Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

ĐỀ CƯƠNG THI MÔN KHOA HỌC LÃNH ĐẠO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.61 KB, 12 trang )

1. Hãy nêu vai trò, chức năng của lãnh đạo? Quan điểm giữa lãnh đạo và quản
lý? Liên hệ thực tiễn ở địa phương, đơn vị?
Trả lời
Lãnh đạo là hoạt động theo suốt chiều dài lịch sử xã hội loài người. Các triết gia thời
Hy Lạp, La Mã, Trung Hoa cổ đại đồng nhất nhà lãnh đạo với các bậc đế vương, với việc
trị nước, quản dân. Trong thời kỳ Phục hưng (thế kỷ XVI), hoạt động lãnh đạo luôn gắn
với vị thế cá nhân của người đứng đầu thành bang, quốc gia hay dân tộc. Lãnh đạo cũng
đồng nhất với hoạt động chính trị với trọng tâm là giành quyền lực, giữ quyền lực và sử
dụng quyền lực trong quan hệ với thần dân. Đến thời kỳ cách mạng công nghiệp và cách
mạng tư sản, lãnh đạo mới dần tách khỏi hoạt động chính trị, mở rộng phạm vi hoạt động
và gắn liền với tiến trình phân công và chuyên môn hóa lao động xã hội của loài người.
Hoạt động lãnh đạo, quản lý, điều hành, phối hợp,… đều nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn
về loại hình lao động đặc thù. Hoạt động lãnh đạo có vai trò nhằm đảm bảo điều kiện cho
các hoạt động khác đạt được mục tiêu đã đề ra với hiệu suất và hiệu quả cao nhất.
Từ sau chiến tranh thế giới thứ II, tác động của cách mạng khoa học, công nghệ và
tiến trình toàn cầu hóa mạnh mẽ tương ứng với tiến trình hội nhập quốc tế sâu sắc của
từng quốc gia cũng như nguy cơ từ các vấn đề sinh thái và an ninh toàn cầu đã dẫn đến
những thay đổi căn bản trong tổ chức hoạt động của các tổ chức, cơ quan, cộng đồng và xã
hội rộng lớn. Việc tìm kiếm, nắm bắt cơ hội mới, việc thay đổi để thích ứng và chủ động
trong quá trình toàn cầu hóa, việc dẫn dắt tổ chức, cộng đồng, xã hội đi đến thành công và
việc khơi nguồn sáng tạo và động lực hành động của con người, trong một thế giới khoa
học và tri thức đã trở thành thách thức lãnh đạo và đòi hỏi những tri thức mới về lãnh đạo.
Như vậy, lãnh đạo ra đời chính là do nhu cầu lao động xã hội và nó có vai trò rất quan
trọng trong nhu cầu đó. Lãnh đạo là quá trình hành động gây ảnh hưởng lên người khác
nhằm khơi dậy cảm xúc và cam kết cùng hành động vì mục tiêu chung.
Lãnh đạo là quá trình tác động đến con người sao cho họ cố gắng một cách tự nguyện
và nhiệt tình phấn đấu để đạt được các mục tiêu của tổ chức. Người lãnh đạo không đứng
đằng sau để thúc đẩy hay thúc giục, họ đặt mình lên trước, động viên mọi người hoàn
thành mục tiêu đã đề ra. Bất kể một người quản lý lập kế hoạch, tổ chức và kiểm tra kết
quả có tốt đến đâu, người đó vẫn phải hỗ trợ những hoạt động đó bằng cách đưa ra những
chỉ dẫn cho mọi người, thông tin đầy đủ và lãnh đạo tốt. Việc lãnh đạo phải dựa trên sự




