Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

Triển khai một số test đánh giá hành vi trầm cảm thực nghiệm và áp dụng để đánh giá tác dụng của l tetrahydropalmatin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 67 trang )

BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC DƯỢC HÀ NỘI

LÊ NGỌC QUỲNH GIAO
MÃ SINH VIÊN: 1101124

TRIỂN KHAI MỘT SỐ TEST
ĐÁNH GIÁ HÀNH VI TRẦM CẢM
THỰC NGHIỆM VÀ ÁP DỤNG ĐỂ
ĐÁNH GIÁ TÁC DỤNG CỦA
L-TETRAHYDROPALMATIN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP DƯỢC SĨ

HÀ NỘI – 2016


BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC DƯỢC HÀ NỘI

LÊ NGỌC QUỲNH GIAO

MÃ SINH VIÊN: 1101124

TRIỂN KHAI MỘT SỐ TEST
ĐÁNH GIÁ HÀNH VI TRẦM CẢM
THỰC NGHIỆM VÀ ÁP DỤNG ĐỂ
ĐÁNH GIÁ TÁC DỤNG CỦA
L-TETRAHYDROPALMATIN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP DƯỢC SĨ
Người hướng dẫn:
1. Ths. Nguyễn Thu Hằng


2. DS. Phạm Đức Vịnh
Nơi thực hiện:
Bộ môn Dược lực

HÀ NỘI – 2016


LỜI CẢM ƠN
Bằng tất cả sự chân thành và lòng biết ơn sâu sắc, em xin gửi lời cảm ơn tới
ThS. Nguyễn Thu Hằng, DS. Phạm Đức Vịnh, TS. Nguyễn Hoàng Anh là những
người thầy, người cô đã trực tiếp hướng dẫn, tận tình chỉ bảo và giúp đỡ em trong
suốt quá trình thực hiện và hoàn thành khóa luận.
Em xin gửi lời cảm ơn tới TS. Nguyễn Trần Linh, Bộ môn Bào chế, trường
ĐH Dược Hà Nội đã có những góp ý và giúp đỡ em trong quá trình thực hiện đề tài.
Em xin gửi lời cảm ơn tới DS. Đinh Đại Độ, kỹ thuật viên tại bộ môn Dược lực
trường ĐH Dược Hà Nội đã nhiệt tình giúp đỡ và trực tiếp thực hiện nhiều công việc
xuyên suốt trong quá trình tiến hành đề tài.
Nhân đây em cũng xin gửi lời cảm ơn tới:
Các thầy cô, các anh chị kỹ thuật viên trong bộ môn Dược lực đã tạo mọi điều
kiện, giúp đỡ để em có thể hoàn thành khóa luận một cách tốt nhất.
Các thầy cô trong Ban giám hiệu nhà trường, các phòng ban, các bộ môn trường
Đại học Dược Hà Nội đã tận tình dạy dỗ, giúp đỡ em trong quá trình học tập tại
trường.
Em cũng xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tới những người thân trong gia
đình, những người bạn đã luôn kịp thời động viên, ủng hộ em trong suốt quá trình
học tập tại trường cũng như trong thời gian thực hiện khóa luận.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2016
Sinh viên


Lê Ngọc Quỳnh Giao


DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC CÁC HÌNH

ĐẶT VẤN ĐỀ ............................................................................................................1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN.....................................................................................3
1.1. Rối loạn trầm cảm ............................................................................................3
1.1.1. Khái niệm .................................................................................................3
1.1.2. Tình hình dịch tễ.......................................................................................3
1.1.3. Phân loại ...................................................................................................4
1.1.4. Sinh hóa thần kinh trong rối loạn trầm cảm .............................................4
1.1.5. Điều trị rối loạn trầm cảm bằng các thuốc hóa dược ...............................9
1.2. Mô hình trầm cảm trên động vật thực nghiệm ..............................................11
1.3. Các test đánh giá hành vi trầm cảm trên động vật thực nghiệm ....................13
1.3.1. Test bơi cưỡng bức .................................................................................15
1.3.2. Test treo đuôi ..........................................................................................15
1.3.3. Test tiêu thụ saccarose ............................................................................16
1.4. Tác dụng dược lý hướng thần kinh và tâm thần của l-tetrahydropalmatin....16
CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ...................19
2.1. Đối tượng .......................................................................................................19
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu .............................................................................19
2.1.2. Hóa chất, dụng cụ và thiết bị ..................................................................19
2.1.3. Động vật thí nghiệm ...............................................................................19
2.1.4. Chuẩn bị thuốc thử .................................................................................19


2.2. Phương pháp nghiên cứu ...............................................................................20

2.2.1. Sơ đồ thiết kế nghiên cứu .......................................................................20
2.2.2. Nội dung nghiên cứu ..............................................................................21
2.2.3. Thiết kế nghiên cứu ................................................................................21
2.2.4. Điều kiện tiến hành thí nghiệm ..............................................................23
2.2.5. Các test đánh giá tác dụng chống trầm cảm sử dụng trong nghiên cứu .23
2.2.5.1. Test bơi cưỡng bức (FST) ...............................................................23
2.2.5.2. Test treo đuôi (TST)........................................................................25
2.2.5.3. Test môi trường mở (OFT) .............................................................27
2.3. Xử lý số liệu ...................................................................................................29
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN ............................................................30
3.1. Kết quả triển khai test đánh giá hành vi trầm cảm trên động vật thực nghiệm
...................................................................................................................................30
3.1.1. Ảnh hưởng của fluoxetin và clomipramin đến hành vi trầm cảm của chuột
cống trắng trên test FST ........................................................................................30
3.1.2. Ảnh hưởng của clomipramin đến hành vi trầm cảm trên chuột nhắt trắng
...............................................................................................................................32
3.1.2.1. Đánh giá hành vi trầm cảm sử dụng test FST .................................32
3.1.2.2. Đánh giá tác dụng chống trầm cảm sử dụng test TST ....................32
3.2. Áp dụng test hành vi phù hợp để đánh giá tác dụng chống trầm cảm của l-THP
...................................................................................................................................33
3.2.1. Đánh giá tác dụng chống trầm cảm của l-THP trên chuột cống trắng ...34
3.2.2. Ảnh hưởng của l-THP trên hoạt động tự nhiên và khám phá ở chuột cống
trắng ......................................................................................................................38
3.2.3. Đánh giá tác dụng chống trầm cảm của l-THP trên chuột nhắt trắng ....39


