Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Luận văn thế giới nhân vật trong văn xuôi phùng thiên tân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.95 MB, 103 trang )

B ộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC s ư PHẠM HÀ NỘI 2

ĐỖ THỊ HOA SEN

THÉ GIỚI NHÂN VẬT
TRONG VĂN XUÔI PHÙNG THIÊN TÂN
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 60 22 o i 20

LUẬN VĂN THẠC SĨ
N G Ô N N G Ữ VÀ VĂN H ổ A VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ KIÈU ANH

HÀ NỘI, 2015


LỜI CẢM ƠN

Lời đàu tiên, tôi xin được gửi lời cảm ơn đến Ban gửim hiệu, Phòng
Sau đại học trường Đại học Sư phạm Hà Nội II và các thầy cô giáo trực tiếp
giảng dạy đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập
tại trường.
Vái tình cảm sâu sắc, tôi xin bày tỏ lòng biết on chân thành đến TS.
Nguyễn Thị Kiểu Anh người đã tận tình hưởng dẫn, trợ giúp và động viên tôi
trong thòi gian nghiên cứu để tôi hoàn thành luận vãn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn nhà văn Phùng Thiên Tân đã đóng góp ý
kiến và chỉ bảo tôi trong quá trình nghiên cứu.
Tôi cũng xin gửi lòi tri ân tới gia đình, bạn bè đồng nghiệp là những
người đã sát cánh cùng tôi, giúp đỡ tôi trong suốt thòi gian qua để tôi có thể


thực hiện tốt mọi công việc.
Hà Nội, ngày 16 tháng 7 năm 2015
Tác giả

Đỗ Thi Hoa Sen



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả được trình bày ưong luận văn là trung thực và chưa
từng được công bố trong công trình nào khác.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước lời cam đoan của mình!
Hà Nội, ngày 16 tháng 7 năm 2015
Tác giả

Đỗ Thị Hoa Sen


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài....................................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu.................................................................................3
3. Nhiệm vụ nghiên cứu................................................................................ 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.............................................................3

5. Phương pháp nghiên cứ u......................................................................... 4
6. Đóng góp của luận văn..............................................................................4
NỘI DUNG
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về nhân vật văn học và tác
giả Phùng Thiên Tân......................................................................................... 5
1.1. Những vấn đề chung về nhân vật................................................................5
1.1.1. Khái niệm về nhân vật văn học...........................................................8
1.1.2. Chức năng của nhân vật trong tác phẩm văn học.............................12
1.1.3. Các tiêu chí phân loại nhân vật văn học...........................................10
1.1.4. Một số đặc điểm của nhân vật trong văn xuôi Việt Nam hiện đại.... 16
1.2. Tác giả Phùng Thiên Tân với đề tài Vì an ninh tổ quốc và bình yên
cho cuộc sống.................................................................................................... 19
Chưoug 2: Các loại nhân vật trong văn xuôi của Phùng Thiên Tân....... 24
2.1. Nhân vật người chiến sĩ công an................................................................25
2.2. Nhân vật phạm nhân...................................................................................42
2.3. Nhân vật những người dân thường............................................................53


Chương 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong văn xuôi Phùng Thiên
Tân__________________________________________________________ 64
3.1. Nhân vật được thể hiện qua cách đặt tê n ..................................................64
3.2. Nhân vật được thể hiện qua miêu tả ngoại hình.......................................66
3.3. Nhân vật được thể hiện qua hành động.....................................................70
3.4. Nhân vật được thể hiện qua ngôn ngữ ......................................................74
3.4.1. Ngôn ngữ nhân vật...........................................................................74
3.4.2. Ngôn ngữ tác giả.............................................................................. 89
KẾT LUẬN..................................................................................................... 95
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................. 97



1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn học viết về đề tài Vì an ninh tổ quốc và bình yên cuộc sống đóng
góp một phần quan trọng vào nền văn học nước nhà. Bên cạnh những mảng
sáng, cuộc sống luôn tồn tại những mảng tối, phàn bóng đêm còn chìm lấp.
Những xung đột giữa cái Thiện và cái Ác ừong cuộc sống hôm nay là vấn đề
nóng bỏng của văn học. Giống như một sự trả giá, để đem đến cuộc sống bình
yên cho mọi người có cả một lớp người phải vào cuộc chống lại cái Ác, bảo
vệ bình yên cho cuộc sống, bình yên cho lòng người. Trật tự cuộc sống được
lập lại sau những nỗ lực bền bỉ, phi thường, những hy sinh thầm lặng không
kể xiết. Khi vụ án kết thúc cũng là lúc văn chương bắt đầu. Văn xuôi viết về
đề tài này trước đây giống như mảnh đất hoang hóa ít người khai thác nhưng
hiện nay mảng sáng tác này đã thu hút một lực lượng sáng tác đông đảo mà đa
phần là sáng tác của những nhà văn công an.
Là một trong số những tên tuổi tiêu biểu đặt nền móng cho phong trào
sáng tác văn học trong ngành công an, Phùng Thiên Tân đã chứng tỏ bút lực
dồi dào của mình ở địa hạt này. vốn là một sĩ quan an ninh được đào tạo bài
bản, cái duyên với ngành công an đã mang đến cho ông một duyên may tình
cờ với văn học nghệ thuật. Ngành công an trở thành chiếc càu nối nối liền
Phùng Thiên Tân chiến sĩ và Phùng Thiên Tân nghệ sĩ. Môi trường hoạt động
ừong ngành công an là mảnh đất phì nhiêu màu mỡ để nhà văn gieo ừồng, nuôi
dưỡng những “mầm xanh văn học”.
Tài năng của ông được khẳng định qua nhiều thể loại khác nhau: tiểu
thuyết, truyện ngắn, thơ. Ở mảng đề tài Vz' an ninh tổ quốc và bình yên cuộc
sống Phùng Thiên Tân đã đạt được nhiều thành công với những tiểu thuyết
tiêu biểu như: SBC xung trận, Hồ sơ chưa kết thúc, sống để đời yêu,