hiểu biết về động cơ của con người là gì và điều gì làm cho họ thỏa mãn khi họ góp sức
vào việc hoàn thành các mục tiêu của tổ chức. Một nhà lãnh đạo hiện đại, cần tập trung
vào các vai trò sau: Phục vụ, định hướng, quản lý những tiêu chuẩn cao và kết quả tốt,
huấn luyện, người làm thay đổi, làm gương.
Về chức năng lãnh đạo:
Một là, kiến tạo tầm nhìn cho tổ chức, cho tiến trình xã hội cũng như hoạch định
chiến lược để thực hiện hóa tầm nhìn.
Hai là, xây dựng giá trị và văn hóa tổ chức: tạo lập những giá trị mới và tiểu văn hóa
đặt thù nhằm gắn kết các cộng sự, nhân viên và xây dựng hình ảnh của tổ chức trong nhìn
nhận của cộng đồng, xã hội.
Ba là, động viên và thúc đẩy cộng sự: truyền cảm hứng về tầm nhìn, về giá trị mới,
cảm nhận, chia sẻ và thấu hiểu mong muốn và khả năng đóng góp của cộng sự, nhân viên
cũng như sự phát triển của bản thân họ.
Bốn là, đổi mới và thích nghi: dẫn dắt tổ chức và tiến trình phát triển thông qua việc
nắm bắt các cơ hội và đáp ứng sự biến đổi của môi trường bằng những sản phẩm mới, giá
trị mới và cơ cấu tổ chức, phương thức hành động mới.
Quan điểm giữa lãnh đạo và quản lý: Trong cuộc sống thực tế, không ít người cho
rằng lãnh đạo và quản lý là cũng một khái niệm, giữa chúng không có gì khác nhau, quá
trình lãnh đạo gần như chính là quá trình quản lý.
Lãnh đạo là quá trình hành động gây ảnh hưởng lên người khác nhằm khơi dậy cảm
xúc và cam kết cùng hành động vì mục tiêu chung.
Quản lý là quá trình làm việc cùng với và làm việc thông qua những người khác
nhằm đạt được các mục tiêu của tổ chức trong điều kiện môi trường thay đổi.
Những nhà quản lý học có những quan điểm khác nhau về định nghĩa lãnh đạo,
nhưng nội dung bản chất là giống nhau. Họ đều cho rằng lãnh đạo là người dẫn dắt cấp
dưới thực hiện mục tiêu của tổ chức. Quản lý và lãnh đạo đều có mục đích là thực hiện
mục tiêu của tổ chức, bên cạnh đó còn: Có cơ sở khách quan từ hoạt động thực tiễn, đó là
sự cần thiết tuân thủ kỷ luật, trật tự xuất phát từ yêu cầu khách quan; Dẫn dắt tập thể để

đạt mục tiêu chung; Đạt mục tiêu thông qua người khác.
Song thực ra, giữa chúng có sự khác biệt và có liên quan với nhau.
2


Sự khác biệt: Về chức năng, lãnh đạo là một chức năng của quản lý, thường được gọi
là chức năng lãnh đạo, còn chức năng khác của quản lý lại không phải là lãnh đạo. Lãnh
đạo là sự thiết lập và định hướng tương lai của tổ chức, là tạo sự thay đổi có ý nghĩa lâu
dài và quan trọng. Còn quản lý là giữ cho hệ thống tổ chức hoạt động trơn tru, tạo điều
kiện để làm ra các kết quả ngắn hạn. Ví dụ: công việc mà những người tham mưu trong tổ
chức làm là công tác quản lý, nhưng không phải là công tác lãnh đạo. Quản lý ở đây chỉ
hành vi quản lý, công tác lãnh đạo vừa bao gồm hành vi quản lý, vừa bao gồm hoạt động
nghiệp vụ khác. Ví dụ: một người lãnh đạo doanh nghiệp cần gặp và tiếp nhân vật quan
trọng, tham gia đàm phán, tham dự những hoạt động chung.
Về phạm vi, thông thường, lãnh đạo chủ yếu là lãnh đạo con người, xử lý quan hệ
giữa người với người, đặc biệt là quan hệ cấp trên và cấp dưới. Đây là vấn đề cốt lõi trong
hoạt động quản lý. Còn về quản lý, ngoài quản lý con người, đối tượng của quản lý còn
bao gồm tài chính, vật chất. Quản lý không chỉ xử lý quan hệ giữa người với người mà
còn phải xử lý mối quan hệ tài chính và vật chất, giữa vật chất và con người, giữa con
người và tài chính. Phạm vi mà quản lý đề cập đến rộng hơn nhiều so với lãnh đạo.
Về sự ảnh hưởng, lãnh đạo thiên về dùng ảnh hưởng bằng tầm nhìn và giá trị, hướng
đến sự tự nguyện tuân thủ. Còn quản lý, dùng áp lực bằng quy chế và chuẩn mực, hướng
đến sự ép buộc tuân thủ.
Quản lý và lãnh đạo khác biệt nhau nhưng có liên quan mật thiết với nhau
Lãnh đạo và quản lý thuộc 2 tầng hoạt động khác nhau song chúng lại có quan hệ mật thiết
khó tách rời. Hoạt động lãnh đạo tập trung vào việc đưa ra quyết sách, xác định mục tiêu,
kế hoạch phấn đấu, vạch ra chính sách tương ứng và phương hướng lãnh đạo khu vực, ban
ngành, đơn vị tiến lên phía trước… Còn quản lý tập trung giữ vững và tăng cường hoạt
động của tổ chức để đảm bảo thực hiện tốt mục tiêu mà lãnh đạo đã xác định.
Liên hệ thực tiễn tại đơn vị: Bình Định là vùng đất có bề dày truyền thống lịch sử,

