Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

đề CƯƠNG ôN THI lý LUẬN dân CHỦ cơ sở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.28 KB, 21 trang )

MÔN LÝ LUẬN DÂN CHỦ CƠ SỞ
1. Đặc điểm đời sống chính trị ở cơ sở quyết định (ảnh hưởng) đến dân chủ cơ
sở ở làng xã (lề thói, dân trí, nhận thức)?
Trả lời:
“Dân chủ” có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp gồm “demos” (nhân dân) và “kratos”
(quyền lực, chính quyền), kết hợp lại thành “demokratia”, có nghĩa là quyền lực của
nhân dân, chính quyền của nhân dân. Dân chủ có nghĩa là nhân dân làm chủ mọi quyền
lực xã hội.
Nói đến cơ sở là nói đến cấp cuối cùng trong hệ thống hành chính nhà nước; ở
nước ta, đó là cấp xã (xã, phường, thị trấn). Cơ sở và chính quyền cấp cơ sở có vị trí đặc
biệt trong hệ thống chính trị nước ta. Đó là cấp xa Trung ương nhất, là cấp gần dân nhất.
Trong quá trình thực thi quyền lực nhà nước, chính quyền cấp cơ sở là cấp trực tiếp làm
việc với dân.
Xuất phát từ vị trí vai trò hết sức to lớn từ cơ sở; cơ sở, đặc biệt là xã, phường, thị
trấn là nơi trực tiếp triển khai, thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước, chỉ có thực hiện dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân từ cơ sở mới khơi
dậy được tính tích cực, chủ động, tự giác của các tầng lớp nhân dân tham gia thực hiện
chủ chương, chính sách ấy. Tuy nhiên, từ những đặc điểm đời sống chính trị ở cơ sở có
quyết định đến thực hiện dân chủ cơ sở ở làng xã (lề thói, dân trí, nhận thức).
Trong lịch sử, xã (có nơi là làng – xã) là một đơn vị quần cư - hành chính trong kết
cấu nông thôn Việt Nam. Những đặc điểm sinh hoạt kinh tế, văn hóa, xã hội của xã là
những yếu tố đặc biệt quan trọng quyết định đến dân chủ hóa cấp cơ sở nói riêng và sự
phát triển nông nghiệp, nông thôn nói chung.
Xã là một cộng đồng địa vực, có ranh giới lãnh thổ tự nhiên và hành chính xác
định; trong đó, lãnh thổ hành chính chủ yếu dựa trên lãnh thổ tự nhiên, thường là trên
đất đai mà những thế hệ đầu tiên lập làng và khai khẩn xác định. Mặc dù nhiều thời kỳ
đất đai thuộc sở hữu tối cao của nhà nước, nhưng làng – xã có quyền sử dụng. Diện tích
đất của các làng lại không đồng đều.
Làng - xã trong lịch sử là một đơn vị tự cấp, tự túc về kinh tế; làng – xã vừa có
ruộng vừa có nghề, có chợ tạo thành một không gian kinh tế khép kín thống nhất. Ngày
1




nay, mặc dù kinh tế hàng hóa đã bắt đầu phá vỡ kết cấu truyền thống này, đã xuất hiện
tự do di chuyển vốn, lao động, kỹ thuật giữa các làng, các vùng…, nhưng những đặc
điểm kinh tế làng xã vẫn còn đậm nét. Nhiều làng sản xuất những sản vật truyền thống,
nhiều làng nghề đã có từ lâu trong lịch sử đến nay vẫn tiếp tục.
Làng - xã là một cộng đồng tương đối độc lập về phong tục tập quán và văn hóa.
Các phong tục, tập quán độc đáo của các làng chủ yếu được quy định bởi lệ làng, hương
ước, luật tục thành văn, không thành văn. Có nhiều tập quán ở nhiều làng - xã khắt khe,
lạc hậu.
Làng - xã còn là một đơn vị tự trị về chính trị. Mặc dù kết cấu hành chính của làng
- xã có những thay đổi, nhưng nhìn chung trong lịch sử Việt Nam, làng - xã là đơn vị
hành chính cơ sở của nhà nước phong kiến. Làng - xã dùng phép vua (luật) và lệ làng để
điều hành xã hội của làng. Trong thời phong kiến “phép vua thua lệ làng” - do nhiều
nguyên nhân, nhưng nguyên nhân quan trọng nhất là do tính tự trị của làng - làng tự bảo
vệ lấy lợi ích của làng. Làng tự làm ăn, tự sinh sống các gia đình trong làng tự nuôi dạy
và giáo dục con cái.
Đời sống chính trị của làng - xã nói chung là dân chủ kiểu công xã nông thôn, nặng
tính cộng đồng về quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm. Trong quá trình phát triển của
làng - xã, dân chủ làng - xã luôn đấu tranh, thỏa hiệp, liên kết với quá trình nhà nước
hóa, phong kiến hóa. Dân chủ làng - xã vừa có mặt tích cực là dân chủ cộng đồng, tự trị,
vừa có tính tiêu cực là trì trệ, “cứng đầu” với nhà nước, mặc kệ nhà nước.
Nền dân chủ làng - xã rất đề cao “làng”, tức cộng đồng. Mỗi cá nhân là thần dân
của một nước, tôi của vua, chứ không phải là “công dân” được xác định quyền và nghĩa
vụ một cách hợp pháp. Đời sống các cá nhân trong làng Việt phải hòa vào cộng đồng,
phải đứng dưới, phục tùng cộng đồng. Ở làng Việt, cá nhân không được tạo điều kiện để
xã hội hóa và hiện thực hóa các nhân cách; nó phải nương theo cộng đồng. Với các hệ
thống thể chế làng, hương ước, dư luận, phường, hội, họ…, làng ràng buộc, áp đặt,
cưỡng bức đối với cá nhân. Thể chế làng luôn giám sát chặt chẽ suy nghĩ, hành vi của
cá nhân, thậm chí tước bỏ quyền tự do chính kiến, tự do hành động của cá nhân, nhất là

tầng lớp cùng đinh, bạch đinh. Sự giám sát, can thiệp của làng nhiều khi vô lý, nghiệt
ngã, thậm chí vô nhân đạo. Trong quan hệ giữa người với người, ở làng - xã, tất cả đều
2


