Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

TƯ TƯỞNG hồ CHÍ MINH về dân vận và vận DỤNG tư TƯỞNG đó TRONG CÔNG tác vận ĐỘNG PHỤ nữ ở BÌNH DƯƠNG HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (395.6 KB, 87 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRƯƠNG THANH NGA

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN VẬN
VÀ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG ĐÓ TRONG CÔNG TÁC
VẬN ĐỘNG PHỤ NỮ Ở BÌNH DƯƠNG HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2016


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRƯƠNG THANH NGA

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN VẬN
VÀ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG ĐÓ TRONG CÔNG TÁC
VẬN ĐỘNG PHỤ NỮ Ở BÌNH DƯƠNG HIỆN NAY
Chuyên ngành: TRIẾT HỌC
Mã số: 60 22 03 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học:
TS. CAO THU HẰNG



HÀ NỘI - 2016


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
của cá nhân tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học của
TS.Cao Thu Hằng. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm
về kết quả nghiên cứu của công trình khoa học này.
Người làm luận văn

Trương Thanh Nga


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU................................................................................1
Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MÌNH VỀ DÂN VẬN............11
1.1. Khái niệm dân vận và những tiền đề cơ bản cho sự hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận..........................................11
1.1.1. Khái niệm dân vận...................................................................11
1.1.2. Bối cảnh kinh tế - xã hội và những tiền đề cơ bản cho sự hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận...........................................12
1.2. Nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận........36
1.2.1. Nhân dân là chủ, nhân dân làm chủ........................................36
1.2.2. Phương thức làm dân vận.......................................................38
1.2.1. Người phụ trách dân vận.........................................................41
1.3. Ý nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận ở nước ta
hiện nay.............................................................................................42

Chương 2: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN
VẬN TRONG VẬN ĐỘNG PHỤ NỮ Ở TỈNH BÌNH DƯƠNG
HIỆN NAY: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP.............................46
2.1. Một số đặc điểm về tỉnh Bình Dương và thực trạng công tác vận
động phụ nữ theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở Bình Dương hiện nay...46
2.2.1. Một số đặc điểm về tỉnh Bình Dương và khái quát tình hình
phụ nữ ở Bình Dương hiện nay.........................................................46
2.2.2. Thực trạng công tác vận động phụ nữ theo tư tưởng Hồ Chí
Minh ở Bình Dương những năm qua.................................................52
2.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả công tác vận
động phụ nữ theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở tỉnh Bình Dương hiện nay
76


2.2.1. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và các cấp chính
quyền địa phương trong công tác vận động phụ nữ ở Bình Dương
hiện nay.............................................................................................76
2.2.2. Đổi mới hoạt động của hệ thống Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh
Bình Dương ......................................................................................78
2.2.3. Nâng cao trình độ dân trí, khoa học, công nghệ cho phụ nữ
tỉnh Bình Dương................................................................................82
2.2.4. Phát huy hơn nữa vai trò của đội ngũ cán bộ làm công tác dân
vận ...................................................................................................85
KẾT LUẬN CHUNG .....................................................................87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................90


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hồ Chí Minh là người lãnh đạo nhân dân ta tiến hành thắng lợi cuộc cách

mạng giải phóng dân tộc. Để có sự thắng lợi đó là bởi Hồ Chí Minh luôn phát
huy sức mạnh đại đoàn kết của cả dân tộc. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách
mạng của mình, Hồ Chí Minh luôn coi: cách mạng là sự nghiệp của nhân dân;
lực lượng cách mạng là toàn dân tộc. Người khẳng định: “Lực lượng của dân rất
to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận
khéo thì việc gì cũng thành công”[27, tr.234]. Chính vì lẽ đó mà Người luôn coi
trọng công tác tập hợp, tổ chức lực lượng cách mạng thông qua công tác dân
vận. Theo Người: “Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân
không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành
những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể giao cho”[27,
tr.232]. Muốn làm tốt công tác dân vận, đòi hỏi mỗi người cán bộ lãnh đạo, quản
lý vừa phải dân chủ và tập trung trong công tác, vừa phải sâu sát, gần gũi với
nhân dân. Trong đó, cán bộ làm công tác dân vận phải vừa là người đồng hành
dẫn dắt nhân dân, “phải hướng về cơ sở, gắn với thực tiễn cơ sở để nắm được và
kiểm nghiệm sự sát, đúng của các chủ trương, chính sách, đồng thời phát hiện
những tố mới, những điển hình tiên tiến để ủng hộ, bồi dưỡng và nhân rộng”[23,
tr.611].
Thấm nhuần tư tưởng của Hồ Chí Minh về công tác dân vận, từ khi thành
lập đến nay, qua các thời kỳ cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn đặt
công tác dân vận là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu; tuyên
truyền, giáo dục, tập hợp quần chúng thành một lực lượng to lớn, đông đảo, đoàn
kết xung quanh Đảng, tham gia các phong trào cách mạng vì độc lập dân tộc,
thống nhất Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân. Chính công


tác dân vận của Đảng đã góp phần tuyên truyền, vận động, tổ chức những phong
trào cách mạng rộng lớn, động viên sức người, sức của, huy động được sức
mạnh của toàn dân tộc, làm nên những chiến thắng vẻ vang, những chiến công
hiển hách, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, thu non sông về một mối,
làm tròn nghĩa vụ quốc tế cao cả, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Phát huy tư tưởng, quan điểm dân vận của Hồ Chí Minh và của Đảng
Cộng sản Việt Nam, trong những năm qua, công tác dân vận của tỉnh Bình
Dương nói chung và công tác vận động phụ nữ của Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh
Bình Dương nói riêng luôn thực hiện tốt chức năng của mình – đoàn kết, vận
động, tổ chức, hướng dẫn phụ nữ thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước – từ đó đạt được những kết quả to lớn trong việc tập hợp
các tầng lớp phụ nữ trong tỉnh tham gia tích cực các phòng trào của Hội với
những mô hình tập hợp đa dạng, góp phần xây dựng tỉnh Bình Dương giàu đẹp,
văn minh, nghĩa tình. Tuy nhiên, vấn đề đang được đặt ra một cách cấp thiết
trong công tác vận động phụ nữ ở tỉnh Bình Dương hiện nay là làm thế nào để
phát huy những thành quả đạt được để tiếp tục gặt hái nhiều thành quả to lớn hơn,
đáp ứng yêu cầu ngày càng cao vừa của công tác vận động phụ nữ vừa của công
cuộc phát triển kinh tế, ổn định chính trị - xã hội của tỉnh nhà.
Do đó, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận; phân tích và
đánh giá thực trạng công tác vận động phụ nữ ở tỉnh Bình Dương trong những
năm qua, những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân; xác định một số giải pháp
để vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận vào việc vận động phụ
nữ trong hệ thống Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh Bình Dương hiện nay, có ý nghĩa
thiết thực, vừa cơ bản, vừa cấp bách, cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây, đặc biệt từ khi Bộ chính trị đã ra chỉ thị số 06 CT/TW về việc tổ chức cuộc vận động: “Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh”, vấn đề dân vận trong tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và
công tác vận động phụ nữ nói riêng đã thu hút sự quan tâm của nhiều tổ chức,
chuyên gia, học giả, các nhà hoạch định chính sách, các nhà khoa học quan tâm