văn hóa, yêu nước và cách mạng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, trong nhiều qua,
tỉnh BĐ đã đạt nhiều kết quả quan trong trên nhiều lĩnh vực đời sống kinh tế- xã hội.
Trong năm 2015 vừa qua, đáng chú ý, trên lĩnh vực phát triển kinh tế tỉnh Bình Định
đã thu hút các tập đoàn lớn như Vingroup, FLC Group, SembCorp, Becamex Bình Dương,
Hùng Vương, Việt Úc, Tôn Hoa Sen... và các tập đoàn này đã xúc tiến đầu tư rất mạnh mẽ.
Điển hình là Dự án Quần thể sân golf, resort, biệt thự nghỉ dưỡng và giải trí cao cấp FLC
3


Quy Nhơn, Dự án Khu Du lịch VinPearl Quy Nhơn, Dự án Khu phức hợp Công nghiệp Đô thị - Thương mại và Dịch vụ tại Bình Định... với nguồn vốn đầu tư lên tới hàng chục
nghìn tỷ đồng mở ra triển vọng mới cho sự phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh.
Để đạt được những kết quả trên, ngoài sự hỗ trợ từ nhiều nguồn lực bên ngoài, không
thể không đề cập đến đó chính là trí tuệ, tầm nhìn và sự mong muốn cao nhất sự thay đổi
toàn diện để phát triển của tập thể lãnh đạo Đảng bộ tỉnh. Bằng những việc làm cụ thể,
lãnh đạo tỉnh tạo điều kiện để các nhà đầu tư triển khai dự án; đẩy nhanh việc xác định giá
trị đầu tư của các chủ đầu tư hạ tầng; tiếp tục đẩy mạnh công tác cải cách thủ tục hành
chính; hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng; tập trung đào tạo đội ngũ nhân lực có trình độ,
tay nghề; tiếp tục xây dựng hệ thống các quy hoạch, kế hoạch, các hoạch định hiện đại
mang tính chiến lược và luôn đi trước một bước. Thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ phát
triển làng nghề, khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hợp tác xã, các hộ gia đình,
cá nhân đầu tư phát triển, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu,…
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, sự đồng lòng của toàn quân, toàn dân Bình Định
sẽ tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc trên con đường đi tới mục tiêu đã định, xứng
đáng là tỉnh có vị trí quan trọng trong Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung.

