Phật A Di Đà và Bồ Tát.
Các điện thờ ở chùa miền Bắc có vơ cùng phong phú các loại tượng Phật, bồ
tát, la hán của các tông phái khác nhau. Các chùa miền Nam cịn có xu hướng kết
hợp Tiểu thừa với Đại thừa. Nhiều chùa mang hình thức Tiểu thừa (thờ Phật Thích
Ca Mâu Ni, sư mặc áo vàng) nhưng lại theo giáo lý Đại thừa; bên cạnh Phật Thích
Ca Mâu Ni cịn có các tượng Phật nhỏ khác, bên cạnh áo vàng cịn có áo nâu, áo

lam.
2.1.3

Tổng hợp giữa Phật giáo với các tơn giáo khác

Tín ngưỡng truyền thống đã tiếp nhận Phật giáo ngay từ đầu Cơng ngun.
Sau đó Phật giáo cùng tín ngưỡng truyền thống tiếp nhận Đạo giáo. Rồi tất cả cùng
tiếp nhận Nho giáo để làm nên “Tam giáo đồng ngun” (cả ba tơn giáo có cùng
một gốc) và “Tam giáo đồng quy” (cả ba tơn giáo có cùng một mục đích). Ba tơn
giáo trợ giúp lẫn nhau: Nho giáo lo tổ chức xã hội, Đạo giáo lo thể xác con người,
Phật giáo lo tâm linh, kiếp sau của con người. Trong nhiều thế kỷ, hình ảnh “Tam
giáo tổ sư” với Thích Ca Mâu Ni ở giữa, Lão Tử ở bên trái, Khổng Tử ở bên phải
đã in sâu vào tâm thức mọi người Việt.
Ngoài ra Phật giáo Việt Nam còn được hòa trộn với tất cả các tôn giáo khác để
Tư tưởng triết học Phật giáo và những ảnh hưởng …

Trang 19


Tiểu luận triết học

GVHD: TS Bùi Văn Mưa

hình thành Đạo Cao Đài vào thập niên 1920 với quan điểm là “Thiên nhân hợp
nhất” và “Vạn giáo nhất lý”.
2.2 Tính hài hịa âm dương
Sau tính tổng hợp, hài hịa âm dương là một trong những đặc tính khác của lối
tư duy nơng nghiệp, nó ảnh hưởng rất lớn đến Phật giáo Việt Nam làm cho Phật
giáo Việt Nam có phần thiên về nữ tính.
Các vị Phật Ấn Độ xuất thân là nam giới, khi vào Việt Nam bị biến thành

“Phật ông – Phật bà”. Phật Bà Quan Âm (biến thể của Quán Thế Âm Bồ Tát) là vị
thần hộ mệnh của vùng Nam Á nên còn được gọi là Quan Âm Nam Hải. Ngồi ra
người Việt cịn có những vị Phật riêng của mình như Man Nương Phật Mẫu (tên
khác: Phật Mẫu), Quan Âm Thị Kính (tên khác: Quan Âm Tống Tử), Quan Âm
Diệu Thiện (tên khác: Phật Bà Chùa Hương, Bà chúa Ba).
2.3 Tính linh hoạt
Phật giáo Việt Nam cịn có một đặc điểm là rất linh hoạt, mà nhà Phật thường
gọi là “tùy duyên bất biến; bất biến mà vẫn thường tùy duyên” nghĩa là tùy thuộc
vào tình huống cụ thể mà người ta có thể tu, giải thích Phật giáo theo các cách khác
nhau. Nhưng vẫn không xa rời giáo lý cơ bản của nhà Phật. Ví dụ: Các vị bồ tát,
các vị hòa thượng đều được gọi chung là Phật, Phật Bà Quan Âm (vốn là bồ tát),
Phật Di Lặc (vốn là hịa thượng),... Ngồi ra Phật ở Việt Nam mang dáng dấp hiền
hòa và dân dã: ơng Bụt Ốc (Thích Ca tóc xoăn), ơng Nhịn ăn mà mặc (chỉ Thích Ca
Tuyết Sơn),... Trên đầu Phật Bà Chùa Hương cịn có lọn tóc đi gà rất truyền
thống của phụ nữ Việt Nam.
3. Những ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống văn hóa tinh thần của
người Việt