biến thành quan hệ chú, bác, cô, dì con, cháu…, chứ không phải quan hệ công dân bình
đẳng về quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm.
Như vậy, làng - xã dưới thời phong kiến không có những thể chế, quy chế và điều
kiện để đảm bảo dân chủ thật sự cho cá nhân con người với tư cách là công dân của một
nước. Tính tự trị, tự quản tương đối khép kín cùng với đời sống sinh hoạt vật chất thiếu
thốn, thấp kém đã tạo ra sự lạm quyền, thói tham lam, bòn rút trong số chức dịch của
làng - xã, biến họ thành cường hào – một tệ nạn xã hội hết sức nặng nề và thường xuyên
nhũng nhiễu đời sống người nông dân. Ở mức độ cao hơn, cường hào cấu kết với những
địa chủ gian ác nhất dùng lệ làng, dùng các thể chế làng để khống chế và áp bức nông
dân, lũng đoạn tổ chức làng - xã, làm cho sự chuyên chế, mất dân chủ ở nông thôn ngày
càng trầm trọng.
Sinh hoạt chính trị - xã hội của làng - xã Việt Nam còn có ảnh hưởng đến cuộc
sống hiện tại. Làng - xã có một lịch sử lâu dài để thúc đẩy chúng ta tiến xa hơn trên con
đường dân chủ hóa, nhưng những tập quán lạc hậu cũng đủ nặng để níu giữ chúng ta lại.
Giải quyết những vấn đề của quá khứ là điều kiện tiên quyết để dân chủ hóa ở cơ sở
thành công.
Ngày nay, cơ sở cũng là cấp còn nhiều khó khăn, tồn tại trong đời sống kinh tế - xã
hội. Trình độ học vấn, trình độ dân trí của dân cư, kể cả cán bộ xã, còn thấp; nhân dân
còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế trong việc tiếp cận và hưởng thụ những thành tựu văn
hóa, khoa học, công nghệ hiện đại. Có thể nói rằng, cấp cơ sở là mắt xích yếu nhất trong
hệ thống chính trị, hệ thống nhà nước ở nước ta hiện nay. Nhiều vấn đề nổi cộm, tiêu
cực đang tiềm tàng, những nơi nổ ra “điểm nóng” cũng đều xuất phát từ cơ sở. Ở một số
cơ sở dân chủ bị vi phạm nghiêm trọng. Nạn tham ô, tham nhũng, ức hiếp nhân dân
chậm được giải quyết. Trước khi có Quy chế dân chủ ở cơ sở, chưa có một phương án
nào có tính quy phạm pháp luật nhằm đảm bảo quyền dân chủ của nhân dân ở cơ sở.

Chính quyền nhiều nơi đã rất nỗ lực giải quyết tốt những vấn đề bức xúc của cơ sở
mình, lành mạnh hóa đời sống chính trị - xã hội, nhưng vì thiếu một cách tiếp cận toàn
diện, thiếu sự phối hợp trong tổng thể cả chiều ngang và chiều dọc của hệ thống chính
trị, nên những cố gắng của các cơ sở đó không mang lại hiệu quả mong muốn.

3


Liên hệ thực tế tại địa phương: Trong những năm qua, từ khi thực hiện quy chế dân
chủ ở cấp xã (Nghị định 29; ngày 20/4/2007, Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành
Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn thay
thế cho Nghị định 79); Thực hiện Pháp lệnh số 34/PL-UBTVQH11 ngày 20/4/2007 của
Ủy ban thường vụ Quốc hội về “Thực hiện quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn” ban
hành đã được 9 năm qua. Thực hiện dân chủ ở cơ sở của xã Ân Nghĩa, Hoài Ân, Bình
Định có nhiều biến chuyển.
Phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” tiếp tục đi vào cuộc sống,
qua đó củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, chính quyền, góp phần
huy động sức mạnh tổng hợp của các tầng lớp nhân dân trong việc thực hiện các phong
trào thi đua yêu nước và các mục tiêu chung của huyện. Hệ thống chính trị từ huyện đến
các xã, thị trấn hoạt động có hiệu quả, tinh thần trách nhiệm của đội ngũ, cán bộ, đảng
viên ở cơ sở được nâng lên theo hướng “trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có
trách nhiệm với dân”. Việc thực hiện quy chế dân chủ, chỉ đạo xây dựng ban hành, thực
hiện nhiều quy chế, quy ước phù hợp với từng thời điểm ; phong trào “Toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”. Quy ước của các thôn, buôn, tổ dân phố
đã phát huy tính chủ động và nâng cao ý thức trách nhiệm của công dân.
Bên cạnh những mặt đạt được còn một số hạn chế như: Một số cấp uỷ cơ sở còn
chưa quan tâm chỉ đạo đúng mức, chưa thể hiện rõ vai trò, trách nhiệm trong chỉ đạo,
thực hiện quy chế dân chủ, đặc biệt trên các lĩnh vực quản lý đất đai, trật tự xây dựng đô
thị; Công tác tuyên truyền tại một số đơn vị chưa thường xuyên; Một bộ phận người dân
chưa nhận thức đầy đủ về thực hiện dân chủ ở cơ sở; Hoạt động của một số ban chỉ đạo

quy chế dân chủ ở cơ sở chưa thường xuyên, chưa cụ thể hoá sát với tình hình của địa
phương.
Tóm lại: Thực hiện dân chủ ở cơ sở là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước
ta. Đó là nhiệm vụ vô cùng quan trọng, vừa có tính cấp bách, vừa có tính cơ bản lâu dài
đối với sự nghiệp đổi mới của đất nước ta. Việc thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở sẽ khơi
dậy mọi tiềm năng của các cơ sở. Nắm vững những đặc điểm từ cơ sở từ đó hiểu cơ sở,
hướng về cơ sở cũng chính là điểm mấu chốt, nhân tố phát huy dân chủ rộng rãi đến với
người dân, từ đó giúp người dân thực hiện đầy đủ hơn quyền và nghĩa vụ công dân.
4


2. Các cách tiếp cận về dân chủ. Mối quan hệ giữa dân chủ với các lĩnh vực khác
trong đời sống xã hội.
Trả lời:
Phạm trù “dân chủ” có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp gồm “demos” (nhân dân) và
“kratos” (quyền lực, chính quyền), kết hợp lại thành “demokratia”, có nghĩa là quyền
lực của nhân dân, chính quyền của nhân dân. Dân chủ có nghĩa là nhân dân làm chủ mọi
quyền lực xã hội. Đó là mơ ước từ xưa của nhân loại và được các nhà tư tưởng tiến bộ
nêu ra từ rất sớm trong lịch sử. Trải qua hàng ngàn năm tiến hóa, đến thời đại chúng ta,
dân chủ vẫn đang là đòi hỏi bức xúc, là nhu cầu và động lực phát triển xã hội.
Ngày nay, tiếp cận về dân chủ dưới các giác độ sau:
Một là, chế độ nhà nước (các hình thức, nguyên tắc, phương thức thực thi quyền
lực nhà nước và quản lý nhà nước). Ở đây, dân chủ là khẳng định chủ quyền nhà nước
của nhân dân, nhân dân quyết định hình thức, quy mô, phương thức tổ chức và thực thi
quyền lực nhà nước; bộ máy nhà nước, công chức nhà nước chỉ là người được nhân dân
ủy quyền và là người phục vụ nhân dân. Dân chủ là đảm bảo cho nhân dân tham gia
ngày càng nhiều và hiệu quả vào quản lý nhà nước.
Hai là, coi dân chủ như là những nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của các tổ chức
chính trị, tổ chức xã hội… Nguyên tắc dân chủ đòi hỏi các cơ quan lãnh đạo của các tổ
chức phải được thành lập thông qua bầu cử dân chủ và có thể bị bãi miễn, quy định

quyền hạn và trách nhiệm của các bộ phận cấp dưới, cấp cơ sở đối với cơ quan lãnh đạo
cấp trên và cấp cao nhất; quy dịnh mối quan hệ giữa cá nhân và tổ chức, vai trò của các
thành viên, hội viện trong quá trình đưa ra các quyết định của tổ chức (thiểu số phục
tùng quyết định của đa số, đa số tôn trọng và bỏa vệ thiểu số)…Có một số nguyên tắc
phổ biến hiện nay như: nguyên tắc dân chủ, nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc
dân chủ đồng thuận…
Ba là, coi dân chủ là giá trị xã hội, thể hiện ở trình độ đạt được về bảo đảm các
quyền, nghĩa vụ, tự do của công dân và sự tham gia của họ vào đời sống xã hội. Từ cách
tiếp cận này, nhiều tổ chức quốc tế đưa ra các tiêu chí để đánh giá mức độ dân chủ của
các quốc gia. Ví dụ, bình đẳng giới và nữ quyền là một tiêu chí để so sánh các nền dân
chủ phương Tây, Đông Á và các nước Hồi giáo...
5