3.2.4. Ảnh hưởng của l-THP trên hoạt động tự nhiên và khám phá ở chuột nhắt
trắng ......................................................................................................................40
3.3. Bàn luận .........................................................................................................41
3.3.1. Kết quả đánh giá hành vi trầm cảm trên 2 test: test bơi cưỡng bức và test

treo đuôi ................................................................................................................42
3.3.2. Tác dụng chống trầm cảm của l-THP .....................................................45
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT ....................................................................................48


DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

5-HIAA

acid 5 – hydroxyindoleacetic

5-HT

5-hydroxytryptamin (Serotonin)

ACTH

Hormon vỏ thượng thận (Adrenocorticotropic hormone)

APA

Hội tâm thần Hoa Kỳ (American Psychiatric Association)

BDNF

Yếu tố dinh dưỡng thần kinh có nguồn gốc từ não (BrainDerived Neurotrophic Factor)

COMT

Catechol-O-methyl transferase


CREB

Protein liên kết từng phần đáp ứng với AMP vòng (Cyclic-AMP
Response Element-Binding Protein)

CRH

Hormon giải phóng corticotropin (Corticotropin Releasing
Hormone)

DA

Dopamin

DD

Rối loạn trầm cảm dai dẳng (Persistent Depressive Disorder /
Dysthymia)

DMDD

Rối loạn điều hòa tâm trạng kích động (Disruptive Dood
Dysregulation Disorder)

DSM-5

Sổ tay chẩn đoán và thống kê các rối loạn sức khoẻ tâm thần
(Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th
Edition)


EEG

Điện não đồ (Electroencephalogram)

ERK

Enzym chuyển gốc phosphat điều hòa tín hiệu ngoại bào
(Extracellular signal-regulated kinase)

FST

Test bơi cưỡng bức (Forced Swim Test)

GABA

Gamma amino butyric acid

HPA

Trục dưới đồi - tuyến yên - tuyến thượng thận (hypothalamic pituitary - adrenal)


ICD-10

Phân loạn bệnh Quốc tế (International Classification of
Diseases, Tenth Revision)

MAOI


Ức chế monoamin oxidase (Monoamin Oxidase Inhibitor)

MDD

Rối loạn trầm cảm nặng (Major Depressive Disorder)

MHPG

3 - methoxy – 4 – hydroxyphenylglycol

NaCMC

Natri carboxymethyl cellulose

NE

Norepinephrin

NMDA

N-methyl-D-aspartat

OFT

Test môi trường mở (Open Field Test)

PMDD

Rối loạn tâm thần tiền kinh nguyệt (Premenstrual Dysphoric
Disorder)


REM

Giấc ngủ sóng nhanh (Rapid Eye Movement)

SNRIs

Chất ức chế tái thu hồi serotonin – norepinephrin (Serotonin –
Norepinephrine Reuptake Inhibitors)

SSRIs

Chất ức chế tái thu hồi chọn lọc serotonin (Serotonin Selective
Reuptake Inhibitors)

TCAs

Thuốc chống trầm cảm 3 vòng (Tricyclic Antidepressants)

THP

Tetrahydropalmatin

TrkB

Tyrosine kinase B

WHO

Tổ chức Y tế thế giới (World Health Organization)



DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng
1.1

1.2

3.1

3.2

Tên bảng
Các loại hành vi liên quan đến trầm cảm có thể mô hình
hóa trên động vật
Các test sử dụng để đánh giá một số hành vi trầm cảm ở
động vật
Ảnh hưởng của l-THP trên các chỉ tiêu đánh giá của test
OFT ở chuột cống trắng
Ảnh hưởng của l-THP trên các chỉ tiêu đánh giá của test
OFT ở chuột nhắt trắng

Trang
12

13

39

41



DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình

Tên hình

Trang

1.1

Cơ chế dẫn truyền thần kinh của NE và 5-HT

6

2.1

Sơ đồ thiết kế nghiên cứu

20

2.2

Sơ đồ thí nghiệm đợt 1

21

2.3

Sơ đồ thí nghiệm đợt 2


22

2.4

Sơ đồ thí nghiệm đợt 3

23

2.5
2.6
2.7

3.1

3.2

3.3

3.4

3.5

3.6

3.7

3.8

Dụng cụ bơi cưỡng bức cho chuột cống (bên trái) và chuột

nhắt (bên phải)
Dụng cụ treo đuôi
Dụng cụ môi trường mở cho chuột cống (bên trái) và chuột
nhắt (bên phải)
Ảnh hưởng của fluoxetin và clomipramin đến thời gian thể
hiện các trạng thái của chuột cống trắng trên test FST
Ảnh hưởng của fluoxetin và clomipramin đến điểm thể hiện
các trạng thái của chuột cống trắng trên test FST
Ảnh hưởng của clomipramin đến thời gian thể hiện các trạng
thái của chuột nhắt trắng trên test FST
Ảnh hưởng của clomipramin đến thời gian bất động của chuột
nhắt trắng trên test TST
Tác dụng của l-THP với các mức liều đến thời gian bất động
của chuột cống trắng trên test FST
Tác dụng của l-THP với các mức liều đến thời gian bơi của
chuột cống trắng trên test FST
Tác dụng của l-THP với các mức liều đến thời gian trèo/lặn
của chuột cống trắng trên test FST
Tác dụng của l-THP với các mức liều đến điểm bất động của
chuột cống trắng trên test FST

