Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Anhchị hãy nêu những giá trị và hạn chế của nho giáo và ảnh hưởng của nho giáo tới nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.55 KB, 14 trang )

Họ và tên: Vũ Thị Hồng Nhung
Lớp: K18Q
Đề bài: Anh/chị hãy nêu những giá trị và hạn chế của Nho giáo
và ảnh hưởng của Nho giáo tới nước ta hiện nay.
Nho giáo, còn được gọi là Khổng giáo, là một hệ thống đạo đức,
triết lý và tôn giáo do Khổng Tử phát triển để xây dựng một xã hội thịnh
trị. Nho giáo rất phát triển ở các nước châu Á là Trung Quốc, Nhật Bản,
Triều Tiên, và Việt Nam. Những người thực hành theo các tín điều của
Nho giáo được gọi là các nhà Nho.
Các sách kinh điển của Nho giáo đều hình thành từ thời kỳ Nho
giáo nguyên thủy. Sách kinh điển gồm hai bộ: Ngũ Kinh và Tứ Thư. Tứ
Thư có Trung dung, Đại học, Luận ngữ, Mạnh Tử. Ngũ Kinh có: Thi,
Thư, Lễ, Dịch, Xuân Thu. Hệ thống kinh điển đó hầu hết viết về xã hội,
về những kinh nghiệm lịch sử Trung Hoa, ít viết về tự nhiên. Điều này
cho thấy rõ xu hướng biện luận về xã hội, về chính trị, về đạo đức là
những tư tưởng cốt lõi của Nho gia. Những người sáng lập Nho gia nói
về vũ trụ và tự nhiên không nhiều.
Cốt lõi của Nho giáo là Nho gia. Đó là một học thuyết chính trị
nhằm tổ chức xã hội. Để tổ chức xã hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất
là phải đào tạo cho được người cai trị kiểu mẫu - người lý tưởng này gọi
là quân tử (quân = kẻ làm vua, quân tử = chỉ tầng lớp trên trong xã hội,

1


phân biệt với "tiểu nhân", những người thấp kém về điạ vị xã hội; sau
"quân tử" còn chỉ cả phẩm chất đạo đức: những người cao thượng, phẩm
chất tốt đẹp, phân biệt với "tiểu nhân" là những người thiếu đạo đức hoặc
đạo đức chưa hoàn thiện. Điều này có thể được lí giải bởi đối tượng mà
Nho giáo hướng đến trước tiên là những người cầm quyền). Để trở thành
người quân tử, con người ta trước hết phải "tự đào tạo", phải "tu thân".


Sau khi tu thân xong, người quân tử phải có bổn phận phải "hành đạo" .
Đạo không đơn giản chỉ là đạo lí. Nho gia hình dung cả vũ trụ được cấu
thành từ các nhân tố đạo đức, và Đạo ở đây bao chứa cả nguyên lí vận
hành chung của vũ trụ, vấn đề là nguyên lí đó là những nguyên lí đạo
đức do Nho gia đề xướng (hoặc như họ tự nhận là phát hiện ra) và cần
phải tuân theo. Trời giáng mệnh làm vua cho kẻ nào có Đạo, tức là nắm
được đạo trời, biết sợ mệnh trời. Đạo vận hành trong vũ trụ khi giáng
vào con người sẽ được gọi là Mệnh.
a. Những giá trị của Nho giáo
- Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống bảo vệ chế độ phong kiến
Trung Hoa trong suốt hai ngàn năm. Không những thế, nó còn được
truyền bá khắp miền Đông Á. Khổng Tử được tôn lên bậc thánh, trên thế
giới tên tuổi của ông không ai không biết.
- Xây dựng một xã hội đại đồng, Vua là mệnh trời, mệnh trời phải hợp
nhất với lòng dân. Lấy dân làm gốc, dân làm chủ, đề cao vai trò của
người dân. Khổng Tử nói: "Dân là chủ của thần, vì thế thánh nhân xưa lo