2

Chuyện tình mù quáng và các tập truyện ngắn như: Một chiều mưa xưa,
Giây phút ẩy đã qua... Sáng tác của ông bám sát hiện thực nhiều mặt, quan
tâm đến con người cá nhân trong cuộc sống thường nhật. Những trang viết ấy
hấp dẫn người đọc không chỉ bởi cái tài của một người cầm bút mà còn bởi
trái tim ấm nóng của một nhà văn giàu lòng thương người và luôn trắc ẩn với
cuộc đời.
Là một nhà vãn có nhiều đóng góp cho văn học ừong lực lượng công
an nói riêng cũng như trong nền văn học hiện đại nói chung nhưng cho đến
nay qua khảo sát chúng tôi nhận thấy chưa có một công trình nào đi sâu
nghiên cứu một cách có hệ thống về văn xuôi Phùng Thiên Tân.
Chúng tôi đã tập họp được một số ý kiến bàn về sáng tác của nhà văn
Phùng Thiên Tân. Các ý kiến chỉ dừng lại ở mức phác thảo khái quát và sơ lược.
Bài viết SBC xung trận Ký ức một thời tuổi trẻ của tác giả Khánh
Linh, Nguồn: , đã viết về quá trình thâm nhập thực tế của
nhà văn, những năm tháng được sống, được chứng kiến những chiến công của
những chiến sĩ SBC huyền thoại. Khánh Linh đã có những phát hiện tinh tế về
nghệ thuật xây dựng nhân vật của nhà văn “Mỗi chàng trai một tỉnh cách,
nhưng ở họ đều toát lên sự khảng khái, tinh thần nghĩa hiệp, xả thân của
những chiến sĩ cảnh sát hình sự trước thời cuộc. Ở đó không chỉ có những
chiến công, những cuộc rượt đuổi mưu trí, dũng cảm để đổi phó với những
băng nhóm tội phạm khét tiếng. Mà còn là tâm tư, tình cảm đời thường của
họ. Những mâu thuẫn, những cuộc đẩu tranh và tình yêu, đó là cuộc sổng đời
thường của những chiến sĩ cảnh sát được khắc họa rẩt rõ nét.”... “Họ, những
con người không sổng dựa vào hào quang quá khứ của ông cha mà bằng lý
tưởng sổng của tuổi trẻ đã góp phần viết nên một trang hào hùng của lực
lượng cảnh sát trong thời điểm cam go của lịch sử” [17].



3

Bài viết Sống để đời yêu - S ự lựa chọn cho một quan niệm sắng của
tác giả Thủy Nguyên lại chỉ ra các tuyến nhân vật và nội dung tư tưởng của
tác phẩm “Nhà văn tập trung khai thác hình tượng người chiến sĩ công an
trên cả hai phương diện: con người cần mẫn, hết lòng vì công việc, vì bình
yên của người dân và con người của những mưu mô, toan tính đậm chất đời
thường1'’ [23]. “Tiểu thuyết sổng để đời yêu mang thông điệp sâu sắc, đậm
chất triết học: “Con người phải sổng cho tròn bổn phận của mình” [23].
Trên cơ sở kế thừa, tiếp thu những ý kiến đi trước chúng tôi chọn đề tài
Thế giới nhân vật trong văn xuôi Phùng Thiên Tân với mong muốn tìm hiểu
một cách sâu sắc về thế giới nhân vật vô cùng phong phú của cây bút này.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở khảo sát tiểu thuyết và truyện ngắn của Phùng Thiên Tân,
luận văn nhằm tìm hiểu, khám phá, khẳng định thế giới nhân vật phong phú
ừong văn xuôi Phùng Thiên Tân; chỉ ra những nét độc đáo, đặc sắc ừong
nghệ thuật xây dựng nhân vật của tác giả. Qua đó để khẳng định những đóng
góp của Phùng Thiên Tân ở mảng đề tài Vì an ninh tổ quốc và bình yên cuộc
sống nói riêng và văn học hiện đại Việt Nam nói chung.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trình bày những vấn đề lý thuyết về thế giới nhân vật.
Chỉ ra các loại nhân vật, đặc điểm của thế giới nhân vật và nghệ thuật
xây dựng nhân vật trong văn xuôi Phùng Thiên Tân.
4. Đối tượng và phạm vỉ nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung tìm hiểu thế giới nhân vật ừong văn xuôi Phùng
Thiên Tân.


4


4.2.

Phạm vỉ nghiên cứu
Luận văn tập trung khảo sát, thống kê phân tích mảng đề tài Vỉ an ninh

tổ quốc và bình yên cuộc sống của Phùng Thiên Tân qua bốn tiểu thuyết:
Sống để đời yêu, Hồ sơ chưa kết thúc, SBC xung trận, Chuyện tình mù
quáng và hai tập truyện ngắn Giây phút ẩy đã qua, Một chiều mưa xưa.
Trong quá trình khảo sát chúng tôi sẽ mở rộng thêm một số tác phẩm
của những nhà văn khác cùng viết về đề tài Vì an ninh tổ quốc và bình yên
cuộc sổng để có sự so sánh, đối chiếu.
5. Phương pháp nghiên cứu
Khi nghiên cứu, chúng tôi chủ yếu sử dụng một số phương pháp sau:
- Phương pháp thống kê, phân loại
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
- Phương pháp loại hình
6. Đóng góp của luận văn
Chỉ ra những đặc sắc về thế giới nhân vật và nghệ thuật xây dựng nhân
vật trong văn xuôi Phùng Thiên Tân.
Đánh giá đóng góp của nhà văn ở mảng đề tài Vỉ an ninh tổ quốc và
bình yên cuộc sống qua đó khẳng định tài năng của nhà văn trong nền văn học
hiện đại Việt Nam.