Bốn là, coi dân chủ là lý tưởng nhân sinh quan, thế giới quan, mục đích hoạt động
của các lực lượng chính trị - xã hội. Điều đó có nghĩa là, dân chủ trở thành mục tiêu có
tính cương lĩnh cho việc tổ chức và hoạt động của các lực lượng CT - XH nào đó.
Năm là, dân chủ trở thành tiêu chí rất cụ thể để đo đếm sự tiến bộ của các quốc
gia, dân tộc của cộng đồng quốc tế và của các định chế quốc tế. Ví dụ: IMF, Liên hiệp
quốc: mục tiêu, chỉ tiêu thiên niên kỷ,…
Dân chủ còn được tiếp cận trong mối quan hệ giữa chủ thể và đối tượng của quá trình
quản lý, lãnh đạo trong phối hợp hành động chung. Ở đây dân chủ là đảm bảo cho cấp
dưới, đối tượng bị quản lý, hoặc người đối thoại có tiếng nói, có khả năng tham gia quyết
định những vấn đề phối hợp chung. Mối quan hệ này còn được gọi là tinh thần dân chủ,
muốn nói đến sự tôn trọng và đánh giá đúng mức, khách quan của người, cơ quan lãnh đạo
đối với quyền, ý kiến, sáng kiến của cá nhân công dân, hay đảng viên, thành viên, hội viên
của một tổ chức; sự tôn trọng của cấp trên đối với quyền, sáng kiến ý kiến của cá nhân, cấp
dưới hoặc cơ sở; tính tích cực của cá nhân, cấp dưới, cơ sở vào giải quyết những công việc
chung, của tổ chức, của cấp trên. Dân chủ ở đây đã trở thành một chuẩn mực ứng xử trong
quan hệ giữa người với người, trở thành một biểu hiện của văn hóa nói chung, văn hóa

chính trị nói riêng.
Mặc dù có thể liệt kê thêm một số cách tiếp cận khác nữa, như cách tiếp cận chức
năng, coi dân chủ là một chức năng của đời sống xã hội, nhằm giải quyết những vấn đề
chung mà các cộng đồng xã hội đặt ra. Mặc dù có thể nghiên cứu dân chủ dưới những
cách tiếp cận khác nhau, nhưng "dân chủ" có những giá trị chung, phổ biến, ẩn chứa
trong tất cả các cách tiếp cận trên. Vì vậy, cần thấy tính tương đối của các cách tiếp cận
này.
Quan niệm về dân chủ cho đến nay còn khác nhau, phụ thuộc vào giai cấp, dân tộc,
tôn giáo, tập quán văn hóa và truyền thống chính trị… Mặc dù vậy, đại bộ phận dân cư
trên thế giới có một cách nhìn nhận thống nhất về dân chủ như sau:
- Nhân dân được coi là nguồn gốc và chủ thể của quyền lực nhà nước;
- Các cơ quan quyền lực phải được nhân dân bầu hoặc bãi miễn thông qua bầu cử
tự do, phổ thông, bình đẳng, trực tiếp (hoặc gián tiếp) và kín;
- Nhà nước thực thi quyền lực một cách công cộng và công khai;
6


- Không tập trung hoặc tuyệt đối hóa quyền lực vào bất kỳ một cơ quan quyền lực
nào, thực hiện nguyên tắc phân quyền (phân quyền hợp lý);
- Nhà nước phải phối hợp hoạt động với xã hội công dân, tạo điều kiện cho công
dân tham gia vào công việc nhà nước, giám sát, phê bình hoạt động của nhà nước;
- Nhân dân dễ dàng tiếp cận thông tin và các phương tiện thông tin đại chúng;
- Phải hỏi dân khi quyết định những vấn đề trọng đại liên quan đến vận mệnh của
nhân dân (trưng cầu dân ý);
- Thiểu số phục tùng quyết định của đa số, đa số tôn trọng và bảo vệ thiểu số.
Thực chất của một nền dân chủ hiện đại theo nghĩa rộng là xây dựng một nền kinh
tế thị trường, nhà nước pháp quyền và xã hội công dân. Trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, khi chính quyền nhà nước đã thuộc về nhân dân lao động, những nội dung
trên đây của nền dân chủ sẽ mang bản chất giai cấp hoàn toàn mới, mặt khác chúng còn
mang tính lịch sử cụ thể rất phong phú.

Mối quan hệ giữa dân chủ với các lĩnh vực khác trong đời sống xã hội.
Một là, mối quan hệ kinh tế với dân chủ. Dân chủ phụ thuộc rất lớn vào sự phát
triển kinh tế và tốc độ tăng trưởng kinh tế. Sự phát triển kinh tế đảm bảo cho triển vọng
của nền dân chủ, đến hành vi, quan điểm của công dân, tạo ra khả năng để nâng cao
trình độ văn hóa, văn hóa chính trị của toàn xã hội. Sự phát triển kinh tế là điều kiện cơ
bản và cần thiết cho việc kiến tạo một nền dân chủ. Nhưng mặt khác, cũng cần thấy
rằng, việc xây dựng một nền dân chủ không phụ thuộc hoàn toàn vào điều kiện kinh tế.
Có nhiều nước được coi là dân chủ như Tây Âu và Bắc Mỹ bắt đầu sự nghiệp dân chủ
hóa khi trình độ kinh tế của họ thấp hơn nhiều so với một số nước ả-rập hoặc châu Á
chưa dân chủ hiện nay. Dân chủ cũng không hẳn phụ thuộc, hoặc song hành cùng với
tốc độ tăng trưởng kinh tế. Ở các nước Mỹ la-tinh trong những năm 70 của thế kỷ XX,
tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt trung bình 5-6% năm, nhưng đây là thời kỳ mà các nước
này bị thống trị bởi các chế độ độc tài quân sự. Chính các chế độ độc tài quân sự là
nguyên nhân suy giảm kinh tế của các nước này ở các thời kỳ sau.
Mối quan hệ giữa dân chủ và phát triển kinh tế là quan hệ nhân quả chặt chẽ, làm
tiền đề và điều kiện cho nhau, không thể nhìn nhận máy móc hoặc đơn giản. Kinh tế tạo
điều kiện để xây dựng dân chủ, nhưng dân chủ cũng tạo điều kiện cho phát triển kinh tế.
7


Cũng cần thấy rằng, dân chủ đã tạo ra các điều kiện để phân phối công bằng hơn phúc
lợi xã hội, nhờ vậy kích thích sự phát triển kinh tế. Mối quan hệ nhân quả ở đây là
tương đối và có thể chuyển đổi cho nhau.
Hai là, mối quan hệ trình độ dân trí và văn hóa của nhân dân với dân chủ. Việc
nâng cao trình độ văn hóa, dân trí của nhân dân là nhân tố cơ bản để thực hiện dân chủ,
bởi vì dân chủ là biểu hiện của trình độ văn hóa chính trị, có quan hệ mất thiết với trình
độ dân trí nói riêng, và văn hóa nói chung. Chỉ khi nào người dân tự giác nhận thức
được quyền hạn và nghĩa vụ của mình, tự giác tham gia vào công việc của nhà nước và
xã hội với tư cách là công dân có tri thức, có văn hóa thì mới có điều kiện để thực hiện
dân chủ.