2


cho việc dân rồi mới lo việc thần" (Kinh Xuân Thu). Ông còn nói: "Phải
làm trước những công việc của dân, phải khó nhọc vì dân" (sách Luận
ngữ). Tính dân chủ còn được thể hiện ở cách cư xử "trung dung" trong
"ngũ luân". Trong các quan hệ đó, đều thể hiện tính hai chiều, bình đẳng:
Vua sáng, tôi trung; cha hiền, con hiếu; anh tốt, em nhường; bạn bè tin
cậy.
- Trong kinh điển Nho gia, ta thấy năm quan hệ lớn, bao quát gọi là "ngũ
luân" đã được khái quát là: Vua - tôi, cha - con, chồng - vợ, anh - em
(hoặc trưởng ấu), bầu bạn. Khi nói đến những đức thường xuyên phải
trau dồi, căn cứ hai chữ "ngũ thường" trong Kinh Lễ, nhiều danh nho đã

nêu lên năm đức (gọi là ngũ thường): Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
• Nhân: Lòng yêu thương đối với muôn loài vạn vật.
• Nghĩa: Cư xử với mọi người công bình theo lẽ phải.
• Lễ: Sự tôn trọng, hòa nhã trong khi cư xử với mọi người.
• Trí: Sự thông biết lý lẽ, phân biệt thiện ác, đúng sai.
• Tín: Giữ đúng lời, đáng tin cậy.
Đó là những đức tính thể hiện phẩm chất tốt đẹp của con người
trong tâm hồn ý thức cũng như hình thức, dáng điệu, v.v.. Có thể diễn
đạt một cách khái quát kinh điển Nho gia về mối quan hệ giữa đạo và
đức trong cuộc sống con người: đường đi lối lại đúng đắn phải theo để
xây dựng quan hệ lành mạnh, tốt đẹp là đạo; noi theo đạo một cách

3


nghiêm chỉnh, đúng đắn trong cuộc sống thì có được đức trong sáng quý
báu ở trong tâm.
- Về chính trị: Chủ trương làm cho xã hội có trật tự, Khổng Tử cho rằng
trước hết là thực hiện "chính danh". Chính danh có nghĩa là một vật
trong thực tại cần phải cho phù hợp với cái danh nó mang. Vậy, trong xã
hội, mỗi cái danh đều bao hàm một số trách nhiệm và bổn phận mà
những cá nhân mang danh ấy phải có những trách nhiệm và bổn phận
phù hợp với danh ấy. Đó là ý nghĩa thuyết chính danh của Khổng Tử. Về
cách trị nước an dân, Nho gia kiên trì vương đạo và chủ trương lễ trị.
"Lễ" hiểu theo nghĩa rộng là những nghi thức, quy chế, kỷ cương,
trật tự, tôn ti của cuộc sống chung trong cộng đồng xã hội và cả lối cư xử
hàng ngày. Với nghĩa này, Lễ là cơ sở của xã hội có tổ chức bảo đảm cho
phân định trên dưới rõ ràng, không bị xáo trộn, đồng thời nhằm ngăn
ngừa những hành vi và tình cảm cá nhân thái quá.