nghiên cứu, với nhiều góc độ khác nhau. Trong đó, từ góc độ triết học có thể
khái quát theo các chủ đề:
Thứ nhất, những vấn đề lý luận chung về dân vận và tư tưởng dân vận
của Hồ Chí Minh, có các công trình nghiên cứu đã được công bố, tiêu biểu trong

số đó có các công trình sau:
Cuốn sách “Phóng tay phát động quần chúng”, Nxb. Sự thật, Hà Nội,
phát hành, năm 1953. Cuốn sách là tập hợp các bài viết của Hồ Chí Minh,
Trường Trinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Quốc Việt, Trường
Chinh,... về công tác phát động quần chúng trong kháng chiến, công tác dân vận,
thực hiện chính sách ruộng đất năm 1953, củng cố mở rộng mặt trận dân tộc
thống nhất,…;
Công trình “Sơ khảo lịch sử công tác dân vận của Đảng Cộng sản Việt
Nam” của Hoàng Xuân Đồng, Trần Lương Ngọc, Võ Đình Liên, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1999. Công trình đã phân tích, trình bày khá rõ ràng về quá
trình lãnh đạo công tác dân vận của Đảng Cộng sản Việt Nam qua các thời kỳ từ
1930 – 1996 và những bài học lịch sử về công tác dân vận của Đảng ta;
“Một số vấn đề về công tác dân vận trong giai đoạn hiện nay” của
Nguyễn Thế Trung, Nxb. Chính trị quốc gia phát hành. Trong cuốn sách là tập
hợp nhiều bài viết của tác giả liên quan đến công tác dân vận, trong đó, tác giả
đã khái quát về tư tưởng dân vận của Hồ Chí Minh và thực tiễn công tác dân vận
của Đảng ta trong bối cảnh hiện nay;
“Công tác dân vận” của Phạm Tất Dong, Đỗ Quang Tuấn, Đinh Văn Tư,
Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2004. Đây là giáo trình trung cấp lý luận chính
trị. Trong giáo trình này, các tác giả đã trình bày, phân tích khá sâu về quan điểm
của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng về công tác dân
vận; về công tác dân vận của chính quyền cơ sở, tổ chức cơ sở Đảng, mặt trận tổ
quốc; về công tác vận động công nhân, nông dân, trí thức, phụ nữ, thanh niên,
vùng dân tộc miền núi, tín đồ, chức sắc tôn giáo;
Cuốn sách “Tiếp dân và dân vận” của Nguyễn Ngọc Hiến (chủ biên), Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, phát hành năm 2005. Cuốn sách đã giới thiệu những


kiến thức pháp lý áp dụng cho các tình huống tiếp dân và dân vận cụ thể ở cấp
xã, bồi dưỡng kiến thức và kĩ năng cơ bản về tiếp dân và dân vận ở cấp xã,

phường, thị trấn;
“Những nội dung quan điểm và giải pháp cơ bản về tăng cường, đổi mới
công tác dân vận” của Nguyễn Duy Việt, Nxb. Văn hóa – Thông tin, phát hành
năm 2013. Trong cuốn sách, tác giả đã phân tích, trình bày khá rõ và sâu những
kết quả, hạn chế công tác dân vận sau 23 năm triển khai thực hiện Nghị quyết
08B-NQ/HNTW (ngày 27-3-1990 của Ban chấp hành Trung ương khóa VI); đặc
điểm của tình hình mới, sự cần thiết phải tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới. Đề cập phương pháp tiếp cận
mới về công tác dân vận. Ngoài ra, tác giả còn phân tich làm rõ cơ sở lý luận,
thực tiễn của việc kế thừa các quan điểm của Nghị quyết 08B và phát triển, bổ
sung hoàn thiện cho phù hợp vơi gia đoạn mới. Trong cuốn sách, tác giả cũng đề
xuất những giải pháp cơ bản về tăng cường công tác dân vận, trong đó tác giả đã
tập trung phân tích khá kỹ giải pháp hàng đầu là: Quyết tâm, kiên trì làm tốt
công tác xây dựng Đảng, tập trung giải quyết tốt những bức xúc của nhân dân
vừa là giải pháp cấp bách vừa là giải pháp mang tính lâu dài của công tác dân
vận;
“Lý luận và kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác dân
vận” do Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật phát hành, 2014. Cuốn sách là tập hợp
các bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, lãnh đạo các cấp,… đưa
ra những phân tích sâu sắc, toàn diện, làm nỗi bật cơ sở lý luận, thực tiễn và kinh
nghiệm của công tác dân vận trong thời gian qua ở nước ta;
“Cẩm nang công tác dân vận” của Ban dân vận Trung ương, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2014. Trong cuốn sách là tập hợp những văn bản của Đảng,
Nhà nước, Chính phủ về công tác dân vận. Trong đó, trọng tâm của cuốn sách là
một số vấn đề lý luận liên quan đến công tác dân vận và công tác dân vận của
các cấp chính quyền;
“Tập bài giảng về công tác dân vận” của Ban dân vận Trung ương do
Nguyễn Thế Trung (chủ biên), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2014. Cuốn



