Tải bản đầy đủ (.docx) (43 trang)

Đường lối của ĐCS Việt Nam về Công nghiệp hóa và Hiện đại hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (272.15 KB, 43 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
Khoa Luật

Bài tập nhóm môn:
Đường lối Đảng Cộng Sản Việt Nam

Giảng viên:

Phạm Minh Thế

Nhóm:

Nhóm 2

Lớp:

Đường Lối Đảng Cộng Sản Việt Nam

Thời gian:

Thứ 2 (6-9). Thứ 5 (6-9)

HÀ NỘI – 7/2016

Danh sách thành viên nhóm 2:


Đặng Duy Anh: Dàn bài chi tiết, slide

Nông Thanh Trang: Chương I
Bùi Thị Thanh: Chương I


Nguyễn Văn Tuân: Chương I
Trần Thi Phan: Chương II
Đào Huyên Trang: Chương II
Trần Hạnh Thảo: Chương II
Nguyễn Quốc Hiếu: Chương II
Lê Thị Lương: Chương II
Trần Đăng Ngọc Sơn: Chương II
Đào Thục Chi: Chương III
Nguyễn Thị Hương: Chương III
Lê Thị Hạnh: Chương III
Nguyễn Thị Hoa Chương III
Nguyễn Thái Hưng: Chương III
Lê Hương Quỳnh: Chương III

Phạm Văn Anh : Chương IV và tổng hợp.
Hoàng Thùy Dương: Slide, phân công và tổng hợp
Mục Lục


I.

Công nghiệp hóa - hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm

1.1.

Khái niệm về Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa
Có nhiều cách hiểu khác nhau về công nghiệp hóa khác nhau, nhưng theo quan

niệm của tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc thì: “Công nghiệp hóa là
quá trình phát triển kinh tế, trong quá trình này một bộ phận ngày càng tăng các nguồn

của cải của quốc dân được động viên để phát triển một cơ cấu kinh tế nhiều ngành
nghề trong nước với kỹ thuật hiện đại. Đặc điểm của cơ cấu kinh tế này là có một bộ
phận luôn luôn thay đổi để sản xuất ra tư liệu sản xuất và hàng hoá tiêu dùng và có khả
năng bảo đảm cho toàn bộ nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao và đạt tới sự tiến bộ
của nền kinh tế và xã hội”.
Khái niệm công nghiệp hoá mang tính lịch sử, tức là luôn có sự thay đổi cùng
với sự phát triển của nền sản xuất xã hội, của khoa học - công nghệ. Do đó, việc nhận
thức đúng đắn khái niệm này trong từng giai đoạn phát triển của nền sản xuất xã hội có
ý nghĩa to lớn cả về lý luận và thực tiễn.
Hiện đại hóa là quá trình ứng dụng và trang bị thành tựu khoa học kỹ thuật tiên
tiến,hiện đại vào quá trình chuyển đổi sản xuất kinh doanh dịch vụ ứng dụng vào quá
trình phát triển kinh tế xã hội.
Ở nước ta hiện nay thường dùng khái niệm công nghiệp hóa,hiện đại hóa với
cách hiểu là công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn kết với nhau trong cùng một quá
trình,ngay từ đầu và trong suốt các quá trình phát triển,Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương lần thứ bảy khoá VI và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Đảng Cộng sản
Việt Nam đã xác định:” Công nghiệp hoá, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn


bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội
từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao
động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự
phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ nhằm tạo ra năng suất lao
động xã hội cao”.
Quan niệm đó chỉ ra các đặc trưng cơ bản của công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở
Việt Nam là: thứ nhất, công nghiệp hóa gắn liền với hiện đại hoá. Thứ hai, công
nghiệp hóa nhằm mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.Thứ ba,công nghiệp
hóa – hiện đại hóa trong điều kiện cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Thứ
tư, công nghiệp hóa – hiện đại hóa trong bối cảnh toàn cầu hoá về kinh tế, vì thế mở
cửa nền kinh tế phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại là tất yếu.

Khái niệm công nghiệp hoá trên đây được Đảng ta xác định rộng hơn quan
niệm trước đó, bao hàm cả về hoạt động sản xuất, kinh doanh, cả về dịch vụ và quản lý
kinh tế - xã hội, được sử dụng bằng các phương tiện và các phương pháp tiên tiến, hiện
đại cùng với kỹ thuật và công nghệ cao. Như vậy, công nghiệp hoá theo tư tưởng mới
là không bó hẹp trong phạm vi trình độ các lực lượng sản xuất đơn thuần, kỹ thuật đơn
thuần để chuyển lao động thủ công thành lao động cơ khí như quan niệm trước đây.
1.2. Sự cần thiết phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam.
- Quá trình công nghiệp hóa ở Việt Nam:
Ở nước ta quá trình công nghiệp hóa được khởi đầu từ sau đại hội III(1960) của
Đảng. Chủ trương công nghiệp hóa của Đảng đã được định hướng thực hiện qua các
kế hoạch dài hạn 5 năm, song do điều kiện kinh tế vốn nghèo nàn,lạc hậu và quan
trọng hơn là sự lãnh đạo có sai lầm của Đảng trong chủ trương xây dựng kinh tế nóng
vội,chủ quan duy ý chí dẫn tới hậu quả làm mất cân đối trong nền kinh tế.Nhận thức
được sai lầm đó nên đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng(1986) là bước chuyển quan


