Tải bản đầy đủ (.doc) (256 trang)

Vận dụng quan điểm huấn luyện cốt thiết thực, chu đáo hơn tham nhiều của hồ chí minh trong dạy học các môn khoa học xã hội và nhân văn ở nhà trường quân đội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.54 MB, 256 trang )

1
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứu của riêng tôi. Các tài liệu số liệu
trích dẫn trong luận án đều trung thực và có
xuất xứ rõ ràng.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Nguyễn Đắc Tuyền


2
MỤC LỤC

Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ, ĐỒ THỊ
MỞ ĐẦU
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM "HUẤN
LUYỆN CỐT THIẾT THỰC, CHU ĐÁO HƠN THAM NHIỀU" CỦA
HỒ CHÍ MINH TRONG DẠY HỌC CÁC MÔN KHOA HỌC XÃ HỘI
VÀ NHÂN VĂN Ở NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI
1.1.
Cơ sở xuất phát và thực chất quan điểm “Huấn luyện cốt thiết thực, chu
đáo hơn tham nhiều” của Hồ Chí Minh


1.2.
Những vấn đề cơ bản về vận dụng quan điểm "Huấn luyện cốt thiết
thực, chu đáo hơn tham nhiều" của Hồ Chí Minh trong dạy học các môn
khoa học xã hội và nhân văn ở nhà trường quân đội
1.3.
Ý nghĩa quan điểm và những nhân tố tác động đến việc vận dụng quan
điểm “Huấn luyện cốt thiết thực, chu đáo hơn tham nhiều” của Hồ Chí
Minh trong dạy học các môn khoa học xã hội và nhân văn ở nhà trường
quân đội hiện nay
Chương 2 KINH NGHIỆM VÀ THỰC TIỄN VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM "HUẤN
LUYỆN CỐT THIẾT THỰC, CHU ĐÁO HƠN THAM NHIỀU" CỦA
HỒ CHÍ MINH TRONG DẠY HỌC CÁC MÔN KHOA HỌC XÃ HỘI
VÀ NHÂN VĂN Ở NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI HIỆN NAY
2.1.
Khảo cứu và bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn việc quán triệt và vận
dụng quan điểm "Huấn luyện cốt thực, chu đáo hơn tham nhiều" của Hồ Chí
Minh ở nhà trường quân đội giai đoạn 1950 – 1975
2.2.
Thực trạng dạy học các môn khoa học xã hội và nhân văn ở nhà trường
quân đội hiện nay theo quan điểm “Huấn luyện cốt thiết thực, chu đáo
hơn tham nhiều” của Hồ Chí Minh
2.3
Nguyên nhân của thực trạng
Chương 3 BIỆN PHÁP HOÀN THIỆN QUÁ TRÌNH DẠY HỌC CÁC MÔN
KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Ở NHÀ TRƯỜNG QUÂN
ĐỘI HIỆN NAY THEO QUAN ĐIỂM “HUẤN LUYỆN CỐT THIẾT
THỰC, CHU ĐÁO HƠN THAM NHIỀU” CỦA HỒ CHÍ MINH
3.1.
Xây dựng, hoàn thiện mục tiêu dạy học các môn khoa học xã hội và nhân văn sát
với yêu cầu về phẩm chất, năng lực người sĩ quan quân đội trong tình hình mới

3.2.
Hoàn thiện chương trình, nội dung dạy học các môn khoa học xã hội và nhân văn
theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, đảm bảo tính hệ thống, cơ bản, thiết thực
3.3.
Đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học theo hướng phát triển
năng lực nghề nghiệp và năng lực tư duy lý luận cho học viên
3.4.
Tối ưu hóa điều kiện sư phạm cơ bản trong quá trình dạy học các môn
khoa học xã hội và nhân văn
Chương 4 THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM VÀ PHÂN TÍCH KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM
4.1.
Những vấn đề chung về quá trình thực nghiệm
4.2.
Tiến trình thực nghiệm
4.3.
Phân tích kết quả thực nghiệm
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

7
14

32
32
48

54


65
65
74
103

106
107
118
126
137
144
144
151
155
170
174
176
187


3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TT

CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ

CHỮ VIẾT TẮT

01


Các trường đại học

CTĐH

02

Cán bộ quản lý

CBQL

03

Cơ sở thực nghiệm

CSTN

04

Đội ngũ giảng viên

ĐNGV

05

Giáo dục và đào tạo

GD&ĐT

06


Hình thức tổ chức dạy học

HTTCDH

07

Khoa học xã hội và nhân văn

KHXH&NV

08

Mục tiêu dạy học

MTDH

09

Nghiên cứu khoa học

NCKH

10

Nhà trường quân đội

NTQĐ

11


Nội dung dạy học

NDDH

12

Phương pháp dạy học

PPDH

13

Quá trình dạy học

QTDH


4
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
TT

Tên bảng

Nội dung

Trang

1
2


2.1.
2.2.

Tổng hợp số lượng đối tượng khảo sát là học viên
Tổng hợp số lượng đối tượng khảo sát là CBQL trực
tiếp học viên, cán bộ phòng đào tạo, giảng viên
Bảng số lượng giảng viên ở các khoa chuyên ngành
thuộc 5 trường đại học trong quân đội được khảo sát
Bảng tổng hợp số lượng các môn học, số tiết, đơn vị
học trình ở một số trường đại học trong quân đội
Bảng tổng hợp kết quả đánh giá của đội ngũ CBQL, giảng
viên, học viên về chương trình, NDDH các môn KHXH&NV
Bảng tổng hợp kết quả đánh giá của đội ngũ CBQL,
giảng viên, học viên về PPDH các môn KHXH&NV ở
CTĐH trong quân đội hiện nay
Bảng tổng hợp kết quả đánh giá của đội ngũ CBQL, giảng
viên và học viên về công tác đảm bảo các yếu tố cần
thiết của QTDH các môn KHXH&NV
Bảng xác định chuẩn đầu ra các môn học KHXH&NV ở
CTĐH trong quân đội hiện nay
Bảng lượng hóa các tiêu chí đánh giá về tính tích cực,
chủ động trong học tập của học viên
Bảng lượng hóa các tiêu chí đánh giá về sự tiến bộ kết quả học tập
Bảng thống kê chất lượng của các đơn vị tham gia thực nghiệm
Bảng tổng hợp kết quả kiểm tra học viên trước khi
thực nghiệm
Bảng thống kê kết quả điểm về tính tích cực, chủ động
trong học tập của học viên sau khi thực nghiệm
Bảng thống kê tần xuất phân phối về tính tích cực, chủ

động trong học tập của học viên
Bảng thống kê tần xuất phân phối tích lũy về tính tích
cực, chủ động trong học tập của học viên
Bảng phân phối các tham số đặc trưng về tính tích cực,
chủ động của học viên qua thực nghiệm
Bảng thống kê kết quả điểm kiểm tra nhận thức học viên
sau khi thực nghiệm
Bảng thống kê tần xuất phân phối về kết quả trong học tập
của học viên
Bảng thống kê tần xuất phân phối tích lũy về kết quả học

76

3
4
5
6
7

8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18

19

2.3.
2.4.
2.5.
2.6.
2.7.

3.1
4.1.
4.2
4.3.
4.4.
4.5.
4.6.
4.7.
4.8.
4.9.
4.10.
4.11.