sách đã tập trung phân tích khá sâu cơ sở lý luận của công tác dân vận ở Việt
Nam hiện nay, trong đó một trong những cơ sở lý luận quan trọng mà cuốn sách
phân tích khá rõ là tư tưởng dân vận của Hồ Chí Minh; cuốn sách cũng đã phân
tích những vấn đề thực tiễn liên quan đến công tác dân vận và những nhiệm vụ
của công tác dân vận hiện nay;
Công trình luận án tiến sĩ “Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận và ý nghĩa
của nó đối với sự nghiệp bảo vệ an ninh tổ quốc” của Phạm Duy Hoàng, Học viện
Khoa học xã hội, 2015. Trong công trình này, tác giả đã phân tích, làm rõ cơ sở
hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận, với nội dung chủ yếu là vấn đề lợi
ích của quần chúng; tác giả cũng làm rõ ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh về dân
vận đối với sự nghiệp bảo vệ an ninh tổ quốc trong việc xác định lực lượng, biện
pháp, nội dung và phương pháp phát động toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc.
Thứ hai, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận trong công tác tập
hợp quần chúng của các tổ chức chính trị - xã hội ở Việt Nam và tỉnh Bình
Dương, có các công trình nghiên cứu đã được công bố, tiêu biểu như:
Công trình “Tình hình và nhiệm vụ công tác vận động phụ nữ công nhân
viên chức” của Tổng Công đoàn Việt Nam, Nxb. Lao động, Hà Nội, 1962. Công
trình đã phân tích, nhận định tình hình của phong trào phụ nữ, viên chức về sự
biến chuyển và những khó khăn còn tồn tại. Kiểm điểm việc tổ chức chỉ đạo
công tác vận động quần chúng trên các mặt công tác công đoàn. Nhiệm vụ công
tác vận động phụ nữ công nhân viên chức của công đoàn, đặc biệt là công tác
vận động phụ nữ công nhân viên chức từ khi miền Bắc được giải phóng năm
1954.
“Tài liệu tuyên truyền kỷ niệm 75 năm ngày truyền thống công tác dân
vận của Đảng Công sản Việt Nam” của Ban Dân vận tỉnh ủy Bình Dương, 2005.
Cuốn tài liệu đã trình bày, phân tích khái quát tư tưởng dân vận của Hồ Chí
Minh qua các bài báo của Người; vai trò, nhiệm vụ của công tác dân vận trong
thời kỳ mới;
“Tài liệu Công tác vận động quần chúng” của Ban dân vận tỉnh ủy Bình
Dương, 2011. Trong cuốn tài liệu đã trình bày khái quát về dân vận, các văn bản



Trung ương về công tác tác vận động quần chúng, đặc biệt tring cuốn tài liệu đã
tập hợp được nhiều văn bản liên quan đến chương trình hành động của Ban dân
vận tỉnh ủy Bình Dương về công tác dân vận và vận động quần chúng;
Công trình “Công tác vận động đồng bào Khmer của các Đảng bộ xã,
phường, thị trấn ở Tây Nam Bộ trong giai đoạn hiện nay”, luận án tiến sĩ của
Đẳng Trí Thủ, Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, 2012.
Trong công trình này, tác giả đã phân tích khái quát công tác vận động đồng bào
Khmer của các đảng bộ xã, phường, thị trấn ở Tây Nam Bộ trong giai đoạn hiện
nay. Luận án cũng đánh giá được thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm
nâng cao công tác vận động đồng bào Khmer của các Đảng bộ xã, phường, thị
trấn ở các tỉnh Tây Nam Bộ;
Cuốn sách “Về công tác vận động quần chúng hiện nay” của Nguyễn Văn
Linh, Nxb. Tp.Hồ Chí Minh, 2012. Cuốn sách bao gồm những bài phát biểu và
trả lời phỏng vấn của đồng chí Nguyễn Văn Linh về công tác dân vận, mặt trận,
công đoàn, Hội liên hiệp nông dân tập thể, thanh niên, liên hiệp các hội khoa học
kỹ thuật, phụ nữ, tôn giáo và người Hoa;
“Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác
dân vận trong giai đoạn hiện nay (theo Hội nghị lần thứ 7 Khóa XI), Nxb. Lao
động – Xã hội phát hành năm 2013. Cuốn sách đã khái quát tư tưởng Hồ Chí
Minh về dân vận, đặc biệt cuốn sách đã phân tích khá sâu về sự vận dụng tư
tưởng đó của Đảng Cộng sản Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp
và chống Mỹ cũng như trong công cuộc đổi mới đất nước. Từ đó, cuốn sách đã
rút ra những bài học kinh nghiệm đúc kết từ công tác dân vận của Đảng và của
hệ thống chính trị;
Cuốn sách “Học tập và làm theo phong cách “dân vận khéo” Hồ Chí
Minh” của Nguyễn Bá Quang, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2013. Trong
cuốn sách này, tác giả đã tìm hiểu, phân tích lý luận và thực tiễn tư tưởng Hồ
Chí Minh về dân vận. Một số phương pháp và đề xuất nhằm hiện thực hoá tư

tưởng "Dân vận khéo" của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay. Học
tập và làm theo phong cách " Dân vận khéo" của Hồ Chí Minh. Cuốn sách còn


trích dẫn những câu nói và viết về dân vận và công tác dân vận của Chủ tịch Hồ
Chí Minh;
Công trình “Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận của Đảng
trong thời kỳ mới” của Hà Thị Khiết (chủ biên), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2015. Trong công trình này, các tác giả đã trình bày khó rõ cơ sở lý luận,
thực tiễn về dân vận, về nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận của
Đảng trong thời kỳ mới và trong những năm thực hiện đường lối đổi mới. Đồng
thời đưa ra những quan điểm, phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng,
hiệu quả công tác dân vận của Đảng trong thời kỳ mới.
Như vậy, cho đến nay, khối lượng các công trình nghiên cứu về dân vận
nói chung, cũng như tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận nói riêng và sự vận dụng
tư tưởng đó trong công tác tập hợp, vận động quần chúng ở Việt Nam là khá
phong phú, khá đồ sộ, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn đối với công tác dân
vận ở Việt Nam. Tuy nhiên, chưa có công trình khoa học độc lập nào nghiên cứu
một cách trực tiếp, có hệ thống về sự vận dụng tư tưởng dân vận của Hồ Chí
Minh vào công tác vận động phụ nữ ở tỉnh Bình Dương. Do đó, tôi chọn vấn đề:
“Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận và vận dụng tư tưởng đó trong công tác
vận động phụ nữ ở Bình Dương hiện nay” làm đề tài nghiên cứu và viết công
trình luận văn thạc sỹ của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn là làm rõ một số vấn đề lý luận tư tưởng dân vận
của Hồ Chí Minh, trên cơ sở đó chỉ ra những giá trị và việc vận dụng tư tưởng
đó trong vận động phụ nữ ở tỉnh Bình Dương ta hiện nay; làm rõ thực trạng công
tác vận động phụ nữ theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở Bình Dương những năm qua
và xác định một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác vận động phụ nữ
theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở tỉnh Bình Dương hiện nay.

Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết một số nhiệm vụ
sau:
Thứ nhất, phân tích, làm rõ khái niệm về dân vận, những tiền đề cơ bản
cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận;


Thứ hai, trình bày những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về
công tác dân vận và ý nghĩa của tư tưởng đó ở nước ta hiện nay;
Thứ ba, phân tích và làm rõ thực trạng công tác vận động phụ nữ theo tư
tưởng Hồ Chí Minh ở Bình Dương những năm qua; xác định định một số giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác vận động phụ nữ theo tư tưởng Hồ Chí
Minh ở tỉnh Bình Dương hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn được xác định là tư tưởng Hồ Chí
Minh về dân vận và việc vận dụng tư tưởng đó trong công tác vận động phụ nữ ở
tỉnh Bình Dương.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu là những
vấn đề lý luận chung về tư tưởng dân vận của Hồ Chí Minh và việc vận dụng tư
tưởng đó trong công tác vận động phụ nữ ở tỉnh Bình Dương từ khi Tỉnh ủy
Bình Dương ban hành Chương trình hành động số 56-CTHĐ/TU ngày
31/12/2007 về việc thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27/4/2007 của Bộ
Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu luận văn
Cở sở lý luận của luận văn là các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối chính sách của Đảng và
Nhà nước ta về công tác dân vận.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương
pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng
thời luận văn có sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:

Phương pháp lôgích, lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, diễn dịch,
quy nạp, thống kê,… để nghiên cứu và trình bày luận văn.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Về ý nghĩa lý luận, luận văn làm sáng tỏ tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác
dân vận và ý nghĩa của tư tưởng đó ở nước ta hiện nay.


Về ý nghĩa thực tiễn, từ những kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn,
luận văn cung cấp thêm nguồn tư liệu cho các chương trình vận động phụ nữ ở
tỉnh Bình Dương trong bối cảnh hiện nay. Ngoài ra, những kết quả nghiên cứu
của đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy về
vấn đề công tác dân vận.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2
chương và 5 tiết. Trong đó:
Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận;
Chương 2: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận trong vận động
phụ nữ ở Bình Dương hiện nay: thực trạng và giải pháp.

Chương 1


TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN VẬN
1.1. Khái niệm dân vận và những tiền đề cơ bản cho sự hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh về dân vận
1.1.1. Khái niệm dân vận
Ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta luôn coi dân vận là một công tác chiến
lược, đòi hỏi phải tiến hành thường xuyên trong mọi hoàn cảnh, trên mọi địa
bàn, đối với mọi tầng lớp nhân dân các dân tộc. Vậy dân vận được hiểu như thế
nào?

Hiểu khái quát nhất có thể nói dân vận là tuyên truyền, giáo dục, vận
động, thuyết phục mọi người dân thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước. Dân vận còn có nghĩa là làm gương trước
dân. Còn hiểu theo nghĩa thông thường thì, dân vận là công tác dân vận của các
tổ chức chính quyền, đoàn thể trong hệ thống chính trị nói chung và của cả hệ
thống xã hội nói riêng. Còn trong cuốn Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ,
thì dân vận là “sự vận động trong dân chúng để lôi cuốn họ theo một đường lối
nào”[49, tr.211]. Cũng với cách hiểu đó, trong cuốn Đại từ điển tiếng Việt của
Nguyễn Như Ý (chủ biên), đã định nghĩa: “Dân vận là tuyên truyền vận động
nhân dân: Công tác dân vận – các tổ chức dân vận” [52, tr.190].
Còn theo Hồ Chí Minh: “Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi
một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân,
để thực hành những công việc Chính phủ và Đoàn thể giao cho.”[27, tr.232].
Như vậy, trong các quan niệm trên, có thể nhận thấy, một trong những
nhiệm vụ quan trọng của dân vận đó là tập hợp và huy động cho được sức mạnh
của toàn dân (mọi người, mọi nhà, mọi đối tượng) vào các phong trào cách
mạng. Đó là công việc của nhà nước, của các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ
thống chinh trị.
Từ những định nghĩa nêu trên, dưới góc độ tiếp cận của luận văn này,
chúng tôi có thể quan niệm: Dân vận được xem là công việc (hay còn gọi là
nhiệm vụ chính trị) của Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội nhằm vận


động, tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục nhân dân thực hiện các chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
1.1.2. Bối cảnh kinh tế - xã hội và những tiền đề cơ bản cho sự hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tồn tại xã hội và ý thức xã
hội có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó tồn tại xã hội quyết định ý
thức xã hội. Còn ý thức xã hội có tính độc lập tương đối, nó tác động trở lại tồn

tại xã hội. Do vậy, mọi tính chất, nội dung, khuynh hướng của ý thức xã hội suy
cho đến cùng đều chịu sự quyết định, chi phối của tồn tại xã hội. Trong đó, tư
tưởng là một bộ phận của ý thức xã hội, phản ánh và chịu sự quy định của tồn tại
xã hội. Do đó, sự hình thành tư tưởng dân vận của Hồ Chí Minh cũng không
nằm ngoài quy luật ấy. Cho nên một mặt, tư tưởng dân vận của Hồ Chí Minh
chịu sự chi phối bởi đặc điểm, yêu cầu lịch sử xã hội cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ
XX. Mặt khác, nó là sự kế thừa những tiền đề thực tiễn, lý luận trước đó, cùng
với sự phản ánh, chắt lọc những tinh hoa giá trị văn hóa của dân tộc.
1.1.2.1. Bối cảnh kinh tế - xã hội thế giới và Việt Nam với sự hình thành
tư tưởng dân vận của Hồ Chí Minh
Thứ nhất, về bối cảnh kinh tế - xã hội thế giới
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX là một giai đoạn lịch sử có nhiều sự kiện
và chuyển biến quan trọng trên thế giới, tác động mạnh mẽ đến quá trình hình
thành các nhà tư tưởng Việt Nam ở giai đoạn này. Nổi bật nhất chính là bối cảnh
kinh tế - xã hội phương Tây, từ nửa sau thế kỷ XIX chủ nghĩa tư bản chuyển
nhanh từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền
(giai đoạn chủ nghĩa đế quốc) và đã xập quyền thống trị của chúng trên phạm vi
toàn thế giới. Trong đó, những biểu hiện nổi bật nhất về kinh tế - xã hội thế giới
giai đoạn này là:
Về kinh tế, giai cấp tư sản là giai cấp đầu tiên trong lịch sử đã áp dụng
khoa học – kỹ thuật vào trong quá trình sản xuất, thúc đẩy nền sản xuất phát
triển nhanh chóng và làm thay đổi diện mạo của đời sống xã hội. Nền kinh tế
hàng hóa phát triển mạnh, đã đặt ra yêu cầu bức thiết về thị trường. Đó là