4


2. Khái niệm về ra quyết định lãnh đạo? Đặc trưng, bản chất của quyết định?
Liên hệ thực tiễn ở địa phương đơn vị? (5đ)

Trả lời:
Ra quyết định là việc lựa chọn một phương án hành động có khả năng đạt mục tiêu
một cách tốt nhất. Nói cách khác, ra quyết định lãnh đạo là lựa chọn những phương án
hành động phù hợp trong những phương án đã được xác định nhằm tổ chức thực hiện một
cách chủ động nhất.
Về bản chất, ra quyết định lãnh đạo là sự lựa chọn một trong các phương án hành
động phù hợp trong một không gian, thời gian cụ thể.
Là sự tiếp nối liên tục (chuyển hóa) giữa tư duy và hành động của người lãnh đạo, ra
quyết định lãnh đạo chứa đựng trong đó sự cân nhắc để đưa ra những nhận định đúng, đưa
ra sự lựa chọn trong bối cảnh phức hợp. Ra quyết định cũng chứa đựng trong đó những
hoạt động trải nghiệm thực tiễn “dò đá qua sông”, vừa làm vừa điều chỉnh. Vì vậy, ra
quyết định lãnh đạo, đòi hỏi cả kỹ năng tư duy và kỹ năng hành động.
Theo cách tiếp cận hệ thống, ra quyết định lãnh đạo không chỉ là giải quyết vấn đề
thách thức mà còn là tác động đến tiến trình của sự kiện, vấn đề và hóa giải các thách
thức. Có nghĩa là, trong nhiều trường hợp đưa ra một quyết định thì chưa giải quyết được
vấn đề, thậm chí còn nảy sinh những vấn đề khác. Những thách thức nan giải có đặc tính
là luôn vận động, phi tuyến tính, phản trực cảm… do đó, dường như không có quyết định
cuối cùng mà là một chuỗi các quyết định tác động tới tiến trình của sự kiện.
Về đặc trưng của ra quyết định lãnh đạo. Ra quyết định lãnh đạo là hoạt động trọng
tâm của người lãnh đạo. Bởi: Quyết định đúng/sai của người lãnh đạo ảnh hưởng đến
tương lai của một tổ chức; Mục đích chính của người lãnh đạo là ra quyết định đúng đắn
trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình nhằm duy trì sự ổn định và phát triển của tổ
chức; Chất lượng của quyết định lãnh đạo và hiệu quả thực hiện quyết định phản ánh
phẩm chất, năng lực của người lãnh đạo và người thực hiện; Biết cách tác động vào tâm lý
con người, tâm lý các nhóm xã hội, các nhóm xã hội sẽ đem lại hiệu quả cao nhất cho hoạt
động lãnh đạo quản lý; Ra quyết định và tổ chức thực hiện quyết định là biểu hiện năng
lực tổ chức thực tiễn của người lãnh đạo, quản lý. Vậy, để ra quyết định đúng và tổ chức
thực hiện quyết định thành công đòi hỏi người lãnh đạo, quản lý phải có phẩm chất, năng
lực, làm tốt công tác tổ chức cán bộ, công tác tư tưởng,…
5



Trong quá trình ra quyết định lãnh đạo, người lãnh đạo luôn phải đối mặt với những
vấn đề/thách thức. Việc hiểu rõ đặt trưng, tính chất của các vấn đề/thách thức giúp người
lãnh đạo lựa chọn một phương thức ra quyết định lãnh đạo phù hợp. Các vấn đề thách thức
mà người lãnh đạo gặp phải trong xã hội hiện đại, đó là: vấn đề/thách thức thông thường
(đơn giản); vấn đề/thách thức phức tạp; vấn đề/thách thức phức hợp; vấn đề hỗn hợp.
Đối với vấn đề/thách thức thông thường, thường mang đặt trưng, tính chất như: Mang
tính ổn định, lặp lại; Có bằng chứng rõ ràng về mối quan hệ giữa nguyên nhân - ảnh
hưởng/ hậu quả; Có câu trả lời đúng: có thể xác định được rõ bản chất của vấn đề nằm ở
những khâu nào với các lý giải rõ ràng; Có thể xác định được quy trình và thủ tục, cũng
như các phương án khả thi, để giải quyết các thách thức đó (từ các trường hợp sẵn có,
hoặc mô phỏng các quy trình, tổ chức tương tụ trong lịch sử); Có thể đánh giá được về
tính tối ưu của các cách giải quyết theo các tiêu chí khách quan và khả kiểm; Quản lý dựa
trên sự kiện.
Đối với vấn đề phức tạp, cần có sự tham gia đánh giá của các chuyên gia; Có thể nhìn
ra mối quan hệ giữa nguyên nhân - ảnh hưởng/hậu quả nhưng không phải ngay lập tức;
Biết điều mình không biết; Quản lý dựa trên sự kiện.
Đối với vấn đề/thách thức phức hợp: Biến động và không thể dự đoán tính bất định
cao trong mọi khía cạnh (rất khó xác định được bản chất của thách thức nằm ở đâu); Xuất
hiện những mô hình cấu trúc; Biết điều mình không biết; tính mở cao; Không có quy trình
và thủ tục tương tự để giải quyết. Mỗi thách thức khác thường đều có tính duy nhất;
Không có cách giải quyết xác định; Tính tương tác cao; Nhiều ý tưởng cạnh tranh nhau;
Cần cách tiếp cận sáng tạo và đổi mới; Lãnh đạo dựa trên mô hình.
Đối với vấn đề/thách thức hỗn hợp: Sự hỗn loạn; Mối quan hệ giữa nguyên nhân –
hậu quả không rõ ràng, vì vậy không có căn cứ để tìm câu trả lời đúng; Không thể nhận
biết; Ra quyết định và không có nhiều thời gian để cân nhắc; Căng thẳng cao độ.
Trong thực tế, một vấn đề/thách thức không thể hoàn toàn thuộc loại này hay loại kia,
vì mỗi thách thức đều mang trong mình các yếu tố của các loại với các mức độ khác nhau.
Các thách thức phức hợp xuất hiện ngày càng nhiều hơn và rõ hơn trong bối cảnh mới của