trọng sang thời kỳ mới của nền kinh tế nước ta,nhờ vậy mà kinh tế nước ta đã có bước
chuyển mới.
-Tính tất yếu phải tiến hành Công nghiệp hóa-Hiện đại hóa ở nước ta:
Xây dựng cơ sở vật chất,kỹ thuật là một trong những nhiệm vụ quan trọng cho
sự phát triển kinh tế của tất cả các nước,nhất là đối với những quốc gia đang phát triển
như chúng ta hiện nay.Tuy nhiên,có thể thấy rằng,tùy từng quốc gia khác nhau,điểm
xuất phát khác nhau,mục tiêu phát triển khác nhau nên chủ trương,đường lối,cách thức
phát triển không giống nhau, đối với những nước đang phát triển như chúng ta hiện
nay thì công nghiệp hóa là quá trình mang tính quy luật,tất yếu để tồn tại và phát triển
nhằm tạo ra cơ sở vật chất,kỹ thuật cho nền sản xuất lớn,hiện đại.
-Vai trò quan trọng của công nghiệp hóa đối với nước ta:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa xây dựng cơ sở vật chất, cơ sở kỹ thuật làm cho
nhà nước tái sản xuất mở rộng, nên mới nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân, nhân dân có thể tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm và làm cho nền sản xuất xã

hội chủ nghĩa phát triển hơn. Khi đó thì lực lượng giai cấp công nhân mới có thể củng
cố phát triển mạnh mẽ, chính trịanninh trật tự an toàn xã hội được đảm bảo; góp phần
xây dựng và phát triển nền văn hóa dân tộc.

I.

Nội dung đường lối công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Việt Nam

2.1.

Công nghiệp hóa - hiện đại hoá thời kỳ trước đổi mới (1960 - 1986)

2.1.1. Chủ trương của Đảng về công nghiệp hóa - hiện đại hoá

a. Mục tiêu và phương hướng của công nghiệp hóa - hiện đại hoá xã hội
chủ nghĩa
Ở Việt Nam, đường lối công nghiệp hóa có thể chia ra làm 2 thời kỳ chính,
trước và sau khi đổi mới. Trong thời kì trước đổi mới, đường lối công nghiệp hóa đất


nước đã được hình thành từ Đại hội III (tháng 9-1960) của Đảng. Quá trình công
nghiệp hóa của nước ta diễn ra trong bối cảnh tình hình trong nước và quốc tế luôn
diễn biến phức tạp và không thuận chiều. Thực hiện công nghiệp hóa được 4 năm
(1960 – 1964) thì đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc. Đất nước
phải trực tiếp thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Miền Bắc vừa chiến đấu
chống chiến tranh phá hoại, vừa xây dựng kinh tế, miền Nam thực hiện cách mạng giải
phóng dân tộc. Khi đất nước vừa thống nhất (1975), cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội
được vài năm thì lại xảy ra chiến tranh biên giới phía bắc, rồi kết thúc cuộc chiến này
lại kéo theo sự cấm vận của Mỹ. Như vậy, trước thời kỳ đổi mới, nước ta có khoảng
25 năm tiến hành công nghiệp hóa theo 2 giai đoạn: từ 1960 đến 1975 công nghiệp hóa

ở miền Bắc và từ 1975 – 1985 công nghiệp hóa trên phạm vi cả nước, hai giai đoạn
này có mục tiêu, phương hướng rõ rệt.
- Ở miền Bắc, đặc điểm lớn nhất là từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến
thẳng lên chủ nghĩa xã hội không trải qua phát triển chủ nghĩa tư bản, mặt khác, vừa
phải xây dựng CNXH vừa phải chiến đấu chống Mỹ. Điểm xuất phát của Việt Nam
khi bước vào thực hiện CNH rất thấp. Năm 1960, công nghiệp chiếm tỷ trọng18,2% và
7% lao động xã hội; tương ứng nông nghiệp chiếm tỷ trọng 42,3% và 83%. Sản lượng
lương thực/người dưới 300 kg; GDP/người dưới 100 USD. Trong khi phân công lao
động chưa phát triển và LLSX còn ở trình độ thấp thì QHSX đã được đẩy lên trình độ
tập thể hóa và quốc doanh hóa là chủ yếu ( đến năm 1960: 85,8% nông dân vào HTX;
100% hộ tư sản được cải tạo, gần 80% thợ thủ công cá thể vào HTX tiểu thủ công
nghiệp). Trong bối cảnh đó, Đại hội Đảng III xác định rõ mục tiêu cơ bản của công
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối
và hiện đại; bước đầu xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
Đó là mục tiêu cơ bản, lâu dài, phải thực hiện qua nhiều giai đoạn.
+ Về cơ cấu kinh tế, Đảng xác định: kết hợp công nghiệp với nông nghiệp và
lấy công nghiệp nặng làm nền tảng. (Tỷ trọng giá trị công nghiệp tăng từ 18,2% /1960
lên 22,2%/1965; 26,6%/1971; 28,7%/1975)


+ Về chỉ đạo thực hiện công nghiệp hóa, Hội nghị TW lần thứ 7 (khóa III) nêu
phương hướng chỉ đạo xây dựng và phát triển công nghiệp là:
•Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý.
•Kết hợp chặt chẽ phát triển công nghiệp với phát triển nông nghiệp.
•Ra sức phát triển công nghiệp nhẹ song song với việc ưu tiên phát triển công
nghiệp nặng. (Vốn đầu tư cho công nghiệp nặng trong thời kỳ 1960 - 1975 tăng 11,2
lần, cho công nghiệp nhẹ tăng 6,9 lần, nông nghiệp tăng 6 lần)
•Ra sức phát triển công nghiệp trung ương, đồng thời đẩy mạnh phát triển công
nghiệp địa phương. (Hình thành các trung tâm công nghiệp như Hải Phòng, Quảng
Ninh, Việt Trì, Thái Nguyên, Nam Định…)