nguyên nhân sâu xa dẫn đến các nước thực dân châu Âu đi xâm lược các quốc
gia phong kiến phương Đông, Mỹ La Tinh, châu Phi nhằm biến các quốc gia này
thành thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, mua bán nguyên vật liệu, khai thác
sức lao động và xuất khẩu tư bản của các nước đế quốc. Điều này đã tạo nên sự
thay đổi sâu sắc các mặt của đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã

hội… của các dân tộc thuộc địa, tiêu biểu như đời sống của nhân dân ở các nước
thuộc địa hết sức khó khăn và cực khổ. Họ phải làm việc quần quật cả ngày lẫn
đêm mà cũng không đủ ăn, còn bị áp bức bóc lột nặng nề. Chính điều đó đã tác
động rất lớn đến nhà tư tưởng ở các nước thuộc địa lúc bấy giờ: đó là làm thế
nào để giải phóng nhân dân lao động ra khỏi áp bức bóc lột, bất công, đưa nhân
dân lao động đến một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Về chính trị, giải cấp tư sản thực hiện cuộc cách mạng xã hội lật đổ chế độ
phong kiến, thiết lập nên chế độ tư bản chủ nghĩa và xây dựng nên dân chủ tư
sản, tạo nên bước chuyển từ chế độ quân chủ sang dân chủ, từ quân quyền sang
pháp quyền. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đồng thời kéo theo sự phát triển
nhanh chóng của giai cấp công nhân. Đội ngũ giai cấp công nhân ở các nước này
tăng lên đến hàng triệu người, trở thành lực lượng xã hội rất quan trọng, đại diện
cho lực lượng sản xuất mới, tiên tiến. Sự thống trị, bóc lột của giai cấp tư sản đã
làm nổi dậy những cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản
để tự bảo vệ quyền lợi của mình. Đặc biệt, đầu thế kỷ XX, phong trào dân chủ tư
sản ở Đông Âu bắt đầu từ Cách mạng Nga 1905 đã tạo thành một cao trào thức
tỉnh của các dân tộc phương Đông. Hàng trăm triệu người hướng về một cuộc
sống mới với ánh sáng tự do. Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thành
công, các dân tộc thuộc địa của đế quốc Nga được giải phóng và được hưởng
quyền dân tộc tự quyết, kể cả quyền phân lập, hình thành nên các quốc gia độc
lập và quyền liên hợp, dẫn đến sự sự ra đời của Liên bang Cộng hòa xã hội của
nghĩa Xô Viết (1922). Chính biến động đó đã tác động rất lớn đến các nhà tư
tưởng và nhân dân lao động đang bị áp bức bóc lột ở phương Đông là cần phải
đoàn kết, hiệp lực để tạo nên một sức mạnh to lớn, cùng nhau đứng lên chống kẻ
thù chung đó là chủ nghĩa đế quốc, thực dân.


Về cơ cấu xã hội, ở phương Tây thời kỳ này cơ cấu xã hội có sự biến đổi
mạnh mẽ. Bên cạnh giai cấp tư sản, địa chủ quý tộc, nông dân thì sự ra đời và
phát triển mạnh mẽ của giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng, đã dẫn

đến hàng loạt những cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại mọi thủ đoạn
áp bức của giai cấp tư sản. Như ở Anh, nhiều cuộc bãi công lớn đã nổ ra, đặc
biệt là cuộc đấu tranh của công khuân vác Luân Đôn đã buộc chủ phải tăng
lương (1889); ở Mỹ, đầu năm 1886 nhiều cuộc bãi công, đình công, xuống
đường biểu tình của công nhân đòi ngày làm 8 giờ… Phong trào cách mạng vô
sản nhanh chống lan rộng khắc thế giới và ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong trào
yêu nước, các nhà tư tưởng và quần chúng nhân dân lao động ở các nước thuộc
địa.
Thứ hai, về bối cảnh kinh tế - xã hội Việt Nam
Vào năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta lần đầu tiên, Đến
năm 1884 vua quan nhà Nguyễn đã ký Hiệp ước công nhận quyền bảo hộ cho
thực dân Pháp trên toàn cõi Việt Nam. Điều này đã dẫn đến những thay đổi to
lớn về mặt kinh tế, chính trị, xã hội nước nước ta lúc bấy giờ.
Về kinh tế, do sự du nhập của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, đã
làm cho nền kinh tế Việt Nam có sự biến đổi: quan hệ kinh tế nông thôn bị phá
vỡ, hình thành nên những đô thị mới, những trung tâm kinh tế và tụ điểm dân cư
mới. Nhưng thực dân Pháp không đem một cách hoàn chỉnh phương thức tư bản
chủ nghĩa vào nước ta, mà vẫn duy trì quan hệ kinh tế phong kiến. Chúng kết
hợp hai phương thức bóc lột tư bản và phong kiến trở thành chính sách kinh tế
thực dân để thu lợi nhuận siêu ngạch. Thực hiện chính sách trên, thực dân Pháp
thi hành thủ đoạn độc quyền kinh tế và thủ đoạn bóc lột phi kinh tế, đó là chế độ
thuế khóa vô cùng nặng nề và phi lý làm cho đời sống của nhân dân ta hết sức
khổ cực, lầm than và lâm vào cảnh bần cùng. Điều này góp phần thúc đẩy tinh
thần đoàn kết chống giặc ngoại xâm của quần chúng nhân dân để giải phóng cho
mình ra khỏi áp bức bóc lột đó; cũng như góp phần hình thành nên tư tưởng dân
vận của Hồ Chí Minh.