76
77
88
89
93

98
117
148

149
152
152
155
156
156
159
161
161
161


5
tập của học viên
20
4.12.
Bảng phân phối các tham số đặc trưng về kết quả học
tập của học viên qua thực nghiệm
21
4.13.
Bảng so sánh sự tiến bộ về tính tích cực, chủ động và chất
lượng học tập của học viên trước và sau khi thực nghiệm
TT Tênbiểuđồ
Nội dung
22
2.1
Biểu đồ mức độ đánh giá về MTDH các môn KHXH&NV
ở CTĐH trong quân đội hiện nay
23
2.2

Biểu đồ mức độ đánh giá của đội ngũ CBQL, giảng
viên về chương trình, NDDH các môn KHXH&NV
24
2.3
Biểu đồ mức độ đánh giá của học viên về chương trình,
NDDH các môn KHXH&NV
25
2.4
Biểu đồ so sánh đánh giá của đội ngũ CBQL, giảng viên
với học viên ở mức độ chưa tốt đối với PPDH các môn
KHXH&NV ở CTĐH trong quân đội hiện nay
26
4.1
Biểu đồ so sánh tính tích cực, chủ động trong học tập của
học viên lớp thực nghiệm và đối chứng ở CSTN 1 sau khi
tiến hành thực nghiệm
27
4.2
Biểu đồ so sánh tính tích cực, chủ động trong học tập của
học viên lớp thực nghiệm và đối chứng ở CSTN 2 sau khi
tiến hành thực nghiệm
28
4.3
Biểu đồ so sánh kết quả học tập của học viên lớp thực
nghiệm và đối chứng ở Trường Sĩ quan Chính trị sau
khi tiến hành thực nghiệm
29
4.4
Biểu đồ so sánh kết quả học tập của học viên lớp thực
nghiệm và đối chứng ở Trường Sĩ quan Lục quân 1 sau

khi tiến hành thực nghiệm

164
168

85
89
89

95

158

158

163

163


6
DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ, SƠ ĐỒ
TT
1
2
3
4

TT
5

6

Tên đồ thị
Nội dung
Trang
4.1
Đồ thị biểu diễn tần xuất tích lũy về tính tích cực, chủ động
157

4.2

trong học tập của học viên ở Trường Sĩ quan Chính trị
Đồ thị biểu diễn tần xuất tích lũy về tính tích cực, chủ động

157

4.3

trong học tập của học viên ở Trường Sĩ quan Lục quân 1
Đồ thị biểu diễn tần xuất tích lũy về kết quả học tập

162

4.4

của học viên ở Trường Sĩ quan Chính trị
Đồ thị biểu diễn tần xuất tích lũy về kết quả học tập
của học viên ở Trường Sĩ quan Lục quân 1

162


Tên sơ

Nội dung

đồ
3.1

Sơ đồ những căn cứ để xây dựng, hoàn thiện MTDH các

3.2

môn KHXH&NV ở CTĐH trong quân đội hiện nay
Sơ đồ quy trình xây dựng MTDH

MỞ ĐẦU

Trang

108
109


7
1. Giới thiệu khái quát về luận án
Vận dụng các quan điểm giáo dục của Hồ Chí Minh vào trong
GD&ĐT là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng trước bối cảnh nền giáo dục
nước ta hiện nay. Chính vì vậy, đề tài luận án “Vận dụng quan điểm
“Huấn luyện cốt thiết thực, chu đáo hơn tham nhiều” của Hồ Chí Minh
trong dạy học các môn khoa học xã hội và nhân văn ở nhà trường quân

đội hiện nay” được nghiên cứu sinh ấp ủ và quan tâm nghiên cứu từ lâu.
Trong quá trình đào tạo đại học, đào tạo thạc sĩ ở Học viện Chính trị,
nghiên cứu sinh đã có nhiều bài báo khoa học nghiên cứu xung quanh vấn
đề này. Đặc biệt, luận văn thạc sĩ, nghiên cứu sinh đều xác định hướng
nghiên cứu trên làm đề tài nghiên cứu.
Khung lý thuyết của vấn đề nghiên cứu được dựa trên cơ sở làm rõ giá trị,
tính đúng đắn, khoa học các quan điểm của Hồ Chí Minh về quá trình giáo dục
và quá trình huấn luyện. Theo Người, trong quá trình huấn luyện phải chú trọng
cả “đức” và “tài”, trong đó “đức” là vấn đề cốt lõi, cơ bản hàng đầu. Để đạt
được mục đích đó, Hồ Chí Minh đã đưa ra nhiều quan điểm chỉ đạo khác nhau.
Trong đó, “Huấn luyện cốt thiết thực, chu đáo hơn tham nhiều” được coi là
quan điểm chủ đạo, xuyên suốt trong hệ thống tư tưởng giáo dục của Người.
Đồng thời, quan điểm này đã được Hồ Chí Minh chứng minh có hiệu quả bằng
thực tiễn chỉ đạo các hoạt động huấn luyện, giáo dục của đất nước, nhằm đào tạo
được những lớp cán bộ có đủ “đức” và “tài”, góp phần quan trọng vào thành
công của sự nghiệp cách mạng…
Công trình nghiên cứu được thực hiện nhằm làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn
việc vận dụng quan điểm “Huấn luyện cốt thiết thực, chu đáo hơn tham nhiều”
của Hồ Chí Minh trong dạy học các KHXH&NV ở NTQĐ; trên cơ sở đó, đề
xuất các biện pháp hoàn thiện QTDH các môn KHXH&NV ở NTQĐ quân
đội theo quan điểm trên của Người, từ đó góp phần thiết thực vào nâng cao
chất lượng, hiệu quả các môn KHXH&NV nhằm đáp ứng tốt với yêu cầu mà
thực tiễn đặt ra.
2. Lý do chọn đề tài luận án


8
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao vai trò của giáo dục
đối với sự tồn tại và phát triển của đất nước, Người cho rằng: “Một dân tộc
dốt là một dân tộc yếu” [73, tr.7], nếu “Không có giáo dục, không có cán bộ

thì cũng không nói gì đến kinh tế, văn hóa”[79, tr.345]. Do đó, trong suốt quá
trình hoạt động cách mạng, Người luôn coi trọng đến phát triển nền giáo dục,
xác định giáo dục chính là động lực, yếu tố quyết định tới thành công của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ nước nhà... Để giáo dục ngày càng đáp ứng tốt với
các yêu cầu trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có nhiều quan điểm chỉ đạo khác
nhau, trong đó “Huấn luyện cốt thiết thực, chu đáo hơn tham nhiều” được coi
là một trong những quan điểm chủ đạo, nổi bật, xuyên suốt trong hệ thống các
quan điểm giáo dục của Người.
Quán triệt sâu sắc quan điểm trên, trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta luôn
xác định: GD&ĐT là quốc sách hàng đầu; đổi mới toàn diện GD&ĐT là vấn đề
mang tính quyết định đến thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Chính vì vậy, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của
Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng
bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển
phẩm chất, năng lực người học. Đổi mới chương trình, nội dung giáo dục theo
hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực, phù hợp với lứa tuổi, trình độ và ngành
nghề”[41, tr.115]. Trong đó, “Đối với giáo dục đại học, tập trung đào tạo nhân
lực trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài, phát triển phẩm chất và năng lực tự học,
tự làm giàu tri thức, sáng tạo của người học” [42, tr.4].
Nhận thức rõ điều đó, trong những năm qua, cùng với các nhà trường đại
học trong cả nước, NTQĐ đã và đang tích cực đổi mới toàn diện QTDH nhằm
không ngừng nâng cao chất lượng GD&ĐT; đồng thời, xác định việc đổi mới
mạnh mẽ QTDH các môn KHXH&NV vừa là mục tiêu, nhưng cũng là vấn đề
mang tính đột phá nhằm đào tạo đội ngũ cán bộ quân đội có đầy đủ năng lực; thế
giới quan khoa học, “phẩm chất chính trị vững vàng và đạo đức cách mạng trong
sáng, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân...” [45, tr.12], sẵn
sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.