24
26
28

30

31

32


33

34

35

36

37


3.9

3.10

3.11

Tác dụng của l-THP với các mức liều đến điểm bơi của chuột
cống trắng trên test FST
Tác dụng của l-THP với các mức liều đến điểm trèo/lặn của
chuột cống trắng trên test FST
Tác dụng của l-THP đến thời gian bất động của chuột nhắt
trắng trên test TST

37

38

40



1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Rối loạn trầm cảm (depression disorder) là tình trạng rối loạn cảm xúc phổ biến
nhất, dao động từ trạng thái rất nhẹ, gần như bình thường đến rất nặng (tâm thần) kèm
theo ảo giác và hoang tưởng [48]. Đây là bệnh lý tương đối phổ biến, đứng hàng thứ
hai trong các bệnh lý tâm thần [6]. Bệnh có tỷ lệ mắc cao, nguy cơ khởi phát tăng dần
theo tuổi [27]. Các phương pháp điều trị chủ yếu hiện nay là phối hợp các liệu pháp
tâm lý hoặc liệu pháp sốc điện với các thuốc chống trầm cảm [56]. Ngoài các tác dụng
không mong muốn như khả năng lệ thuộc thuốc, hội chứng cai thuốc, một hạn chế
lớn của các nhóm thuốc này là khởi phát tác dụng muộn. Điều này đặt ra nhu cầu tìm
kiếm các thuốc chống trầm cảm mới, có tác dụng tương đương, hạn chế các tác dụng
không mong muốn trên và cải thiện thời gian tiềm tàng xuất hiện tác dụng trên lâm
sàng. Trước thực trạng đó, cần thiết phải có các test đánh giá hành vi trầm cảm có độ
tin cậy và khả năng dự đoán cao để sàng lọc các hoạt chất có tác dụng chống cảm trên
các mô hình động vật.
Hiện nay, có nhiều mô hình gây trầm cảm cũng như các test đã được phát triển
để mô phỏng và đánh giá hành vi trầm cảm thực nghiệm. Trong đó có hai test được
sử dụng phổ biến trong các nghiên cứu do quy trình đơn giản, dễ thực hiện và có khả
năng dự đoán cao với nhiều thuốc chống trầm cảm là test bơi cưỡng bức và test treo
đuôi. Hai test này đều dựa trên nguyên tắc khi động vật gặp phải những stress cấp
tính và không có khả năng trốn thoát sẽ rơi vào trạng thái bất động hay hành vi trầm
cảm như một cách để đối phó với stress. Một số nhóm nghiên cứu ở Việt Nam cũng
đã áp dụng những test này để đánh giá tác dụng chống trầm cảm của nhiều hoạt chất
khác nhau [5], [5]. Tuy nhiên, có rất nhiều yếu tố gây ảnh hưởng đến kết quả của các
test hành vi này, do đó cần thiết phải ổn định các thông số của thí nghiệm trong điều
kiện của phòng nghiên cứu, cũng như có cách tính kết quả hợp lý để hoàn thiện các
test này.

Các thuốc và sản phẩm có nguồn gốc dược liệu hiện được coi là hướng tiếp cận
bổ sung và thay thế cho các thuốc có nguồn gốc hóa dược trong điều trị rối loạn trầm
cảm [50]. Những nghiên cứu gần đây đánh giá tác dụng dược lý hướng thần kinh và


2

tâm thần của l-tetrahydropalmatin (l-THP) đã cho thấy tác dụng an thần và giải lo âu
của hoạt chất này. Nghiên cứu cũng cho thấy l-THP có tiềm năng trong điều trị trầm
cảm, mở ra hướng nghiên cứu mới về tác dụng chống trầm cảm của l-THP [5]. Ngoài
ra, cũng đã có nghiên cứu trên thế giới đánh giá và tìm kiếm mức liều thể hiện tác
dụng chống trầm cảm của l-THP [34].
Để góp phần nghiên cứu sâu hơn tác dụng chống trầm cảm của l-THP, đồng
thời tạo cơ sở cho việc phát triển và ứng dụng hoạt chất này trong điều trị rối loạn
trầm cảm, đề tài được thực hiện với 2 mục tiêu:
1. Triển khai một số test để đánh giá hành vi trầm cảm thực nghiệm trên hai
đối tượng chuột cống trắng và chuột nhắt trắng.
2. Áp dụng các test thích hợp để đánh giá tác dụng chống trầm cảm của l-THP.


3

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN
1.1. Rối loạn trầm cảm
1.1.1. Khái niệm
Rối loạn trầm cảm được đặc trưng bởi các rối loạn cảm xúc và biến đổi về nhận
thức, thần kinh thực vật và tâm thần vận động có liên quan ở các mức độ khác nhau
[27]. Đặc điểm của rối loạn này là ức chế cảm xúc, kéo theo sự biến đổi các hoạt động
tâm thần khác như hành vi, tâm lý vận động, nhận thức, chú ý, trí nhớ... làm giảm
chất lượng cuộc sống của người bệnh [6].