=> Về thực chất, đây là sự lựa chọn mô hình chiến lược CNH thay thế nhập
khẩu mà nhiều nước, cả nước XHCN và nước TBCN đã và đang thực hiện lúc đó.
Chiến lược này được duy trì trong suốt 15 năm ở miền Bắc (1960 – 1975) và 10 năm
tiếp theo trên phạm vi cả nước ( 1976 – 1986).
Những thay đổi trong chính sách CNH dù còn chưa thật rõ nét song cũng đã tạo
một sự thay đổi nhất định trong phát triển:
+ Số xí nghiệp công nghiệp quốc doanh tăng từ 1913 cơ sở năm 1976 lên 2627
cơ sở năm 1980 và 3220 cơ sở năm 1985.
+ 1976 – 1978 công nghiệp phát triển khá. Năm 1978 tăng 118,2% so với năm
1976.
Tuy nhiên, do trên thực tế chúng ta chưa có đủ điều kiện để thực hiện (nguồn
viện trợ từ nước ngoài đột ngột giảm, cách thức quản lý nền kinh tế nặng tính quan
liêu, bao cấp, nhiều công trình nhà nước xây dựng dở dang vì thiếu vốn, công nghiệp


trung ương giảm, nhiều mục tiêu không đạt được…) nên đây vẫn là sự biểu hiện của tư
tưởng nóng vội trong việc xác định bước đi, và sai lầm trong việc lựa chọn ưu tiên
giữa công nghiệp và nông nghiệp. Kết quả là thời kỳ 1976 – 1980 nền kinh tế lâm vào
khủng hoảng, suy thoái, cơ cấu kinh tế mất cân đối nghiêm trọng.
Đại hội lần thứ V của Đảng (3-1982) đã xác định trong chặng đường đầu tiên
của thời kỳ quá độ ở nước ta phải lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, ra sức
phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng; việc xây dựng và phát triển công
nghiệp nặng trong giai đoạn này cần làm có mức độ, vừa sức, nhằm phục vụ thiết
thực, có hiệu quả cho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Đại hội V coi đó là nội
dung chính của công nghiệp hóa trong chặng đường trước mắt. Đây là bước điều chỉnh
rất đúng đắn, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Nhờ vậy, nền kinh tế quốc dân trong
thời kỳ này đã có sự tăng trưởng khá hơn so với thời kỳ 5 năm trước đó. Cụ thể là:
+ Tốc độ tăng trưởng kinh tế 1981: 2,3% 1985: 5,7%
+ Tốc độ tăng trưởng công nghiệp 1981: 9,5%
+ Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp 1981: 5,3% 1985: 3%

+ Tỷ trọng công nghiệp tăng từ 20,2%/1980 lên 30%/1985.
+ Nhập khẩu lương thực giảm hẳn so với 5 năm trước (từ 5,6 triệu tấn thời kỳ
1976-1980 xuống 1 triệu tấn thời kỳ 1981-1985).
Tuy nhiên, trên thực tế chính sách này vẫn không có mấy thay đổi so với trước.
Mặc dù nông nghiệp được xác định là mặt trận hàng đầu nhưng Đại hội vẫn xác định
“Xây dựng cơ cấu công nghiệp - nông nghiệp hiện đại, lấy hệ thống công nghiệp nặng
tương đối phát triển làm nòng cốt”. Sự điều chỉnh không dứt khoát đó đã khiến cho
nền kinh tế Việt Nam không tiến xa được bao nhiêu, trái lại còn gặp nhiều khó khăn và


khuyết điểm mới, tình hình kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân sau 5 năm không
những không ổn định được mà còn lâm vào khủng hoảng trầm trọng.
b. Đặc trưng chủ yếu của công nghiệp hóa - hiện đại hoá thời kỳ trước đổi
mới


Vấn đề CNH đất nước từ lâu đã được Đảng ta xác định là nhiệm vụ trung tâm
của suốt thời kỳ quá độ lên CNXH và trên thực tế, chúng ta đã tiến hành từ đầu những
năm 1960 đến nay.
- Đại hội lần thứ III (1960) của Đảng đã chỉ rõ:
+ Nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ ở nước ta là CNH XHCN, mà mấu
chốt là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng.
+ Thực hiện CNH XHCN ở miền Bắc nước ta là “xây dựng một nền kinh tế
XHCN cân đối và hiện đại, kết hợp công nghiệp với nông nghiệp và lấy công nghiệp
nặng làm nền tảng; ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra
sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ”. Với phương châm ấy thì cả công
nghiệp nặng, nông nghiệp và công nghiệp nhẹ đều phải chú trọng phát triển đồng thời.
Nhưng trên thực tế chúng ta tập trung quá mức vào việc phát triển công nghiệp nặng,
mà coi nhẹ hoặc không chú ý đầy đủ phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
+ Để thúc đẩy quá trình CNH, cần “tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng

trong đó cuộc CMKHKT là then chốt nhằm “đưa miền Bắc tiến lên công nghiệp hiện
đại”. Tháng 2 - 1962, Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (khóa III) có Nghị quyết chuyên
bàn về CNH, bổ sung cho đường lối CNH của Đại hội III. Về cơ bản, quan điểm về
CNH vẫn giống như ở Đại hội III, nhưng được cụ thể hóa rõ nét hơn về những vấn đề
liên quan.
- Tại Hội nghị Trung ương 19 (3 - 1971), đường lối Công nghiệp hóa cũng
được nhấn mạnh:
+ Tiếp tục bổ sung cho đường lối CNH: CNH được tiến hành bằng cách ưu tiên
phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, trên cơ sở phát triển nông nghiệp và
công nghiệp nhẹ.