9

Từ thực tế cho thấy, các NTQĐ “Đã có nhiều cố gắng trong đổi mới
hoàn thiện quy trình, chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục - đào tạo
đối với từng bậc học và trình độ đào tạo… Học viên tốt nghiệp ra trường có
chất lượng tương đối toàn diện về cả phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng,
kiến thức và năng lực đáp ứng nhiệm vụ theo chức trách ban đầu và có khả
năng phát triển…”[45, tr.4]. Tuy nhiên, bên cạnh đó, trong QTDH nói chung,
QTDH các môn KHXH&NV nói riêng vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, bất cập,
cụ thể: Chương trình, nội dung các môn học chưa cân đối giữa lý thuyết và
thực hành, còn thiếu tính thời sự, tính hấp dẫn, tính thực tiễn và chưa theo kịp
được với sự phát triển của thực tiễn khoa học giáo dục, thực tiễn xã hội; PPDH
giản đơn, chậm đổi mới, chưa tạo hứng thú cho người học nên tính hiệu quả còn
thấp; các điều kiện phục vụ cho QTDH vừa thiếu và không có tính hiện đại...
Đúng như Nghị quyết số 86/NQ - ĐUQSTW chỉ rõ: "Quy trình, chương trình
đào tạo tuy có đổi mới nhưng chưa hợp lý và chưa cân đối giữa lý thuyết và thực
hành. Một số nội dung còn lạc hậu, trùng lắp và thiếu liên thông giữa các bậc
học và trình độ đào tạo. Phương pháp dạy học chủ yếu vẫn mang tính truyền thụ
một chiều"[45, tr.6]. Đây chính là một trong những nguyên nhân cơ bản làm cho
chất lượng đào tạo, nhất là bậc đại học còn có mặt hạn chế so với yêu cầu phát
triển của quân đội, đất nước hiện nay.
Để khắc phục được những hạn chế trên, trong những năm gần đây, ở
các nhà trường đại học nói chung, NTQĐ nói riêng đã có nhiều công trình
nghiên cứu, đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau xung quanh đổi mới
QTDH các môn KHXH&NV, điều này đã góp phần quan trọng trong cung
cấp những luận cứ khoa học - thực tiễn cho nâng cao chất lượng dạy học
những môn học này. Tuy nhiên, để QTDH các môn KHXH&NV ngày càng
bám sát và đáp ứng với yêu cầu của thực tiễn hiện nay, một trong những vấn
đề quan trọng, mang tính tất yếu khách quan đòi hỏi NTQĐ cần phải quán
triệt sâu sắc hơn nữa và vận dụng đúng đắn, sáng tạo các quan điểm giáo dục
của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào trong QTDH, trong đó xác định việc vận



10
dụng quan điểm “Huấn luyện cốt thực, chu đáo hơn tham nhiều" của Người
vào trong dạy học các môn KHXH&NV là một hướng đi cơ bản, cần thiết.
Xuất phát từ những vấn đề trên, tác giả lựa chọn vấn đề “Vận dụng quan
điểm "Huấn luyện cốt thiết thực, chu đáo hơn tham nhiều" của Hồ Chí Minh
trong dạy học các môn khoa học xã hội và nhân văn ở nhà trường quân đội
hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn việc vận dụng quan điểm
"Huấn luyện cốt thiết thực, chu đáo hơn tham nhiều" của Hồ Chí Minh trong
dạy học các môn KHXH&NV ở NTQĐ; trên cơ sở đó, đề xuất những biện
pháp hoàn thiện QTDH các môn KHXH&NV theo quan điểm trên của Hồ
Chí Minh, góp phần nâng cao chất lượng dạy học ở NTQĐ đáp ứng với yêu
cầu đổi mới GD&ĐT đã và đang đặt ra hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở xuất phát và thực chất quan điểm “Huấn luyện cốt thiết
thực, chu đáo hơn tham nhiều" của Hồ Chí Minh; những vấn đề lý luận về vận
dụng quan điểm “Huấn luyện cốt thiết thực, chu đáo hơn tham nhiều” trong dạy
học các môn KHXH&NV ở NTQĐ.
- Khảo cứu kinh nghiệm, đánh giá thực trạng việc dạy học các môn
KHXH&NV ở NTQĐ hiện nay theo quan điểm “Huấn luyện cốt thiết thực,
chu đáo hơn tham nhiều” của Hồ Chí Minh.
- Đề xuất các biện pháp hoàn thiện QTDH các môn KHXH&NV ở
NTQĐ hiện nay theo quan điểm “Huấn luyện cốt thiết thực, chu đáo hơn
tham nhiều” của Hồ Chí Minh.
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm để đánh giá, khẳng định tính đúng
đắn, khả thi của các biện pháp mà luận án đề xuất.



11
4. Khách thể, đối tượng, phạm vi nghiên cứu và giả thuyết khoa học
4.1. Khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu là vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
trong QTDH ở các nhà trường
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là biện pháp hoàn thiện QTDH các
môn KHXH&NV ở NTQĐ hiện nay theo quan điểm “Huấn luyện cốt thiết
thực, chu đáo hơn tham nhiều” của Hồ Chí Minh.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
* Phạm vi về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu việc vận dụng
quan điểm "Huấn luyện cốt thiết thực, chu đáo hơn tham nhiều" của Hồ Chí
Minh trong dạy học các môn KHXH&NV với đối tượng đào tạo sĩ quan cấp
phân đội bậc đại học.
* Phạm vi về không gian: Luận án tập trung khảo sát, tọa đàm, trao đổi
ở một số trường đại học tiêu biểu trong quân đội, cụ thể: Sĩ quan Lục quân 1,
Sĩ quan Chính trị, Sĩ quan Tăng Thiết giáp, Học viện Quân y, Học viện Kỹ
thuật quân sự.
* Phạm vi về thời gian: Các số liệu phục vụ luận án được giới hạn chủ
yếu từ năm 2011 đến nay.
4.4. Giả thuyết khoa học
Vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về giáo dục là yếu tố, điều kiện
quan trọng để đổi mới, nâng cao chất lượng GD&ĐT một cách toàn diện ở các
nhà trường nói chung, NTQĐ nói riêng. Nếu đi sâu nghiên cứu làm sáng tỏ thực
chất quan điểm "Huấn luyện cốt thiết thực, chu đáo hơn tham nhiều" của Hồ Chí
Minh; biết vận dụng đúng đắn, sáng tạo vào trong hoàn thiện QTDH các môn
KHXH&NV, nhất là trong xác định mục tiêu; đổi mới nội dung, phương pháp,
HTTCDH; xác định các điều kiện đảm bảo dạy học phù hợp thì QTDH các môn
KHXH&NV ngày càng thiết thực, có chất lượng, hiệu quả hơn, góp phần quan

trọng trong nâng cao chất lượng đào tạo ở NTQĐ hiện nay.


12
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Đề tài luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy
vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin; quán triệt sâu sắc các quan điểm
của Hồ Chí Minh, của Đảng ta về GD&ĐT, nhất là trong giai đoạn hiện nay.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả tiếp cận vấn đề theo quan điểm hệ thống cấu trúc; quan điểm phức hợp: hoạt động - giá trị - nhân cách; quan điểm lịch
sử - lô gíc và quan điểm thực tiễn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận án, tác giả vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu
khác nhau, cụ thể là các phương pháp:
* Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết, bao gồm các phương pháp:
phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát, hệ thống vấn đề nghiên cứu
thông qua các tài liệu lý luận, chuyên khảo, các bài báo khoa học thuộc phạm
vi nghiên cứu của đề tài.
* Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn, bao gồm các phương pháp:
- Tổng kết kinh nghiệm: Nghiên cứu các văn bản, báo cáo tổng kết của
cơ quan đào tạo ở các trường đại học trong quân đội hiện nay.
- Quan sát sư phạm: Tiến hành quan sát quá trình giáo dục, huấn luyện
các môn KHXH&NV ở các trường đại học trong quân đội hiện nay.
- Điều tra và tiến hành tọa đàm, trao đổi với 03 đối tượng là giảng viên
(155 đồng chí), CBQL (95 đồng chí), học viên (800 đồng chí) ở 05 trường đại
học tiêu biểu trong quân đội là: Sĩ quan Chính trị, Sĩ quan Lục quân 1, Sĩ
quan Tăng Thiết giáp, Học viện Kỹ thuật quân sự, Học viện Quân y.
- Phương pháp chuyên gia: Xin ý kiến của các nhà khoa học trong
và ngoài quân đội.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Xây dựng kế hoạch và tổ chức

thực nghiệm tại Trường Sĩ quan Chính trị và Trường Sĩ quan Lục quân 1.
* Phương pháp hỗ trợ: Sử dụng phương pháp toán thống kê được dùng
trong khoa học giáo dục để xử lý các số liệu điều tra.