Ba là, mối quan hệ giữa vai trò của chủ thể cầm quyền với dân chủ. Dân chủ không
chỉ phụ thuộc vào trình độ dân trí, văn hóa, mà còn phụ thuộc vào chủ thể cầm quyền.
Giai cấp tiến bộ, lực lượng tiến bộ cầm quyền, những con người có tài, có đức nắm giữ
quyền lực nhà nước thường thực hiện dân chủ với nhân dân và ngược lại.
Bốn là, mối quan hệ giữa pháp luật và dân chủ. Thực hiện dân chủ không chỉ
mong đợi vào “lòng tốt” của người cầm quyền mà quan trọng hơn là xây dựng những
định chế dân chủ có khả năng buộc những người nắm quyền dù muốn hay không cũng
phải tuân theo. Những người cầm quyền được lựa chọn có thể là những người có tài, có
đức, suy nghĩ và hành động của họ vì lợi ích của nhân dân, nhưng nếu không có thể chế
để nhân dân kiểm soát hành vi của họ thì có thể dần dần họ lạm dụng quyền lực để mưu
cầu lợi ích của riêng mình, trong đó có nạn quan liêu, tham nhũng. Phương thuốc đặc
hiệu để chữa quan liêu, tham nhũng chính là dân chủ.
Mặt khác, người dân trong khi thực hiện quyền tự do, dân chủ của mình, công dân
cũng có thể vi phạm tự do, dân chủ của người khác. Vì vậy, hành vi của người cầm
quyền cũng như người công dân đều phải được chế định bằng hiến pháp, pháp luật với
tư cách là một “khế ước xã hội” biểu hiện cho ý chí chung, do từng cá nhân tự nguyện
trao cho nhà nước và tự nguyện chấp hành ý chí chung đó. Khi pháp luật phản ánh ý
chí, quyền, lợi ích chung và phù hợp với xu hướng tiến bộ của nhân loại, thì pháp luật
trở thành thước đo của dân chủ. Sẽ không có mâu thuẫn giữa dân chủ và pháp luật, giữa
dân chủ và kỷ cương xã hội.
8


Tóm lại, dù tiếp cận dân chủ từ giác độ nào thì dân chủ thực sự được thể hiện ở chỗ
là nền dân chủ mà trong đó mọi quyền lực thuộc về nhân dân, trước hết là nhân dân lao
động, xã hội được quản lý bởi nhân dân và vì nhân dân, nghĩa do chính nhân dân lập ra;
mọi người đều được bảo đảm trên thực tế quyền tự do, bình đẳng và các quyền cơ bản
khác. Nhân dân lao động làm chủ trên tất cả lĩnh vực đời sống xã hội, làm chủ về kinh
tế chính trị, văn hoá và xã hội. Quyền làm chủ của nhân dân được biểu hiện và bảo đảm
bằng pháp luật, nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình trên cơ sở luật pháp.


9


3. Chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta về dân
chủ ở cơ sở?
Trả lời:
Quan điểm Mác – Lênin về dân chủ được hình thành trong các phong trào đấu
tranh vì dân chủ, trên cơ sở lập trường của lập trường dân chủ cách mạng (Tư sản)
chuyển sang lập trường dân chủ cách mạng hướng giải quyết những nhiệm vụ lịch sử
mới của giai cấp vô sản và cách mạng vô sản.
Trước tiên, dân chủ với tư cách là một chế độ xã hội. Thực chất, cuộc đấu tranh
giải phóng của giai cấp vô sản là quá trình xây dựng một chế độ dân chủ mới. Đấu tranh
cho dân chủ, xét đến cùng là con đường dẫn đến chủ nghĩa xã hội. Như vậy, theo quan
điểm này dân chủ vừa là mục tiêu, là phương thức mà giai cấp vô sản sử dụng để xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Dân chủ luôn mang tính giai cấp. Dân chủ với tư cách là chế độ nhà nước gắn trực
tiếp với một giai cấp cầm quyền nhất định dựa trên một quan hệ sản xuất thống trị nên
dân chủ bao giờ cũng mang tính giai cấp, không bao giờ có thứ dân chủ thuần túy cho
mọi giai cấp.
Muốn có quyền dân chủ thực sự trong chính trị trước hết phải giành lấy quyền dân
chủ trong kinh tế. Suy cho cùng đó chính là vật chất quyết định ý thức.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là chế độ dân chủ được khẳng định quyền nhà nước
thuộc về nhân dân lao động. Để thực hiện thành công nền dân chủ đó, cần có sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản, Đảng của giai cấp công nhân.
Lê Nin phát triển tư tưởng của Mác – Ăng ghen: Chế độ dân chủ là một hình thức
nhà nước, là một trong những hình thái của nhà nước; Những giá trị dân chủ cần được
giai cấp công nhân vận dụng để thực hiện sứ mệnh của mình mà trước hết là xây dựng
nền dân chủ mới, dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, dân chủ với tư cách là giá trị xã hội. Trong Điều lệ của Liên đoàn

những người cộng sản do hai ông tham gia soạn thảo, vấn đề bình đẳng giữa các thành
viên của Liên đoàn được xem như một vấn đề có tính nguyên tắc: Tất cả các hội viên
của Liên đoàn đều bình đẳng, họ là anh em và trong mọi trường hợp, đều có nghĩa vụ
giúp nhau như anh em. Khi xác định nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Hội Liên hiệp
10