4


"Lễ" hiểu theo nghĩa một đức trong "ngũ thường" thì là sự thực hành
đúng những giáo huấn kỷ cương, nghi thức do Nho gia đề ra cho những
quan hệ "tam cương", "ngũ luân", "thất giáo" và cho cả sự thờ cúng thần
linh. Đã là người thì phải học lễ, biết lễ và có lễ. Con người học lễ từ tuổi
trẻ thơ. Với ý nghĩa này, "Lễ" là nội dung cơ bản của lễ giáo đạo Nho.
“Lễ” với những cách hiểu trên là cơ sở, là công cụ chính trị, là vũ
khí của một phương pháp trị nước, trị dân lâu đời của Nho giáo. Phương
pháp ấy gọi là "lễ trị". Lễ, có thể đưa tất cả hoạt động vào nền nếp, có thể
ngăn chặn mọi lỗi lầm sắp xảy ra.
Như vậy, với tư tưởng trị nước này đã tạo ra một xã hội tốt đẹp,
công bằng và văn minh, dậy con người cách sống, cách đối nhân xử thế
như thế nào cho đẹp. Tất cả phải có tôn ti, tất cả phải làm việc theo đúng
bổn phận của mình. Có thể thấy tư tưởng về giáo dục, về thái độ và
phương pháp học tập của Khổng Tử chính là bộ phận giàu sức sống nhất
trong tư tưởng Nho gia.
- Phát triển kinh tế: đưa ra các chính sách kinh tế phải hợp với lòng dân,
khuyến khích dân làm giàu chính đáng, thực hiện tiết kiệm,….
b. Những hạn chế của Nho giáo
- Là công cụ của tầng lớp cai trị, làm giảm bớt ý chí phấn đấu của người
dân. Nguyên nhân là do đến Hán nho, nhà Hán chủ trương "dương đức",
"âm pháp", hay còn gọi là "ngoại Nho, nội pháp", tức là chủ trương nhân
trị chỉ còn là hình thức mà thực chất là pháp trị, các đặc điểm nông
nghiệp trong Nho giáo nguyên thủy bị loại bỏ và bị thay thế bằng các đặc
5


điểm du mục. Hán Vũ đế giao cho nhóm người do Lưu Hâm cầm đầu,

cải tạo và biến đổi Nho giáo để phục vụ vương triều. Nhóm của Lưu
Hâm làm ba việc:


Hạ thấp nhân trị, đề cao lễ trị. Vì nhân trị là cốt lõi của Khổng Tử
nên họ không thể loại bỏ hoàn toàn mà dùng nhân trị như một cái
vỏ bao bọc lễ trị.



Loại bỏ tính dân chủ của Nho giáo nguyên thủy. Dân là chủ bị lờ đi
mà thay vào đó họ đề cao "trời", tạo ra thuyết "thiên mệnh". Vua là
"thiên tử" (con trời), không nghe theo vua là phản lại trời. "Ngũ
luân" trong Nho giáo nguyên thủy được rút gọn thành "tam cương":
vua-tôi, cha-con, vợ-chồng. Quan hệ "trung dung" trong ngũ luân
được chuyển thành quan hệ một chiều duy nhất được tóm gọn trong
bốn chữ "trung- hiếu- tiết- nghĩa". Bề tôi phải tuyệt đối phục tùng
vua, con phải tuyệt đối nghe lời cha, vợ phải tuyệt đối phục tùng
chồng, đó là những mối quan hệ hết sức phi nhân bản: "Vua bảo tôi
chết, tôi không chết là tôi bất trung; cha bảo con chết, con không
chết là con bất hiếu". Còn trách nhiệm của vợ đối với chồng thì
được diễn đạt bằng ba công thức được gọi là tam tòng: "Ở nhà theo
cha, lấy chống theo chồng, chồng chết theo con trai".



Hạn chế vai trò của văn hóa sao cho có lợi cho chế độ phong kiến.
Quan hệ nam nữ bị giới hạn một cách quá đáng: "nam nữ thụ thụ
bất thân". Đề cao nam, hạ thấp nữ: "nam tôn, nữ ti", "dương thiện,
âm ác".