13
6. Những đóng góp mới của luận án
- Góp phần làm sáng tỏ thực chất và giá trị quan điểm "Huấn luyện cốt
thiết thực, chu đáo hơn tham nhiều" của Hồ Chí Minh.
- Đề xuất những biện pháp hoàn thiện QTDH các môn KHXH&NV ở
NTQĐ với đối tượng đào tạo là sĩ quan cấp phân đội bậc đại học hiện nay theo
quan điểm “Huấn luyện cốt thiết thực, chu đáo hơn tham nhiều” của Hồ Chí
Minh có tính thiết thực, khả thi cao, góp phần nâng cao chất lượng QTDH các
môn KHXH&NV, cũng như chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ quân đội đáp ứng
với yêu cầu thực tiễn trong tình hình mới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
7.1. Ý nghĩa lý luận
Luận án góp phần bổ sung, làm sáng tỏ những quan điểm giáo dục của
Chủ tịch Hồ Chí Minh; chỉ rõ cơ sở xuất phát, thực chất và ý nghĩa của việc vận
dụng quan điểm “Huấn luyện cốt thiết thực, chu đáo hơn tham nhiều” của Hồ
Chí Minh trong dạy học các môn KHXH&NV ở NTQĐ. Đặc biệt, luận án đã
đưa ra những biện pháp hoàn thiện QTDH các môn KHXH&NV ở NTQĐ với
đối tượng đào tạo là sĩ quan cấp phân đội bậc đại học theo quan điểm “Huấn
luyện cốt thiết thực, chu đáo hơn tham nhiều” của Hồ Chí Minh có tính thiết
thực, khả thi cao.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu của luận án, có thể làm tài liệu tham
khảo và vận dụng ngay vào trong thực tiễn nhằm nâng cao chất lượng, hiệu
quả QTDH các môn KHXH&NV ở NTQĐ, nhất là với đối tượng đào tạo sĩ
quan cấp phân đội bậc đại học hiện nay.

8. Kết cấu của luận án
Luận án gồm : Phần mở đầu, tổng quan tình hình nghiên cứu có liên
quan đến đề tài, 4 chương, kết luận, kiến nghị, danh mục các công trình khoa
học của tác giả, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.


14
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI “VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM “HUẤN LUYỆN CỐT THIẾT THỰC,
CHU ĐÁO HƠN THAM NHIỀU” CỦA HỒ CHÍ MINH TRONG DẠY
HỌC CÁC MÔN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Ở
NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI HIỆN NAY”
1. Những công trình nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh
Trong lịch sử nhân loại, Chủ tịch Hồ Chí Minh được coi là một trong
những số ít cá nhân kiệt xuất được cả thế giới tôn vinh, coi đó là một hình
tượng tiêu biểu về sự cao đẹp và những đóng góp lớn lao cho tiến trình phát
triển xã hội loài người. Chính vì thế, đã có rất nhiều tác giả nghiên cứu về
cuộc đời, sự nghiệp, khẳng định những giá trị lớn lao trên mọi phương diện
mà Người đã để lại dân tộc Việt Nam cũng như toàn thể nhân loại. Mặc dù, số
lượng người nghiên cứu về Hồ Chí Minh, những cuốn sách, bài viết về Người
của các tác giả vẫn chưa xác định chính xác và đầy đủ. Tuy vậy, đến đầu thế
kỷ 21, đối với các tác giả nước ngoài “Theo con số thống kê đã có trên 200
tác phẩm và công trình nghiên cứu, hàng trăm tạp chí, hàng ngàn bài báo của
các nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa, triết học, tâm lý học, nhân chủng học,
văn hóa học, các nhà thơ, phóng viên của các tờ báo lớn trên thế giới...viết về
Hồ Chí Minh...” [116, tr.161]. Còn riêng ở nước ta, cho đến hiện nay khó có thể
thống kê được hết những công trình nghiên cứu về tư tưởng của Người. Đặc biệt,
sau khi Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra chỉ thị tổ chức cuộc
vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" ngày
07/01/2007, việc nghiên cứu về tư tưởng của Người được đặt lên tầm cao mới;

theo thời gian, ngày càng xuất hiện nhiều công trình có ý nghĩa lớn lao trên cả
phương diện lý luận cũng như thực tiễn. Trong đó, nổi bật là một số công trình:
Tác giả X. Aphônin và E. Côbêlép trong cuốn sách “Đồng chí Hồ Chí
Minh” [3] đã trình bày khá chi tiết, toàn diện về cuộc đời Nguyễn Ái Quốc - Hồ
Chí Minh, từ đó các tác giả đã đưa ra nhận định: “Hồ Chí Minh là một trong
những nhà cách mạng kiệt xuất; trước hết là người con của dân tộc mình, người
anh hùng dân tộc của đất nước mình. Bởi vì ý nghĩa quốc tế của những con
người như vậy trong bất cứ cuộc cách mạng giải phóng và xã hội nào cũng là
thành tựu vô giá đối với cách mạng thế giới. Trong một mức độ đầy đủ, điều này
rất đúng với Hồ Chí Minh” [3, tr.4].


15
Tiến sĩ Modagat AhMed trong bài viết “Chủ tịch Hồ Chí Minh - anh
hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, nhà văn hoá lớn” [1] đã nhấn mạnh tới
những đóng góp lớn lao của Hồ Chí Minh đối với dân tộc Việt Nam cũng như
nhân loại. Tác giả khẳng định: “Sự nghiệp văn hóa của Hồ Chí Minh đem đến
cho kho tàng văn hóa thế giới những giá trị lớn, thể hiện khát vọng của nhân dân
các nước trong cuộc đấu tranh vì các quyền dân tộc cơ bản, vì cuộc sống ấm no,
hạnh phúc, mỗi dân tộc khẳng định bản sắc văn hóa của mình và phát triển sự
hiểu biết với các dân tộc khác. Người là một nhà văn hóa lớn của dân tộc Việt
Nam và của loài người, với ý nghĩa đầy đủ nhất của danh hiệu Nhà văn hóa. Ở Hồ
Chí Minh, nhà văn hóa lớn gắn liền với nhà giáo dục lớn, nhân văn lớn, phát huy
truyền thống của một dân tộc văn hiến” [1, tr.3].
Sau gần 30 năm dành tâm huyết nghiên cứu về Hồ Chí Minh, tác giả
William J. Duiker đã viết cuốn sách “Ho Chi Minh: a life - Hồ Chí Minh,
một cuộc đời”[32] và được Nhà xuất bản Hyperion, New York xuất bản
năm 2000. Đây là cuốn sách dày 700 trang, với 15 chương và phần kết
được đánh giá là cuốn tiểu sử về Bác Hồ đầy đủ và có giá trị nhất ở Hoa Kỳ
hiện nay. Trong cuốn sách này, tác giả đánh giá: “Chủ tịch Hồ Chí Minh có

chỗ đứng trang trọng trong ngôi đền tưởng niệm các anh hùng cách mạng
đã từng tranh đấu quyết liệt để gióng lên tiếng nói trung thực của những
con người cùng khổ trên toàn thế giới. Người là một sự kết hợp sinh động:
nửa Lênin, nửa Gana...” [32, tr.6].
Năm 2015, tác giả Claude Pomonti đã chủ biên cuốn sách “Hồ Chí
Minh - Nhân vật giành lại độc lập cho Việt Nam” [111]. Đây là cuốn sách tập
thứ 11 trong bộ sách lịch sử gồm 20 tập mang tên "Những người làm thay đổi
thế giới". Với độ dày 104 trang, cuốn sách này là sự tập hợp bởi tất cả các bài
viết tiêu biểu của nhiều tác giả khác nhau trên thế giới nói về những đóng góp to
lớn của Hồ Chí Minh đối với dân tộc Việt Nam cũng như của nhân loại. Nhìn
chung, tất cả các bài viết trong cuốn sách đều nhất quán khẳng định: Mặc dù,
Chủ tịch Hồ Chí Minh không còn sống đến ngày toàn thắng, nhưng tư tưởng của
Người về độc lập dân tộc và thống nhất đất nước vẫn luôn hiện hữu trong lòng
mọi người dân Việt Nam. Trong con mắt của nhân dân Việt Nam và nhân dân
thế giới, Người là hiện thân của tinh thần giải phóng dân tộc và độc lập tự do.