Bệnh nhân trầm cảm thường có giảm khí sắc, mất mọi quan tâm và thích thú,
giảm năng lượng dẫn đến tăng mệt mỏi và giảm hoạt động. Những triệu chứng phổ
biến khác bao gồm: giảm tập trung và chú ý; giảm tự trọng và tự tin; tâm lý có tội và
không xứng đáng (kể cả ở trong giai đoạn nhẹ); nhìn vào tương lai ảm đạm và bi
quan; ý tưởng và hành vi tự hủy hoại hoặc tự sát; rối loạn giấc ngủ; ăn không ngon
miệng [11], [60].
Trầm cảm thường cần ít nhất 2 tuần để chẩn đoán nhưng thời gian cũng có thể
ngắn hơn nếu triệu chứng nặng bất thường và khởi phát nhanh [11], [60].
1.1.2. Tình hình dịch tễ
Rối loạn trầm cảm là một bệnh lý rất phổ biến hiện nay. Các ước tính gần đây
cho thấy tỷ lệ mắc trên toàn thế giới đang ở mức cao. Trong một phân tích tổng hợp
từ các nước ở châu Âu, châu Á, Bắc Mỹ, Nam Mỹ và châu Đại Dương cho thấy tỷ lệ
này là 6,7% [59]. Bệnh có nguy cơ khởi phát thay đổi theo tuổi, trong đó lứa tuổi
trước vị thành niên có nguy cơ rất thấp và nguy cơ này tăng dần theo tuổi [32]. Rối
loạn trầm cảm hiện là nguyên nhân gây khuyết tật (disabling medical condition)
nghiêm trọng thứ tư trên thế giới và được dự đoán là sẽ trở thành nguyên nhân nghiêm
trọng thứ hai đến năm 2020 [27].
Tại Việt Nam, một nghiên cứu cộng đồng ở lứa tuổi 14 - 25 cho thấy 32% thanh
thiếu niên tham gia khảo sát đã đã trải qua những cảm xúc buồn bã về cuộc sống nói
chung, 25% cảm thấy họ không thể tham gia vào các hoạt động bình thường, 21%
cảm thấy thất vọng về tương lai của mình, 0,5% đã cố gắng tự tử và 2,8% nói rằng


4

họ đã từng tự gây thương tích cho bản thân. Tỷ lệ tự tử cao nhất ở nam thanh niên,
đặc biệt là khoảng 18 - 21 tuổi, trong đó tỷ lệ là 6,4% đối với những người sống ở các
vùng đô thị và 4,1% đối với những người sống ở khu vực nông thôn [2]. Trong một
nghiên cứu về trầm cảm sau sinh ở Việt Nam, 33% phụ nữ tham gia khám sức khỏe
tổng quát tại thành phố Hồ Chí Minh có trầm cảm và 19% trong số họ thừa nhận đã

từng có ý tưởng tự sát [28]. Nghiên cứu của Đoàn Vương Diễm Khánh (2011) cũng
cho thấy 24,3% người trưởng thành ở Việt Nam đang ở ngưỡng “nguy cơ trầm cảm
lâm sàng”, 11,9% được phân loại là có triệu chứng trầm cảm và 6,8% có trầm cảm
thực sự [26].
1.1.3. Phân loại
Hệ thống phân loại bệnh tật quốc tế ICD-10 của Tổ chức Y tế thế giới (WHO,
1992) phân chia giai đoạn trầm cảm theo các mức độ nghiêm trọng: nhẹ (ít nhất hai
trong số các triệu chứng điển hình nhất và hai triệu chứng khác), trung bình (ít nhất
hai trong số ba triệu chứng điển hình nhất và ba hoặc bốn triệu chứng khác), hoặc
nặng (cả ba triệu chứng điển hình nhất và ít nhất bốn triệu chứng khác) [60].
Theo DSM-5 của Hội tâm thần Hoa Kỳ (APA, 2013), rối loạn trầm cảm bao
gồm [11]:
 Rối loạn điều hòa tâm trạng kích động (disruptive mood dysregulation
disorder, DMDD, đối với trẻ em đến 18 tuổi).
 Rối loạn trầm cảm nặng (major depressive disorder, MDD).
 Rối loạn trầm cảm dai dẳng (persistent depressive disorder / dysthymia,
DD).
 Rối loạn tâm thần tiền kinh nguyệt (premenstrual dysphoric disorder,
PMDD).
 Rối loạn trầm cảm do thuốc (substance/medication – induced depressive
disorder).
1.1.4. Sinh hóa thần kinh trong rối loạn trầm cảm
Cho đến nay, các nhà nghiên cứu vẫn chưa thể đưa ra một cơ chế chính xác để
giải thích cho bệnh sinh trầm cảm. Các nghiên cứu về mô bệnh học, nghiên cứu hình


5

ảnh cấu trúc và chức năng não cũng như nghiên cứu gen đã chỉ ra rằng sinh lý bệnh
của trầm cảm rất phức tạp [31]. Một số giả thiết về cơ chế bệnh sinh của trầm cảm đã

được đề xuất, bao gồm giả thiết monoamin, giả thiết dinh dưỡng thần kinh và giả thiết
nội tiết. Trong đó giả thiết monoamin được xem là giả thiết quan trọng nhất, gợi ý
các triệu chứng chủ yếu trong trầm cảm là do suy giảm số lượng và chức năng của
các chất dẫn truyền thần kinh hệ monoaminergic trong não như norepinephrin (NE),
serotonin (5-HT) và dopamin (DA) ở vỏ não và hệ viền (limbic) [12].
Norepinephrin được tổng hợp ở các tế bào thần kinh trong não, vùng dưới đồi,
tủy thượng thận, các sợi hậu hạch giao cảm. Enzym có vai trò quan trọng trong việc
tổng hợp NE là tyrosin hydroxylase. Quá trình tổng hợp 5-HT xảy ra tại các nhân ở
não giữa và một số vùng khác của não, sừng sau tủy sống và vùng dưới đồi với vai
trò của enzym tryptophan hydroxylase. Hai chất này được tổng hợp ở cúc tận cùng
và hấp thu vào các bọc nhỏ theo cơ chế tích cực. Khi các chất dẫn truyền thần kinh
được giải phóng khỏi các bọc chứa ở trước synap và khuếch tán vào khe synap, chúng
sẽ tới gắn vào các thụ thể tương ứng ở màng sau synap và phát huy tác dụng. Hai thụ
thể quan trọng nằm trên cúc tận cùng tương ứng với NE và 5-HT là α2-adrenergic và
5-HT1A serotonergic, có vai trò là thụ thể điều hòa ngược với mục đích ngăn cản giải
phóng chất dẫn truyền, tránh kích thích quá mức các thụ thể sau synap [15].
Sau đó các chất dẫn truyền thần kinh sẽ bị khử hoạt nhanh chóng theo hai con
đường chính:
 Tái thu hồi tích cực vào cúc tận cùng và được tái sử dụng.
 Bị các enzym đặc hiệu chuyển hóa ngay tại khe synap. NE được chuyển
hóa chủ yếu qua monoamin oxidase (MAO) và catechol-O-methyl
transferase (COMT), tạo thành 3-methoxy-4-hydroxyphenylglycol
(MHPG). Chuyển hóa 5-HT được thực hiện chủ yếu thông qua
monoamin oxidase A (MAO-A), sản phẩm chuyển hóa cuối cùng là 5hydroxyindoleacetic acid (5-HIAA) [45], [46], [47].