5

Chương 1
NHỮNG VẮN ĐÈ LÝ LUẬN CHUNG VÈ NHÂN VẬT VĂN HỌC







VÀ TÁC GIẢ PHÙNG THIÊN TÂN

1.1. Những vấn đề chung về nhân vật
1.1.1. Khái niệm nhăn vật văn học
Trong tác phẩm văn học, nhân vật đóng vai trò hết sức quan trọng. Nhân
vật là đối tượng trung tâm; là linh hồn của tác phẩm văn học. Qua nhân vật,
nhà văn bày tỏ quan điểm, tư tưởng nhận thức... trước cuộc đòi và con người,
gửi gắm những tình cảm, suy tư, trải nghiệm của chính lòng mình, đời mình.
Đồng thời, thể hiện tài năng, cá tính, phong cách của mình.
*

về phương diện thuật ngữ

Thuật ngữ “nhân vật” xuất hiện từ rất sớm. Trong tiếng Hy Lạp cổ
“nhân vật ” (đọc là persona) vốn mang ý nghĩa là “cái mặt nạ” một dụng cụ
biểu diễn của diễn viên trên sân khấu. Nhưng sau đó nó trở thành thuật ngữ để
chỉ nhân vật văn học.
Đôi khi nhân vật văn học còn được người ta gọi bằng các thuật ngữ khác
như “vai” (actor), “tính cách” (character). Tuy nhiên, các thuật ngữ này có
một nội hàm hẹp hơn so với “nhân vật”. Thuật ngữ “vai” chủ yếu nhấn mạnh
đến tính chất hành động của cá nhân, thích hợp với loại nhân vật hành động.
Còn thuật ngữ “tỉnh cách ” lại thiên về chỉ những nhân vật có tính cách. Trong
thực tế sáng tác, không phải nhân vật nào cũng hành động, đặc biệt là những
nhân vật thiên về suy tư và cũng không phải nhân vật nào cũng có tính cách rõ

rệt. Từ đó, có thể thấy các thuật ngữ “vai”, “tính cách ” không bao quát được
hết những biểu hiện khác nhau của các loại nhân vật trong sáng tác văn học.


6

Như vậy, “nhân vật” là thuật ngữ có nội hàm phong phú, đủ khả năng
bao quát những hiện tượng phổ biến của tác phẩm văn học ở mọi bình diện và
_
câp
độ.


Á

4 Ạ

* Khái niệm nhân vật văn học
Thực tế cho thấy, trong giới nghiên cứu phê bình văn học đã có rất nhiều
quan điểm khác nhau về nhân vật văn học.
Trong cuốn Từ điển văn học: “Nhân vật là yếu tổ cơ bản nhất trong tác
phẩm văn học, tâm điểm để bộc ỉộ chủ đề, tư tưởng chủ đề và đến lượt mình
nó lại được các yếu tố cỏ tỉnh chất hình thức của tác phẩm tập trung khắc
họa. Nhân vật, do đó là nơi tập trung giá trị tư tưởng - nghệ thuật của tác
phẩm văn học” [28, 86]. Với định nghĩa này, các nhà biên soạn từ điển đã
nhìn nhận nhân vật từ khía cạnh vai trò, chức năng của nó đối với tác phẩm
văn học và từ mối quan hệ của nó với các yếu tố hình thức tác phẩm. Có thể
coi đây là một định nghĩa tương đối toàn diện về nhân vật văn học.
Trong 150 thuật ngữ văn học, tác giả Lại Nguyên Ân đề xuất một quan
điểm khác. Ông xem xét nhân vật trong mối tương quan với cá tính sáng tạo,

phong cách nhà văn, trường phái văn học. Theo ông:
“Nhân vật văn học là một trong những khái niệm trung, tâm để xem xét
sáng tác của một nhà văn, một khuynh hướng, trường phái hoặc dòng phong
cách. Nhân vật văn học, là hình tượng nghệ thuật về con người, một trong những
dấu hiệu về sự tồn tại toàn vẹn của con người trong nghệ thuật. Bên cạnh con
người, nhân vật văn học có khi còn là các con vật, các loài cây, các sinh thể
hoang đường được gán cho những đặc điểm giống con người ” [1; 241].
Như vậy, với quan niệm này, nhân vật văn học sẽ là một ừong những
yếu tố tạo nên phong cách nhà văn và màu sắc riêng của một trường phái văn


7

học. Nhà nghiên cứu này còn chỉ ra những đối tượng tiềm tàng khả năng trở
thành nhân vật văn học.
Trong Từ điển thuật ngữ văn học của tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,
Nguyễn Khắc Phi, nhân vật văn học lại được định nghĩa: â‘là con người cụ thể
được miêu tả trong tác phẩm văn học. Nhân vật văn học có thể có tên riêng
(Tẩm, Cám, Chị Dậu, Anh Pha...) cũng có thể không có tên riêng (Thằng bán
tơ...) Khái niệm nhân vật văn học có khỉ được sử dụng như một ẩn dụ, không
chỉ là một con người cụ thể mà chỉ một hiện tượng văn học nổi bật nào đó
trong tác phẩm... Nhân vật văn học là một đơn vị đầy tỉnh ước lệ, không thể
đồng nhất nó với con người có thật trong đời sổng” [6, 235].
Quan điểm ừên của nhóm tác giả cuốn Từ điển thuật ngữ văn học về
nhân vật văn học có phần thu hẹp hơn.
Ngoài ra, một số nhà nghiên cứu khác lại định nghĩa nhân vật dựa trên
tiêu chí chức năng phản ánh hiện thực của tác phẩm văn học. Nhân vật là
phương tiện để nhà văn tái hiện đời sống, mở rộng thế giới nghệ thuật cho
tác phẩm.
Như vậy, nhìn một cách tổng quát, vấn đề nhân vật văn học đã thu hút

được khá nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, nhà lý luận văn học. Tuy
cách nhìn nhận và diễn đạt khác nhau song tựu chung lại, các ý kiến cơ bản
gặp nhau trong sự khẳng định: Thứ nhất, đó phải là đối tượng mà văn học
miêu tả, thể hiện bằng phương tiện văn học. Thứ hai, đó là những con người
hoặc những con vật, sự vật, đồ vật, hiện tượng mang linh hồn của con người,
là hình ảnh gần gũi của con người. Thứ ba, đó phải là đối tượng mang tính
ước lệ và có cách điệu so với đời sống hiện thực bởi nó đã được khúc xạ qua
lăng kính chủ quan của nhà văn. Nghiên cứu về tác phẩm văn chương cần