+ Quan điểm CNH của Hội nghị Trung ương 19 về căn bản đã kế thừa quan
điểm CNH XHCN đã được khẳng định từ Đại hội III (1960), nhưng có một số thay
đổi. Từ quan điểm “ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý đồng thời
phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ” sang quan điểm “ưu tiên phát triển công
nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ”.
Quan điểm này cũng là cơ sở để xác định nội dung CNH tại Đại hội lần thứ IV (121976).
Trong những năm 1976-1986, đường lối CNH đã có những điều chỉnh quan
trọng, biểu hiện ở những kì đại hội IV, V của Đảng cộng sản. Cụ thể:
- Đại hội IV (1976) của Đảng nêu rõ:
+ Nhất quán với quan điểm của HNTƯ 19 (3 - 1971): “Ưu tiên phát triển công
nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ”.
Như vậy, Đại hội lần thứ IV của Đảng đã có sự điều chỉnh khi đề cập đến nhiệm vụ
CNH. Đại hội tiếp tục xác định đây là nhiệm vụ trung tâm của suốt thời kỳ quá độ,
nhưng về phương châm phát triển đã có sự uốn nắn lại. CNH được dự kiến tiến hành
trong khoảng 20 năm và tới lúc đó, Việt Nam sẽ có nền sản xuất lớn XHCN với công –
nông nghiệp hiện đại.
+ Nhận thức của Đảng về CNH ở thời điểm này mới chỉ dừng lại ở mức quan
tâm hơn đến nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, mà chưa nhận thức đầy đủ rằng, trong

điều kiện của một nước nông nghiệp lạc hậu, để thực hiện CNH, cần phải chú trọng và
đặt trọng tâm vào nông nghiệp - một vấn đề có tính quy luật của hầu hết các quốc gia
có nền kinh tế kém phát triển tiến hành CNH.
- Đại hội lần thứ V (1982) của Đảng:


+ Đưa ra khái niệm “chặng đường đầu tiên” của thời kỳ quá độ, phân kỳ con
đường đi lên CNXH ở Việt Nam với những nhiệm vụ và biện pháp phù hợp. “Chặng
đường đầu tiên” có vai trò tạo tiền đề cho CNH XHCN theo tư duy mới.
+ Phải lấy nông nghiệp làm cơ sở và xây dựng cơ cấu công - nông nghiệp hợp
lý. Đại hội V xem nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, chú trọng công nghiệp nhẹ, còn
công nghiệp nặng không được “ưu tiên” như tinh thần của Đại hội III, IV, mà chỉ tập
trung phát triển những ngành có tác dụng thúc đẩy nông nghiệp, công nghiệp sản xuất
hàng tiêu dùng và đáp ứng nhu cầu phát triển dài hạn của đất nước.
+ Đây là những điều chỉnh nội dung, cách thức CNH là nhằm mục tiêu tạo ra
LLSX mới trong chặng đường đầu tiên, chuẩn bị những tiền đề căn bản và lực lượng
cần thiết cho việc đẩy mạnh CNH ở thời kỳ tiếp theo. Sự điều chỉnh ấy là đúng đắn,
nhưng quan điểm này vẫn không quán triệt trong nhận thức của toàn Đảng và trong chỉ
đạo thực tiễn. Trên thực tế, vẫn tiếp tục đầu tư cơ bản để xây dựng hàng trăm công
trình quy mô lớn, nông nghiệp chưa trở thành cơ sở cho sự phát triển công nghiệp.
Tuy CNH được xác định là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ,
nhưng do nhiều vấn đề nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH chưa được
làm sáng tỏ, nên khi xác định đường lối CNH, chúng ta chưa đủ cơ sở để làm rõ mục
tiêu, bước đi, những chủ trương, biện pháp, những điều kiện cần thiết của công cuộc
CNH đất nước.
Như vậy, từ nhận thức về CNH của Đảng từ Đại hội III đến Đại hội V,
chúng ta đã có nhận thức và tiến hành công nghiệp hóa theo kiểu cũ với các đặc
trưng chủ yếu như sau:
- Một là, công nghiệp hóa theo mô hình nền kinh tế khép kín, hướng nội và
thiên về phát triển công nghiệp