3.1 Những ảnh hưởng tích cực
Từ khi du nhập Việt Nam đến nay, Phật giáo đã tồn tại và gắn liền với lịch sử
dân tộc, nó ngấm sâu vào tư duy và trở thành một bộ phận văn hóa, nếp sống của
người Việt. Vậy nó ảnh hưởng đến đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam
ra sao?
3.1.1

Phật giáo đã ảnh hưởng đến tư duy, tập tục tín ngưỡng của người dân

Tư tưởng triết học Phật giáo và những ảnh hưởng …

Trang 20



Tiểu luận triết học

GVHD: TS Bùi Văn Mưa

Việt
a)

Tư duy

Tư duy người Việt là chú ý nhiều tới các quan hệ. Người Việt Nam cũng
như phương Đơng cho rằng khơng có gì là trường tồn, đứng n mà vạn vật ln
vận động, biến đổi khơng ngừng. Vì vạn vật sinh sinh, hóa hóa, sắc sắc, khơng
khơng nên cái ta thấy được chỉ là những mối liên hệ thấp thoáng giữa các trạng thái
của sự vật trong quan hệ với những sự vật khác. Để chỉ những mối liên hệ, Phật
giáo có luật nhân quả. Khơng có cái tơi độc lập, khơng có thế giới tách rời “cái tơi”,
khơng có “cuộc sống” tách rời – tất cả những cái đó là những tương tác chặt chẽ và
chỉ bị tách rời nhau trong tưởng tượng. Do vậy mà người phương Đông, Việt Nam
theo đạo Phật thường để ý nhiều đến mối quan hệ, chủ yếu cảm tính, đạo đức nên
nhiều nhìn nhận sai lệch, có tính chủ quan duy ý trí. Do đó, cuộc sống người Việt
Nam thường chú ý nhiều đến quan hệ họ hàng, làng xóm, xã hội sao cho khơn khéo,
tế nhị.
Tư duy người Việt Nam ta trong truyền thống là hướng nội. Hướng ngoại
là thiên về nghiên cứu thế giới vật chất bên ngoài. Hướng nội là thiên về nghiên
cứu thế giới tinh thần bên trong. Do đạo Phật quan niệm vạn vật đồng nhất thể, nên
bản thể vũ trụ cũng tiềm ẩn trong mỗi con người. Điểm này khiến người Việt trong
cuộc sống đề cao cái tâm, lối sống tình cảm. Cách suy nghĩ và lối sống mang nặng
màu sắc tình cảm, một mặt giúp nhân dân ta trong những thời hoạn nạn, thiên tai,
địch họa... nhưng nó cũng làm hạn chế sự tiến bộ của khoa học – kỹ thuật.

Tư duy người Việt có thêm 1 loạt khái niệm lấy từ Phật giáo. Những khái
niệm đó góp phần làm tăng những khái niệm mang tính triết lý của người Việt,
khiến tư duy người Việt mang tính khái quát hơn, trừu tượng hơn. Nhiều từ ngữ
Phật giáo đã được người dân Việt Nam sử dụng trong đời sống hằng ngày, một
cách tự nhiên và nhuần nhuyễn, như là tiếng phổ thơng, thậm chí người sử dụng nó
cũng khơng biết được nguồn gốc xuất xứ là Phật giáo. Thí dụ, hai chữ “tội nghiệp”
(Tội nghiệp là tội của nghiệp), “Hằng hà sa số” (là một hình ảnh Phật thường dùng
khi thuyết pháp để diễn tả số lượng rất nhiều). Từ “Bụt” trong câu “Hiền như Bụt”
vì họ quan niệm Phật như một ơng Thần có rất nhiều quyền năng, nhưng lại rất là
hiền từ, chỉ cứu người chứ không bao giờ làm hại người. Thậm chí họ cịn nói đùa
Tư tưởng triết học Phật giáo và những ảnh hưởng …