đời sống xã hội hiện đại, trong bối cảnh của các hệ thống động ngày càng kết nối và tương
tác chặt chẽ. Việc nhìn nhận đặt trưng, tính chất của các loại thách thức này là cơ sở để
nhìn nhận sự khác biệt tương đối trong giữa hoạt động “lãnh đạo” và “quản lý” nói chung
6


cũng như giữa ra quyết định mang tính hành chính, quản lý và quyết định mang tính lãnh
đạo nói riêng.
Thế giới đang diễn ra những chuyển biến sâu sắc trong nhiều lĩnh vực, đã tác động
mạnh mẽ trên mọi mặt đời sống xã hội của từng cá nhân, tổ chức; đã tạo ra môi trường
lãnh đạo đòi hỏi hoạt động lãnh đạo có sự tương tác nhanh, rộng trong xã hội; Quyền lực
phân tán cả trong mỗi quốc gia và trên thế giới, khi mà không còn một trung tâm quyền
lực; Tính bất định của các quá trình. Những đặc điểm này đã khiến tính chất của các thách
thức thay đổi sâu sắc, đặt ra những yêu cầu tương ứng đối với quá trình ra quyết định lãnh
đạo, đòi hỏi người lãnh đạo phải có một phương thức ra quyết định với sự điều chỉnh kịp
thời, ứng biến linh hoạt với các thay đổi nhưng không để mất phương hướng chiến lược.
Liên hệ thực tiễn: Trong thực tiễn cho thấy có những quyết định lãnh khi ban hành
được triển khai rộng rãi và được rất nhiều người đồng tình ủng hộ, tham gia thực hiện, đặc
biệt là trong lĩnh vực xóa đói, giảm nghèo, trong đó Chương trình 135 là CT đã thu hút
được sự quan tâm của đông đảo quần chúng nhân dân. Đây là CT giảm nghèo được triển
khai trên phạm vi cả nước nhằm mục tiêu giảm nghèo cho các xã, thôn, bản miền núi,
vùng sâu, vùng xa gặp nhiều khó khăn, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người
dân, giảm tỷ lệ hộ nghèo một cách bền vững.
Trong quá trình lãnh đạo thực hiện Chương trình này ở giai đoạn 3 (2010 – 2015),
nhận thức rõ đây là vấn đề hết sức quan trọng mang tính phức tạp, phức hợp, hỗn hợp
nhưng khi thực hiện thành công chính là đòn bẫy thúc đẩy sự phát triển đất nước. Vì thế
Đảng, Nhà nước đã chủ động lôi cuốn các cấp bộ, ngành từ TW đến địa phương, đội ngũ
các chuyên gia, nhiều thành phần, đến cụ thể từng người dân từ được thụ hưởng trực tiếp
từ chương trình đến gián tiếp thụ hưởng tham gia vào. Chính vì nhận thức rõ những đặt
trưng, tính chất, tầm quan trọng của quyết định, đã huy động được sức mạnh tổng hợp, tuy