- Hai là, công nghiệp hóa chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên đất
đai và nguồn viện trợ của các nước Xã hội chủ nghĩa, chủ lực thực hiện công nghiệp
hóa là Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước, việc phân bổ nguồn lực để công nghiệp
hoá chủ yếu bằng cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liệu trong nền kinh tế thị
trường
- Ba là, đã có sự nóng vội, giản đơn, chủ quan duy ý chí, ham làm nhanh, làm
lớn, không quan tâm đến hiệu quả kinh tế xã hội.
Tuy nhiên, cũng từ nhận thức về CNH của Đảng từ Đại hội III đến Đại hội V, ta
có thể thấy có bước chuyển căn bản, thể hiện rất rõ nét trong nhận thức về CNH của
Đại hội V, trở về với đúng với hướng CNH cần thiết phải đi của một nước nông
nghiệp có xuất phát điểm thấp: đi từ “Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp
lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ” đến “Ưu tiên phát triển
công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp
nhẹ” và tiếp tục “Tập trung sức phát triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận
hàng đầu; đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng; tiếp tục xây dựng một số ngành công
nghiệp nặng quan trọng, kết hợp thành cơ cấu công - nông nghiệp hợp lý”.
2.2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ thời kỳ đổi mới
2.2.1. Quá trình đổi mới tư duy về công nghiệp hóa.
a. Đại hội VI của Đảng phê phán sai lầm trong nhận thức và chủ trương
công nghiệp hóa thời kỳ 1960-1986.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12-1986) — Đại hội đổi
mới, với tinh thần "nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật" đã
nghiêm khắc chỉ ra những sai lầm trong nhận thức và chủ trương công nghiệp hóa thời
kỳ 1960-1985, mà trực tiếp là 10 năm, từ năm 1975 đến năm 1985. Đó là:


 Chúng ta đã phạm sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng


cơ sở vật chất — kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế, V.V.. Do
tư tưởng chỉ đạo chủ quan, nóng vội, muốn bỏ qua những bước đi cần thiết nên
chúng ta đã chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa trong khi chưa có đủ các tiền
đề cần thiết, mặt khác chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.
 Trong việc bố trí cơ cấu kinh tế, trước hết là cơ cấu sản xuất và đầu tư, thường
chỉ xuất phát từ lòng mong muốn đi nhanh, không kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu
công nghiệp với nông nghiệp thành một cơ cấu hợp lý, thiên về xây dựng công
nghiệp nặng và những công trình quy mô lớn, không tập trung sức giải quyết về
căn bản vấn đề lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Kết
quả là đầu tư nhiều nhưng hiệu quả thấp.
 Không thực hiện nghiêm chỉnh Nghị quyết của Đại hội lần thứ V như: vẫn chưa

thật sự coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, công nghiệp nặng không phục vụ
kịp thời nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
Từ việc chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm, Đại hội VI đã cụ thể hóa nội dung
chính của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên là thực hiện
cho bằng được 3 chương trình lương thực, thực phẩm; hàng tiêu dùng và hàng xuất
khẩu. Trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ. Ba
chương trình này liên quan chặt chẽ với nhau. Phát triển lương thực thực phẩm và
hàng tiêu dung là nhằm bảo đảm nhu cầu thiết yếu cho đời sống nhân dân sau mấy
chục năm chiến tranh ác liệt và trong bối cảnh của nền kinh tế còn đang trong tình
trạng thiếu hụt hàng hóa nghiêm trọng, góp phần ổn định kinh tế - xã hội; phát triển
hàng xuất khẩu là yếu tố quyết định để khuyến khích sản xuất và đầu tư trong nước,
tạo nguồn thu ngoại tệ để nhập khẩu máy móc thiết bị phục vụ sản xuất. Xác định thứ
tự ưu tiên đó đã cho phép phát huy sức mạnh nội lực và tranh thủ sức mạnh từ bên
ngoài để phát triển kinh tế xã hội.
=> Thực chất, đây là sự thay đổi trong lựa chọn mô hình chiến lược CNH,
chuyển từ mô hình hướng nội (thay thế nhập khẩu) trước đây bằng mô hình hỗn hợp



(hướng về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu) đang được áp dụng phổ biến và
khá thành công tại các nước Châu Á lúc bấy giờ.
b. Quá trình đổi mới tư duy về công nghiệp hóa từ Đại hội VI đến nay
 Tháng 12 năm 1986, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI khai mạc. Đại hội được

đánh dấu như một bước ngoặt mang tính lịch sử trong đổi mới tư duy và đường
lối phát triển đất nước trong thời kỳ mới, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế, mà
nội dung cốt lõi là phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, xóa bỏ cơ chế
kinh tế tập trung quan liêu bao cấp.
Đại hội nêu ra hai chặng đường của thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội;
trong đó chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội và xây
dựng những tiền đề cần thiết cho công nghiệp hóa; chặng đường tiếp theo là đẩy mạnh
sự nghiệp công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.
Đại hội cho rằng, chúng ta cần tiếp tục có những bước đi vững chắc ở chặng
đường đầu tiên và đưa ra mục tiêu: "nhiệm vụ trung tâm của công nghiệp hóa trong
thời kỳ này là vừa ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, vừa tiếp tục xây dựng
những tiền đề cần thiết cho công nghiệp hóa".
Nhìn lại quá trình lịch sử, ta thấy tư duy đổi mới, tiến hành công nghiệp hóa
này đã được đúc kết qua nhiều năm tìm tòi, nghiên cứu, thử nghiệm và bắt nguồn từ
quyết tâm đổi mới của Đảng ta trước đòi hỏi bức bách của cuộc sống và của thời đại.
 Đại hội VII của Đảng (tháng 6 năm 1991) đã nâng cao và phát triển đường lối

chính sách đổi mới do Đại hội VI đặt nền móng, Đảng ta tiếp tục có những nhận
thức mới ngày cảng toàn diện và sâu sắc hơn về quá trình công nghiệp hóa gắn
liền với hiện đại hóa đất nước, bước đột phá này thể hiện trước hết ở quan niệm
về công nghiệp hóa, hiện đại hóa: "Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình
chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và


quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một

cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp
tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học - công
nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao".
 Tháng 6 năm 1996, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII khai mạc. Đại hội đã
khẳng định những yếu tố cơ bản về đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa
(CNH, HĐH) của Việt Nam dựa trên chủ trương phát triển kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đưa ra
mục tiêu "xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ
thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc
phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”.
Đại hội đã thông qua 6 quan điểm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đó là: (1)
độc lập tự chủ đi đôi với hợp tác quốc tế; (2) CNH, HĐH là sự nghiệp của toàn dân;
(3) nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho phát triển nhanh và bền vững; (4) khoa
học và công nghệ là động lực của CNH, HĐH; (5) lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm
tiêu chuẩn phát triển; (6) kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh.
Đồng thời, Đại hội đã xác định mục tiêu tổng quát của Kế hoạch 5 năm 19962000 là “bước rất quan trọng của thời kỳ mới - đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Tập trung mọi lực lượng, tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách, đẩy
mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển kinh tế
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, phấn đấu đạt và vượt mục tiêu đã đề ra trong Chiến lược
ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000: tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu
quả cao và bền vững, đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội, bảo đảm
an ninh, quốc phòng, cải thiện đời sống của nhân dân, nâng cao tích luỹ từ nội bộ nền
kinh tế, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn vào đầu thế kỷ sau”


 Đại hội IX (năm 2001) và Đại hội X (năm 2006) Đảng ta tiếp tục bổ sung và

nhấn mạnh một số điểm mới trong tư duy về công nghiệp hóa:

-

Con đường công nghiệp hóa ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so

với các nước đi trước. Đây là yêu cầu cấp thiết của nước ta nhằm sớm thu hẹp khoảng
cách về trình độ phát triển so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Một nước
đi sau có điều kiện tận dụng những kinh nghiệm kỹ thuật, công nghệ và thành quả của
các nước đi trước, tận dụng xu thế của thời đại qua hội nhập quốc tế để rút ngăn thời
gian.
-

Tuy nhiên, tiến hành công nghiệp hóa theo lối rút ngắn so với các nước đi

trước, chúng ta cần thực hiện các yêu cầu như: Phát triển kinh tế và công nghệ phải
vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt; phát huy những lợi thế của đất
nước, gắn công nghiệp hóa với hiện đại hóa, từng bước phát triển kinh tế tri thức; phát
huy nguồn lực trí tuệ và tinh thần của con người Việt Nam, đặc biệt coi trọng phát
triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, xem đây là nền tảng và động lực cho
CNH, HDH. - Hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là phải phát triển nhanh
và có hiệu quả các sản phẩm, các ngành, các lĩnh vực có lợi thế, đáp ứng nhu cầu trong
nước và xuất khẩu.
-

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải bảo đảm xây dựng nền kinh

tế độc lập tự chủ, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tức là phải tiến hành công nghiệp
hóa trong một nền kinh tế mở, hướng ngoại.
-

Đẩy nhanh CNH, HDH nông nghiệp nông thôn với việc nâng cao năng


suất, chất lượng sản phẩm nông nghiệp.
-

Đẩy mạnh CNH, HDH phải tính toán đến yêu cầu phát triển bền vững

trong tương lai.


Nội dung Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “Chúng ta cần tranh thủ các cơ hội
thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với
phát triển kinh tế tri thức. Phải coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế
và công nghiệp hóa, hiện đại hóa”
Những tư duy đổi mới về CNH của Đảng đã không ngừng được hoàn
thiện, là bước tiến quan trọng, tạo ra những động lực mới đưa đất nước vượt qua nhiều
khó khăn thách thức; đạt được những thành tựu quan trọng về phát triển kinh tế - xã
hội trong thời gian qua.
2.2.2 Mục tiêu, quan điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
a. Mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa


Mục tiêu cơ bản: Cải biến nước ta thành một nước công nghiệp có:
 Cơ sở vật chất- kỹ thuật hiện đại
 Cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất
 Mức sống vật chất và tinh thần cao
 Quốc phòng- an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.
 Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, nước ta thành một nước công nghiệp

hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
 Đại hội X xác định mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại

hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, định hướng đến năm 2020
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện
đại.
b. Quan điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Bước vào thời kỳ đổi mới, trên cơ sở phân tích khoa học các điều kiện trong
nước và quốc tế, Đảng ta nêu ra những quan điểm mới chỉ đạo quá trình thực hiện


công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong điều kiện mới. Những quan điểm này
được hội nghị lần thứ 7 BCH TƯ Đảng khóa VII nêu ra và được phát triển, bổ sung
qua các Đại hội VIII, IX, X, XI của Đảng
 Một là, công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa và công nghiệp hóa, hiện đại hóa

gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyện môi trường
Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng
sản xuất. Cuộc cánh mạng khoa học và công nghệ hiện đại tác động sâu rộng tới mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội. Bên cạnh đó, xu thế hội nhập và tác động của quá trình
toàn cầu hóa đã tạo ra nhiều cơ hội cũng như thách thực đối với đất nước. Trong bối
cảnh đó nước ta phải tiến hành công nghiệp hóa theo kiểu rút ngắn thời gian khi biết
lựa chọn con đường phát triển kết hợp công nghiệp hóa với hiện đại hóa
Về đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
Theo định nghĩa của tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) thì kinh tế
tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò
quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc
sống. Trong nền kinh tế tri thức những ngành kinh tế có sự tác động to lớn tới sự phát
triển là những ngành dựa nhiều vào tri thức, dựa vào các thành tựu mới của khoa học
công nghệ. Đó là những ngành kinh tế mới dựa trên công nghệ cao như công nghệ