công nhân quốc tế, C. Mác và Ph. Ăngghen cũng chỉ rõ: “Mỗi hội viên của Hội Liên
hiệp công nhân quốc tế đều có quyền tham gia bầu cử đại biểu dự đại hội của toàn Hội
Liên hiệp và có quyền được bầu làm đại biểu... Mỗi chi bộ không kể số lượng hội viên
ra sao đều có quyền cử một đại biểu dự đại hội... Mỗi đại biểu chỉ có một phiếu ở đại
hội... Tất cả những vấn đề về nguyên tắc đều được đưa ra biểu quyết có ghi tên...
Theo C. Mác, con người và sự tôn trong những quyền của con người là điểm xuất
phát và cũng là điểm cuối cùng để đánh giá một chế độ là dân chủ hay chuyên chế. Chỉ
có trong chế độ dân chủ, con người mới là mục đích, là chủ thể của xã hội. Dân chủ
không chỉ đem lại sự bình đẳng về mặt chính trị, mà còn đem lại cả sự bình đẳng về mặt
xã hội. Đây cũng là điều mà C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định ngay từ thế kỷ XIX,
khi các ông viết: “Yêu cầu bình đẳng không còn giới hạn trong những quyền chính trị
nữa, mà đã mở rộng ra đến cả địa vị xã hội của mỗi cá nhân” .
Phát triển và vận dụng sáng tạo có hiệu quả những tư tưởng về dân chủ, về chủ
nghĩa nhân đạo mácxít vào thực tiễn cách mạng Nga, V.I.Lênin cho rằng: Phát triển dân
chủ một cách đầy đủ, nghĩa là làm sao cho toàn thể quần chúng nhân dân lao động tham
gia thật sự bình đẳng và thật sự rộng rãi vào mọi hoạt động của nhà nước. Bằng những
hình thức dân chủ gián tiếp không ngừng được tăng cường, củng cố sẽ là điều kiện,
động lực to lớn nhằm thúc đẩy sự nhanh chóng tiêu vong của nhà nước - cũng là trở lại
những giá trị đích thực về chủ quyền cá nhân.
Nói một cách cụ thể, dân chủ là: Bình đẳng của một công dân trước pháp luật; Tự
do chính trị cho mọi công dân; Quyết định theo đa số của mọi công dân; Quyết định
bằng cách biểu quyết, đó là thực chất của dân chủ, hòa bình hay dân chủ thuần túy,…
Ba là, nguyên tắc tập trung dân chủ. Về bản chất đó là sự kết hợp hài hòa giữa

tính nhất quán về mục tiêu với tính phong phú, đa dạng, muôn hình muôn vẻ các hình
thức, phương thức, bước đi để thực hiện sự lãnh đạo thống nhất và nhằm thực hiện
những mục tiêu chung.
Dân chủ vừa là điểm xuất phát vừa là đích đến, còn tập trung là để giải quyết các ý
kiến khác nhau trong một xã hội dân chủ để bảo đảm dân chủ cho đa số.
Tư tưởng về nguyên tắc tập trung dân chủ của V.I.Lênin là chế độ tổ chức và
nguyên tắc tổ chức của Đảng. Hai mặt dân chủ và tập trung trong nguyên tắc tập trung
11


dân chủ đều có nội dung xác định là những người lãnh đạo của Đảng đều phải được bầu
ra và có thể bị bãi miễn, thay thế; tập trung thảo luận để xây dựng nghị quyết cho toàn
Đảng; trước khi nghị quyết được thông qua phải tổ chức cho đảng viên thảo luận rộng
rãi, cho đảng viên tự do phê bình trong Đảng, đảm bảo quyền bảo lưu ý kiến và quyền
tự do bảo vệ ý kiến của phái thiểu số; xây dựng và kiện toàn chế độ giám sát trong
Đảng; định kỳ triệu tập hội nghị công khai của cơ quan lãnh đạo Đảng. Nguyên tắc tập
trung dân chủ của V.I.Lênin là sự kết hợp hữu cơ hai mặt dân chủ và tập trung, là sự
thống nhất của hai mặt đối lập đó. Hai mặt dân chủ và tập trung liên hệ, hòa nhập với
nhau, mặt này là tiền đề và điều kiện cho mặt kia. Cả hai mặt cùng tạo thành một bộ
phận không thể thiếu được của nguyên tắc tổ chức của chính đảng vô sản; dân chủ là cơ
sở của tập trung mà tập trung lại là điều kiện bảo đảm dân chủ.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin về dân chủ thể hiện tư tưởng cơ bản về chế
độ dân chủ xã hội chủ nghĩa. Theo đó, cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp vô sản chính
là quá trình xây dựng một chế độ dân chủ mới. Đấu tranh cho dân chủ xét đến cùng là
con đường dẫn đến chủ nghĩa xã hội. Dân chủ bao giờ cũng mang tính giai cấp. Muốn
có quyền dân chủ thực sự trong chính trị thì phải lấy quyền dân chủ trong kinh tế. Nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ được khẳng định quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân lao động. Để có nền dân chủ XHCN cần có sự lãnh đạo của ĐCS.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ: Dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh được thể
hiện trong hàng loạt luận đề cô đọng, hàm xúc, sâu sắc và tinh tế. Theo Hồ Chí Minh, “dân

chủ là dân là chủ và dân làm chủ”. Có thể xem đây là một định nghĩa kinh điển Hồ Chí Minh
về dân chủ. Người đã làm một cuộc cách mạng trong tư duy lý luận dân chủ khi khẳng định vị
trí, vai trò người chủ và năng lực làm chủ của nhân dân”. Năng lực làm chủ, theo Hồ Chí
Minh là thực hành dân chủ, hơn nữa phải thực hành dân chủ rộng rãi, nhất là thực hành dân
chủ trong Đảng. Sớm nhận thấy vai trò động lực của dân chủ với phát triển, Hồ Chí Minh
khẳng định rằng:
- Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng sức
mạnh đoàn kết của dân, cũng tức là của dân chủ.
- Dân chủ là của quý báu nhất trên đời của dân (chính vì thế mà dân phải là chủ sở hữu
giá trị, tài sản này, chủ sở hữu Nhà nước với những giá trị, tài sản ấy).
- Thực hành dân chủ rộng rãi là chiếc chìa khoá vạn năng để giải quyết mọi khó khăn.
12


Một đúc kết từ dân mà Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh “dễ trăm lần không dân cũng
chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Đây là một chân lý về dân và dân chủ. Chỉ có dân chủ
thực sự, thực chất thì dân mới bộc lộ và phát huy được sức mạnh của mình.
Trong bản chất dân chủ, Hồ Chí Minh nhận rõ, tổ chức, bộ máy, thiết chế, thể chế là
những công cụ, phương tiện để thực thi dân chủ. Linh hồn và chủ thể dân chủ xét trên mọi
quan hệ, tầng bậc, cấp độ đều là Dân. “Bao nhiêu lợi ích đều là của dân, bao nhiêu quyền
hành cũng thuộc về dân, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”.
Dân sáng tạo ra dân chủ đồng thời dân phải được thụ hưởng trực tiếp mọi thành quả
của dân chủ, cả vật chất lẫn tinh thần. Dân đánh giá cái thực chất của dân chủ từ đó. Hồ Chí
Minh thường nói rằng, dân chỉ biết đến dân chủ khi dân được ăn no, mặc ấm. Nước nhà tranh
đấu cho được độc lập, tự do mà dân vẫn còn đói khổ, lạc hậu, đau ốm, tăm tối, dốt nát thì độc
lập tự do (bao hàm cả dân chủ) cũng chẳng để làm gì.
Để thực hành dân chủ, Người đòi hỏi phải làm ngay, làm cho dân có ăn, làm cho dân có
mặc, làm cho dân có nhà ở, làm cho dân được học hành, được chữa bệnh, được tự do đi lại,
được hưởng quyền tự do, hạnh phúc mà họ xứng đáng được hưởng.
Ở đây, bản chất Dân chủ là một bản chất thực tiễn, tư tưởng dân chủ, khát vọng dân chủ

