Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Sự tha hóa của con người trong sáng tác của nam cao trước 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (603.06 KB, 20 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Đỗ Viết Khanh

SỰ THA HÓA CỦA CON NGƯỜI TRONG SÁNG
TÁC CỦA NAM CAO TRƯỚC 1945
Chuyên ngành:
Mã số:

Lý Luận văn học
60 22 32

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. LÂM VINH

Thành Phố Hồ Chí Minh - 2010


LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, tập thể Thầy (cô) khoa
Ngữ Văn trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Phòng
Khoa học- Công nghệ - Sau Đại học đã tận tình giúp đỡ tôi trong
quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới TS. Lâm Vinh - người thầy đã vất vả
hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Tôi cũng xin cảm ơn những người thân, bạn hữu, đồng nghiệp đã
khích lệ, động viên và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập.


Xin trân trọng cảm ơn!
TP.HCM, ngày 30 tháng 10 năm 2010
Người thực hiện

Đỗ Viết Khanh


DẪN NHẬP
1. Lý do chọn đề tài:
Văn học là loại hình nghệ thuật đặc thù, quan tâm và thể hiện đời sống con người ở nhiều góc
độ, nhiều phương diện. Nói cách khác văn học là nhân học, là những câu chuyện về cuộc đời, về
những con người cụ thể. Ở mỗi thời kì, mỗi giai đoạn văn học khác nhau, số phận con người cũng
được quan tâm khác nhau, như văn học thời kì trung đại quan tâm đến con người xã hội, con người
cộng đồng. Trong khi đó văn học hiện đại chuyển xu hướng đó qua từng cá nhân cụ thể.
Văn học Việt Nam hiện đại, tiêu biểu là xu hướng văn học hiện thực phê phán, quan tâm,
khám phá sâu sắc đời sống vật chất và đời sống tinh thần của từng cá nhân cụ thể, đi sâu vào khám
phá thế giới nội tâm bí ẩn của từng số phận con người. Trong đó, nhà văn Nam Cao – một hiện
tượng văn học đặc biệt, ông không chỉ thể hiện nỗi đau của con người trong xã hội hiện tại, ông còn
bộc lộ nỗi đau của mình trước sự tha hóa của con người. Nam Cao luôn băn khoăn, trăn trở tìm
kiếm lối thoát cho những số phận luôn bị dằn vặt bởi cái nghèo, cái đói. Họ bị biến đổi cả hình hài
lẫn nhân tính cũng bởi những lo toan cơm, áo, gạo tiền và cả ý nghĩa cuộc sống. Những bi kịch luôn
xảy ra với các tầng lớp trong đời sống xã hội từ người nông dân đến người trí thức.
Những trang viết của Nam Cao đã thu hút rất nhiều sự chú ý của giới nghiên cứu văn học. Họ
nghiên cứu về đời sống nhà văn, về nội dung sáng tác, về tư tưởng, phong cách và về bút pháp nghệ
thuật. Vì thế, người viết luận văn này mong muốn được khám phá thêm một phương diện trong
phong cách sáng tác của Nam Cao. Đó là nỗi đau về sự tha hóa của con người trong giai đoạn trước
1945.
2. Mục đích đề tài:
Nhiều công trình nghiên cứu đã khám phá những điều mới mẻ trong sáng tác của Nam Cao
cả về nội dung lẫn nghệ thuật. Mục đích của đề tài này làm rõ thêm khía cạnh tha hóa của con người

trong sáng tác Nam Cao. Nhà văn cho thấy xã hội đương thời đã bần cùng hóa con người, làm mất
đi tính chủ thể của họ, biến họ thành những dạng tồn tại của xã hội hơn là sống. Nhưng giá trị nhân
văn trong sáng tác của Nam Cao cho thấy những sáng tác của ông không chỉ thể hiện sự tha hóa mà
còn là hồi chuông thức tỉnh mọi người, là tiếng gọi của sự cảm thông chia sẻ. Những nhân vật của
Nam Cao có bần cùng, tha hóa, bi thảm đến đâu nhưng họ không chết trong bi kịch và luôn cố gắng
tìm kiếm con đường, lối thoát cho cuộc sống tù túng hằng ngày.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu về sự tha hóa của con người thể hiện trong các tác phẩm truyện ngắn và
tiểu thuyết của Nam Cao trước 1945 (khoảng 42 tác phẩm). Nhằm khẳng định thêm một nét riêng