6

Hình 1.1. Cơ chế dẫn truyền thần kinh của NE và 5-HT [31]
Bằng chứng thuyết phục nhất của giả thiết monoamin là việc các thuốc chống

trầm cảm hiện nay đều ảnh hưởng đáng kể lên hệ monoaminergic. Các nhóm thuốc
này đều làm tăng mật độ của 5-HT, NE hoặc DA tại khe synap. Việc phát triển các
thuốc chống trầm cảm có tác dụng trên các hệ thống dẫn truyền thần kinh khác vẫn
chưa cho thấy kết quả [31], [48].
Các bệnh nhân trầm cảm có đáp ứng với thuốc chống trầm cảm hệ serotonergic
như fluoxetin thường tái phát nhanh khi thực hiện chế độ ăn không có tryptophan.
Trong khi đó, những bệnh nhân đáp ứng với thuốc chống trầm cảm hệ noradrenergic
như desipramin ít có khả năng tái phát với chế độ ăn trên. Tương tự, giảm
catecholamin ở các bệnh nhân trầm cảm đã đáp ứng với thuốc chống trầm cảm hệ


7

noradrenergic cũng cho thấy xu hướng tái phát của bệnh. Sử dụng chất ức chế tổng
hợp norepinephrin làm tái phát các triệu chứng trầm cảm ở các bệnh nhân đáp ứng
với thuốc hệ noradrenergic nhưng không phải luôn xuất hiện ở bệnh nhân có đáp ứng
với thuốc chống trầm cảm hệ serotonergic [31]. Điều này cho thấy sự cần thiết phải
duy trì nồng độ NE và 5-HT để đảm bảo cho đáp ứng của thuốc.
Một số nghiên cứu cho thấy có sự thay đổi số lượng thụ thể 5-HT1A và 5-HT2C
hoặc α2-adrenergic ở bệnh nhân trầm cảm và tự tử, nhưng phát hiện giữa các nhóm
nghiên cứu vẫn chưa thống nhất. Giảm chất chuyển hóa chính của 5-HT là 5-HIAA
trong dịch não tủy có liên quan đến hành vi bạo lực và bốc đồng, bao gồm tự tử bạo
lực (violent suicide) [31], [51].
Bằng chứng từ nghiên cứu gen cũng ủng hộ cho giả thiết monoamin. Các đối
tượng đồng hợp tử allen ngắn dễ bị trầm cảm hơn và có hành vi tự tử khi gặp stress.
Ngoài ra, đồng hợp tử allen ngắn cũng ít đáp ứng và dung nạp thuốc chống trầm cảm
hệ serotonergic. Ngược lại, các đối tượng có allen dài có xu hướng kháng lại stress
tốt hơn và đáp ứng tốt với các thuốc chống trầm cảm hệ serotonergic.
Bên cạnh giả thiết monoamin, cũng có nhiều chứng cứ ủng hộ cho giả thiết dinh
dưỡng thần kinh. Stress và đau đớn liên quan đến giảm nồng độ yếu tố dinh dưỡng

thần kinh có nguồn gốc từ não (BDNF), làm giảm thể vùng hồi hải mã (hippocampus)
và các khu vực khác như vỏ não trán giữa (medial frontal cortex) và vỏ não vành
trước (anterior cingulate). Hồi hải mã có vai trò quan trọng trong việc lưu giữ, gợi lại
trí nhớ về cảm xúc, nhận thức và điều khiển trục dưới đồi - tuyến yên - thượng thận
(HPA). Tương tự, vỏ não vành trước có vai trò trong việc kết hợp các chức năng kích
thích cảm xúc và chú ý, trong khi đó vỏ não trán giữa cũng có vai trò trong việc ghi
nhớ, học tập, và cảm xúc. Trầm cảm có liên quan đến giảm nồng độ BDNF trong dịch
não tủy và huyết thanh cũng như giảm hoạt động của thụ thể tyrosin kinase B (TrkB).
BDNF được cho là ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển tế bào thần kinh bằng cách
hoạt hóa các thụ thể TrkB ở cả tế bào thần kinh và tế bào thần kinh đệm. Truyền trực
tiếp BDNF vào vùng não giữa, vùng hồi hải mã, và não thất bên cũng như sử dụng
các thuốc chống trầm cảm hay các can thiệp có hiệu quả khác như liệu pháp sốc điện


8

làm tăng nồng độ BDNF và tăng sinh tế bào thần kinh trên các mô hình động vật.
Ngược lại, sử dụng các thuốc chống trầm cảm làm tăng nồng độ BDNF trong các thử
nghiệm lâm sàng và có thể liên quan đến việc tăng thể tích vùng hồi hải mã ở một số
bệnh nhân. Tuy nhiên một số nghiên cứu lại cho các kết quả ngược lại [31].
Những thay đổi trong dẫn truyền thần kinh glutamat cũng có thể có liên quan
đến trầm cảm. Bệnh nhân trầm cảm đã được chứng minh là có nồng độ glutamat trong
vỏ não tăng. Điều trị bằng thuốc chống trầm cảm có thể làm giảm giải phóng glutamat
và làm suy giảm chức năng thụ thể N-methyl-D-aspartat (NMDA) [48].
Ngoài hai giả thiết trên, trầm cảm cũng được cho là có liên quan đến một số bất
thường nội tiết, trong số đó có bất thường ở trục HPA trên bệnh nhân trầm cảm nặng.
Bệnh nhân trầm cảm thường có nồng độ cortisol tăng, không làm ức chế giải phóng
hormon vỏ thượng thận (ACTH) trong test ức chế dexamethason, và làm tăng cao
mạn tính nồng độ hormon giải phóng corticotropin (CRH). CRH phân bố rộng rãi
trong não và có ảnh hưởng đến hành vi. Khi được tiêm vào trong não của động vật