phải được thực tiễn hoá. Dân chủ còn mang bản chất xã hội và thể hiện đậm nét tính nhân
dân, tính dân tộc, gắn bó sâu sắc với truyền thống và bản sắc văn hoá dân tộc. Hồ Chí Minh
từ “thân dân” phát triển tới “dân chủ”. HCM kết hợp làm một trọng dân với trọng pháp.
Trong bản chất của Dân chủ, Hồ Chí Minh không chỉ tính đến sức mạnh của kinh tế,
của thể chế chính trị (Nhà nước, chế độ Nhà nước) mà còn thấy trong bản chất ấy cái đảm bảo
quan trọng hàng đầu là tính nghiêm minh chuẩn tắc của luật pháp thi hành luật pháp. Vai trò
của đạo đức, nhất là đạo đức của công chức, được Người nhấn mạnh và trù tính một kế sách
lâu dài để tẩy bỏ (chữ của Hồ Chí Minh) những phản dân chủ. Đó là dùng văn hoá mà chữa
thói phù hoa, xa xỉ, tham ô, lãng phí, quan liêu. Phải biết nâng cao dân trí, dân khí (dũng khí,
trí tuệ của dân ) lên, dân giúp sức cho sự sửa chữa mọi thói hư tật xấu mà tổ chức và cán bộ
nhiễm phải. Không phải không có lý do khi Người nghiền ngẫm một tư tưởng lớn của Tôn
Trung Sơn mà Người đánh giá rất cao rằng, ba chủ nghĩa ấy của Tôn Văn rất thiết thực cho
Việt Nam: dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc.
Trong bản chất dân chủ, Người còn kiến giải đầy tính duy lý về quan hệ Dân chủ và Tự
do, nhận thức và hành động đúng như chân lý, theo chân lý. “Trong một nước dân chủ, ai ai
cũng có quyền tự do dân chủ, có quyền bình đẳng trong thảo luận, tranh luận để cùng nhau tìm
13


tòi chân lý. Khi chân lý đã tìm thấy rồi thì quyền tự do tư tưởng hoá ra quyền tự do phục tùng
chân lý”.
Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về dân chủ:
Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, Đảng ta luôn xác định rõ phát huy dân chủ
trong xã hội là một nội dung lớn của đường lối cách mạng nhằm phát huy sức mạnh của tòan
dân tộc, khẳng định: Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của đổi mới.
Xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng,
dân chủ, văn minh, do nhân dân lao động làm chủ...
Dân chủ xã hội chủ nghĩa gắn liền với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Như vậy, dân chủ xã hội
chủ nghĩa nằm trong hệ mục tiêu của đổi mới, thể hiện bản chất ưu việt của chủ nghĩa xã hội.

Để đi lên chủ nghĩa xã hội, cùng với phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, nhất thiết phải xây dựng thành công nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện
đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh... Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa,
bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân được Đảng ta tổng kết là một trong năm bài học lớn của
đổi mới. Đảng ta nhận thức rằng, dân chủ xã hội chủ nghĩa thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa
Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Phấn đấu cho quyền làm chủ thật sự của nhân dân được thực hiện, nhân dân là chủ thể
của quyền lực, mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân, Nhà nước là người nhận quyền lực xã
hội do nhân dân ủy giao phó để tổ chức và thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Nhân dân
là người chủ xã hội, cho nên nhân dân không chỉ có quyền, mà còn có trách nhiệm tham gia
hoạch định, thi hành các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Pháp luật, như đã nói, là công cụ đầy hiệu lực của quản lý, bảo đảm cho quyền lực của
nhân dân được thực hiện, thông qua sức mạnh của Nhà nước. Pháp luật không tách rời dân
chủ, cũng như không có dân chủ nào ở bên ngoài pháp luật. Sự vận động và phát triển lành
mạnh của dân chủ đòi hỏi sự hiện diện của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trong đó,
pháp luật là giới hạn, là hành lang vận động của dân chủ.
Bằng cách đó, đạt được mục tiêu dân chủ sẽ dẫn tới sự phát triển tích cực, lành mạnh của
cá nhân và xã hội. Trong các thể chế dân chủ của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ
giữa dân chủ với tập trung trong nguyên tắc (hay chế độ) tập trung dân chủ của hoạt động
14


chính trị và quan hệ giữa dân chủ với đoàn kết, đồng thuận và hợp tác của cộng đồng xã hội,
trong đời sống xã hội là những mối quan hệ nổi bật.
Như vậy, tập trung không đối lập với dân chủ mà chỉ đối lập với tự do vô chính phủ, tính
phân tán, cát cứ, cục bộ địa phương và thói phường hội. Dân chủ không đối lập với tập trung,
mà chỉ đối lập với quan liêu, chuyên chế, độc tài. Với Đảng Cộng sản Việt Nam, nhờ giữ vững
tập trung dân chủ mà Đảng ta là một Đảng chiến đấu, Đảng hành động, có sức mạnh của tính

tổ chức, tính kỷ luật.
Trong đời sống xã hội, trong cộng đồng xã hội và dân tộc, đoàn kết để thúc đẩy dân chủ
và muốn đoàn kết thật sự thì phải bảo đảm dân chủ. Chính điều này cần thiết phải xây dựng
văn hóa dân chủ trong đời sống xã hội để mọi quan hệ ứng xử giữa con người với con người
và tổ chức thấm nhuần tinh thần bình đẳng, tôn trọng, tin cậy, hợp tác để cùng phát triển.
Qua thực tiễn đổi mới, tư duy lý luận của Đảng cũng đã vươn tới những quan điểm mới,
mở ra một khả năng và triển vọng tốt đẹp để xây dựng xã hội ta thành một xã hội dân chủ,
trong đó nhân dân là người chủ chân chính của Nhà nước và xã hội, là chủ thể quyền lực. Vấn
đề đặt ra là cần phải thực hành dân chủ rộng rãi và nghiêm túc, trước hết là dân chủ trong
Đảng, sau đó thực hành dân chủ trong toàn xã hội. Thực hiện dân chủ rộng rãi sẽ là chiếc chìa
khóa vạn năng giải quyết mọi khó khăn. Luận đề tư tưởng quan trọng đó của Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã tỏ rõ vai trò, mục tiêu và động lực của dân chủ đối với sự phát triển xã hội.
Quan điểm của Đảng ta về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở: Mở rộng dân chủ xã hội
chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân là mục tiêu, đồng thời là động lực đảm bảo
thắng lợi của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chỉ có thực hiện dân chủ và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân mới khơi dậy được tính tích cực, chủ động, tự giác của nhân dân
tham gia thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Và chỉ khi ấy, các chủ
trương, chính sách mới thực sự đi vào cuộc sống xã hội, công việc của nhà nước, của xã hội
mới trở thành công việc của mọi người và mọi người tham gia thực hiện thì chế độ chính trị
mới thực sự có sức mạnh. Điều đó lại diễn ra thường xuyên ở cơ sở. Nhằm phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, động viên sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn của nhân dân trong
phát triển kinh tế, ổn định chính trị xã hội, tăng cường đòan kết, cải thiện dân sinh, nâng cao
dân trí, xây dựng Đảng bộ, chính quyền và các đòan thể ở cơ sở trong sạch, vững mạnh; thực
hiện tốt chế độ dân chủ trực tiếp ở cơ sở để nhân dân bàn bạc và quyết định trực tiếp những
công việc quan trọng, thiết thực, gắn liền với lợi ích của mình.