8

phải tiếp cận nhân vật để chỉ ra cái mới trong ngòi bút nhà văn và đưa ra kết
luận về những đóng góp riêng của nhà văn đó.
Những quan niệm về nhân vật văn học trên đây là những chỉ dẫn cho
chúng tôi ừong quá trình tìm hiểu về nhân vật nói chung và nhân vật trong
văn xuôi của Phùng Thiên Tân nói riêng.
1.1.2. Chức năng của nhăn vật văn học
Trong tác phẩm văn học, nhân vật đóng vai trò là tâm điểm của sự thể
hiện đời sống. Nhân vật không chỉ là “tiêu điểm để bộc lộ chủ đề” mà còn là
nơi “tập trung giá trị nghệ thuật tư tưởng của tác phẩm”. Một tác phẩm không
thể thiếu vắng nhân vật. Khi nhân vật xuất hiện, cái gọi là “hiện thực cuộc
sống” không còn tồn tại như một khái niệm khô khan trừu tượng, khám phá,
suy ngẫm những vấn đề có ý nghĩa về cuộc đời. Nói như nhà văn Anh Đức thì
sức sống của nhà văn chính là việc xây dựng những nhân vật đặc sắc. Tất
nhiên, đó không phải là điều đơn giản.
Chức năng của nhân vật là khái quát những quy luật của cuộc sống con
người, thể hiện những hiểu biết, những ước ao và kỳ vọng về con người.
Nhân vật văn học là hình ảnh về con người. Trong vai trò của một “người thư
kỷ trung thành của thời đại ” (Banzac), văn học trở thành một phương thức

khái quát, phản ánh về thể hiện cuộc sống bằng những hình tượng nhân vật cụ
thể vô cùng hữu hiệu. Do vậy, vai trò, chức năng quan trọng đầu tiên phải kể
đến của nhân vật văn học là phương tiện để nhà văn khái quát hiện thực. Nhân
vật chính là người dẫn dắt người đọc vào thế giới riêng của đời sống trong
một thời kỳ lịch sử nhất định.
Thứ nhất, nhân vật có chức năng của một chiếc chìa khóa, giúp nhà vãn
mở cánh cửa bước vào hiện thực rộng lớn, tiếp cận những đề tài mới mẻ. Sự
phát triển của cốt truyện cũng như tình tiết truyện chính là sự xoay quanh các


9

nhân vật trong tác phẩm, qua đó tác giả gửi gắm những giá trị nội dung và tư
tưởng. Có thể khẳng định, nhân vật sẽ quyết định việc nhà văn đi sâu vào vấn
đề cốt lõi nào của đời sống và thế giới nghệ thuật mà nó tạo nên, vì thế mà
cũng có nét riêng phù hợp.
Thứ hai, nhân vật trong tác phẩm văn học được coi là phương tiện để
khái quát các loại tính cách xã hội. Với chức năng này, nhân vật chứng tỏ
được ưu thế vô song của mình trong việc phản ánh bản chất xã hội trong một
hiện tượng mang tính chất kết tinh là tính cách. Khi mang trong mình sự khái
quát tính cách nhất định, nhân vật vừa có nét riêng lại vừa có khả năng đại
diện cho một lớp người nào đó. Trong đời sống ta được tiếp xúc với nhiều
loại tính cách khác nhau. Đây là hiện tượng thú vị của thực tế khách quan, đòi
hỏi được văn học nghiên cứu và tìm hiểu. Mỗi nhân vật có phẩm chất riêng
nổi bật.Với nhân vật Grăngđê (trong tiểu thuyết Eugenie Grandet), H.de
Banlzac đã tạo ra một loại tính cách keo kiệt, bủn xỉn đặc trưng của giai cấp
tư sản (thời tích lũy tư bản)...
Nhà văn Nga - Xô viết K. Fedin từng hình dung nhân vật giống như
“một công cụ” hữu hiệu giúp người viết nhận ra bản chất của đời sống và giúp
độc giả thấu hiểu những quy luật sâu xa đang ngầm chi phối mọi diễn biến

lịch sử. Quả vậy, nếu không có một nhân vật mang tính cách đa diện của thời
Âu hóa và có số phận may mắn lạ lùng như Xuân Tóc Đỏ thì làm sao Vũ
Trọng Phụng có thể thâu tóm thần tình đến vậy bản chất của xã hội (xã hội
thực dân nửa phong kiến) mà ông gọi là xã hội “chó đểu”. Bởi vậy, lý luận
văn học đã chỉ ra tính cách là sự khái quát bản chất xã hội - lịch sử, tâm lý
con người bằng hình thức con người cụ thể, là sự thể hiện các phẩm chất xã
hội của con người với tư cách là con người xã hội. Tính cách là điểm trung
tâm của các mối quan hệ giữa nội dung và hình thức.


10

Thứ ba, nhân vật văn học cỏ chức năng biểu hiện quan niệm nghệ thuật
của nhà văn về thế giới và con người. Khi xây dựng nhân vật, nhà văn có mục
đích gắn liền nó với những vấn đề mà nhà văn muốn đề cập nó trong tác
phẩm. Do đó, bên cạnh việc xác định những tính cách của nhân vật ừong tác
phẩm, càn nhận ra hiện thực và quan niệm của nhà văn mà nhân vật thể hiện.
Một chức năng khác của nhân vật trong tác phẩm là chức năng tạo nên
mối liên kết giữa các sự kiện trong tác phẩm và cốt truyện. Nhờ nhân vật mà
kết cấu của nhiều tác phẩm đạt được sự thống nhất, hoàn chỉnh, chặt chẽ và
nhiều tiềm năng biểu đạt của các phương tiện ngôn từ được phát lộ, để rồi tự
chúng trở thành những phương tiện nghệ thuật độc lập có thể được nghiên
cứu riêng như một đối tượng thẩm mỹ chuyên biệt.
Với vai ừò, vị trí quan ừọng như vậy, một lần nữa có thể khẳng định:
Nhân vật là yếu tố không thể thiếu đối với tác phẩm văn chương. Hiểu được
đúng đắn chức năng của nhân vật văn học, người viết có thêm cơ sở lý luận để
nghiên cứu đề tài này.
1.1.3. Các tiêu chí phân loại nhân vật văn học
Nhân vật văn học là hiện tượng hết sức đa dạng. Những nhân vật được
xây dựng thành công là những sáng tạo độc đáo không lặp lại. Tuy nhiên,

xét về mặt nội dung, cấu trúc, chức năng có thể thấy những hiện tượng lặp
đi lặp lại tạo thành các loại nhân vật khác nhau. Để chiếm lĩnh thế giới
nhân vật đa dạng, có thể tiến hành phân loại dưới nhiều góc độ, theo nhiều
tiêu chí khác nhau.
1.1.3.1. Phân loại theo tầm quan trọng và vai trò của nhân vật trong tác
phẩm (xét từ góc độ kết cẩu)
Xét về vị trí và vai trò của nhân vật trong tác phẩm văn học có thể chia
thành: nhân vật chính, nhân vật phụ, nhân vật trung tâm.