Về chính trị, cơ cấu tổ chức, bộ máy cai trị của thực dân, phong kiến ở
nước ta đã có những thay đổi lớn so với trước đó. Thực dân Pháp thi hành chính

sách chính trị chuyên chế. Chúng dùng lối cai trị trực tiếp bằng bộ máy công
chức chuyên nghiệp người Pháp, thâu tóm mọi quyền hành. Đứng đầu bộ máy
cai trị ở Đông Dương là một tên toàn quyền người Pháp. Mỗi kỳ sẽ có một
Thống đốc, hoặc Thống sứ, Khâm sứ. Mỗi tỉnh có một Công sứ. Triều đình nhà
Nguyễn chỉ đứng vai trò bù nhìn. Với bộ máy nhà nước thuộc địa như vậy,
chúng thẳng tay đàn áp, không cho nhân dân ta một chút tự do, dân chủ nào.
Cùng với chính sách đàn áp dã man phong trào cách mạng, chúng còn dùng
chính sách chia để trị. Chúng chia nước ta thành ba khúc với ba tên gọi khác
nhau, ba hình thức cai trị khác nhau nhằm chia rẽ và gây thù hằn dân tộc. Chúng
còn bóp nghẹt quyền tự do, dân chủ của nhân dân ta. Chính những bối cảnh
chính trị và chính sách cai trị đó đã làm cho nhân dân ta câm thù thực dân sâu
sắc, luôn có tư tưởng và phong trào phản kháng chống lại thực dân phong kiến;
đã tác động rất lớn đến việc hình thành tư tưởng dân vận của Hồ Chí Minh.
Về cơ cấu xã hội, các cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ảnh
hưởng mạnh mẽ đến tình hình xã hội Việt Nam. Sự phân hóa giai cấp diễn ra
ngày càng sâu sắc hơn. Nổi bật đó là: giai cấp địa chủ phong kiến bị phân hóa
thành ba bộ phận khá rõ rệt là tiểu, trung và đại địa chủ. Có một số thì bị phá
sản. Vốn sinh ra và lớn lên trong một quốc gia dân tộc có truyền thống yêu nước
chống giặc ngoại xâm, lại bị chính sách thống trị tàn bạo về chính trị, chèn ép về
kinh tế, nên một bộ phận không nhỏ tiểu và trung địa chủ không chịu nỗi nhục
mất nước, có mâu thuẫn với thực dân đế quốc về quyền lợi dân tộc nên đã tham
gia đấu tranh chống thực dân đế quốc và bọn phản động tay sai; giai cấp nông
dân chiến khoảng 90% dân số. Họ bị thực dân đế quốc, phong kiến địa chủ và tư
sản áp bức, bóc lột rất nặng nề. Ruộng đất của nông dân đã bị bọn tư bản thực
dân chiếm đoạt. Chính sách độc quyền kinh tế, mua rẻ bán đắt, tô cao, thuế nặng,
chế độ cho vay nặng lãi… của thực dân đế quốc và phong kiến đã đẩy nông dân
Việt Nam vào con đường bần cùng hóa không lối thoát. Chính thực tế đó tạo ra
động lực rất lớn ở giai cấp nông dân Việt Nam là phải đoàn kết, thống nhất lại để



cùng nhau đấu tranh giải phóng mình ra khỏi ách áp bức bóc lột, sự bần cùng đó.
Và, đồng thời cũng tác động rất lớn đến sự hình thành tư tưởng dân vận của Hồ
Chí Minh là cần phải tổ chức, giác ngộ cách mạng cho họ để cùng toàn dân thực
hiện cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, tự do, dân chủ và hạnh phúc cho nhân
dân; giai cấp công nhân là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa
của thực dân Pháp và nằm trong những “mạch máu” kinh tế quan trọng do chúng
nắm giữ. Đời sống của họ hết sức khó khăn và khổ cực, phải làm việc quần quật
không có ngày nghỉ mà chỉ được trả lương với vài đồng xu rẻ mạt, không đủ ăn.
Chính sự bóc lột nặng nề đó đã dẫn đến những phong trào đấu tranh tự phát của
giai cấp công nhân Việt Nam nhằm mục đích thay đổi cuộc sống hiện tại; giai
cấp tư sản và tầng lớp tiểu tư sản cũng được hình thành trong quá trình khai thác
thuộc địa của thực dân Pháp. Tuy nhiên, đó là lực lượng yếu ớt, lại ra đời trong
điều kiện bị tư bản Pháp chèn ép, thế lực kinh tế nhỏ bé, thế lực chính trị yếu
đuối. Chính vì vậy, bản thân họ cũng luôn sẵn sàng vùng dậy đấu tranh chống lại
“chính người anh em của họ” bất cứ lúc nào, để cùng dân tộc sống trong một xã
hội tự do, hạnh phúc.
Chính sự thống trị, áp bức bót lột ngày nặng nề đó của thực dân Pháp, đã
“châm lửa” cho nhân dân ta, các sỹ phu, các thanh niên, các tầng lớp yêu nước
thực hiện những cuộc nổi dậy chống thực dân đế quốc xâm lược, tiêu biểu như:
Cuộc nổi dậy “búa rừu”, Phong trào do Phan Châu Trinh đứng đầu năm 1908,
Phong trào Đông Kinh Nghĩa thục, Quả bom Hà Nội, Cuộc khởi nghĩa Thái
Nguyên, Cuộc mưu loạn Phan Xích Long, Cuộc tấn công khám lớn Sài Gòn,…
Tuy nhiên, do những hạn chế về lịch sử và giai cấp nên tất cả các phòng trào đó
chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn đã bị dập tắt. Nhưng, các phong trào đó đã
góp phần cổ vũ mạnh mẽ tinh thần yêu nước của nhân dân ta. Trước tình hình
đó, thì yêu cầu đặt ra là cần phải tìm ra một hướng đi mới, phù hợp với điều kiện
ở nước ta và xu thế của thời đại. Điều này đã thu hút được đông đảo những nhà
yêu nước, đặc biệt là lớp thành niên trí thức trẻ tham gia tìm con đường cứu
nước mới để giải phóng dân tộc, trong đó có Nguyễn Tất Thành – Hồ Chí Minh.