thí nghiệm, CRH mô phỏng một số khía cạnh của bệnh trầm cảm trên người, chẳng
hạn như giảm hoạt động, mất cảm giác ngon miệng và có dấu hiệu tăng lo lắng. Rối
loạn tuyến giáp cũng được báo cáo ở những bệnh nhân trầm cảm. Bệnh nhân suy giáp
lâm sàng thường có biểu hiện trầm cảm, được điều trị bằng cách bổ sung hormon
tuyến giáp. Hormon tuyến giáp cũng thường được sử dụng kết hợp với các thuốc
chống trầm cảm để tăng hiệu quả điều trị. Steroid sinh dục cũng liên quan đến bệnh
sinh trầm cảm. Trạng thái thiếu hụt estrogen xảy ra trong giai đoạn sau sinh và mãn
kinh được cho là có vai trò trong bệnh sinh trầm cảm ở nữ giới. Tương tự, thiếu hụt
testosteron ở nam giới cũng có liên quan đến các triệu chứng trầm cảm. Liệu pháp
thay thế hormon ở nam giới và nữ giới có suy giảm chức năng sinh dục có thể liên
quan đến sự cải thiện tâm trạng và triệu chứng trầm cảm [31].
Các giả thiết bệnh sinh vừa được mô tả không loại trừ lẫn nhau. Các monoamin,
thần kinh nội tiết và hệ thống dinh dưỡng thần kinh có liên quan đến nhau. Ví dụ,
HPA và bất thường steroid có thể ức chế phiên mã gen BDNF. Thụ thể glucocorticoid
có mật độ cao trong vùng hồi hải mã, liên kết của các thụ thể này với cortisol trong


9

trạng thái stress mạn tính như trầm cảm nặng có thể làm giảm tổng hợp BDNF, dẫn
đến giảm thể tích các khu nhạy cảm với stress như vùng hồi hải mã. Sự hoạt hóa kéo
dài các thụ thể monoamin do các thuốc chống trầm cảm có tác dụng đối kháng với
stress và kết quả làm tăng phiên mã BDNF. Ngoài ra, kích hoạt các thụ thể monoamin
có tác dụng điều hòa xuống trục HPA và bình thường hóa chức năng của HPA [31].
Giả thiết monoamin và giả thiết dinh dưỡng thần kinh vẫn có những thiếu sót.
Trên thực tế, những tác dụng hóa học thần kinh của thuốc chống trầm cảm xuất hiện
rất nhanh (từ vài phút đến vài giờ), trong khi phải mất đến vài tuần để có các tác dụng
chống trầm cảm trên lâm sàng [48]. Có một số giải thích đã được đề xuất:
 Sự hoạt hóa kéo dài các thụ thể monoamin do các thuốc chống trầm cảm
được cho là có khả năng làm tăng phiên mã BDNF. Tuy nhiên, các yếu

tố dinh dưỡng thần kinh cần có thời gian để tổng hợp. Thời gian tổng hợp
protein của BDNF thường mất 2 tuần hoặc lâu hơn và trùng với thời gian
xuất hiện tác dụng trên lâm sàng của thuốc chống trầm cảm [31].
 Hầu hết các loại thuốc chống trầm cảm làm tăng nồng độ serotonin ở khe
synap và dẫn đến điều hòa xuống các thụ thể điều hòa ngược trước synap.
Các nhà nghiên cứu cho rằng việc điều hòa xuống làm tăng tốc độ dẫn
truyền của tế bào thần kinh serotonin. Do đó tác dụng trên lâm sàng của
các thuốc chống trầm cảm bị trì hoãn và chỉ có thể xuất hiện sau một thời
gian điều trị [14].
1.1.5. Điều trị rối loạn trầm cảm bằng các thuốc hóa dược
Có 3 giai đoạn điều trị cho bệnh nhân rối loạn trầm cảm nặng: giai đoạn cấp kéo
dài khoảng 6 – 12 tuần, mục tiêu là đạt được trạng thái thuyên giảm (remission); giai
đoạn tiếp theo kéo dài 4 – 9 tháng sau khi đạt trạng thái thuyên giảm, với mục tiêu
lúc này là loại bỏ các triệu chứng hoặc ngăn ngừa tái phát bệnh (không có triệu chứng
trong vòng 6 tháng thuyên giảm bệnh); giai đoạn duy trì kéo dài ít nhất 12 – 36 tháng
với mục tiêu bệnh không tái phát (ví dụ, một giai đoạn trầm cảm riêng biệt). Việc
điều trị rối loạn trầm cảm thường bao gồm các biện pháp không dùng thuốc và biện
pháp dùng thuốc. Biện pháp không dùng thuốc gồm có tâm lý trị liệu và liệu pháp sốc