6


- Tính "phi dân chủ" và hệ quả của nó là tư tưởng "bá quyền", coi khinh
các dân tộc khác, coi mình là trung tâm còn "tứ di" xung quanh đều là
"bỉ lậu" cả. Khổng Tử nói: "Các nước Di, Địch, dù có vua nhưng cũng
không bằng Hoa Hạ (Trung Hoa) không có vua" . Tính phi dân chủ còn
được thể hiện ở chỗ coi thường người dân, đặc biệt là phụ nữ. Khổng Tử
gọi dân thường là "tiểu nhân", đối lập với người "quân tử". Còn đối với
phụ nữ, ông nói: "Chỉ hạng đàn bà và tiểu nhân là khó dạy. Gần thì họ
nhờn, xa thì họ oán" .
- Khổng Tử đặt ra một loạt tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức...
để làm chuẩn mực cho mọi sinh hoạt chính trị và an sinh xã hội. Tam
cương và ngũ thường là lẽ đạo đức mà nam giới phải theo. Tam tòng và
Tứ đức là lẽ đạo đức mà nữ giới phải theo. Khổng Tử cho rằng người
trong xã hội giữ được tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức thì xã
hội được an bình. Tư tưởng này đã dẫn đến sự bó buộc con người, làm
họ sống trong sự khép nép, phép tắc mà không thể nào giải thoát, tự do
được.
c. Ảnh hưởng của Nho giáo tới nước ta hiện nay
Nho giáo từng giữ vai trò chủ đạo suốt nhiều thế kỷ trong nền văn
hoá VN. Vốn là một học thuyết đạo đức và chính trị do Khổng Tử sáng
lập ở Trung Hoa cuối thời Xuân Thu, tiếp đó trở thành dòng chính của
văn hoá Trung Quốc suốt hơn hai ngàn năm, và của văn hoá VN hàng
chục thế kỷ, sự ảnh hưởng của Nho giáo được đánh giá là có hai mặt của

7



nó. Một mặt, Nho giáo gìn giữ và làm giàu di sản văn hoá các nước mà
nó thống trị. Mặt khác, không thể phủ nhận là nó đồng thời kìm hãm
nghiêm trọng sự phát triển tư tưởng học thuật và tiến trình lịch sử của
các nước đó.
Ở Việt Nam, tính chất bảo thủ của Nho giáo phải chịu một phần
trách nhiệm trong việc làm trì trệ xã hội VN, mà đỉnh điểm là thất bại
của triều Nguyễn trước cuộc xâm lược của Thực dân Pháp thế kỷ 19. Sau
năm 1945, vai trò thống trị tư tưởng xã hội của Nho giáo chấm dứt.
Nhưng Nho giáo vẫn ảnh hưởng mạnh mẽ đến nếp nghĩ và hành động
của một bộ phận không nhỏ dân chúng VN. Những giá trị siêu thời đại
của học thuyết này là không thể phủ nhận. Do đó, đề tài Nho giáo ở VN
vẫn cần được đặt ra ngay cả trong thời đại công nghiệp hoá.
1. Mối quan hệ giữa Nho giáo và kinh tế.
Trải qua hàng chục thế kỷ, những nhà nho bảo thủ thường trích dẫn
những lời nói của Khổng – Mạnh để biện minh cho những chính sách
bảo thủ về mặt kinh tế.
Việc Nho giáo đề cao nông nghiệp đi đôi với việc hạ thấp công
nghiệp và thương nghiệp đã có tác dụng tiêu cực không nhỏ vào sự kéo
dài tình trạng trì trệ của Việt Nam.
Những nước phát triển châu Á, trong quá trình khai thác Nho giáo
đã phải xoá bỏ sự ràng buộc của những tư tưởng coi thường lợi ích vật
chất, khinh rẻ kỹ thuật và mạt sát công, thương nghiệp như nói ở trên.

8


Nhật bản, Hàn Quốc, Đài Loan đều dựa vào nhiều quan điểm hợp lý
trong Nho giáo để đẩy mạnh sự phát triển kinh tế, vừa khuyến khích vật
chất, vừa cổ vũ tinh thần, gắn lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, thống
nhất giữa nghĩa và lợi, kết hợp sự tu dưỡng đạo đức với việc tính toán