16
Ở Việt Nam, trong những năm cuối của thế kỷ XX, Đại tướng Võ
Nguyên Giáp chủ nhiệm đề tài NCKH cấp Nhà nước “Tư tưởng Hồ Chí Minh
và con đường cách mạng Việt Nam” (mã số KX.02.01) thuộc chương trình
khoa học và công nghệ cấp Nhà nước KX.02. Ngay sau đó, trên cơ sở kết quả
nghiên cứu của đề tài, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã chủ biên cuốn sách “Tư
tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam” [52]. Đây là một
công trình nghiên cứu lớn, công phu, có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, đánh
dấu một bước phát triển mới trong nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh. Với dung
lượng gồm 404 trang, được chia làm 3 phần, 10 chương, cuốn sách đã trình bày
một cách có căn cứ khoa học, toàn diện những vấn đề lý luận cơ bản về tư tưởng
Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam; làm rõ và có những đóng góp
mới về quá trình hình thành, phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất là những

luận điểm sáng tạo lớn trong tư tưởng của Người về các vấn đề cụ thể như:
đường lối và phương pháp, chiến lược và sách lược cách mạng, tổ chức các lực
lượng cách mạng, tư tưởng quân sự tư tưởng nhân văn, đạo đức, văn hoá….
Trong cuốn sách này, Đại tướng đã viết: “…Tư tưởng Hồ Chí Minh là
niềm tin, là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam, là di sản tinh thần vô
cùng quý báu Người để lại cho Đảng ta, dân tộc ta. Thế giới còn đổi thay, tư
tưởng Hồ Chí Minh sống mãi. Nội dung tư tưởng của Nguời khá rộng lớn,
phong phú, thể hiện từ đường lối cách mạng chung đến từng lĩnh vực, từ tư
tưởng đến đạo đức, phong cách, từ lời nói đến việc làm, đến tấm gương con
người Hồ Chí Minh. Chúng ta mới nghiên cứu được một bước quan trọng,
nhưng còn những điểm chưa hiểu, hiểu chưa hết, hiểu chưa thống nhất. Tôi có
diễm phúc được sống, làm việc bên cạnh Bác gần 30 năm, nhưng đến nay
nghiên cứu tư tưởng của Bác vẫn thấy có những điểm chưa hiểu hết tư tưởng
của Người. Chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu sâu hơn nữa, toàn diện hơn nữa
về Hồ Chí Minh, cả về tư tưởng và sự nghiệp của Người đối với cách mạng
nước ta và đối với phong trào cách mạng thế giới…” [52, tr.5]
Năm 2009, PGS, TS Bùi Đình Phong đã viết cuốn sách “Hồ Chí Minh
học và minh triết Hồ Chí Minh” [`109]. Với cách tiếp cận mới theo cấu trúc
logic, chặt chẽ, khoa học, tác giả đã thể hiện rõ trong 2 phần và được trình bày
trong 412 trang. Khi đánh giá khái quát về những tư tưởng của Người đối với
cách mạng Việt Nam, tác giả khẳng định “có một sức sống trường tồn, giá trị


17
bền vững trong kho tàng văn hóa Việt Nam cũng như của nhân loại” [109, tr.7].
Trên cơ sở đó, tác giả cho rằng: “Những tư tưởng của Người được coi là triết lý
làm nền tảng cho triết lý phát triển xã hội Việt Nam hiện đại. Đó là dân tộc bị đô
hộ thì phải giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc. Không giành được độc lập
thì sẽ không có gì hết. Nước độc lập thì dân phải được hạnh phúc tự do, nếu
không thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” [109, tr.396].

Gần đây nhất, trong năm 2015, Nxb Chính trị Quốc gia đã tái bản cuốn
sách “Hồ Chí Minh - vĩ đại một con người” [53] của GS Trần Văn Giàu. Đây
là cuốn sách tập hợp nhiều bài viết khác nhau của tác giả trong thời gian
chuẩn bị kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh và được trình
bày trong dung lượng 180 trang. Với cuốn sách này, tác giả đã thể hiện được
cách tiếp cận vấn đề mới, sâu sắc và trình bày khá rõ nét được cuộc đời, sự
nghiệp, tư tưởng, những cống hiến vô cùng to lớn đối với dân tộc Việt Nam
và nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới. Đặc biệt, trong nội dung cuốn sách, tác
giả đã có sự liên hệ, đối chiếu tình hình biến chuyển mạnh mẽ của cách
mạng vô sản, nhất là ảnh hưởng sâu sắc của Cách mạng Tháng Mười Nga
theo các chiều hướng khác nhau trên phạm vi thế giới ngày nay, trong đó có
Việt Nam; khẳng định thêm tầm vóc, giá trị tư tưởng của Người trong mọi
thời kỳ cách mạng, nhất là trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay. Trên
cơ sở đó, theo tác giả: “Tư tưởng Hồ Chí Minh cho đến hiện nay vẫn còn
nguyên giá trị, là tài sản vô giá mà Người đã để lại cho chúng ta. Nó như
chiếc cẩm nang để tiến hành đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, tiến lên chủ
nghĩa xã hội…Do đó, chúng ta cần phải tiếp tục, thường xuyên nghiên cứu
tư tưởng Hồ Chí Minh; bổ sung những nội dung mới cho phù hợp với thực
tiễn của đất nước…” [53, tr.125].
Đi sâu vào nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh trong lĩnh vực quân sự,
trong cuốn sách “Góp phần tìm hiểu tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh”[136]
của tác giả Nguyễn Huy Toàn bước đầu đi vào chọn lọc, hệ thống và phân
tích những quan điểm nổi bật của Hồ Chí Minh về vấn đề quân sự; trên cơ sở
đó, tác giả đã nghiên cứu, khái quát, đánh giá thực tiễn việc vận dụng tư
tưởng quân sự của Người trong chiến tranh cách mạng Việt Nam. Tác giả
khái quát: “Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo học