15


Ngày 18-02-1998, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 30-CT/ TW về Quy chế dân chủ ở

cơ sở và ngày 11-5-1988, Chính phủ ban hành Nghị định số 29/NĐ-CP về Quy chế thực hiện
dân chủ ở xã. Sau 5 năm thực hiện, tổng kết, rút kinh nghiệm, Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 79/2003/NĐ-CP. Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã có Nghị quyết số 34/2007/PLUBTVQH ban hành Pháp lệnh về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn có hiệu lực thi hành
kể từ ngày 01-7-2007. Pháp lệnh đề ra các nguyên tắc cơ bản để thực hiện dân chủ ở cơ sở,
như: bảo đảm trật tự, kỷ cương; bảo đảm quyền của nhân dân được biết, tham gia ý kiến,
quyết định, thực hiện và giám sát việc thực hiện dân chủ ở cấp xã; bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; công khai, minh bạch trong quá trình
thực hiện dân chủ ở cấp xã; bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Pháp
lệnh chế định những nội dung của dân chủ ở cơ sở bằng việc đảm bảo các quyền của công
dân; phát huy chế độ dân chủ đại diện, nâng cao chất lượng và hiệu lực hoạt động của chính
quyền địa phương, thực hiện chế độ dân chủ trực tiếp ở cơ sở để nhân dân bàn bạc và trực tiếp
quyết định những công việc quan trọng, thiết thực, gắn với quyền lợi và nghĩa vụ của nhân
dân. Dân chủ phải trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật; đi đôi với trật tự, kỷ cương;
quyền đi đôi với nghĩa vụ; kiên quyết xử lý những hành vi lợi dụng dân chủ, vi phạm Hiến
pháp, pháp luật, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích tập thể, quyền tự do, dân chủ và lợi
ích hợp pháp của công dân. Việc triển khai sâu rộng và đồng bộ quy chế dân chủ ở cơ sở đã
thực sự huy động được các nguồn lực, khơi dậy và phát huy được ý chí tinh thần và các nguồn
lực vật chất tiềm tàng trong các tầng lớp nhân dân.
Qui chế thực hiện dân chủ ở cơ sở dù có xây dựng công phu đến đâu thì cũng không bao
giờ chi tiết hoá được hết các cách thức thực hành dân chủ của từng địa phương, cũng như
không thể lấy mô hình thực hiện của địa phương này đem áp đặt nó cho địa phương khác. Khó
khăn hơn gấp nhiều lần việc ban hành văn bản pháp luật về dân chủ đó là xây dựng nếp sống
dân chủ.
Nếp sống dân chủ không đơn thuần chỉ được hiểu là việc tuân theo đúng những gì đã qui
định trong qui chế dân chủ, mà đó phải trở thành nhu cầu thường trực, thành hành vi, phong
cách của mọi chủ thể thực hiện. Không thể có dân chủ thực sự nếu không xây dựng một môi
trường, một bầu không khí cởi mở, cạnh tranh lành mạnh, và không biến dân chủ trở thành lực
đẩy cho kinh tế, văn hoá -xã hội, an ninh quốc phòng phát triển.
Dân chủ không phải là thứ quà được ban tặng, mọi người chỉ cần giơ tay đón nhận và
hưởng thụ. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng chế độ dân chủ là sự nghiệp

16


cách mạng, là quá trình đấu tranh không ngừng giữa thực thi dân chủ với vi phạm quyền làm
chủ, giữa dân chủ thực với dân chủ hình thức, giữa thực hiện dân chủ trong khuôn khổ pháp
luật với các khuynh hướng vô chính phủ, dân chủ cực đoan… Hiện nay, có những cá nhân và
thế lực muốn lợi dụng dân chủ để gây mất ổn định chính trị, phá hoại chế độ dân chủ nhân
dân. Chúng ta kiên quyết đấu tranh và vạch trần âm mưu của những kẻ lợi dụng dân chủ, kích
động chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, phá hoại công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta./.

17


4. Cấu trúc của hệ thống chính trị có ảnh hưởng đến dân chủ cơ sở.
“Dân chủ” có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp gồm “demos” (nhân dân) và “kratos”
(quyền lực, chính quyền), kết hợp lại thành “demokratia”, có nghĩa là quyền lực của
nhân dân, chính quyền của nhân dân. Dân chủ có nghĩa là nhân dân làm chủ mọi quyền
lực xã hội. Đó là mơ ước từ xưa của nhân loại và được các nhà tư tưởng tiến bộ nêu ra
từ rất sớm trong lịch sử. Trải qua hàng ngàn năm tiến hóa, đến thời đại chúng ta, dân
chủ vẫn đang là đòi hỏi bức xúc, là nhu cầu và động lực phát triển xã hội.
Trong mọi xã hội có giai cấp, quyền lực của chủ thể cầm quyền được thực hiện
bằng một hệ thống thiết chế và tổ chức chính trị nhất định. Đó là hệ thống chính trị.
Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị xã hội bao gồm các đảng
chính trị, nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội được liên kết với nhay trong một hệ
thống tổ chức, nhằm tác động vào các quá trình của đời sống xã hội; củng cố, duy trì và
phát triển chế độ chính trị phù hợp với lợi ích của giai cấp cầm quyền.
Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao

động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam và các tổ chức
chính trị - xã hội hợp pháp khác được thành lập, hoạt động trên cơ sở liên minh giữa
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt nam, thực hiện và bảo đảm đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Hệ
thống chính trị được tổ chức từ trung ương đến địa phương.
Cơ sở là cấp cuối cùng trong hệ thống hành chính nhà nước; ở nước ta, đó là cấp xã
(xã, phường, thị trấn). Cơ sở và chính quyền cấp cơ sở có vị trí đặc biệt trong hệ thống
chính trị nước ta. Đó là cấp xa Trung ương nhất, là cấp gần dân nhất. Trong quá trình
thực thi quyền lực nhà nước, chính quyền cấp cơ sở là cấp trực tiếp làm việc với dân.
Dân chủ ở cơ sở được thực hiện bằng hệ thống tổ chức chính trị ở cơ sở. Đảng
bộ, chi bộ cơ sở - đặc biệt là ở xã, phường, thị trấn - lãnh đạo toàn diện đời sống kinh tế, chính
trị, an ninh, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh ở cơ sở. Sự lãnh đạo ấy đã đảm bảo phát huy
mọi tiềm lực của địa phương và đảm bảo dân chủ của nhân dân được thực hiện bằng hệ thống
chính trị ở cơ sở. Để thực hiện được vai trò này, trước hết Đảng bộ, chi bộ phải đề ra được
18


nghị quyết đúng trên cơ sở bàn bạc thật sự dân chủ trong tổ chức và cấp ủy đảng. Khi thực
hiện tốt dân chủ trong Đảng sẽ phát huy sức sáng tạo, tiên phong của đảng viên trong việc xây
dựng và thực hiện nghị quyết.
Các nghị quyết của tổ chức cơ sở đảng được thực hiện thông qua các tổ chức chính trị ở
cơ sở. Trước hết, nghị quyết cần được Hội đồng nhân dân xã, phường thông qua. Đảng ủy
trình bày nghị quyết của mình trước Hội đồng nhân dân và được các đại biểu bàn bạc, đóng
góp ý kiến. Hội đồng nhân dân có quyền chấp nhận, bổ sung, sửa đổi hoặc không chấp nhận
đề xuất của Đảng bộ. Chỉ khi nâng cao vị trí của Hội đồng nhân dân, dân có quyền quyết định
những vấn đề có liên quan trực tiếp đến đời sống cộng đồng dân cư, thực sự tôn trọng nguyện
vọng chính đáng của nhân dân thông qua đại biểu của họ thì ý Đảng và lòng dân mới đồng
thuận. Khi nghị quyết của Đảng ủy phù hợp với ý nguyện của nhân dân và trở thành quyết
định của Hội đồng nhân dân sẽ được Ủy ban nhân dân phường, xã và trưởng thôn triển khai
thực hiện. Những đảng viên hoạt động trong Ủy ban nhân dân phường, xã, là trưởng thôn