1.1.2.2. Những tiền đề cơ bản cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về
dân vận
Có thể nói tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận được hình thành và phát triển
dựa trên những tiền đề, cơ sở nhất định. Trong đó, có thể khái quát, phân chia
các tiền đề, cơ sở đó thành tiền đề thực tiễn, lý luận và truyền thống quê hương,
gia đình góp phần hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận.
Thứ nhất, tiền đề thực tiễn hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về dân
vận
Thực tiễn các phong trào đấu tranh chống Pháp ở Việt Nam những năm
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, thế giới chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử
trọng đại, phản ánh xu hướng biến động đầy kịch tính của xã hội loài người. Sự
chuyển biến của chủ nghĩa tư bản từ tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ
nghĩa đã làm xuất hiện những mâu thuẫn lớn của thời đại; Sự thắng lợi của Cách
mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và sự ra đời của Quốc tế Cộng sản (3 - 1919)
làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin được truyền bá rộng rãi và ảnh hưởng sâu rộng
đến phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân trong các nước tư bản và phong
trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở những nước thuộc địa trên thế giới.
Việc chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh
sang giai đoạn độc quyền, đẩy lùi chế độ phong kiến vào quá khứ đã dẫn đến sự
xuất hiện chủ nghĩa thực dân tiến hành các cuộc xâm lược thuộc địa, xác lập
quyền thống trị trên phạm vi toàn thế giới.
Việt Nam, một quốc gia phong kiến nhỏ bé và lạc hậu ở phương Đông bị
thực dân Pháp nổ súng xâm lược vào ngày 31 tháng 8 năm 1858. Triều đình nhà
Nguyễn nhu nhược trước sự xâm lược của kẻ thù, lần lượt ký các hiệp ước
ÁcMăng (1883) và Patơnốt (1884) đầu hàng, thừa nhận nền bảo hộ của thực dân
Pháp trên toàn cõi Việt Nam.
Tuy chịu cảnh nô lệ trước sự nhu nhược của triều đình nhà Nguyễn, song
không vì thế mà tính cách dân tộc, truyền thống độc lập dân tộc của các thế hệ

thời đó bị mai một, trái lại tinh thần chấn hưng dân khí rất sôi nổi và rộng khắp.


Các cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta xảy ra từ Bắc chí Nam.
Sự tác động của những sự kiện lớn trên thế giới đã làm cho các phong trào
vận động cứu nước ở Việt Nam diễn ra theo xu hướng lấy tư tưởng mới của văn
minh phương Tây để thay thế cho hệ tư tưởng phong kiến, từ đó chi phối đến
phong trào đấu tranh chống Pháp của nhân dân ta.
Đầu thế kỷ XX, cùng với nhu cầu phải tìm ra một hệ tư tưởng mới cao hơn
hệ tư tưởng phong kiến nhằm soi sáng con đường giải phóng của dân tộc ta, thì
nhu cầu tập hợp quần chúng nhân dân, đặc biệt là các sĩ phu yêu nước nhằm thực
hiện một cuộc cách mạng cũng trở nên cấp thiết. Thế hệ sĩ phu yêu nước, mà
tiêu biểu là Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh trong khi tiếp thu ảnh hưởng của
một số học thuyết tư sản phương Tây cũng đưa ra một số tư tưởng mới về vận
động quần chúng nhân dân, nhất là các thanh niên yêu nước tham gia cách mạng.
Nhưng do chưa vượt ra khỏi phạm vi của các “cuộc cách mạng không đến
nơi” nên các sĩ phu yêu nước ở đầu thế kỷ này chưa hiểu rõ tiến trình phát triển
của xã hội nước ta có những điều kiện lịch sử riêng biệt, xã hội Việt Nam chưa
trải qua thời kỳ phát triển tư bản chủ nghĩa, trong khi chế độ phong kiến đã hết
vai trò lịch sử, còn chủ nghĩa tư bản ở phương Tây đã chuyển từ tiến bộ sang
phản động, không còn là giai cấp đứng ở vị trí trung tâm của thời đại nữa, mà
trong thời đại mới giai cấp giữ vị trí trung tâm quyết định phương hướng, nội
dung phát triển của thời đại là giai cấp vô sản. Do vậy, mọi nỗ lực để tìm kiếm
phương thức nhằm làm thay đổi chế độ xã hội, và thực hiện cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc trên lập trường dân chủ tư sản của các sĩ phu yêu nước lúc bấy giờ
không thể đem lại thành quả như mong muốn. Lịch sử dân tộc không chỉ ghi
nhận một hiện thực đau xót trước sự chấm dứt khẩu hiệu “phò vua cứu nước”
của phong trào Cần Vương (1885-1896) do Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết phát
động với các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu: Khởi nghĩa Bãi Sậy (1883-1892) của
Nguyễn Thiện Thuật, khởi nghĩa Ba Đình (1886-1887) của Phạm Bành và Đinh

Công Tráng, khởi nghĩa Hùng Lĩnh (1887-1892) của Tống Duy Tân và Cao
Điển, khởi nghĩa Hương Khê (1885-1895) của Phan Đình Phùng, phong trào
nông dân Yên Thế của Hoàng Hoa Thám, và sự dập tắt của phong trào Đông Du


(1906-1908) của Phan Bội Châu; phong trào Duy Tân (1906-1908), phong trào
Đông Kinh nghĩa thục (1907) của Phan Châu Trinh, mà còn ghi nhận sự thất bại
liên tiếp của các phong trào yêu nước sau đó.
Bối cảnh quốc tế và trong nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đặt ra
trước hết cho các nhà tư tưởng Việt Nam phải được trang bị phương pháp luận
khoa học cho việc tìm hiểu, nghiên cứu và giải quyết đúng đắn mọi vấn đề của
cách mạng giải phóng dân tộc, trong đó có những vấn đề tập hợp lực lượng cách
mạng. Nhiệm vụ lịch sử đó được người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành
tiếp nhận và thực hiện một cách triệt để, toàn diện, sâu sắc. Và, đồng thời đó
cũng là yêu cầu của thực tiễn của các phong trào cách mạng Việt Nam đương
thời tác động cho sự ra đời tư tưởng dân vận của Người.
Thực tiễn hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh sau khi trở về Tổ quốc
Qua hành trình vạn dặm đi tìm đường cứu nước khắp năm châu, bốn biển
từ năm 1911, Hồ Chí Minh đã tiếp thu, vận dụng sáng tạo tư tưởng của chủ
nghĩa Mác - Lênin về lực lượng cách mạng trên cơ sở đánh giá, nhìn nhận những
nguyên nhân thất bại của các phong trào yêu nước ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX,
đầu thế kỷ XX ở Việt Nam.
Năm 1941, khi trở về Tổ quốc, trực tiếp tham gia và chỉ đạo cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp, rồi đến cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Bằng
việc kịp thời tổng kết kinh nghiệm hai cuộc kháng chiến thần thánh của nhân
dân ta, Hồ Chí Minh hiểu sâu sắc bản chất hiếu chiến, ngoan cố, tàn bạo của
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, đồng thời Người cũng hiểu sâu sắc thế phải lấy
yếu thắng mạnh, chống lại kẻ thù có vũ khí tối tân và hiện đại, cho nên việc phát
huy sức mạnh toàn dân tộc là một vấn đề cực kỳ quan trọng.
Có thể nói, nhận thức sâu sắc về thực tiễn cách mạng Việt Nam là một