18

thuyết quân sự của chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt
Nam, là sự kế thừa một cách sáng tạo truyền thống dựng nước, giữ nước của
cha ông ta và kinh nghiệm của các nước trong lịch sử. Tư tưởng ấy đưa vào
thực tiễn cách mạng Việt Nam đã trở thành nghệ thuật quân sự của Đảng, góp
phần làm nên những chiến công hiển hách của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ
XX. Nghệ thuật quân sự Hồ Chí Minh mang đậm tính văn hóa và có giá trị soi
đường, chỉ lối cho cách mạng Việt Nam không chỉ trong kháng chiến mà còn
cả trong sự nghiệp đổi mới hiện nay” [136, tr.152].
Nghiên cứu chuyên sâu về việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây
dựng quân đội, tác giả Nguyễn Mạnh Hưởng đã viết cuốn sách “Quan điểm Hồ
Chí Minh về Quân đội nhân dân Việt Nam,” [86]. Cuốn sách này được trình bày
trong 296 trang và chia làm 2 phần: Phần 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Quân đội
nhân dân - những nội dung cơ bản. Phần 2: Một số vấn đề xây dựng Quân đội
nhân dân Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
Đây là cuốn sách được tác giả nghiên cứu, trình bày tương đối đầy đủ tư
tưởng Hồ Chí Minh về Quân đội ta trên các khía cạnh như: bản chất, chức năng,
nhiệm vụ của quân đội; xây dựng quân đội về chính trị; về giáo dục, huấn luyện
quân nhân, chăm lo vật chất, tinh thần cho bộ đội… Trên cơ sở đó, tác giả đã đi
vào phân tích những nét đặc sắc trong tư tưởng xây dựng quân đội của Người.
Đặc biệt, tác giả đã đi sâu vào phân tích, chỉ rõ những nhân tố tác động đến sự
nghiệp xây dựng quân đội hiện nay. Từ đó, đưa ra những vấn đề cơ bản của việc
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về quân đội nhân dân vào sự nghiệp xây dựng
quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, củng cố
quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Bên cạnh các công trình nghiên cứu trên, còn có rất nhiều các công
trình khác đi sâu nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh dưới nhiều góc độ, phạm
vi khác nhau. Đó là những cuốn sách được xuất bản, những đề tài khoa học
các cấp, những bài tham luận được đăng trên các kỷ yếu hội thảo khoa học,
những báo được đăng trên các tạp chí chuyên ngành như: “Tư tưởng Hồ Chí
Minh về phát triển con người toàn diện ” [29] của tác giả Nguyễn Hữu Công;

“Văn hóa Hồ Chí Minh” của tập thể tác giả Nguyễn Hữu Đăng, Lê Ngọc Y
và Trần Thị Hồng Nhung [46]; “Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và
giải phóng con người” [29] của tập thể tác giả Lương Minh Cừ và Nguyễn


19
Trung Dũng; “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang ba
thứ quân” [128] của tác giả Nguyễn Văn Thế và Lê Huy Bình; “Tư tưởng
Hồ Chí Minh về tâm lý học quân sự” [137] của tác giả Đỗ Mạnh Tôn… Tất
cả những công trình này, mặc dù nghiên cứu, tiếp cận dưới góc độ khác
nhau, tuy nhiên, nhìn chung đều chỉ rõ được nguồn gốc, sự hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh, nêu bật được tư tưởng của Người trong từng lĩnh vực,
phạm vi nghiên cứu; những giá trên cả phương diện lý luận cũng như thực
tiễn mà Người đã để lại cho dân tộc, thời đại…
2. Những công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
Năm 1990, tác giả Katherine Muller Marin - Đại diện UNESCO tại
Việt Nam trong bài tham luận “Những đóng góp của Chủ tịch Hồ Chí
Minh trong các lĩnh vực hoạt động của UNESCO” [101] nhân kỷ niệm
100 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Trong
lĩnh vực giáo dục, tôi nhận thấy điều thú vị là Người cho rằng xóa bỏ nạn
mù chữ có nghĩa là tạo nên một phong trào giáo dục đại chúng. Người chỉ
ra rằng học đọc và học viết có thể được tiến hành ở bất cứ đâu, dùng than,
mặt đất, hoặc lá chuối làm bút và giấy. Người sáng suốt khi chỉ ra rằng
một người đã biết đọc, người đó cần tiếp tục học tập bởi người biết chữ có
thể quên cách đọc nếu họ không có gì đễ đọc. Người tuyên bố rõ ràng
rằng Chính phủ và Bộ Giáo dục có nhiệm vụ cung cấp sách báo phù hợp
với từng cấp độ của người đọc” [101, tr.4]. Kết thúc bài tham luận, tác giả
cho rằng: “Có được một vị Chủ tịch như Hồ Chí Minh, người được nhiều
người không chỉ ở Việt Nam mà trên toàn thế giới tôn vinh như anh hùng
dân tộc, giống như có được một biểu tượng giúp chúng ta có được một

tầm nhìn, chỉ cho đất nước một bến đỗ an toàn. Và hơn thế, một lãnh tụ
như thế cũng chỉ cho ta cách kiểm soát phong ba bão táp thông qua lòng
tự hào, lao động cần cù và quan hệ hòa hiếu” [101, tr.6].
Nhân kỷ niệm lần thứ 120 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh
(19/5/1890 - 19/5/2010) và 20 năm ngày Tổ chức giáo dục, Khoa học và Văn
hoá Liên Hiệp quốc (UNESCO) công nhận Người là “Anh hùng giải phóng dân
tộc, Nhà văn hoá kiệt xuất của Việt Nam”, tại Pháp, tác giả Hans D’Orville Phó Tổng giám đốc UNESCO đã có bài viết đặc biệt: “Tư tưởng Hồ Chí
Minh vẫn giữ nguyên giá trị thời đại” [107]. Xét dưới góc độ về tư tưởng


20
giáo dục của Hồ Chí Minh, tác giả đã nhắc lại lời hiệu triệu xoá nạn mù chữ
của Hồ Chí Minh “Để bảo vệ nền độc lập quốc gia, để nâng cao vị thế và làm
giàu đất nước, mỗi người trong chúng ta cần phải biết đích xác quyền lợi và
trách nhiệm của mình là gì, cần phải có kiến thức mới để có thể góp phần xây
dựng đất nước. Trước hết, mỗi người cần phải biết đọc, biết viết…” [107, tr.2].
Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra nhận định: “Hồ Chí Minh đã đưa ra thông điệp này
cách đây 60 năm, nhưng đến nay nó vẫn còn giữ nguyên vẹn giá trị. Đặc biệt, sự
chú trọng của Người đối với tình trạng bất bình đẳng về điều kiện sống và nhu
cầu học tập ở mọi lứa tuổi. Những gì mà UNESCO đã và đang thực hiện cũng
phù hợp với hành động và ước vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời,
nhất là mục tiêu vì hòa bình… Thay mặt cho UNESCO, tôi không thể không
nhắc lại rằng mục tiêu hòa bình này, vị lãnh tụ giải phóng Việt Nam đã từng là
thầy giáo và sự nghiệp giải phóng dân tộc đối với Người chính là cuộc đấu tranh
chống lại 3 kẻ thù: giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm” [107, tr.3].
Ở nước ta, trong những năm cuối của thế kỷ XX, giáo sư Nguyễn Lân
đã có công trình nghiên cứu “Hồ Chủ tịch - nhà giáo dục vĩ đại” [91]. Đây là
cuốn sách đã đi vào tập hợp những chỉ thị, những lá thư, bài phát biểu của
Chủ tịch Hồ Chí Minh với các vấn đề như: đấu tranh chống chính sách ngu
dân của thực dân Pháp; tác dụng và nhiệm vụ của giáo dục; việc diệt giặc dốt;

giáo dục thiếu nhi; giáo dục thanh niên; giáo dục cán bộ…
Nhân kỷ niệm 35 năm ngày Bác Hồ gửi bức thư cuối cùng cho Ngành
Giáo dục Việt Nam (15/10/1968 - 15/10/2003), Bảo tàng Hồ Chí Minh và Đại
học Sư phạm Hà Nội phối hợp tổ chức Hội thảo và biện soạn thành kỷ yếu cùng
tên“Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp giáo dục” [11]. Trong hội thảo này đã
có nhiều bài viết, bài nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục của các nhà
khoa học như: GS, viện sỹ Nguyễn Cảnh Toàn, Vũ Đình Hòe, GS.TS Phạm
Minh Hạc, GS Đinh Xuân Lâm, PGS Lê Mậu Hãn, GS Phan Ngọc Liên… Nhìn
chung, các công trình đã đi sâu nghiên cứu từng khía cạnh tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục trên các vấn đề như: vai trò, nội dung, phương pháp giáo dục...
Trên cơ sở đó, các tác giả đều nhất quán khẳng định giá trị tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục đối với thực tiễn phát triển nền giáo dục nước nhà; đồng thời
cho rằng chúng ta cần phải quán triệt sâu sắc các tư tưởng của Người; phải biết
vận dụng sáng tạo vào trong từng bối cảnh lịch sử cụ thể…