về đặc trưng phong cách của Nam Cao trong số các nhà văn cùng khuynh hướng hiện thực phê
phán. Đồng thời tham khảo ý kiến của những nhà nghiên cứu – phê bình về sáng tác của Nam Cao.
4. Lịch sử vấn đề:
Có thể nói, Nam Cao là một trong những nhà văn lớn của thế kỉ XX được nhiều người nghiên
cứu nhất. Nam Cao xuất hiện trên văn đàn khi các trào lưu văn học đã định hình và phát triển,
những cây bút tên tuổi đã được khẳng định và có chỗ đứng vững vàng. Còn Nam Cao bắt đầu sự
nghiệp sáng tác văn chương từ năm 1936, trong đó từ 1940 đến 1945 là thời gian ông viết nhiều
nhất. Tuy nhiên sự nghiệp sáng tác của Nam Cao được chú ý từ năm 1941 với lời tựa của Lê Văn
Trương cho tập “Đôi lứa xứng đôi”, do nhà xuất bản “Đời mới” ấn hành 1941 “Ông Nam Cao đã
không hạ mình xuống bắt chước ai, không nói những cái người ta đã nói, không tả theo cái lối
người ta đã tả. Ông đã dám bước chân vào làng văn với những cạnh sắc của riêng mình” {135;
299}. Ý kiến này cho thấy Nam Cao xuất hiện với một phong cách sáng tác mới, táo bạo và có sắc
thái riêng. Năm 1952 tác phẩm của Nam Cao đã trở thành đối tượng của khoa văn học với bài “Nam
Cao” của Nguyễn Đình Thi in trong “Mấy vấn đề văn học” – ( NXB Văn nghệ – H 1956), và từ đó
đến nay đã có gần 200 công trình, bài viết về Nam Cao được công bố.
Tô Hoài đã có những bài viết rất sớm về Nam Cao như “Chúng ta mất Nam Cao” (1954),
“Người và tác phẩm Nam Cao “ (1956) hay “Những kỉ niệm Nam Cao” (1991) và khẳng định “Nam
Cao không che dấu, không màu mè gì hết, nói toạc cái cuộc sống cùng đường tận lối và nhơ nhớp
của những người như anh” {44; 227}. Ông khẳng định tác phẩm Nam Cao luôn thể hiện những trải

nghiệm từ cuộc sống của tác giả.
Nằm trong số những người đầu tiên nghiên cứu về Nam Cao, từ năm 1960, Phong Lê – Huệ
Chi có công trình nghiên cứu “Đọc truyện ngắn Nam Cao soi lại những bước đi lên của nhà văn
hiện thực”, ông có nhận định “Đọc tập truyện ngắn của Nam Cao trước tiên chúng ta hiểu và yêu
mến thêm Nam Cao, nhà văn đã chân thành giãi bày cuộc đời mình, một cuộc đời vốn mang theo
bao nhiêu tâm trạng tủi hổ, xót xa nhưng luôn luôn ngoi lên chửi trả lại cuộc sống tối tăm và luôn
luôn khao khát tìm đến cho mình và con người của tầng lớp mình một cuộc sống sao cho thật có ý
nghĩa nhân đạo và sáng tạo” {13; 79}. Ông nhấn mạnh những sáng tác của Nam Cao có mối quan
hệ trực tiếp từ hiện thực cuộc sống.
Hà Minh Đức ngoài “Tuyển tập Nam Cao”, ông còn có nhiều chuyên luận về nghệ thuật sáng
tạo tâm lý của Nam Cao “Nhiều nhân vật trong Nam Cao đã bị cuộc đời làm biến chất. Cuộc sống
của họ là những tiếng kêu cho tình trạng cấp cứu của xã hội…Nhân vật của Nam Cao có ý thức
chống lại mọi trạng thái tha hóa, làm sai lạc bản chất của mình. Phải biết giữ lại một nhân cách tốt
lành giữa cảnh sống tầm thường nhỏ nhặt. Phải chống lại mọi buông thả để có trách nhiệm với
cuộc sống gia đình và bản thân mình. Ở mỗi nhân vật loại này của Nam Cao luôn có một đường dây