11

* Nhăn vật chính
Nhân vật chính là nhân vật xuất hiện nhiều trong tác phẩm, tham gia hầu
hết các sự kiện chính được miêu tả, giữ vai trò then chốt trong việc thúc đẩy
sự phát triển của cốt truyện và là cơ sở quan trọng để nhà văn triển khai đề tài
trung tâm hay tư tưởng nghệ thuật cơ bản của mình.
Nhân vật chính thường được tập trung miêu tả, khắc họa tỉ mỉ từ ngoại
hình, nội tâm, quá trình phát triển tính cách. Trong tác phẩm, nhân vật chính
có thể có nhiều hoặc ít tùy theo dung lượng hiện thực và những vấn đề đặt ra
ừong tác phẩm. Trong Truyện Kiểu (Nguyễn Du) nhân vật chính là Thúy
Kiều, Kim Trọng, Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh, Thúc Sinh, Hoạn Thư,
Từ Hải, Hồ Tôn Hiến. Trong Tắt Đèn (Ngô Tất Tố), nhân vật chính là Nghị
Quế, Chị Dậu. Ở những tác phẩm có nhiều tuyến cốt truyện hoặc có quy mô
sử thi đồ sộ, số lượng nhân vật có thể lên đến hàng chục, thậm chí hàng trăm.
Đó là trường hợp của những tác phẩm như: Thủy H ử (Thi Nại Am), Tam
Quốc Diễn Nghĩa (La Quán Trung),...
* Nhân vật trung tâm
Trong một tác phẩm có nhiều nhân vật chính, nhân vật chính có vai trò
quan trọng hơn cả xuyên suốt toàn bộ tác phẩm được gọi là nhân vật trung

tâm. Ở một số tác phẩm, số lượng nhân vật trung tâm không phải chỉ có một
bởi do các nhân vật đều có vai trò tương đương nhau trong việc thể hiện
những xung đột cơ bản của tác phẩm. Chẳng hạn tác phẩm Tam Quốc Diễn
Nghĩa (La Quán Trung), các nhân vật: Tào Tháo, Lưu Bị, Quan Công,
Trương Phi, Gia Cát Lượng, Tôn Quyền đều là những nhân vật trung tâm.
* Nhân vật phụ
Trong tác phẩm văn học, hệ thống nhân vật ngoài nhân vật chính (bao
hàm trong đó cả nhân vật trung tâm) còn lại là nhân vật phụ. Nhân vật phụ giữ


12

vai trò thứ yếu so với nhân vật chính trong quá trình phát triển diễn biến của
cốt truyện, trong việc thể hiện chủ đề tác phẩm. Nhân vật phụ góp phàn hỗ trợ
bổ sung cho nhân vật chính, không được làm mờ nhạt nhân vật chính. Có
nhiều nhân vật phụ vẫn được nhà văn miêu tả đậm nét, có cuộc đời và tính
cách riêng, cùng với những nhân vật khác trong tác phẩm tạo nên một bức
ừanh đời sống sinh động và hoàn chỉnh (Thầy thơ lại ừong Chữ người tử tù
của Nguyễn Tuân, Thị Nở trong Chí Phèo của Nam Cao)...
1.1.3.2. Phân loại theo quan hệ thuận - nghịch giữa nhân vật và ỉỷ tưởng (xét
từ góc độ nội dung tư tưởng hay phẩm chất nhân vật).
Có thể chia ra nhân vật chính diện (nhân vật tích cực) và nhân vật phản
diện (nhân vật tiêu cực).
* Nhân vật chỉnh diện: Là loại nhân vật mang trong mình những phẩm
chất tốt đẹp, có thể đại diện cho những giá tri tư tưởng, đạo đức thẩm mỹ mà
nhà văn cùng thời đại nhân vật đó hướng tới. Đó là những nhân vật Chị út,
Chiến, Việt trong tác phẩm của Nguyễn Thi...
* Nhân vật phản diện: Là nhân vật có phẩm chất ngược lại với nhân vật
chính diện. Nhân vật phản diện bị miêu tả trong tác phẩm với thái độ phê
phán. Đó là những nhân vật như Bá Kiến trong tác phẩm Chí Phèo của Nam

Cao, Nghị Quế trong Tắt Đèn của Ngô Tất Tố, Giave trong Những người
khốn khổ của V. Huygô. Việc miêu tả và đối lập chúng với nhau chỉ diễn ra
khi xã hội có đối kháng giai cấp và khi nhà văn đã xác định rõ lập trường chỉ
đứng về một phía nhất định của mình.
Trong quá trình phát triển của văn học, ở mỗi giai đoạn lịch sử khác
nhau, việc xây dựng các nhân vật chính diện và phản diện cũng khác nhau.
Nếu như trong thần thoại chưa có sự phân biệt rạch ròi giữa nhân vật chính
diện và nhân vật phản diện thì trong truyện cổ tích, các truyện thơ Nôm, các