thông tin, công nghệ sinh học và những ngành kinh tế truyền thống như nông nghiệp,
công nghiệp, dịch vụ được ứng dụng công nghệ cao.
Đại hội X của Đảng chỉ rõ: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Nước ta thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa khi trên thế giới kinh tế tri
thức đã phát triển. Chúng ta có thể và cần thiết không phải trải qua các bước phát triển


tuần tự từ kinh tế nông nghiệp lên kinh tế công nghiệp rồi mới phát triển kinh tế tri
thức. Chúng ta cần phải tranh thủ các cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và
tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với kinh tế tri thức.
Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh thêm: thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước gắn với phát triển tri thức và bảo vệ tài nguyên môi trường; xây dựng cơ cấu
kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và bền vững, gắn chặt chẽ nông nghiệp, công
nghiệp và dịch vụ.
 Hai là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị trường theo

định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Khác với công nghiệp hóa thời kỳ trước, thời kỳ đổi mới công nghiệp hóa, hiện
đại hóa được tiến hành trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhiều
thành phần. Do đó công nghiệp hóa, hiện đại hóa không chỉ là việc của nhà nước mà là
sự nghiệp của toàn dân, mọi thành phần kinh tế, trong đó nền kinh tế nhà nước là chủ
đạo. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị trường giúp cho khai
thác và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực trong nền kinh tế, đẩy nhanh quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế của nước ta hiện nay diễn ra trong
bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế, tất yếu phải hội nhập, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội mở rông quan hệ kinh tế đối ngoại, thu hút vốn đầu

tư nước ngoài, thu hút công nghệ hiện đại và học hỏi được nhiều kinh nghiệm của các
nước đi trước, đồng thời khai thác thị trường thế giới, đẩy mạnh xuất khẩu những sản
phẩm có tính cạnh tranh cao. Nói cách khác đó là việc kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại để phát triển kinh tế nói chung và công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói
riêng nhanh hơn, hiệu quả hơn.


 Ba là, lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh

và bền vững.
Trong các yếu tố tham gia vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, yếu tố
con người luôn được coi là cơ bản. Để tăng trưởng kinh tế cần 5 yếu tố là: vốn, khoa
học công nghệ, con người, cơ cấu kinh tế, thể chế chính trị và quản lý nhà nước. Trong
đó con người là yếu tố quyết định. Để phát triển nguồn lực con người đáp ứng yếu cầu
của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cần đặc biệt chú ý đến phát triển giáo dục
đào tạo. Đại hội VII nêu rõ: Đào tạo, giáo dục con người là chiến lược hàng đầu.
Nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi phải đủ số lượng,
cân đối về cơ cấu và trình độ, có khả năng nắm bắt và sử dụng các thành tựu khoa học
và công nghệ tiên tiến của thế giới và có khả năng tạo ra công nghệ mới. Đại hội XI
chỉ rõ: Phát triển và nâng chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá
chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công
nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh
quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững.
 Bốn là, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của công nghiệp hóa,

hiện đại hóa.
Vai trò của khoa học, công nghệ: có vai trò quyết định đến tăng năng suất lao
động, giảm chi phí sản xuất, nâng cao lợi thế cạnh tranh và phát triển kinh tế nói
chung, giúp cho quá trình công nghiệp hóa được rút ngắn, khoa học công nghệ của thế
giới chuyển sang một nền kinh tế mới là nền kinh tế tri thức.

Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế kém phát triển, và tiềm lực
khoa học công nghệ còn ở trình độ thấp. Muốn đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn với phát triển tri thức thì phải phát triển khoa học và công nghệ là tất
yếu.


Phải đẩy mạnh việc chọn lọc, nhập công nghệ, mua sáng chế kết hợp với phát
triển công nghệ nội sinh, để nhanh chóng đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ,
nhất là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và công nghệ vật liệu mới.
 Năm là, phát triển nhanh và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển

văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu nước
mạnh dân chủ công bằng văn minh. Để thực hiện mục tiêu đó trước hết kinh tế phải
phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững. Chỉ như vậy mới có thể xóa đói giảm nghèo,
nâng cao đời ống, phát triển văn hóa, giáo dục y tế, rút ngắn khoảng cách chênh lệch
giữa các vùng… Mục tiêu đó thể hiện sự phát triển vì con người, mọi con người đều
được hưởng thành quả của sự phát triển.
Phát triển kinh tế gắn liền với việc bảo vệ môi trường, không làm ảnh hưởng
xấu đến môi trường là nội dung của phát triển bền vững.
2.2.3. Nội dung và định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức
a. Nội dung
Quan điểm của Đại hội X: Chúng ta phải tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh
quốc tế tạo ra và tiềm năng lợi thế của đất nước để rút ngắn quá trình CNH, HĐH đất
nước theo định hướng XHCN gắn với phát triển kinh tế tri thức. Phải coi kinh tế tri
thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và CNH, HĐH.
Nội dung cơ bản của quá trình này:
- Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tang cao dựa
nhiều vào tri thức, kết hợp sử dụng nguồn vốn tri thức của con người Việt Nam với tri

thức mới nhất của nhân loại.