chuẩn mực để đối chiếu, so sánh và tự ngẫm lại mình. Ấy là phút giây tỉnh táo trở về của lương tri
và ý thức trách nhiệm…Tự phân tích, phê phán với nhiều sắc thái khác nhau là một đảm bảo để
nhân vật giữ lại được phẩm chất của mình chống lại mọi sự biến chất, tha hóa” {92; 75 – 76 – 77}.
Nguyên Hồng (1960), “Đọc những truyện ngắn của Nam Cao”, trích sách "Sức sống của ngòi
bút" Nxb Văn nghệ, H. 1963, ông điểm qua những sáng tác tiêu tiểu của Nam Cao, phát hiện thêm
những nét mới trong sáng tác của Nam Cao “Nam Cao để lại cho cuộc sống, chính là những hình
ảnh sinh động của một số nông dân ngoi ngóp trong cảnh nghèo đói. Họ đã bị áp bức và bóc lột đến
cùng kiệt, và cũng bị phá hoại đến cùng kiệt, thể chất cũng như tinh thần dưới cái chế độ thống trị
của bọn cường hào phong kiến” {77; 156}. Bên cạnh đó còn có các bài viết như: “Nam Cao - Con
người và xã hội cũ” (1964) của Lê Đình Kị, hay Nguyễn Văn Trung có bài “Con người bị từ chối
quyền làm người trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao” (1965). Các bài viết trên tập trung nói
đến tư tưởng tiến bộ của nhà văn luôn đứng về phía những người nghèo khổ, đồng thời phản ánh
hiện thực xã hội, biểu hiện những bế tắc trong tư tưởng Nam Cao. Trong đó bài viết của Nguyễn

Văn Trung đã bàn đến tư tưởng nhân văn Nam Cao qua tấn bi kịch cự tuyệt quyền làm người của
nhân vật Chí Phèo, “Người ta từ chối cho những Năm Thọ, Binh Chức, Chí Phèo quyền làm người,
quyền sống lương thiện như mọi người. Thái độ ngang tàng bạo ngược của chúng chẳng qua là biểu
lộ một tâm trạng tuyệt vọng. Lời chửi, tiếng kêu, cái chết vô lý của chúng là sự phản kháng và tố
cáo của những con người bị từ chối không được làm người” {137; 343}
Từ những năm tám mươi của thế kỉ XX, có nhiều công trình nghiên cứu về cuộc đời và sự
nghiệp của Nam Cao, các nhà nghiên cứu đã khám phá nhiều lớp ý nghĩa trong tác phẩm ông. Và vị
trí văn học sử của Nam Cao ngày càng được khẳng định. Có thể kể ra một số công trình tiêu biểu
như: “Nghĩ tiếp về Nam Cao”, Nxb Hội nhà văn Hà Nội 1992, “Nam Cao một đời người một đời
văn” của Nguyễn Văn Hạnh (1993).
Trong công trình nghiên cứu “Nam Cao một đời người một đời văn”, Nguyễn Văn Hạnh đã
phân tích những nét khái quát về cuộc đời và sự nghiệp văn chương của Nam Cao. Ông đề cập đến
đặc điểm tính cách của Nam Cao, những đóng góp của Nam Cao về tư tưởng nhân đạo, về nghệ
thuật xây dựng và miêu tả tâm lý nhân vật, về cấu trúc tác phẩm và về ngôn ngữ trong tác phẩm
Nam Cao… Sau cùng, ông nhận xét “Tầm vóc của Nam Cao chính là ở tấm lòng và tư tưởng của
ông . Tấm lòng lớn, tư tưởng lớn. Những vấn đề mà Nam Cao đặt ra cho đến bây giờ vẫn làm nhức
nhối chúng ta {29; 25}.
Nhiều người viết về Nam Cao, trong đó người viết nhiều nhất là Phong Lê, hơn ba mươi năm
nghiên cứu về Nam Cao, nhưng ông vẫn khiêm tốn coi các công trình của mình chỉ là “Phắc thảo sự
nghiệp và chân dung” của Nam Cao. Ông tiếp cận tác phẩm Nam Cao từ nhiều góc độ như: “Nam
Cao kết thúc vẻ vang phong trào văn học hiện thực”, “Người trí thức kiểu Nam Cao chiến thắng của