đồng thời thực hiện hai nghị quyết: nghị quyết của Đảng và nghị quyết của Hội đồng nhân
dân, chịu sự giám sát của Đảng ủy và Hội đồng nhân dân.
Sự lãnh đạo của Đảng ủy đối với chính quyền cơ sở còn thể hiện trên các mặt: đào tạo
cán bộ, giới thiệu để dân bầu vào chính quyền, lãnh đạo chính quyền thực hiện nghị quyết của
Đảng và quyết định của nhân dân; đứng về phía nhân dân để kiểm tra, giám sát chính quyền.
Thực hiện được như vậy sẽ phát huy được hiệu lực của chính quyền, đảm bảo cho chính quyền
thực sự là của dân, do dân và vì dân, đồng thời cũng đảm bảo cho Đảng mãi mãi vì dân.
Chính quyền cơ sở dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, chi bộ, cấp ủy cơ sở, song lại có tính
độc lập tương đối, thể hiện ở hai mặt sau: phải chấp hành ý nguyện và quyết định của nhân
dân; phải chấp hành pháp luật của Nhà nước, chỉ thị, mệnh lệnh của chính quyền cấp trên. Vì
vậy, sự lãnh đạo của Đảng phải đảm bảo tính chủ động, sáng tạo của chính quyền cơ sở, vì cán
bộ chính quyền còn có nhiệm vụ trước dân, trước pháp luật của Nhà nước và chính quyền cấp
trên. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng bộ, chi bộ, cấp ủy đảng cơ sở thực chất là làm cho chính
quyền làm tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, nếu không có thể dẫn đến tình trạng Đảng bao
biện, làm thay, cản trở hoạt động của chính quyền. Ngược lại, nếu quá nhấn mạnh tính chủ
động, sáng tạo của chính quyền mà thiếu sự lãnh đạo, định hướng, kiểm tra,giám sát của Đảng
đối với chính quyền thì sẽ hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng.
Chính quyền phường xã là tổ chức quan trọng nhất trong việc thực thi quyền lực chính
trị, quyền lực nhà nước ở cơ sở, đồng thời cũng là tổ chức quan trọng nhất làm chức năng
19


công quyền của nhân dân. Tuy nhiên, chính quyền nhà nước - dù được tổ chức hoàn thiện và
có hiệu lực đến mức nào - cũng không thể đảm nhận hết các công việc của đời sống xã hội.
Hơn nữa, chính quyền nhà nước thực thi quyền lực và quản lý xã hội trên cơ sở luật pháp,
nhưng đời sống xã hội còn bao gồm cả những nguyên tắc đạo đức, tình cảm tâm lý phong tục,
tập quán…rất phong phú và đa dạng, tổ chức cộng đồng dân cư. Do vậy, ngoài chính quyền
nhà nước còn rất cần có hoạt động của các đoàn thể nhân dân: Mặt trận Tổ quốc, Đoàn Thanh
niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân. Hội Cựu chiến binh. Các đoàn thể
nhân dân hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng bô, chi bộ, các cấp ủy đảng cơ sở. Đảng bộ đề

ra quyết định hướng cho các đoàn thể, đào tạo và giới thiệu cán bộ để các đoàn thể lựa chọn
bầu vào các chức vụ lãnh đạo. Nhưng, sự lãnh đạo ấy không phải là sự áp đặt ý chí chủ quan
mà tôn trọng tính tự nguyện, tự chủ và tự quyết của các đoàn thể.
Hoạt động của các đoàn thể nhân dân phải mang tính chất chính trị, thực hiện các nghị
quyết của Đảng, chịu sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, tuân theo luật pháp của Nhà nước.
Song, mỗi tổ chức đoàn thể phải mang lại lợi ích thiết thân cho thành viên của mình. Lợi ích
đó có thể là vật chất, văn hóa, tinh thần, đảm bảo quyền công dân, quyền con người…
Như vậy, hoạt động của các đoàn thể nhân dân không chỉ là phụ thêm cho chính quyền,
mà đảm bảo các chức năng quan trọng đời sống xã hội. Các đoàn thể còn đại diện cho tiếng
nói của quần chúng kiến nghị với chính quyền giải quyết công việc theo nguyện vọng của
quần chúng ; đấu tranh với các hành vi mất dân chủ, vi phạm pháp luật, vi phạm quyền công
dân, quyền con người của các cán bộ trong cơ quan chính quyền nhà nước.
Hệ thống chính trị ở cơ sở bao gồm các tổ chức đảng, chính quyền và các đoàn thể
nhân dân; mỗi tổ chức có vị trí, vai trò riêng và giữa cúng có quan hệ với nau. Trong hệ thống
ấy, Đảng giữ vị trí hạt nhân chính trị, giữ vai trò lãnh đạo. Song, không có nghĩa là Đảng làm
tất cả mà quan trọng là Đảng phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của chính quyền và các đòan
thể nhân dân và chăm lo xây dựng các tổ chức trong hệ thống này vững mạnh, trong sạch, hoạt
động có hiệu quả cao.
Thực hiện dân chủ ở cơ sở là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Đó là
nhiệm vụ vô cùng quan trọng, vừa có tính cấp bách, vừa có tính cơ bản lâu dài đối với sự
nghiệp đổi mới của đất nước ta. Việc thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở sẽ khơi dậy mọi tiềm năng
của các cơ sở. Hướng về cơ sở cũng chính là phát huy truyền thống lịch sử dựng nước và giữ
nước của dân tộc Việt Nam, thúc đẩy và phát huy những giá trị tiêu biểu của văn hóa chính trị

20


Việt Nam truyền thống mà dân tộc ta suốt chiều dài lịch sử đã tạo dựng được phù hợp với điều
kiện mới.
Thực hiện dân chủ ở cơ sở là tạo ra cộng đồng cơ sở vững mạnh và qua đó tạo tác động

ngược lại để củng cố, hoàn thiện bộ máy nhà nước và sự lãnh đạo của Đảng. Mục tiêu thực
hiện dân chủ ở cơ sở nhằm giữ vững và phát huy bản chất tốt đẹp của chế độ và Nhà nước ta,
thu hút nhân dân tham gia quản lý nhà nước, tham gia kiểm kê, kiểm soát nhà nước, khắc phục
tình trạng suy thoái, quan liêu, mất dân chủ và nạn tham nhũng.

21



×