10

điện, trong đó tâm lý trị liệu được khuyến cáo sử dụng như liệu pháp điều trị đầu tay
trên những bệnh nhân trầm cảm nhẹ đến vừa [56]. Với biện pháp dùng thuốc, có 5
nhóm thuốc chống trầm cảm nguồn gốc hóa dược chính sử dụng trong điều trị bao
gồm: thuốc chống trầm cảm ba vòng, thuốc ức chế monoamin oxidase, thuốc ức chế
tái thu hồi chọn lọc serotonin, thuốc ức chế tái thu hồi serotonin-norepinephrin, thuốc
chống trầm cảm không điển hình [1], [16], [41], [49], [56].
 Các thuốc chống trầm cảm ba vòng (TCAs)
- Chỉ định: Hiệu quả trong điều trị trầm cảm trung bình đến nặng và điều trị

trầm cảm kháng trị không đáp ứng với các liệu pháp mới.
- Cơ chế: Ức chế tái thu hồi serotonin và noradrenalin về bọc dự trữ ở cúc tận
cùng trước synap, làm tăng hoạt tính serotoninergic và noradrenergic trung ương.
- Thuốc sử dụng: imipramin, amitriptylin, clomipramin, desipramin, doxepin.
 Các thuốc ức chế monoamin oxidase (IMAO)
- Chỉ định: Chỉ định cho các bệnh nhân trầm cảm không đáp ứng hoặc dị ứng
với TCA và SSRI hoặc những bệnh nhân cảm thấy lo âu nhiều. Nhóm này đặc biệt
có hiệu quả trong điều trị trầm cảm không điển hình. Do nguy cơ tương tác thuốc,
IMAO được coi là lựa chọn cuối cùng.
- Cơ chế: Ức chế hoạt tính monoamin oxidase, ngăn phân hủy các chất dẫn
truyền monoamin và do đó tăng dự trữ các chất này. Có 2 dạng: MAO-A và MAOB. MAO-A ưu tiên deamin hóa serotonin, melatonin, adrenalin và noradrenalin.
MAO-B ưu tiên deamin hóa phenylethylamin. Dopamin bị deamin hóa ngang bằng
bởi hai loại.
- Thuốc sử dụng: phenelzin, tranylcypromin, isocarboxazid, selegilin.
 Các thuốc chống trầm cảm ức chế tái thu hồi chọn lọc serotonin (SSRI)
- Chỉ định: Là thuốc đầu tay để điều trị rối loạn trầm cảm, tác dụng tương tự
TCA nhưng khả năng dung nạp tốt và ít tác dụng không mong muốn so với các nhóm
thuốc khác.
- Cơ chế: Ức chế chọn lọc tái thu hồi serotonin về bọc dự trữ ở cúc tận cùng
trước synap, làm tăng hoạt tính serotoninergic trung ương.


11

- Thuốc sử dụng: fluoxetin, citalopram, escitalopram, fluvoxamin, paroxetin.
 Các thuốc ức chế tái thu hồi serotonin – norepinephrin (SNRI)
- Chỉ định: Được chỉ định điều trị trầm cảm, được cho là có hiệu quả trên cả
những bệnh nhân không có đáp ứng với SSRI.
- Cơ chế: Ức chế tái thu hồi serotonin và noradrenalin về bọc dự trữ ở cúc tận
cùng trước synap, làm tăng hoạt tính serotoninergic và noradrenergic trung ương. Các

thuốc nhóm SNRI khác với TCA ở chỗ nó có rất ít hoạt động tại α-adrenergic,
muscarinic, hoặc thụ thể histamin, do đó ít có các tác dụng không mong muốn qua
trung gian thụ thể hơn.
- Thuốc sử dụng: venlafaxin, desvenlafaxin, duloxetin, levomilnacipran.
 Các thuốc chống trầm cảm không điển hình
- Bupropion: Bupropion là chất ức chế tái thu hồi dopamin và norepinephrin,
được sử dụng để điều trị trầm cảm, ngăn ngừa các rối loạn trầm cảm theo mùa, làm
giảm bớt các triệu chứng của bệnh trầm cảm. Ngoài ra, cơ chế của nó có thể liên quan
đến việc giải phóng norepinephrin và dopamin trước synap.
- Mirtazapin: Mirtazapin có tác dụng an thần khá mạnh, sử dụng để điều trị cho
các bệnh nhân trầm cảm có mất ngủ. Cơ chế của thuốc là tăng cường hoạt động của
serotonin và norepinephrin thông qua đối kháng thụ thể α2-adrenergic trước synap.
Thuốc cũng đối kháng với thụ thể 5-HT2 và 5-HT3 cũng như các thụ thể histamin.
- Nefazodon và trazodon: Trazodon và nefazodon hiệu quả trong điều trị trầm
cảm và gây ngủ; tuy nhiên việc sử dụng đang bị hạn chế do có báo cáo về độc tính
trên gan. Cơ chế của các thuốc này là đối kháng với các thụ thể 5-HT2a sau synap.
1.2. Mô hình trầm cảm trên động vật thực nghiệm
Cơ chế sinh học thần kinh của trầm cảm vẫn chưa được hiểu rõ hoàn toàn. Do
đó, đã có nhiều nghiên cứu được thực hiện nhằm xây dựng các mô hình động vật mô
phỏng trạng thái bệnh lý ở người [10]. Tuy nhiên, rất khó để có một mô hình động
vật mô phỏng hoàn toàn các triệu chứng trầm cảm ở người [25], do các rối loạn nổi
bật như tâm trạng chán nản, cảm giác buồn bã, tội lỗi, tự ti hoặc ý định tự tử không
thể quan sát ở động vật [10], [25]. Trầm cảm được cấu thành bởi các nhóm hành vi,


12

những hành vi này có thể mô phỏng một cách độc lập và đánh giá ở động vật, bao
gồm sinh lý, nội tiết và thay đổi giải phẫu thần kinh cũng như đặc điểm hành vi (Bảng
1.1) [25].

Bảng 1.1. Các loại hành vi liên quan đến trầm cảm có thể mô hình hóa trên động vật
Mất khoái cảm Việc mất quan tâm đến các hoạt động ưa thích là một triệu chứng
(anhedonia)

chính của bệnh trầm cảm. Mất khoái cảm ở loài gặm nhấm có thể
được đánh giá bằng khả năng tiêu thụ đồ ăn ưa thích như dung
dịch saccarose hoặc bằng cách tự kích thích nội sọ.

Hành vi lo âu

Lo âu là một triệu chứng rất dễ gặp trong trầm cảm. Vì vậy, mô
hình động vật được sử dụng để làm sáng tỏ cơ chế của trầm cảm
thường thể hiện các biến đổi hành vi do lo âu.