13

nhân vật thường được xây dựng thành hai tuyến rõ rệt có tính chất đối kháng
quyết liệt. Ở đây, hễ là nhân vật chính diện thường tập trung vào những tính
chất tốt đẹp còn nhân vật phản diện thì hoàn toàn ngược lại. Trong các tác
phẩm văn học hiện đại nhiều khi khó phân biệt được đâu là nhân vật chính
diện, đâu là nhân vật phản diện. Vì vậy, sự phân biệt nhân vật chính diện và
nhân vật phản diện ở đây chỉ có tính chất tương đối.
1.1.3.3. Phân loại theo hình thức cẩu trúc nhân vật
Ở tiêu chí phân loại này, theo gợi ý của E. M . Forster ừong cuốn Diện
mạo tiêu thuyết (1927), có thể nói tới nhân vật dẹt, nhân vật ừòn. Ngoài ra
còn có thể nhắc tới nhân vật tư tưởng, nhân vật tâm lý.
* Nhân vật dẹt
Là loại nhân vật không được khắc họa đầy đủ các mặt.
Trong các loại nhân vật dẹt, có thể nói tới: nhân vật chức năng (hay mặt
nạ), nhân vật loại hình (các thuật ngữ này do L. Ghinzburg đề xuất).
Nhân vật chức năng: Đây là loại nhân vật “được giao cho nhiệm vụ”
thực hiện một chức năng nhất định trong tác phẩm và phản ánh đời sống.
Nhân vật chức năng chủ yếu xuất hiện trong văn học cổ đại và trung đại (nhất
là cổ tích). Chẳng hạn, nhân vật Bụt trong các câu chuyện cổ tích có chức

năng ban hạnh phúc, đem lại nhiều may mắn cho người lương thiện, giúp họ
vượt qua những trở ngại của cuộc sống; nhân vật phù thủy có chức năng gieo
rắc những rủi ro, những điều xấu, ngăn trở cuộc sống của người lương thiện...
Các nhân vật: Thạch Sanh, Tấm Cám... đều là những nhân vật chức năng.
Nhân vật chức năng không có đời sống nội tâm. Các phẩm chất, đặc
điểm nhân vật cố định không thay đổi từ đầu đến cuối, hành động gần như
theo những công thức đã vạch sẵn. Nhờ đặc điểm này mà các nhân vật chức
năng dễ dàng trở thành biểu trưng trong đời sống tinh thần và hình thức hóa


14

trong sáng tác. Khi phân tích các nhân vật này cần tìm hiểu vai trò và chức
năng mang nội dung xã hội thẩm mỹ của chúng.
Nhân vật chức năng không hoàn toàn mất bóng trong văn học các thời
đại sau này, chỉ có điều nó không tồn tại ở dạng thuần túy như trước.
Nhân vật loại hình: Là loại hình nhân vật thể hiện tập trung các phẩm
chất xã hội, đạo đức của một loại người nhất định của một thời. Đó là nhân
vật khái quát chung về “loại” của các tính cách và nhờ vậy được gọi là điển
hình. Chẳng hạn như nhân vật Acpagông (Lão hà tiện của Moolie) đã thể
hiện tập trung cho thói keo kiệt, Ông Guốcđanh (Trưởng giả học làm sang
của Moolie) là hiện thân cho thói phù phiếm, hiếu danh của các gã tư sản
muốn làm quý tộc.
Hạt nhân của loại nhân vật này là nét khu biệt về mặt tính cách xã hội của
một loại người nào đó. Đúng như Puskin nhận xét: “Ở Moolie người keo kiệt
thì keo kiệt, và chỉ có thế”. Nhân vật điển hình loại này luôn đòi hỏi một cá tính
nhất định được thực hiện qua một số chi tiết chân thực, sống động nào đó chứ
không phải là một khái niệm trừu tượng. Điều đáng nói là khi đắp da, đắp thịt
cho tính cách, nhà văn không quên chủ đích của mình là làm sao gọi cho đúng
cái “thần” của “loại”. Nhân vật chị ú t Tịch trong Người mẹ cầm súng của

Nguyễn Thị mang nhiều đặc điểm của nhân vật loại hình. Chị chính là “khái
niệm” về người phụ nữ Việt Nam “anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”.
Tuy vậy, ở nhân vật này vẫn có những nét cá tính hấp dẫn nhất định.
* Nhân vật tròn
Là nhân vật được khắc họa trên nhiều bình diện, đưa tới cho độc giả cảm
tưởng “thực” về nhân vật.
Nhân vật tròn thực chất là nhân vật tính cách. Khi xây dựng nhân vật
tính cách, điều nhà văn chú ý trước hết là cá tính làm nên một nhân cách độc


15

lập. Cá tính đó luôn có mối liên hệ sống động với môi trường xung quanh.
Qua việc nhìn vào những mối liên hệ đó người ta nhận ra những quy luật tồn
tại của con người. Sức hấp dẫn của loại tính cách này nằm ở cá tính cùng cấu
trúc phức tạp của nó. Nhân vật tính cách thường đa diện, chứa đầy mâu thuẫn
và chính những mâu thuẫn ấy làm cho tính cách không tĩnh tại mà vận động
phát triển, đôi khi làm bất ngờ cả người sáng tạo ra nó.
* Nhân vật tư tưởng
Trong tác phẩm văn học, có những nhân vật mà hạt nhân cấu trúc của nó
không phải là cá tính, cũng không phải là các phẩm chất loại hình, mà là một
tư tưởng, một ý thức. Xây dựng loại nhân vật này, các nhà văn nhằm tới việc
phát biểu hoặc tuyên truyền cho một tư tưởng nào đó về đời sống. Ví dụ như
nhân vật “tôi” trong truyện ngắn Bức tranh của Nguyễn Minh Châu, Nhĩ
trong Bến quê. .. đều mang những nét cơ bản của nhân vật tư tưởng.
* Nhân vật tâm lý
Ở loại nhân vật này, nhà văn tập trung vào việc tái hiện “hiện thực tâm
lý”, vào những hành động bên trong chứ không phải hành động bên ngoài của
nhân vật. Nhiều khi hiện thực tâm lý đó không làm nên nhân vật mà còn làm
nên chính câu chuyện, làm nên những tác phẩm được gọi là “truyện không có

cốt truyện”. Từ đây, vô số các thủ pháp miêu tả được thể hiện, dẫn đến sự ra
đời của thủ pháp “dòng ý thức”. Loại nhân vật này xuất hiện nhiều trong văn
học hiện đại.
1.1.3.4.