bên cạnh đó vẫn còn chứa đựng những hạn chế, khó khăn mà chính quyền và người dân
gặp phải. Nhưng nhìn chung CT đã đạt nhiều kết quả quan trọng, như: Chương trình đã tác
động đến nhiều lĩnh vực trong đời sống của người dân, cả về đời sống vật chất, văn hóa
tinh thần, vui chơi giải trí, điều kiện chăm sóc sức khỏe, giáo dục. Những giá trị mà những
công trình mang lại, trình độ năng lực quản lý của chính quyền tăng lên, trình độ dân trí
người dân càng ngày nâng cao,…đã làm thay đổi cơ bản về diện mạo nhiều làng xã vùng
7


sâu, xa, dần hình thành phương thức làm ăn mới trên cơ sở áp dụng những tiến bộ khoa
học kỹ thuật, thay đổi lối tư duy lạc hậu từ lâu đời.
Tiếp tục nhận thấy rõ tính ưu việt, tính bền vững của Chương trình, Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt danh sách 2.275 xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu của 48
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương vào diện đầu tư của Chương trình 135 năm giai
đoạn 4 (2016-2020). Tổng vốn đầu tư 21.000 tỷ đồng. Nguồn vốn Chương trình sẽ hỗ trợ
người dân về giống cây con phát triển sản xuất, nâng cao năng lực cho cán bộ cơ sở và
người dân về quản lý thực hiện Chương trình và các chính sách dân tộc, xây dựng cơ sở hạ
tầng thiết yếu. Với quyết định này đã tạo niềm tin, động lực to lớn của nhân dân vào sự
lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, tăng cường hơn nữa làm chủ của nhân dân.

8


3. Bản chất của chính sách công? Công cụ, chu trình của chính sách công? Liên
hệ thực tiễn ở địa phương đơn vị? (5đ)
Trả lời:
Chính sách công được tiếp cận nghiên cứu từ những giác độ khoa học khác nhau
theo đó có những cách hiểu, xác định không hoàn toàn giống nhau về khái niệm và bản
chất của chính sách công, ở đây chỉ tiếp cận từ khoa học tổ chức NN.
Có thể hiểu: Chính sách công là tập hợp các quyết định có liên quan đến nhau của

các cơ quan hay các cấp chính quyền trong bộ máy nhà nước về việc lựa chọn các mục
tiêu và giải pháp để đạt được các mục tiêu đó trên cơ sở có những tính toán và chủ đích rõ
ràng nhằm giải quyết một vấn đề hay đáp ứng một nhu cầu thiết yếu của thực tiễn xã hội.
Về bản chất của chính sách công (CSC):
Thứ nhất, CSC là công cụ điều hành được cơ quan nhà nước có thẩm quyền sử dụng
để theo đuổi lợi ích công cộng;
Thứ hai, CSC là kết quả của việc NN sử dụng quyền lực chính trị của mình định
hướng sự vận động và phát triển của cả hệ thống xã hội;
Thứ ba, CSC là quá trình thể chế hóa các mục tiêu tổng thể mà NN theo đuổi;
Thứ tư, CSC là kết quả của quá trình đấu tranh quyền lực giữa các bên có liên quan.
Mặc dù, chính sách công là do nhà nước ban hành và tổ chức thực thi, song nhà nước
không phải là chủ thể duy nhất có ảnh hưởng đến chính sách. Thực tế, chính sách chịu ảnh
hưởng của các chủ thể khác như là người dân, các tổ chức, các nhóm lợi ích, giới chuyên
gia và truyền thông.
Nhìn chung, chính sách và quá trình chính sách mang tính chính trị thể hiện:
CSC là sự thể hiện, phản ánh quan điểm và thái độ chính trị của Đảng cầm quyền;
CSC thể hiện bản chất của nhà nước thông qua mối quan hệ giữa người dân với nhà nước;
CSC đơn giản là sản phẩm hoạt động của bộ máy nhà nước, mà nó là kết quả của sự đấu
tranh quyền lực giữa các bên có liên quan; CSC giúp củng cố mối quan hệ giữa nhà nước
và nhân dân.
Về công cụ chính sách công: Công cụ chính sách là cách thức, biện pháp mà chính
quyền sử dụng để thực hiện chính sách hay đưa các chương trình, hoạt động của chính phủ
vào trong đời sống xã hội. Có nhiều công cụ chính sách và mỗi loại công cụ chính sách có
những ưu điểm và hạn chế khác nhau.
9