làm giàu.
Nhật bản cổ vũ mọi người phải cố gắng làm giàu cho Tổ quốc, cho
gia đình và cho bản thân, đồng thời phải luôn luôn tu dưỡng đạo đức,
làm tròn trách nhiệm của con người trên các lĩnh vực tu nhân, tề gia, trị
quốc, bình thiên hạ.
Các nước khác sau Nhật Bản cũng cố gắng khai thác Nho giáo ở mặt
nó khuyến khích làm giàu chính đáng và còn nhắc cả đến câu của Khổng
Tử như: “Nước vô đạo mà anh trở nên giàu có là một điều đáng xấu hổ,
nhưng nước có đạo mà anh lại không làm giàu được cũng là một điều
đáng xấu hổ”.
Trong quan hệ giữa Nho giáo và kinh tế, Việt Nam cũng xuất phát từ
tình hình cụ thể của đất nước mình để khai thác những tư tưởng tích cực
nói trên của Nho giáo, cổ vũ mọi người làm giàu cho mình và cho đất
nước. Không được làm giàu một cách phi pháp và bất nghĩa. Cũng không
được đem những khẩu hiệu đạo đức suông để cản trở việc làm giàu.
2. Nho giáo và đạo đức.
Nho giáo là một học thuyết xây dựng về đạo đức, vấn đề tu thân
được đặt lên hàng đầu: “Từ thiên tử ở địa vị cao nhất cho đến người dân
bình thường đều phải lấy việc tu thân làm gốc”. Nhiều nước châu Á đã
có những kinh nghiệm rất đáng quý trong việc khai thác Nho giáo nhằm
9


bảo đảm ổn định chính trị và xã hội, nhất là trong thời kỳ chuyển biến
mạnh mẽ của đất nước. Công nghiệp hoá và hiện đại hoá đã nhanh chóng
đưa xã hội từ lạc hậu thành tiên tiến trong một hoàn cảnh tương đối ổn
định về chính trị và xã hội.
Đối với Việt Nam, tu dưỡng đạo đức là một vấn đề vô cùng quan
trọng mà Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở nhân dân. Tuy nhiên, ở Việt
Nam sự khai thác Nho giáo cũng có nhiều điểm khác.

Việt Nam đã trải qua cuộc Cách mạng tháng Tám, cuộc cách mạng
từ dưới lên, cuộc cách mạng lật đổ chính quyền thực dân và phong kiến.
Nó trả lại cho nhân dân địa vị làm chủ đất nước, lên án sự áp bức bóc lột,
khẳng định sự bình đẳng nam nữ, bước đầu thực hiện sự công bằng xã
hội. Trong tình hình nói trên, Nho giáo cũng có nhiều điểm không phù
hợp với xã hội mới.
Ngày nay, nước ta cũng đặt ra nhiệm vụ tu thân lên hàng đầu, huy
động mọi lực lượng gia đình, xã hội và cá nhân để đẩy mạnh việc tu
thân, nhưng không phải tu theo kiểu đạo đức cũ mà tu thân với tinh thần
đạo đức mới hôm nay. Chính vì thế mà nội dung tu thân trong xã hội
Việt Nam không hoàn toàn sao chép nội dung tu thân trong kinh điển
Nho giáo.
3. Nho giáo và gia đình
Ở những nước châu Á theo Nho giáo, chúng ta thấy những đóng góp
lớn đối với quá trình phát triển của đất nước. Gia đình đào tạo ra những
người mà xã hội đòi hỏi. Gia đình nuôi dưỡng một cuộc sống tình cảm
giữa các thành viên và giữa gia đình với xã hội. Truyền thống Nho giáo
10


trong gia đình đã có tác dụng tích cực trong việc ổn định và phát triển xã
hội.
Ở Việt Nam, chúng ta cũng khai thác vai trò của gia đình trong sự
nghiệp phát triển của đất nước và cũng có những quan điểm riêng về di
sản Nho giáo trong gia đình Việt Nam.
Cách mạng tháng Tám đã phá tung mọi xiềng xích của gia đình,
trong đó có những di hại của Nho giáo. Cách mạng tháng Tám đã tạo ra
sự bình đẳng giữa mọi thành viên, xoá bỏ những đầu óc gia đình chủ
nghĩa, đặt sự nghiệp Tổ quốc lên trên lợi ích gia đình. Chúng ta không
phủ nhận toàn bộ đạo đức Nho giáo trong gia đình, mà chỉ gạt những