Phân loại nhân vật theo thể loại

Có thể phân thành: nhân vật tự sự, nhân vật kịch, nhân vật trữ tình.
* Nhân vật tự sự: Là loại nhân vật xuất hiện ừong các tác phẩm truyện.
Đó là những con người bình thường, hàng ngày được thể hiện một cách tập


16

trung và sống động trong tác phẩm. Đây là loại nhân vật hành động, có đời
sống nội tâm phong phú.
* Nhân vật trữ tình: Là nhân vật nghiêng về cảm xúc, không có hành
động, ít được chú ý miêu tả về ngoại hình. Mọi tác động của môi trường sống
chỉ dẫn đến cảm xúc của nhân vật chứ không dẫn đến hành động.
* Nhăn vật kịch: Là loại nhân vật hành động, xuất hiện vào thời điểm
sóng gió nhất, ừong vòng xoáy cuộc đời. Mọi tác động của môi trường sống
đều dẫn đến hành động của nhân vật.
Trên đây là các loại nhân vật thường gặp. Trong văn học còn có thể gặp
một số loại nhân vật khác nữa. Sự phân loại trên đây chỉ có tính chất tương
đối vì trong loại này còn có thể bao hàm một số yếu tố của loại kia và ngược
lại. Không có gì khó hiểu khi ta thấy một nhân vật cụ thể nào đó có mặt trong
nhiều “danh sách” khác nhau. Thực tế ấy đòi hỏi việc nghiên cứu nhân vật
phải ừánh sự cứng nhắc, tuyệt đối hóa.
1.1.4. Môt số đăc điểm của nhân vât trong
văn xuôi Viêt Nam hiên đai

ơ








I



Văn học là tấm gương phản ánh hiện thực. Mỗi thời đại khác nhau sẽ có
những quan niệm nghệ thuật khác nhau về con người, điều đó sẽ dẫn đến sự
thay đổi về cách thức xây dựng nhân vật trong tác phẩm.
Trong văn xuôi thời kỳ đổi mới, khuynh hướng sử thi đã nhường chỗ cho
cảm hứng thế sự. Với cái nhìn thế sự, đời sống riêng của cá nhân, kinh
nghiệm cá nhân được xem là đối tượng khám phá chủ yếu của văn học. Tư
duy hiện thực về con người giờ đây đã thay đổi dẫn đến sự thay đổi ừong hệ
thống nhân vật, cũng như nguyên tắc xây dựng nhân vật. Nhân vật trở nên đa
dạng và phức tạp hơn. Cách nhìn nhận của nhà văn đối với nhân vật cũng đa
chiều và linh hoạt hơn. Nhà văn đã thấy rõ sự đan xen hai mặt tốt - xấu trong
mỗi con người. Cho dù con người có đại diện cho giai cấp nào đi nữa thì cũng


17

không thể hoặc xấu xa, hoặc tốt đẹp một cách tuyệt đối. Nếu nhân vật trong
văn xuôi ở giai đoạn trước, con người hiện lên chủ yếu là con người cộng

đồng, con người đại diện cho “cái ta” thì ở nhân vật trong văn xuôi hiện đại
các nhà văn còn thấy rõ con người ngoài là con người cộng đồng còn là con
người cá nhân với chiều sâu bí ẩn của tâm hồn. Chính điều này đã góp phần
làm cho văn học có chiều sâu, sức ám ảnh lớn. Các nhà văn đương đại đã bứt
ra khỏi khuôn khổ chật hẹp của cách xây dựng nhân vật ừong truyện ngắn
truyền thống để đi tìm những yếu tố, chất liệu mới mẻ ừong việc phản ánh đời
sống ở bề sâu bí ẩn. Nhân vật được soi chiếu ở nhiều chiều, nhiều hướng, đặt
trong nhiều mối quan hệ khác nhau, tránh được tính chất phiến diện, giản đơn
một chiều. Trong truyện ngắn “tính riêng” của mỗi nhân vật trở thành phẩm
chất nghệ thuật quan trọng bậc nhất. Mỗi nhân vật là một con người cá nhân
cụ thể cần tìm hiểu, khám phá. Cái mà nhà văn quan tâm đến nhân vật không
còn là các đặc điểm, thuộc tính xã hội của nó nữa mà là cá tính, là những mâu
thuẫn nội tại, những nghịch lý đan xen trong bản thân nó.
Truyện ngắn Việt Nam thời kỳ đổi mới có sự đột phá lớn về nhiều mặt,
nhiều bình diện, kết đọng ở nhiều thảnh tựu và thể hiện rõ sự ưu việt của mình
trong sự khám phá nghệ thuật của đời sống. Nổi bật là những tác giả, những
cây bút tiêu biểu: Nguyễn Huy Thiệp từng tạo nên một cơn lốc xoáy văn học,
Nguyễn Ngọc Tư với Cánh đồng bất tận, Đỗ Hoàng Diệu với Bóng đè...Mỗi
nhà văn một bút pháp riêng đã tạo nên những truyện ngắn hay. Đây là thời kỳ
“bội thu”, “thăng hoa”, “được mùa”, “lên ngôi” của thể loại truyện ngắn.
Chúng ta có thể nhận thấy sự đổi mới cơ bản của các cây bút này trên nhiều
lĩnh vực, song tập trung nhất vẫn là ừong cách tiếp cận và xây dựng nhân vật
để phản ánh đời sống.


18

Nhân vật trong văn xuôi Việt Nam hiện đại, về cơ bản có những đặc
điểm sau:
Thứ nhất, nếu như nhân vật trong văn xuôi giai đoạn trước được khai