Thứ nhất, nếu phân loại theo phương thức thực thi chính sách, công cụ chính sách
được phân thành công cụ thuyết phục và công cụ ép buộc.
Công cụ thuyết phục là sử dụng các biện pháp để khuyến khích, thuyết phục chứ

không ép buộc thực hiện. Theo cách này, thông tin, nội quy, quy định được tuyên truyền,
phổ biến rộng rãi nhằm thay đổi nhận thức, thái độ và tình cảm của mọi người, thông qua
đó, định hướng hay khuyến khích những gì mà chủ thể nên làm và không nên làm mà
không đưa ra bất kỳ chế tài nào.
Công cụ ép buộc là sử dụng quyền lực của nhà nước bắt buộc các đối tượng thực hiện
các quy trình đề ra trong chính sách. Nếu chủ thể không thực hiện, nhà nước có thể áp
dụng biện pháp cưỡng chế thi hành. Luật pháp là công cụ ép buộc rõ nhất.
Thứ hai, nếu phân loại theo bản chất của công cụ, sẽ có 4 loại công cụ chính sách:
Luật pháp, kinh tế, hành chính và thuyết phục.
Luật pháp là công cụ chính sách cực kỳ quan trọng bởi vì luật pháp là một trong
những nguồn lực riêng có, đặc thù và mà chỉ có nhà nước, chủ thể chính sách công, có
được. Một mặt, luật pháp ghi nhận các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và các chủ
thể trong xã hội – đây vừa là mục tiêu vừa là cơ sở quan trọng để thực thi và đánh giá
chính sách. Mặt khác, thông qua luật pháp, nhà nước có thể hướng dẫn, điều tiết và điều
chỉnh hoạt động của tất cả chủ thể mà chính sách hướng tới.
Công cụ hành chính là công cụ được các cơ quan hành chính NN sử dụng dưới hình
thức ban hành các quy định, mệnh lệnh hành chính tác động lên đối tượng chính sách và
kiểm tra, xử phạt đối với những trường hợp vi phạm các quy định, mệnh lệnh hành chính
đó. Nó có vai trò quan trọng, có khả năng ảnh hưởng trực tiếp đến các chủ thể chính sách.
Công cụ kinh tế là sử dụng lợi ích kinh tế để điều chỉnh (kích thích hoặc hạn chế)
hoạt động của người dân và các chủ thể liên quan. Đây là một công cụ quan trọng vì nó
tạo ra động cơ hoặc ràng buộc đối với các chủ thể. Công cụ này được sử dụng khá phổ
biến và NN có thể sử dụng công cụ kinh tế kết hợp trong tuyên truyền, giáo dục, vận động.
Biểu hiện rõ nhất của việc sử dụng công cụ kinh tế là trong các luật và chính sách về
thuế, chính sách tài chính và tiền tệ, hợp đồng của chính quyền,…
Về chu trình chính sách công:
Chu trình chính sách công là quá trình bắt đầu từ việc tìm hiểu vấn đề cần giải quyết
và các cơ hội phát triển, cân nhắc và lựa chọn các giải pháp để đưa ra một chính sách và tổ
10