chủ nghĩa hiện thực”, “Cấu trúc ngôn ngữ truyện ngắn Nam Cao”, “Tình cảnh người nông dân với
cái làng quê tiền Cách mạng trong sáng tác Nam Cao”, “Sự sống và sức sống trong Nam Cao hay
đặc trưng bút pháp hiện thực Nam Cao”… “Toàn bộ thế giới truyện của Nam Cao là một nỗi đau
lớn vì một nỗi khổ – hiện ra trong rất nhiều con người, cũng đồng thời là niềm khắc khoải lớn, vì
nhu cầu phát triển con người.” {77; 115}, ông đặc biệt chú trọng đến “Sức chứa và sức mở” từ giá
trị của những điển hình sống động trong sự gắn bó với tư tưởng của Nam Cao. “Nam Cao không viết
gì khác ngoài cái làng Vũ Đại quê ông. Nhưng rồi tất cả cái làng quê tiền Cách mạng đều được thu

nhỏ đâu vào đấy, với sự lưu cữu, sự xếp lớp nhiều tầng các mặt tốt – xấu, vừa trái ngược nhau, vừa
bổ sung cho nhau, Những chuyện no đói và sống chết. Ma chay và cưới xin…”{60; 14}
Nguyễn Đăng Mạnh có hai bài về Nam Cao viết trong cuốn “Nhà văn Việt Nam hiện đại –
chân dung và phong cách”, trong đó ông đề cập đến những nét lớn về phong cách của nhà văn. Đó
là những nỗi đau đớn trước tình trạng con người vì miếng cơm manh áo mà không đứng thẳng lên
được, không sao giữ được nhân tính, nhân cách và nhân phẩm, Nam Cao là tấm gương của một cây
bút luôn luôn tìm tòi, khám phá, sáng tạo, là nhà văn của chủ nghĩa hiện thực tâm lý và luôn có cách
kể chuyện biến hóa. Ở bài “Cái đói và miếng ăn trong truyện Nam Cao”, ông kêu gọi hãy cứu lấy
nhân phẩm, nhân tính và nhân cách con người trước cái đói và miếng ăn chứ không phải kêu gọi
cứu lấy cái đói cho con người như một số nhà văn khác cùng thời “Nhưng nếu như ở tác phẩm của
Ngô Tất Tố là tiếng kêu cứu đói, thì ở tác phẩm của Nam Cao lại là tiếng kêu cứu lấy nhân cách,
nhân phẩm, nhân tính con người đang bị cái đói, miếng ăn làm cho tiêu mòn đi” {70; 12} hay ở
một đoạn khác ông viết “Miếng ăn là một thử thách ghê gớm đã phân hóa tính cách theo hai thái
cực: hoặc mất cả nhân cách, nhân tính như những nhân vật trong Một bữa no, Trẻ con không biết
ăn thịt chó, Chí phèo, Quên điều độ hoặc trở thành những bậc chí thiện như Lão Hạc…Cái đói và
miếng ăn là cái gông nặng nề đã đè dúi dụi anh tiểu tư sản trí thức xuống sát đất để biến tất cả
những ước mơ, những triết lý của anh thành hu huênh hoang, vớ vẩn, giả đối và khôi hài…” {70;
11}. Rõ ràng, ông đã cho thấy cái độc đáo, mới mẻ của nhà văn Nam Cao trong một đề tài không
mới.
Trong các cuốn sách tập hợp nhiều bài viết về Nam Cao gồm “Nghĩ tiếp về Nam Cao” (NXB
Hội nhà văn Hà Nội 1992), “Nam cao về tác gia tác phẩm” ( NXB Giáo dục 1998), “Nam Cao nhà
văn hiện thực xuất sắc” ( NXB Thông tin văn hóa Hà Nội 2000), “Nam cao – con người và tác
phẩm” ( NXB Văn học Hà Nội 2000). Các nhà biên soạn đã xếp vào sáng tác của Nam Cao trước
1945 những bài viết khác nhau đề cập đến vấn đề về nội dung và nghệ thuật qua các sáng tác của
Nam Cao. Có thể chia các bài viết đó thành các nhóm sau:
Nhóm bàn về nội dung sáng tác của Nam Cao:


Về giá trị hiện thực gồm: “Mối quan hệ xã hội trong làng Vũ Đại” của Đức Mậu, “Qua
truyện ngắn Chí Phèo bàn thêm về cái nhìn hiện thực của Nam Cao” của Trần Tuấn Lộ, “Có hay

không yếu tố tự nhiên chủ nghĩa trong tác phẩm Nam Cao” của Quỳnh Nga, “Nam Cao con người
và xã hội cũ “ của Lê Đình Kỵ…
Về giá trị nhân đạo gồm: “Bi kịch tự ý thức – nét độc đáo trong cảm hứng nhân đạo của Nam
Cao”, “Nam Cao và khát vọng về một cuộc sống lương thiện xứng đáng” của Nguyễn Văn Hạnh,
“Con người bị từ chối quyền làm người trong Chí Phèo của Nam Cao” của Nguyễn Văn Trung…
Nhóm bàn về nghệ thuật sáng tác của Nam Cao như:
Về nghệ thuật xây dựng nhân vật gồm: “Nam cao và nghệ thuật sáng tạo tâm lý” của Hà
Minh Đức, “Nhân vật “hắn” với một nét đặc trưng trong ngôn ngữ nghệ thuật Nam Cao” của
Trương Thị Nhàn, “Về các nhân vật dị dạng trong sáng tác của Nam Cao” của Trần Thị Việt
Trung…
Về ngôn ngữ nghệ thuật trong sáng tác Nam cao gồm: “Chất giọng Nam Cao trong Chí
Phèo” của Nguyễn Thái Hòa, “Lối văn kể chuyện của Nam Cao” của Phan Diễm Hương, “Bút pháp
tự sự đặc sắc trong Sống mòn” của Nguyễn Ngọc Thiện, “Tìm hiểu chữ “ Nhưng” trong văn Nam
Cao” của Phan Trọng Thưởng….
Về thi pháp nói chung gồm: “Thời gian và không gian nghệ thuật Nam Cao” của Trần Đăng
Suyền, “Phong cách truyện ngắn Nam Cao” của Vũ Tuấn Anh, “Phong cách truyện ngắn Nam Cao
trước Cách mạng” của Bùi Công Thuấn, “Một đặc điểm của thi pháp truyện Nam Cao” của Phạm
Quang Long, “Đặc trưng bút pháp hiện thực” của Phong Lê, “Nam Cao cuộc cách tân văn học thế
kỉ XX” của Lại Nguyên Ân…
5. Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn khảo sát một số tác phẩm tiêu biểu trong những sáng tác của Nam Cao trước 1945
(dựa theo Nam Cao toàn tập, 3 tập do Hà Minh Đức, Nxb Văn học, 2000). Và nghiên cứu vị trí của
Nam Cao trong trào lưu hiện thực phê phán gồm các nhà văn như Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng,
Nguyễn Công Hoan… và những công trình nghiên cứu trước có liên quan đến đề tài.
6. Phương pháp nghiên cứu:
Đề cương đưa ra một số phương pháp nghiên cứu để làm luận văn như:
Phương pháp hệ thống: xem xét tác phẩm như một chỉnh thể, toàn bộ tác phẩm của Nam Cao
như một hệ thống và là một yếu tố xuyên suốt trong tất cả hệ thống sáng tác của nam Cao.
Phương pháp so sánh: ở hai cấp độ
So sánh các tác phẩm của Nam cao để thấy sự ổn định, bền vững và sự phát triển phong cách

nghệ thuật nhà văn theo hướng vừa thống nhất, vừa đa dạng.


So sánh với các tác phẩm của các tác giả khác để thấy được sự độc đáo, mới mẽ của phong
cách nghệ thuật Nam cao.
Phương pháp phân tích – tổng hợp: đưa ra những dữ kiện để phân tích và tổng hợp.
Phương pháp thống kê: để tìm tần số lặp đi đi lặp lại của các yếu tố tạo nên chủ đề và phong
cách sáng tác.
7. Ý nghĩa khoa học:
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về Nam Cao, luận văn này có sự kế thừa và phát huy
những thành tựu rất đáng trân trọng của những người đi trước khi nghiên cứu về Nam Cao. Luận
văn nêu lên và đi sâu vào một phương diện trong tư tưởng nhân văn và phong cách sáng tạo của
Nam Cao.
8. Ý nghĩa thực tiễn:
Người viết mong muốn đề tài nghiên cứu này sẽ góp phần làm tài liệu tham khảo về những
đóng góp của nhà văn trong giai đoạn đầu hình thành chủ nghĩa hiện thực phê phán của nền văn học
hiện đại Việt Nam.
Nghiên cứu về Nam Cao để tự trang bị cho bản thân trong công tác giảng dạy văn học.