Rối loạn thần Rối loạn trục HPA là một trong những triệu chứng thường gặp
kinh nội tiết

trong trầm cảm. Chức năng của trục HPA có thể dễ dàng được
đánh giá bằng test ức chế dexamethason hoặc test kết hợp
dexamethason và CRH.

Hành vi tuyệt Hành vi tuyệt vọng có thể được đánh giá bằng các test như test
vọng

bơi cưỡng bức hoặc test treo đuôi.

Những thay đổi Trầm cảm ở người thường gắn liền với những thay đổi lớn về cảm
trong ăn uống giác thèm ăn hoặc tăng cân, có thể dễ dàng đo được ở các loài
hoặc tăng cân
Sự


thay

gặm nhấm.

đổi Rối loạn nhịp sinh học và đặc biệt là trong cấu trúc giấc ngủ

trong cấu trúc thường được quan sát thấy ở những bệnh nhân trầm cảm. Cấu
giấc ngủ

trúc giấc ngủ, ví dụ như giấc ngủ REM ở các loài gặm nhấm, có
thể quan sát được qua điện não đồ (EEG).

Giải phẫu thần Các đối tượng trầm cảm cho thấy có sự giảm thể tích vùng hồi
kinh

hải mã qua hình ảnh cộng hưởng từ. Động vật gặm nhấm tiếp xúc
với stress mạn tính hoặc dư thừa glucocorticoid sẽ có các dấu hiệu
tương tự như giảm thể tích vùng hồi hải mã và teo tế bào nhánh
thần kinh.


13

McKinney và Bunny đã đề xuất các điều kiện tối thiểu cho một mô hình trầm
cảm trên động vật [40]. Theo đó, mô hình cần thỏa mãn các tiêu chí sau:
 Mô phỏng những triệu chứng tương tự ở người.
 Những thay đổi hành vi có thể ghi nhận một cách khách quan.
 Những thay đổi này có thể đảo ngược bởi các phương pháp điều trị đã có
hiệu quả trên người.

 Có tính lặp lại giữa các nhóm nghiên cứu.
Bằng cách sử dụng mô hình động vật, các thay đổi ở cấp độ phân tử và mối quan
hệ nhân quả giữa những biến đổi về gen hoặc môi trường, rối loạn trầm cảm có thể
được kiểm tra và sẽ cung cấp được một cái nhìn sâu sắc hơn về cơ chế bệnh lý của
trầm cảm [19]. Các mô hình trầm cảm trên động vật ngày nay đang được xây dựng
để có thể đáp ứng các tiêu chí đã nêu, bao gồm những mô hình dựa trên kỹ thuật gen,
gây tổn thương não và các thay đổi môi trường. Trong thực tế, có rất ít mô hình trầm
cảm đáp ứng đầy đủ các tiêu chí. Tuy nhiên, không cần thiết phải có một mô hình “lý
tưởng" thể hiện được tất cả các bất thường hành vi có liên quan đến trầm cảm, cũng
như các bệnh nhân không biểu hiện tất cả các triệu chứng có thể có của bệnh trầm
cảm [33].
1.3. Các test đánh giá hành vi trầm cảm trên động vật thực nghiệm
Ban đầu, mô hình trầm cảm trên động vật được thiết kế như các test sàng lọc để
đánh giá hiệu quả của thuốc chống trầm cảm. Những test này không mô phỏng được
các triệu chứng tương tự trên người nhưng có khả năng dự đoán hoạt tính của các
thuốc / hóa chất được thăm dò nghiên cứu tác dụng chống trầm cảm.
Bảng 1.2. Các test sử dụng để đánh giá một số hành vi trầm cảm ở động vật [25]
Test

Ưu điểm

Nhược điểm

Dựa vào hành vi tuyệt vọng
Bơi cưỡng bức

Nhạy với nhiều thuốc

Bơi cưỡng bức cải chống trầm cảm
tiến


Dễ thực hiện
Độ lặp lại cao

Chỉ đánh giá được các thuốc tác
dụng trên hệ mononergic
Nguy cơ hạ thân nhiệt


14

Treo đuôi

Nhạy với nhiều thuốc

Chỉ đánh giá được các thuốc tác

chống trầm cảm

dụng trên hệ mononergic

Dễ thực hiện

Chỉ áp dụng với một số chủng

Độ lặp lại cao

chuột nhắt nhất định

Dựa trên hành vi được thưởng

Tiêu thụ saccarose

Đánh giá trạng thái cảm Chưa đáp ứng được tính hiệu

Tự kích thích nội sọ xúc và động lực

lực trong mô hình trầm cảm

Đáp ứng với điều trị trầm
cảm mạn tính
Dựa trên hành vi lo âu
Giảm ăn do môi Nhạy với thuốc chống Chủ yếu phản ánh tác dụng giải
trường mới

trầm cảm mạn tính

lo âu của thuốc chống trầm cảm

Không bị thiếu thức ăn
Môi

trường

mở Nhạy với thuốc giải lo âu

(OFT)

Khó phân biệt giữa giảm né

Đánh giá hành vi liên quan tránh do lo âu với tăng tìm kiếm


Chữ thập nâng cao đến lo âu như một kiểu trong môi trường mới
(EPM)

hình đi kèm với trầm cảm

Đáp ứng với thuốc chống trầm
cảm không đáng tin cậy

Test 2 ngăn sáng tối
(light/dark box)
Rối loạn thần kinh nội tiết

Nhịp sinh học tiết Nhạy với thuốc chống Là một test xâm lấn do phải lấy
corticosteron

trầm cảm mạn tính

Ức chế bằng

Cho phép đánh giá cơ chế Thể tích máu chuột nhắt có hạn,

dexamethason

tác dụng của thuốc chống trong khi test đánh giá cần lấy

Phối hợp

trầm cảm trước, trong và máu nhiều giai đoạn và có thể


dexamethason và

sau khi điều trị

CRH

máu chuột để đánh giá

phải lấy nhiều mẫu


×