trong những nguyên nhân chủ yếu đưa đến việc Hồ Chí Minh coi trọng vị trí, vai
trò của công tác dân vận. Chính trong công tác chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi
nghĩa giành chính quyền 1945, Hồ Chí Minh đã đặc biệt chú tâm đến công tác
tuyên truyền, tổ chức quần chúng nhân dân ở thành thị và các khu công nghiệp
đứng lên đấu tranh để giành lấy chính quyền. Những điều này, nói là bài học


cách mạng tháng 10 Nga quả không sai, nhưng cũng phải nhìn nhận rằng đây là
sách lược của Vương Quốc Chính ở Bắc hồi cuối thế kỷ trước và của Nguyễn
Hữu Trí ở Nam hồi chiến tranh thế giới thứ nhất, cả hai đều thất bại nhưng đã để
lại nhiều bài học lớn cho Hồ Chí Minh.
Có thể nói, trong thời kỳ chuẩn bị cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính
quyền Tháng Tám, “cán bộ đảng và mặt trận đã thành công trong sự hoạt động,
đã phát động được quần chúng”[16, tr.640], đặc biệt là ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn.
Trong đó, nỗi bật nhất là Đoàn Thanh niên tiền phong đã tập hợp, vận động, giác
ngộ thanh niên khắp các xí nghiệp, các công sở, các nhà thương và các khu phố
tiến theo con đường cách mạng của đảng. Có thể nói, chưa bao giờ ở Việt Nam
có một lực lượng công nhân và thanh niên đứng lên làm cách mạng lớn mạnh
với khí thế cách mạng bừng bừng như vậy.
Năm 1949, Hồ Chí Minh viết tác phẩm“Dân vận” nhằm giáo dục cán bộ,
đảng viên về vị trí và vai trò cực kỳ quan trọng của công tác dân vận đối với
cách mạng Việt Nam. Ngay những câu đầu tiên của tác phẩm, Người đã khẳng
định: “Vấn đề dân vận nói đã nhiều, bàn đã kỹ nhưng vì nhiều địa phương, nhiều
cán bộ chưa thấu hiểu, làm chưa đúng, cho nên cần phải nhắc lại”[26, tr. 232].
Từ sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, bước vào thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ đặc điểm của con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Do chỗ xuất phát từ nền kinh tế nhỏ, chủ yếu là nông
nghiệp lạc hậu, lại phải kết hợp hai chiến lược: vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc, vừa tiến hành cuộc cách mạng giải phóng miền Nam. Cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở miền Bắc, tất yếu là hết sức gian khổ, lâu dài, đòi hỏi nhiều hy

sinh to lớn về người và của. Từ năm 1965 đến năm 1972, chúng ta lại phải đánh
trả chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc. Trong cuộc chiến tranh
này, kẻ thù đã sử dụng hầu như tất cả các loại vũ khí tối tân nhất của chúng,
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc càng khó khăn, gian khổ gấp
bội lần. Sự nghiệp cách mạng lúc này đòi hỏi phải có lực lượng cách mạng hùng
hậu, vững chắc.
Như vậy, qua mỗi chặng đường lịch sử, tùy theo từng thời kỳ cách mạng,


từng bước phát triển của thực tiễn, Hồ Chí Minh đã đề ra những yêu cầu đối với
công tác dân vận sát hợp để hoàn thành nhiệm vụ ngày càng nặng nề, khó khăn
và phức tạp hơn của cách mạng Việt Nam.
Thực tiễn đấu tranh của nhân dân các nước thuộc địa và giai cấp vô
sản trên thế giới
Dẫu biết rằng “Đất nước đẹp vô cùng nhưng Bác phải ra đi”. Trên hành
trình vượt đại dương tới Pháp, Nguyễn Tất Thành có dịp đến Xingapo, Ai
cập…và thấy ở tất cả xã hội đó có hai loại người: kẻ thống trị và người bị trị.
Khi đặt chân lên đất Pháp, Nguyễn Tất Thành cũng chỉ thấy xuất hiện hai loại
người: người bị áp bức và kẻ áp bức. Ở đây, Người đã phân biệt được người
Pháp tốt là nhân dân lao động và người Pháp tàn ác là kẻ thống trị, và Người
nhận thức được nỗi khổ đau của nhân dân lao động ngay ở chính quốc.
Khi tiếp tục hành trình sang châu Phi, Người có dịp dừng chân lại nhiều
nước như: Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Angiêri…và nhận thấy nhân dân lao
động vô cùng cực khổ, còn bọn thực dân thì ở đâu cũng gian ác như nhau.
Còn tình cảnh của nông dân miền Tây châu Phi và châu Phi xích đạo thuộc
Pháp thì phải chịu cảnh đói nghèo, dịch bệnh, cướp bóc, giết chóc và tàn phá
hết sức tàn nhẫn.
Chưa dừng chân ở đây, Người tiếp tục sang Mỹ để tìm hiểu xem những
gì ẩn đằng sau những từ hoa mỹ của “văn minh phương Tây” mà khi còn ở
quê nhà Người chưa thể hiểu rõ. Hơn một năm ở nước Mỹ (cuối năm 1912

đến cuối năm 1913), Người nhận thấy rằng ở Mỹ không chỉ có những tòa nhà
chọc trời, những xe hơi bóng lộn nối đuôi nhau trên những con đường rộng
thênh thang, các công ty tài chính khổng lồ, mà nước Mỹ còn có khu lao động
Háclem của những người da đen thất nghiệp. Đằng sau những tòa nhà chọc
trời của tầng lớp xa hoa là những con người khốn khổ, sống vật vờ dưới bóng
đổ của những tòa nhà ấy. Khi đến tham quan tượng thần Tự do Người có nhận
xét sâu sắc về sự bất công: “Ánh sáng trên đầu thần Tự do tỏa rộng khắp trời
xanh, còn dưới chân thần Tự do là người da đen đang bị chà đạp”[40, tr.16].
Không thể dừng chân ở nước Mỹ, cuối năm 1913 Người sang Anh, một


×