Chương 1:
NAM CAO VỚI CHỦ ĐỀ THA HÓA TRONG SÁNG TÁC TRƯỚC 1945
1.1. Khái niệm tha hóa:
1.1.1. Một số định nghĩa:
Tha hóa là một từ được dùng theo những ý nghĩa khác nhau, nói cách khác là một từ có nhiều
khái niệm:
Trong đời sống cộng đồng, tha hóa là một khái niệm có ý nghĩa đạo đức, nói về những
trường hợp người bị biến chất, bị mất đi những phẩm chất tốt đẹp vốn có của mình trước đây.
Trong nghiên cứu khoa học - xã hội, tha hóa là một khái niệm có ý nghĩa triết học, nói về
một hiện tượng, một quy luật diễn ra trong đời sống xã hội.

Từ điển Tiếng Việt – (Viện ngôn ngữ học), NXB Khoa học xã hội, 1988, định nghĩa tha hóa
(Động từ) có hai nghĩa.
Con người bị biến chất thành xấu đi. Thí dụ: “Bị tha hóa trong môi trường tiêu cực”. “Một
cán bộ đã tha hóa”.
Biến thành cái khác đối nghịch lại (Thí dụ như: kết quả hoạt động của con người biến thành
cái thống trị lại và thù địch với bản thân con người, trong xã hội có giai cấp đối kháng). Thí dụ:
“Trong xã hội tư bản, lao động bị tha hóa”.
Theo từ điển Triết học – NXB Đại học và THCN, 1987: “Tha hóa (Tiếng Anh: Alienation,
Tiếng Pháp: Alie’nation): Tình trạng xã hội trong đó những sản phẩm, quan hệ và thể chế là kết
quả hoạt động của con người biến thành những lực lượng độc lập và xa lạ với họ, thống trị họ và thù
địch với họ.
Trong lịch sử triết học, khái niệm tha hóa xuất phát từ triết học Hê - ghen (“Ý niệm tuyệt đối”
tự tha hóa) và Phơ - bách (Con người tự tha hóa với bản chất của mình), C. Mác và Anghen cho
khái niệm tha hóa những cơ sở và nguyên nhân xã hội, đặc biệt qua sự phân tích quan hệ sản xuất tư
bản chủ nghĩa: “Người công nhân không được làm chủ cái mình sản xuất ra, họ bị coi như một thứ
đồ vật, một công cụ lao động, bản thân họ cảm thấy xa lạ với một công việc đưa lại sản phẩm và lợi
nhuận ngoài tầm của họ”.
Như vậy, theo từ điển Tiếng Việt, tha hóa mang hai ý nghĩa đạo đức và ý nghĩa triết học.
(Nhưng từ điển Tiếng Việt chỉ ghi tha hóa là “Động từ”. Thực ra tha hóa có khi là động từ, có khi là
danh từ, tính từ, vì người ta vẫn gọi là “Sự tha hóa”.)
1.1.2. Quan niệm về tha hóa trong lịch sử tư tưởng triết học:


Nguồn gốc tư tưởng về tha hóa có thể tìm thấy ở những đại diện của phong trào Khai sáng
Pháp thế kỷ XVIII gồm Rút - xô và các nhà hoạt động xã hội hiểu tha hóa như tình huống xã hội đặc
thù: “Kết quả hoạt động của con người trở thành sức mạnh thống trị lại anh ta”.
Khái niệm “Tha hóa” bắt đầu được hình thành trong chủ nghĩa duy tâm cổ điển Đức như một
phạm trù triết học, khi họ phê phán các quan hệ phong kiến. Trong số các nhà triết học Đức, Phích tơ là người đầu trên dùng khái niệm “Tha hóa”. Ông cố gắng dựa vào khái niệm đó để diễn đạt sự
kiện sinh ra “Không phải Tôi”, xa lạ và đối lập với “Tôi” bởi chính “Tôi”.
Về sau, Hê- ghen là người tiếp tục phát triển kết cấu tha hóa đó của Phích - tơ. Ông đã trình