21
Đi sâu vào nghiên cứu có tính chất bao trùm cơ bản toàn bộ những tư
tưởng của Hồ Chí Minh về giáo dục, năm 2008, tác giả Nghiêm Đình Vỳ đã
xuất bản cuốn sách “Hồ Chí Minh về giáo dục toàn thư” [156]. Đây được coi
là công trình nghiên cứu công phu, với nội dung rộng lớn hơn nhiều so với
các tài liệu khác đã được công bố. Nội dung cuốn sách này được trình bày
trong 864 trang, bao gồm phần mở đầu, dẫn luận và phần kết. Trong cuốn
sách, tác giả đã dẫn luận ngắn gọn, súc tích cơ bản toàn diện, gần như tất cả
những câu nói, bài viết của Người liên quan đến vấn đề giáo dục nói chung
như: giáo dục tư tưởng, phẩm chất, đạo đức cho các tầng lớp nhân dân, cán
bộ, đảng viên. Bên cạnh đó, tác giả cũng trích dẫn những câu nói, bài viết của
Người liên quan đến vấn đề công tác giáo dục trong nhà trường.
Tiếp cận dưới góc độ chú trọng vào việc tìm hiểu tư tưởng của Hồ Chí
Minh về giáo dục thông qua những bài nói, bài viết, đoạn trích trong các tác

phẩm của Người bàn trực tiếp đến các vấn đề xung quanh đến giáo dục, tác
giả Phan Ngọc Liên đã viết cuốn sách “Hồ Chí Minh về giáo dục” [95] và
trình bày trong dung lượng 671 trang, được chia làm 2 phần. Trong cuốn
sách, tác giả tiếp tục đi sâu vào phân tích nguồn gốc, quá trình hình thành và
phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục; đánh giá những giá trị của
những tư tưởng đó và ý nghĩa trong giai đoạn hiện nay. Đặc biệt, khi trích dẫn
những bài viết của Người liên quan đến giáo dục, tác giả đã tập hợp, phân
chia theo từng lĩnh vực nhất định như: Đánh giá vai trò của giáo dục đối với
sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước; chỉ ra những
quan điểm của Người xung quanh đến các vấn đề trong xây dựng nền giáo
dục mới - nền giáo dục xã hội chủ nghĩa, nhất là trong xây dựng nội dung,
phương pháp giáo dục. Bên cạnh đó, tác giả cũng trích dẫn một số quan điểm
của các lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các nhà khoa học, CBQL giáo dục về
vận dụng tư tưởng giáo dục của Hồ Chí Minh trong đổi mới những vấn đề cơ
bản, trọng tâm của nền giáo dục nước ta hiện nay.
Luận bàn tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục dưới góc độ phân tích, đánh
giá những quan điểm của Người trên khía cạnh một số nhân tố của QTDH,
trong nghiên cứu “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo” [12] của tác
giả Nguyễn Khánh Bật đã đi vào phân tích một số quan điểm như: vai trò
của GD&ĐT trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; nội dung,


22
phương châm, phương pháp GD&ĐT. Trên cơ sở đó, tác giả tiếp tục khẳng
định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo là khuôn mẫu, là nền
tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho ngành giáo dục nước nhà. Trong giai đoạn
hiện nay, tư tưởng ấy vẫn còn mang tính hiện đại và thời đại sâu sắc; là
cẩm nang để chúng ta quán triệt và thực hiện đúng với quan điểm “Giáo
dục là quốc sách hàng đầu, giáo dục và đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng,
của Nhà nước và toàn dân, mọi người đi học, học thường xuyên, học suốt

đời” mà Đảng ta đã xác định” [12, tr.13].
Cuốn sách “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục” [146] của tác giả Trần
Đình Tuấn có cách tiếp cận tương đối toàn diện, hệ thống, khoa học tư tưởng Hồ
Chí Minh về giáo dục. Trong cuốn sách, tác giả đã chia làm 9 chương khác nhau,
trình bày theo mạch logic từ nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển tư
tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục; khái quát tư tưởng của Người về giáo dục trên
tất cả các khía cạnh như: vai trò của giáo dục, về giáo dục con người phát triển
toàn diện, về tự học, tự giáo dục… cho đến vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
giáo dục trong tình hình mới. Theo đó, tác giả đã khái quát: “Nội dung cơ bản
của tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục là xây dựng một nền giáo dục dân tộc,
dân chủ, nhân dân, giáo dục cho tất cả mọi người” [146, tr.5].
Tiếp cận dưới góc độ khác, tác giả Vũ Thị Kim Yến, Nguyễn Văn Toàn
có công trình nghiên cứu “Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề học tập” [159].
Đây là cuốn sách được trình bày trong dung lượng 172 trang, tiếp cận vấn đề
nghiên cứu trên các khía cạnh như: Khái quát các quan điểm của Hồ Chí
Minh về GD&ĐT; trình bày một số bài viết có giá trị của các nhà khoa học
nghiên cứu về tư tưởng giáo dục của Hồ Chí Minh. Ngoài ra, cuốn sách cũng
đi vào trình bày các câu chuyện kể về Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp
GD&ĐT; biên niên những hoạt động của Người với ngành GD&ĐT trong
giai đoạn 1954-1969. Dựa trên những vấn đề đó, các tác giả đã khái quát và
đưa ra những nhận định: “Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập, đặt nền
móng và chỉ đạo việc xây dựng nền giáo dục mới của Việt Nam. Những tư
tưởng của Người về giáo dục chính là cơ sở lý luận vững chắc cho việc xác
định chiến lược đào tạo con người; xác định các chủ trương, đường lối chỉ
đạo phát triển nền giáo dục của Đảng ta qua các thời kỳ cách mạng; đồng
thời, đây cũng là những bài học, những kinh nghiệm thực tiễn giáo dục hết


23
sức sinh động, thiết thực và hiệu quả đối với người làm công tác giáo dục nói

riêng, ngành giáo dục nói chung hiện nay” [159, tr.7].
Ngoài những công trình nghiên cứu trên, trong những năm gần đây, ở nước
ta còn có rất nhiều công trình khác đi sâu nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về
giáo dục dưới nhiều góc độ, phạm vi khác nhau như: cuốn sách “Hồ Chí Minh về
giáo dục” [134] của tập thể tác giả Lê Văn Tích, Nguyễn Thị Kim Dung và Trần
Thị Nhuần; “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục - đào tạo thanh niên” [37] của
tác giả Đoàn Nam Đàn; “Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề giáo dục
thế hệ trẻ” của tác giả Phạm Đình Trung [65, tr.155 - 159]; “Quan điểm của Chủ
tịch Hồ Chí Minh về dân chủ trong giáo dục” [98] của tác giả Võ Văn Lộc…
Trong hơn 70 năm qua, sự nghiệp GD&ĐT trong quân đội giữ vai trò
quan trọng, quyết định đến việc đào tạo đội ngũ cán bộ quân đội có đầy đủ
phẩm chất, năng lực, trực tiếp góp phần xây dựng Quân đội ta ngày càng phát
triển, trưởng thành, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và
nhân dân giao phó. Xuất phát từ vấn đề trên, trong những năm gần đây, việc
nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề GD&ĐT trong lĩnh vực quân sự
luôn được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu trên nhiều khía cạnh khác nhau.
Ngay trong những năm cuối của thế kỷ 20, tác giả Nguyễn Ngọc Phú đã
chủ biên cuốn sách “Hồ Chí Minh với sự nghiệp giáo dục quân sự” [110]. Đây
là công trình tập hợp gồm 27 bài viết của các nhà khoa học, nhà giáo dục trong
quân đội bàn trực tiếp hoặc gián tiếp các tư tưởng của Người xung quanh các
vấn đề về huấn luyện, giáo dục quân nhân.
Khi đi vào luận bàn tư tưởng Hồ Chí Minh trong đào tạo đội ngũ cán bộ
quân đội, tác giả Hà Huy Thông có công trình “Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh
về đào tạo cán bộ quân đội” [130]. Ở công trình này, tác giả đã đi vào khái quát,
phân tích những tư tưởng nổi bật của người đối với việc đào tạo cán bộ quân đội
trên các vấn đề như: Việc xác định mục đích học tập của người cán bộ; chương
trình đào tạo; phương pháp dạy và học…Tác giả nhấn mạnh: “Những di huấn
của Người vừa có tính khoa học sâu sắc, lại vừa có tính thời sự, thiệt thực; là một
di sản vô giá đối với toàn Đảng và Quân đội ta” [130, tr.6].
Trong một nghiên cứu khác, tác giả Đặng Đức Thắng chủ biên cuốn giáo