thác chủ yếu ở tư cách công dân đơn phiến, được xây dựng thành những nhân
vật mang tính điển hình cho một giai cấp, một tàng lớp nào đấy thì nhân vật
trong vãn xuôi hiện đại được khai thác toàn diện, là con người đa trị, lưỡng
cực với các mối quan hệ xã hội vô cùng phức tạp. Nhà văn nhận diện con
người đích thực trong nhu cầu tự nhận thức với nhiều biểu hiện phong phú, đa
dạng, có sự hòa hợp giữa con người xã hội - con người tâm linh, con người
với sự thống nhất ánh sáng và bóng tối, cao cả và thấp hèn, ý thức và vô thức,
con người cụ thể, cá biệt và con người ừong tính nhân loại phổ quát... Đặc
biệt, các nhà văn chú trọng thể hiện con người ừong đời sống bản năng tự
nhiên và đời sống tâm linh bí ẩn, kì diệu, đầy ám ảnh.
Thứ hai, nhân vật không có số phần ừòn trịa mà bị phân mảnh, đôi khi bị
phá vỡ, chỉ còn những mảnh nhỏ của tâm trạng, những mảnh nhỏ của cuộc
đời ngắn ngủi.
Thứ ba, nhân vật không có tính cách hay số phận điển hình đày đặn,
nhiều mặt trong tương quan với hoàn cảnh mà chỉ là những con người bình
thường, vô danh trong cuộc sống. Nhân vật là đủ thứ hạng trong xã hội.
Thứ tư, nhân vật là những cá thể đời thường, những con người đang
trong quá trình hình thành về nhân cách, được thể hiện trong tất cả các mối
quan hệ xã hội, quan hệ ứng xử, thân phận, đời sống riêng của nó, với “đầy
những vết dập xóa trên thân thể và trong tâm hồn”.
Thứ năm, v ề nghệ thuật xây dựng nhân vật, nhà văn có nhiều cách tân
với những thử nghiệm táo bạo, bởi họ nhận thấy các thủ pháp truyền thống đã
không còn đủ khả năng biểu hiện cái đa dạng, phức tạp của con người trong


19

đời sống hiện đại. Có thể nói, ở giai đoạn lịch sử mới, các nhà văn có những
chuyển hướng mới trong nhận thức, tư tuy về bản thể con người. Các nhà văn
đã phá vỡ cái nhìn đơn phiến, tĩnh tại để tạo ra cái nhìn phức tạp hơn và sâu

sắc hơn về con người. Phác họa chân dung những con người vừa đời thường
vừa tràn thế, luôn luôn khao khát cái đẹp và hướng thiện là nét nổi bật mang
đậm nét ý nghĩa nhân văn trong quan niệm nghệ thuật về con người.
Tìm hiểu những biểu hiện mới của nhân vật ừong văn xuôi Việt Nam
hiện đại, tác giả luận văn sẽ có thêm cơ sở thực tiễn để nghiên cứu thế giới
nhân vật ừong văn xuôi Phùng Thiên Tân.
1.2. Tác giả Phùng Thiên Tân vói đề tài Vì an ninh tổ quốc và bình yên
cho cuộc sống
Phùng Thiên Tân sinh ngày 20 tháng 5 năm 1954 tại làng Bố, nay thuộc
phường Đông Vệ, thành phố Thanh Hóa. Ông tốt nghiệp Đại học An ninh
năm 1976, sau đó được phân công về phòng Sáng tác văn học - Bộ Công an.
Từ năm 1981 ông về làm biên tập viên Nhà Xuất bản Công an Nhân dân.
Năm 1991 được bổ nhiệm làm Trưởng chi nhánh Nhà Xuất bản Công an
Nhân dân tại thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2001 được đề bạt Phó Giám đốc
Nhà Xuất bản Công an Nhân dân. Năm 2009 ông được bổ nhiệm là Giám đốc,
Tổng Biên tập.
Vốn là một sĩ quan an ninh được đào tạo bài bản, Phùng Thiên Tân đến
với văn chương như một duyên may tình cờ. Người có công dìu dắt Phùng
Thiên Tân sang cánh đồng văn chương màu mỡ và cũng lắm thử thách khắc
nghiệt này là cố nhà văn Lê Tri Kỷ. Theo như nhà văn tâm sự, cách rèn tập
của người thầy, người anh Lê Tri Kỷ giống như cách của các bác thợ rèn ở
quê dạy cậu tiểu đồng từ cách nhóm lửa, quai búa thế nào để ra được con dao,
cái liềm... Được sự chỉ bảo của người đi trước cùng với tố chất văn chương,


20

tỉnh thần ham học hỏi, người chiến sĩ công an Phùng Thiên Tân đã ghi dấu tên
tuổi mình ở địa hạt của văn chương với tư cách một nhà văn thực sự.
Nhà văn tồn tại trên đời nhờ tác phẩm. Trong hành trình sáng tác của

mình, Phùng Thiên Tân đã thành công ở nhiều mảng sáng tác: Thơ, truyện
cho thiếu nhi, tiểu thuyết hình sự...Nhưng mảng sáng tác thành công và nổi
trội hơn cả là những trang văn viết về đề tài Vì an ninh tổ quốc và bình yên
cho cuộc sống. Tên tuổi của ông được khẳng định với hàng loạt tác phẩm: Hồ
sơ chưa kết thúc (tiểu thuyết, 1984), SBC xung trận (tiểu thuyết, 1988),
Sống để đời yêu (tiểu thuyết, 1988), và những tập truyện ngắn như Giây phút
ẩy đã qua (1993), Một chiều mưa xưa (1997)...
Mỗi nhà văn khi đến với văn chương đều có những quan niệm riêng.
Với Phùng Thiên Tân, nghề văn là một nghề cao quý, một duyên phận đòi hỏi
sự tâm huyết, dấn thân hết mình của người nghệ sĩ: “Nghề văn cần cả Tâm và
Tài. Người viết văn phải là công dân tốt. Người viết văn phải là người có tài,
cái tài là do trời cho và cái tài do tự mình rèn lưyện, học tập. Nghiệp văn
chương theo anh suốt đời dù đôi lúc anh có ỷ định chổi bỏ. Nên tự hào mình
là một nhà văn ” [31, 285].
Mục đích cuối cùng của văn chương nghệ thuật là hướng con người đến
với Chân - Thiện - Mĩ . Mỗi tác phẩm của Phùng Thiên Tân gửi gắm những
tâm tư, nỗi niềm của một nhà văn luôn đau đáu thắc thỏm, nghĩ suy về con
người, cuộc đời. Với ông, mục đích cuối cùng đằng sau lớp ngôn từ là khát
vọng hướng con người tới cuộc sống tốt đẹp hơn, dùng ngòi bút để chiến đấu
cho ngày mai. Viết văn giống như một thứ mệnh lệnh của đòi sống. Viết để
ừợ lực cho cuộc chiến chống lại cái Ác. Điều kiện thuận lợi trong môi trường
hoạt động ngành công an đã tạo nên một Phùng Thiên Tân vững vàng trong
nghiệp vụ mà lại rắn chắc, sắc nét trong từng câu chữ. Đặc biệt môi trường ấy


×