bày một cách đầy đủ nhất việc lý giải theo kiểu duy tâm sự tha hóa, khi cho rằng toàn bộ thế giới
khách quan thể hiện ra như là “Tinh thần đã tha hóa”. Theo Hê – ghen nhiệm vụ của sự phát triển là
ở chỗ lột bỏ sự tha hóa trong quá trình nhận thức. Đồng thời, trong quan niệm về tha hóa ở Hê-ghen
có chứa đựng những dự đoán hợp lý về một số đặc điểm của lao động trong điều kiện xã hội đối
kháng. Trong “Hiện tượng học tinh thần”, Hê - ghen cũng khảo sát lao động như quá trình tinh thần
con người bị trói buộc trong lao động, diễn ra sự tha hóa nó thành lao động và thành kết quả của lao
động. Và như vậy, không phải tha hóa lao động, mà đúng ra, tất cả chỉ có tha hóa tinh thần thành lao
động. Hê - ghen biết rõ mặt tiêu cực của lao động trong xã hội tư sản, trong đó “Rất nhiều người
buộc phải lao động mang tính ngu xuẩn, không lành mạnh và không được đảm bảo - lao động trong
các nhà máy, công trường thủ công, hầm mỏ...”.
Phơ - bách đã coi tôn giáo là sự tha hóa của bản chất con người, chủ nghĩa duy tâm là sự tha
hóa của lý tính. Nhưng ông không tìm ra được những con đường hiện thực để thủ tiêu nó. Nên chỉ
thấy chúng trong sự phê phán lý luận mà thôi.
C. Mác người đã chú ý rất nhiều đến việc phân tích sự tha hóa, xuất phát từ chỗ cho rằng tha
hóa biểu hiện những mâu thuẩn của một giai cấp phát triển nhất định của xã hội. Nó do sự phân
công lao động có tính đối kháng đẻ ra và gắn liền với chế độ tư hữu. Trong điều kiện đó, các quan
hệ xã hội được hình thành một cách tự phát và vượt khỏi sự kiểm soát của con người, còn những kết
quả và sản phẩm hoạt động thì bị tha hóa khỏi các cá nhân và các tập đoàn xã hội và thể hiện ra như
là do những người khác hoặc do những lực lượng siêu nhiên áp đặt. Ông thừa nhận sự tha hóa của
lao động với tư cách là cơ sở của tất cả mọi hình thức tha hóa khác. Trong đó có cả những hình thái
tha hóa về tư tưởng đã cho phép hiểu được ý thức bị bóp méo, sai lầm là kết quả của những mâu
thuẩn đời sống xã hội hiện tại. Ông kết luận nhiệm vụ thủ tiêu tha hóa bằng việc cải tạo lại xã hội
theo chủ nghĩa Cộng sản.
Theo V. I. Lê - nin, trong “Bút kí triết học”, đã thừa nhận ở Hê- ghen có những mầm mống
của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Không chỉ gắn sự tha hóa cho hết thảy lịch sử nhân loại, Hê- ghen
còn áp dụng nó cho cả toàn bộ các lĩnh vực hoạt động con người.


Ngày nay, khái niệm tha hóa được sử dụng khá phổ biến để biểu thị cho những thay đổi, biến
chất, những quan điểm sai lệch như lối sống tha hóa trong giới trẻ, tha hóa trên các lĩnh vực: kinh tế,