- Coi trọng cả số lượng và chất lượng tăng trưởng kinh tế trong mỗi bước phát
triển của đất nước, ở từng vùng, từng địa phương, từng dự án kinh tế - xã hội.
- Xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại và hợp lý theo ngành, lĩnh vực và lãnh thổ.
- Giảm chi phí trung gian, nâng cao năng suất lao động của tất cả các ngành,
lĩnh vực, nhất là các ngành, lĩnh vực có sức cạnh tranh cao.
b. Định hướng phát triển các ngành và lĩnh vực kinh tế trong quá trình đẩy
mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức:
-

Một là: Đẩy mạnh công nghiệp hóa , hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn,

giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân:
+Về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn:


Chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng tạo ra
giá trị gia tăng ngày càng cao, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường. Đẩy
nhanh tiến bộ khoa học- kỹ thuật và công nghệ sinh học vào sản xuất, nâng cao
năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nông sản hang hóa, phù hợp với đặc

điểm từng vùng và từng địa phương.
• Tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch
vụ; giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp.
+ Về quy hoạch phát triển nông thôn:
Khẩn trương xây dựng các quy hoạch phát triển nông thôn, thực hiện chương
trình nông thôn mới.
Hình thành các khu dân cư đô thị với kết cấu kinh tế- xã hội đồng bộ.

Phát huy dân chủ ở nông thôn đi đôi với xây dựng nếp sống văn hóa, nâng cao
trình độ dân trí, đảm bảo an ninh, trật tự, an toàn xã hội.


+ Về giải quyết lao động, việc làm ở nông thôn: Chú trọng dạy nghề, giải quyết
việc làm cho nông dân. Chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn theo hướng giảm
nhanh tỷ trọng lao động làm nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao đông làm công nghiệp và
dịch vụ. Tạo điều kiện để lao động nông thôn có việc làm trong và ngoài khu vực nông
thôn, kể cả đi lao động nước ngoài; đầu tư mạnh hơn cho các chương trình xóa đói
giảm nghèo.
-

Hai là. Phát triển nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ:

+ Đối với công nghiệp và xây dựng:
Khuyến khích phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chế tác, công
nghiệp phần mềm và công nghiệp bổ trợ có lợi thế cạnh tranh, tạo nhiều sản phẩm xuất
khẩu và thu hút nhiều lao động; phát triển một số khu kinh tế mở và đặc khu kinh tế.;
nâng cao hiệu quả của các khu công nghiệp và khu chế xuất.
Tích cực thu hút vốn trong và ngoài nước để thực hiện các dự án quan trọng.
Hạn chế xuất khẩu tài nguyên thô. Có chính sách thu hút chuyên gia giỏi ở nước ngoài.
Xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng kỹ thuật kinh tế- xã hội, Phát triển công
nghiệp năng lượng gắn với công nghệ tiết kiệm năng lượng. Tăng nhanh năng lực và
hiện đại hóa bưu chính viễn thông.
+Đối với dịch vụ:
Tạo bước phát triển vượt bậc của các ngành dịch vụ, nhất là những ngành có
chất lượng cao, tiềm năng lớn và có sức cạnh tranh; mở rộng và nâng cao các ngành
dịch vụ truyền thông như vận tải, thương mại, ngân hang, bưu chính viễn thông , du
lịch. Phát triển mạnh các dịch vụ phục vụ sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp; phục vụ đời
sống khu vực nông thôn.

Đổi mới cơ chế quản lý và phương thức cung ứng các dịch vụ công cộng.


-Ba là: Phát triển kinh tế vùng:
+Có cơ chế chính sách phù hợp để các vùng trong cả nước phát triển nhanh hơn
trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh của từng vùng, đồng thời tạo ra sự liên kết giữa các
vùng, khắc phục tình trạng chia cắt khép kín theo địa giới hành chính.
+Xây dựng ba vùng kinh tế trọng điểm ở miền Bắc, miền Trung và miền Nam
để tạo động lực phát triển và sự lan tỏa đến các vùng khác, có chính sách trợ giúp
nhiều hơn về nguồn lực để phát triển các vùng khó khan.
-Bốn là: Phát triển kinh tế biển
Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển (hệ thống cảng biển và
vận tải biển, công nghiệp đóng tàu biển, khai thác và chế biến dầu khí, khai thác và
chế biến hải sản, phát triển du lịch,..). Sớm đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về
kinh tế biển trong khu vực, gắn với bảo đảm quốc phòng- an ninh và hợp tác quốc tế.
-Năm là: Chuyển dich cơ cấu lao động và cơ cấu công nghệ:
+Phát triển nguồn nhân lực có cơ cấu đồng bộ và chất lượng cao; giảm tỷ lệ lao
động trong khu vực nông nghiệp, đến năm 2010 còn dưới 50% lực lượng lao động xã
hội.
+Phát triển khoa học và công nghệ phù hợp với xu thế phát triển nhảy vọt của
cách mạng khoa học và công nghệ. Lựa chọn và đi ngay vào công nghệ hiện đạo ở một
số ngành và lĩnh vực then chốt. Chú trọng phát triển công nghệ cao để tạo đột phá và
công nghệ sử dụng nhiều lao động để giải quyết việc làm.
+Kết hợp chặt chẽ giữa hoạt động khoa học và công nghệ với giáo dục và đào
tạo. Thực hiện chính sách trọng dụng nhân tài.
+Đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ, đặc biệt là cơ chế tài chính.


×