Trang 21


Tiểu luận triết học

GVHD: TS Bùi Văn Mưa

“lành như Bụt đất” mà khơng sợ gì cả. Ngồi ra, ảnh hưởng của Phật giáo lên cách
tư duy còn thể hiện ở quan niệm về sự phát triển của vạn vật qua 4 giai đoạn: sinh
(ra đời, xuất hiện), trụ (tồn tại, hiện hữu), dị (phát triển, tiến hoá, biến đổi) và diệt
(tử, chết, biến mất), cịn ở con người đó là sinh, lão, bệnh, tử. Đó là sự phát triển tự
nhiên, tất yếu của mọi sự vật, hiện tượng, mọi sự sống. Các khái niệm “vô thường”,
“vô ngã” cũng ảnh hưởng nhiều tới hệ tư tưởng phong kiến Việt Nam.
Tư tưởng từ bi của Phật giáo thấm đẫm trong tâm hồn Việt từ người bình dân
đến kẻ trí thức, thể hiện trong truyện kể dân gian cũng như trong thơ văn bác học.
Trong truyện kể dân gian, bao giờ Phật cũng hiện lên để cứu khổ, cứu nạn cho con
người. Lấy ở vở chèo Quan Âm Thị Kính nổi tiếng vì lời hay múa đẹp, vì nỗi oan
tình được cửa Từ Bi cứu vớt mà không minh được oan. Câu chuyện Phật giáo Triều

Tiên đó phù hợp với người Việt Nam đến nỗi khơng mấy ai nhớ đó là câu chuyện
của Triều Tiên. Bởi lẽ, tư tưởng Từ Bi Bác ái của nhà Phật đã được diễn đạt hết sức
dân gian, hết sức Việt Nam và có lẽ Việt Nam hơn Truyện Kiều. Một điều đáng nói
ở đây là câu chuyện Quan Âm Thị Kính được thể hiện bằng chèo, một hình thức
nghệ thuật dân gian hơn cả văn thơ lục bát vốn cũng mang đậm tính dân gian. Phật
giáo đã thổi vào tâm hồn người Việt một làn gió mát Từ Bi. Chất Từ Bi của nhà
Phật thấm sâu không những trong những nghệ sĩ dân gian vô danh mà cịn đi sâu
vào lịng những người dân bình dị. Đó là độ thấm sâu của tư tưởng Phật giáo vào
văn hóa Việt Nam chứ khơng phải tất cả tư tưởng Tứ Diệu Đế của Phật giáo. Phật
giáo vào Việt Nam mang đậm tính dân gian đến nỗi những người dân mặc dù theo
Phật giáo nhưng ít có hiểu biết về Phật. Phật giáo có ảnh hưởng với văn hóa Việt
Nam trong suốt chiều dài lịch sử đất nước. Hiện nay Phật giáo vẫn còn là một tác
nhân tác động mạnh trong xã hội. Chúng ta dễ nhận thấy Phật giáo đã mang đến
cho người Việt những ngơi chùa cổ kính, những pho tượng bề thế rải khắp xóm
làng làm tăng lịng từ bi và hướng thiện của người bình dân. Phật giáo đã đưa đến
một trung tâm văn hóa làng một thời sôi động. Phật giáo cũng đã mang đến trong
tâm hồn người Việt một đời sống tâm linh sâu đậm từ khi du nhập cho đến nay.
Trong lịch sử, Phật giáo cũng luôn gắn liền với vận mệnh của dân tộc. Đến thế kỷ
XX, Phật giáo với những nhà sư Tây học đã đóng góp một phần nhỏ trong sự thành
công của cách mạng, mở ra một nước Việt Nam độc lập. Chỉ những nhà sư và tín
Tư tưởng triết học Phật giáo và những ảnh hưởng …

Trang 22


×