trình “Lịch sử giáo dục quân sự Việt Nam” [126] đã dành một phần lớn nội
dung khái quát các tư tưởng của Hồ Chí Minh về huấn luyện, giáo dục quân


24
nhân, cụ thể trên các vấn đề như: vị trí, vai trò của huấn luyện, giáo dục đối với
sự hình thành, phát triển nhân cách quân nhân; mục tiêu, nội dung, hình thức,
phương pháp… trong tiến hành huấn luyện, giáo dục quân nhân. Khi đánh giá
những tư tưởng này, tác giả cho rằng: “Tư tưởng giáo dục quân sự của Hồ Chí
Minh là di sản vô giá, đòi hỏi chúng ta phải hết sức giữ gìn, trân trọng, nghiên
cứu và vận dụng trong thực tiễn cách mạng, thực tiễn xây dựng Quân đội ta
hiện nay. Đối với hoạt động giáo dục và đào tạo của Quân đội ta hiện nay thì
việc nghiên cứu, học tập và vận dụng đúng đắn, sáng tạo những quan điểm, tư
tưởng của Người về giáo dục quân sự càng là vấn đề có giá trị hiện thực to lớn;
góp phần thiết thực thực hiện thắng lợi chiến lược “trồng người” của toàn
Đảng, toàn quân, toàn dân ta trong giai đoạn mới” [126, tr.161].
Trong bài viết của tác giả Nguyễn Trọng Thắng “Chủ tịch Hồ Chí Minh
với sự nghiệp đào tạo cán bộ quân đội nhân dân Việt Nam” [18, tr.156 - 172],
bên cạnh việc khái quát các tư tưởng của Người về đào tạo người cán bộ
quân đội; khẳng định giá trị những tư tưởng đó trong sự nghiệp GD&ĐT
quân đội hiện nay, tác giả nhấn mạnh: các nhà trường trong quân đội cần
phải thấm nhuần và thực hiện đúng tư tưởng “Cán bộ là cái gốc của mọi
công việc”,“Cán bộ là tiền vốn của các đoàn thể, có vốn mới làm ra lãi”. Từ
đó, tập trung đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quân đội có đủ đức, tài, có
cơ cấu đồng bộ, có lớp kế tiếp vững chắc ở từng cấp, góp phần xây dựng
Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước
hiện đại, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa…
Bên cạnh các công trình nghiên cứu trên, trong lĩnh vực quân sự còn có
các công trình nghiên cứu tiêu biểu khác như: : “Chủ tịch Hồ Chí Minh với
công tác đào tạo cán bộ quân sự - sĩ quan quân đội” của tác giả Nguyễn Xuân

Năng [18]; “Tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu giáo dục quân sự” của tác giả
Đinh Văn Học [110, tr.48 - tr.52]; “Tìm hiểu tư tưởng sư phạm quân sự của Hồ
Chí Minh” của tác giả Mai Văn Hóa [110, tr.96 - tr.101]…
3. Những công trình nghiên cứu tiêu biểu về vận dụng các quan
điểm giáo dục của Hồ Chí Minh trong giáo dục, dạy học
Trước hết, đi sâu vào nghiên cứu chỉ ra về những vấn đề có tính chất
phương pháp luận trong quán triệt và vận dụng tư tưởng giáo dục của Hồ Chí
Minh đối với sự phát triển nền giáo dục nước nhà, tác giả Đặng Quốc Bảo có


25
công trình “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục” [9]. Đây là cuốn sách mà tác
giả đã đề cập khá cụ thể, chi tiết đến các vấn đề như: khái quát tư tưởng cơ bản
của Hồ Chí Minh về giáo dục; đưa ra những quan điểm mới nhằm xây dựng
nền giáo dục làm phát triển những năng lực sẵn có của học sinh Việt Nam; gắn
liền giữa kế hoạch phát triển giáo dục với kế hoạch phát triển kinh tế; chỉ ra
những yêu cầu cơ bản trong giáo dục lòng nhân ái, phẩm cách con người Việt
Nam. Ngoài ra, tác giả cũng đã bàn về con đường, biện pháp và tấm gương lớn
về tự học của Chủ tịch Hồ Chí Minh… Theo tác giả, “Tư tưởng giáo dục của
Hồ Chí Minh đã cổ vũ cho mỗi cán bộ giáo dục ở nước ta biết tự hào về những
thành tựu của nền giáo dục mới; đồng thời, ý thức được những điều còn bất
cập, những thiếu sót, những khó khăn để luôn luôn có “chí” và có “Minh” xây
dựng được một nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam mà cách tổ chức, cách phát
hiện, cách dạy, cách học hiện thực hóa được ham muốn tột bậc của Người là:
Nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có
cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành” [9, tr.4].
Tập trung nghiên cứu chuyên sâu việc vận dụng các quan điểm của Bác
trong đào tạo và sử dụng đội ngũ cán bộ của Đảng, Nhà nước ta hiện nay, tác giả
Đức Vượng đã viết cuốn sách “Hồ Chí Minh đào tạo cán bộ và trọng dụng nhân
tài” [155]. Đây là công trình nghiên cứu trình bày tương đối đầy đủ các quan

điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề cán bộ; thực tiễn quá trình Bác đào tạo, rèn
luyện và sử dụng cán bộ, sử dụng nhân tài qua các giai đoạn cách mạng... Với
dung lượng gồm 9 chương, 554 trang, cuốn sách đã dành phần lớn nội dung để
khẳng định giá trị lớn lao cả về lý luận, thực tiễn trong hoạt động GD&ĐT mà
Người đã để lại cho Đảng, Nhà nước ta, nhất là Ngành Giáo dục có những biện
pháp vận dụng hiệu quả vào thực tiễn đào tạo cán bộ, nguồn nhân lực trong giai
đoạn mới. Theo đó, tác giả đã chỉ ra yêu cầu có tính chất khái quát: “Đảng, Nhà
nước ta cần phải xác định được vấn đề đào tạo, huấn luyện cán bộ sao cho đúng,
cho tốt. Muốn đào tạo tốt phải biết phát hiện người có thể làm được cán bộ, từ đó
đưa họ đi đào tạo tại các trường, lớp chính quy, hoặc có thể bổ túc thường xuyên
cho cán bộ, đây được coi là cái rễ sâu nhất trong đào tạo ra những người công
dân tốt, cán bộ tốt cho nước nhà” [155, tr.538].
Nhận thức rõ sự cần thiết của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
người thầy giáo trong xây dựng đội ngũ giáo viên hiện nay, tác giả Ngô Văn


×