nhân tố tiêu cực của nó mà thôi. Tuy nhiên cũng đã có phần nào coi nhẹ
nhiều nhân tố tích cực của gia đình cũ trong đó có những quan điểm hợp
lý của Nho giáo.
Hiện nay, nhiều sinh hoạt kiểu gia đình cũ đang được khôi phục lại.
Mọi người quan tâm đến việc thờ cúng tổ tiên, chăm lo mồ mả, sửa sang
nhà thờ họ, tìm lại gia phả, nhận lại anh em họ hàng gần xa. Từ đó củng
cố thêm quan hệ gia đình, tạo điều kiện khuyến khích mọi người phát
huy nhân tố tích cực của gia đình trong lao động, học tập và trong sự
nghiệp dân giàu nước mạnh. Mặt khác, cũng cần ngăn chặn tư tưởng gia
đình chủ nghĩa, thái độ họ hàng bao che cho nhau, tạo nên tính chất bè
phái giữa các dòng họ trong một xã, giữa lợi ích xã hội và lợi ích gia
đình trong phạm vi cả nước.
4. Nho giáo và mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội (ngũ luân)

11


Nho giáo đòi hỏi con người trước hết phải có quan hệ đúng đắn
trong các quan hệ xã hội. Trước hết, là 5 mối quan hệ gọi là Ngũ luân:
Vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bạn bè.
Ở Việt Nam, sự nghiệp cách mạng đưa con người vượt ra khỏi phạm
vi của gia đình để cùng lo lắng chung đến công việc của tổ quốc, với
nhiều tình cảm rộng lớn đối với cả nhân loại bị áp bức. Qua hai cuộc
kháng chiến, nhân dân Việt Nam đã đặt lợi ích của tổ quốc lên trên hết,
sẵn sàng hy sinh cả tính mạng và hạnh phúc. Nhưng con người vẫn là
mục tiêu cuối cùng của mọi hoạt động xã hội, của mỗi tập thể cũng như
của mỗi cá nhân. Quan hệ giữa người và người ở Việt Nam không thể
chỉ giới hạn trong Ngũ luân. Chúng ta đang xây dựng mối quan hệ biện
chứng giữa cá nhân và xã hội: “Một người lo cho tất cả, tất cả lo cho một
người”. Câu nói đó là mục tiêu phấn đấu của nước ta trên con đường xây

dựng một xã hội công bằng và văn minh.
5. Nho giáo và những phẩm chất cơ bản của con người (ngũ thường).
Ngũ thường trong Nho giáo bao gồm 5 đức hạnh nhằm phục vụ 5
mối quan hệ là Ngũ luân. Ngũ luân và Ngũ thường gọi tắt là Luân
thường, đó là lý tưởng đạo đức của người theo Nho giáo. Ngày nay, lý
tưởng đạo đức của nhân dân Việt Nam là: Độc lập, tự do và chủ nghĩa xã
hội. Thay cho Ngũ thường của Nho giáo là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín,
Hồ Chí Minh cũng nêu lên “Ngũ thường” ở Việt Nam là: Nhân, Nghĩa,
Trí, Dũng, Liêm. Ngũ thường này phản ánh tình cảm, nghĩa vụ, nhận
thức, khí phách và đạo đức của nhân dân Việt Nam trên con đường bảo
vệ và xây dựng tổ quốc. Nó tiếp tục cổ vũ tinh thần của nhân dân Việt
12


Nam trong sự nghiệp đổi mới hôm nay. Chúng ta cần tiếp tục khai thác
những nhân tố hợp lý của Nho giáo, đồng thời lên án những nét tiêu cực
của nó.
Trong quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, nước ta
cần xác định những quan điểm lý luận đúng đắn trong việc xây dựng một
nền đạo đức mới, trong gia đình và xã hội, cùng những phương hướng tu
dưỡng cá nhân trên cơ sở phát huy và đổi mới truyền thống dân tộc
trong đó có những nhân tố tích cực của Nho giáo.

13


14




×