chức để thực hiện hóa chính sách, khắc phục và hạn chế các tác động ngoài mong muốn
của chính sách.
Chu trình chính sách công là quá trình lặp đi lặp lại, phức tạp và đôi khi không rõ
ràng. Đối với một chu trình chính sách thường bắt đầu từ việc hoạch định chính sách, tiếp
theo là tổ chức thực thi chính sách và sau một khoảng thời gian thực hiện cần tiến hành
phân tích chính sách để điều chỉnh, bổ sung chính sách…
Thứ nhất, hoạch định chính sách là bước khởi đầu trong chu trình chính sách. Đây
là bước đặc biệt quan trọng. Hoạch định chính sách đúng đắn, khoa học sẽ xây dựng được
chính sách tốt, là tiền đề để chính sách đó đi vào cuộc sống và mang lại hiệu quả cao.
Ngược lại, hoạch định sai cho ra đời chính sách không phù hợp với thực tế, thiếu tính khả
thi sẽ mang lại hậu quả không mong muốn trong quá trình quản lý. Những tổn hại này
không chỉ tạm thời, cục bộ, mà nó ảnh hưởng lâu dài, liên quan tới nhiều lĩnh vực, ngành
nghề khác nhau.
Hoạch định chính sách công là công việc thường xuyên của NN và được xây dựng
thành quy trình. Quy trình hoạch định chính sách công chính là trình tự, công đoạn để tạo
ra một chính sách công. Quy trình hoạch định chính sách được thực hiện tuần tự các bước
như sau:
Nêu lý do hoạch định chính sách, xây dựng dự thảo các phương án chính sách, lựa
chọn phương án dự thảo tốt nhất, hoàn thiện phương án lựa chọn, thẩm định phương án
chính sách, quyết nghị ban hành chính sách, công bố chính sách. Bên cạnh đó, trong việc
hoạch định chính sách công cần phải có sự tổng kết, phân tích, đánh giá tình hình, tác
động ảnh hưởng tới quá trình thực hiện chính sách, các biện pháp thực hiện chính sách, và
từ đó làm căn cứ để lựa chọn phương án chính sách phù hợp với thực tế. Cuối cùng hoàn
thiện văn bản và công bố.
Thứ hai, tổ chức thực thi chính sách. Tổ chức thực thi chính sách cần thực hiện các
bước sau: Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện; Tuyên truyền phổ biến chính sách; Áp
dụng thí điểm mô hình, nhân rộng; Duy trì hiệu quả chính sách; Kiểm tra, đôn đốc việc
thực hiện; Điều chỉnh chính sách.
Liên hệ thực tế:

Thời gian qua, việc hoạch định chính sách công ở nước ta đã cho ra đời nhiều chính
sách phù hợp với thực tế, thực thi đem lại hiệu quả mà biểu hiện cụ thể là đã góp phần vào
11


phát triển kinh tế – xã hội của đất nước ta trong hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới.
Tuy nhiên, quy trình hoạch định chính sách công cũng còn bộc lộ một số hạn chế, đó là:
Việc hoạch định chính sách công của nhà nước hiện nay chủ yếu được tiến hành theo quy
trình soạn thảo, ban hành nghị quyết của Chính phủ. Trong khi đó, nghị quyết của Chính
phủ là văn bản quy phạm pháp luật mang tính bắt buộc thực hiện. Hiện nay, quy trình
hoạch định chính sách công được thực hiện theo quy định về soạn thảo, ban hành nghị
quyết của Chính phủ trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 sửa đổi
2002 còn mang tính chất khung chưa phân công rõ trách nhiệm, nghĩa vụ và cả chế tài đối
với tập thể hoặc cá nhân trong từng khâu, công đoạn từ soạn thảo, lựa chọn phương án,
thẩm định, ban hành…
Quy trình hoạch định chính sách còn khép kín; việc lấy ý kiến tham gia của các đối
tượng chịu sự điều chỉnh trực tiếp của chính sách còn ít, nếu có thì hình thức; việc tiếp thu
ý kiến của các bộ, ngành chưa thể hiện tính chủ động. Mặt khác, chưa có quy định cụ thể
để huy động được trí tuệ của nhân dân, các chuyên gia, các nhà khoa học tham gia vào
hoạch định chính sách là vô hình chung làm hạn chế cách nhìn nhận, giải quyết vấn đề.
Đất nước ta đang trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, các chính sách công bị nhiều
chi phối, ảnh hưởng không chỉ ở phạm vi nhất định trong lãnh thổ của một quốc gia mà
còn bị chi phối bởi các yếu tố mang tính toàn cầu. Chẳng hạn như chính sách đối với vấn
đề phát triển nông nghiệp. Qua sự kiện giá gạo trên thị trường thế giới bị đẩy lên cao, vấn
đề an ninh lương thực đặt ra… Chính sách phát triển nông nghiệp ở nước ta cần phải có sự
tính toán, cân nhắc, điều chỉnh lại.
Như vậy, chính sách công của một quốc gia cũng đang phải chịu nhiều sự chi phối ở
mức độ và phạm vi rộng lớn hơn. Trong việc hoạch định chính sách công cần phải có sự
tổng kết, phân tích, đánh giá tình hình, tác động ảnh hưởng tới quá trình thực hiện chính
sách, các biện pháp thực hiện chính sách, và từ đó làm căn cứ để lựa chọn phương án

chính sách phù hợp với thực tế.

12



×