chính trị, đạo dức, lối sống…
1.1.3. Vấn đề tha hóa trong sáng tác văn học Việt Nam trước 1945.
Theo “Thời báo kinh tế Sài Gòn, ngày 02/3/1999” qua mạng Internet, Vương Trí Nhàn cho
rằng: “Sự tha hóa tiếng nói ở nước ta bắt đầu từ lâu lắm rồi và tục ngữ có câu “Lưỡi không xương
nhiều đường lắc léo…”. Ông lí giải bắt đầu từ truyện ngắn “Tôi xin hết lòng” của Nguyễn Công
Hoan kể về một người đàn bà, thức nhiều đêm ròng để trông một cô gái ốm và lúc nào cũng xoen
xoét cái miệng: “Tôi xin hết lòng vì cô”. Có gì đâu bởi vì bà ta quá mê bộ tóc của cô bé, sự việc lộ ra
khi lấy cớ giúp cho cái đầu cô gái khỏi vướng víu, trong lúc trông nom cô, bà ta đã dang tay cắt
trộm mái tóc ấy. Ngoài ra, ông thống kê trong từ điển Tiếng Việt nhiều từ ghép đi liền với chữ nói,
tạm ghi như: nói bóng nói gió, nói càng, nói cạnh nói khóe, nói dóc, nói dối, nói điêu, nói gạt, nói
gần nói xa, nói khoác, nói lảng, nói náo, nó phét, nói nhăng nói cuội, nói quá, nói ra nói vào, nói
trạng… Đa phần là những từ mô tả sự nói dối với nghĩa xấu. Và ông kết luận: “Hóa ra sự tha hóa
tiếng nói ở nước ta bắt đầu từ lâu lắm”. Cùng với những thực trạng nói dối thường xuyên trong
kinh doanh và quản lý xã hội ông khẳng định: “Từ góc độ xã hội học, đây là biểu hiện của sự tha
hóa ngôn từ, khi con người không còn làm chủ được công cụ giao tiếp này nữa và bản thân công cụ
có một sự phát triển tự thân vô tổ chức (tương tự như tình trạng tế bào ung thư ). Bắt đầu từ sự phát
triển vô tội vạ về số lượng, tiếp đó là những biến dạng kì dị. Sự không phù hợp giữa nội dung và
phương thức biểu hiện ngày càng trở thành thiên hướng không thể cứu vãn”. Có thể đồng cảm với
những trăn trở của tác giả trước thực trạng xã hội, mà ngưới ta đã dùng ngôn ngữ để hứa hẹn, quảng
bá, làm giàu bất chính… Mà Vương Trí Nhàn xem đó là biểu hiện của sự tha hóa ngôn từ. Phải
chăng những lời nói dối đem lại lời lãi mà chưa có thứ thuế nào dành cho nó. Nhưng bản thân ngôn
ngữ không lừa dối, tức ngôn ngữ không tha hóa, mà chính con người dùng ngôn ngữ gây hậu quả
xấu. Ngôn ngữ không là nguyên nhân mà lòng gian manh của con người mới là nguyên nhân. Vì
một phát ngôn như một tảng băng có phần nổi để thấy được, nghe được. Nhưng còn phần chìm –
phần ẩn ý chủ đích của người nói, không ai biết được, nên không bao giờ có thể đặt trọn niềm tin
theo. Cũng như Chí Phèo từng mềm lòng trước cách cư xử của Bá Kiến “Anh Chí ơi! Sao anh lại
làm ra thế? Chí Phèo lim dim mắt, rên lên: - Tao chỉ liều chết với bố con nhà mày đấy thôi. Nhưng
tao mà chết thì có thằng sạt nghiệp, mà còn rũ tù chưa biết chừng…Cái anh này nói mới hay! Ai
làm gì anh mà anh phải chết? Đời người có phải con ngóe đâu? Lại say rồi phải không…” {18;
35}. Rõ ràng, người gian manh dùng ngôn từ reo rắc ảo tưởng qua sự dối trá. Bản thân ngôn ngữ là

phương tiện giao tiếp, nó hoàn toàn vô can, giống như con dao, người ta làm ra nó để cắt rau quả,


nhưng có kẻ dùng nó làm điều ác thì con dao không có tội. Nên không có sự tha hóa của ngôn ngữ
mà chỉ có sự tha hóa của đạo đức nhân cách con người.
Cái xã hội đen tối, bất công trước cách mạng tháng Tám, 1945 đã dồn ép các tầng lớp nhân
dân lao động vào tình trạng dở sống, dở chết, cùng quẫn, bế tắc. Khác với các nhà văn hiện thực
khác như Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nguyễn Công Hoan… Tập trung bút lực vào việc miêu tả tình
trạng đói cơm, rách áo, bần cùng, lầm than của người dân lao động. Nam Cao băn khoăn, đau đớn
không chỉ ở cái đói rét, bần cùng ấy mà là giá trị đạo đức của con người đang bị chà đạp, mai mọt,
con người không chỉ ngụp lặn trong cảnh sống mòn, chết mòn mà có nguy cơ trượt dài xuống đời
sống bản năng của loài vật – tha hóa đi.
Nhà văn Vũ Trọng Phụng – một cây bút miêu tả về sự tha hóa của con người trong môi trường
tiền bạc và tham nhũng. Với tiểu thuyết “Giông tố” là một thảm kịch về sự thấp hèn bất tín của con
người trên mọi lĩnh vực, không ai có thể tin ai được và không ai có thể nhờ cậy ai được. Văn
chương của Vũ Trọng Phụng khác với văn chương Tự Lực văn đoàn và cũng khác hẳn với lối hiện
thực phê phán của những người đương thời như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng…
Vũ Trọng Phụng không dùng ngòi bút để chống lại một thành phần, một giai cấp nào đó, cũng
không trực tiếp phản ánh sự mục nát, thối rữa của xã hội Việt Nam dưới ách thống trị của thực dân.
Nhìn chung, ông mô tả sự tha hóa của con người trên toàn diện xã hội, dưới chiều sâu, qua nhiều
tầng lớp, nhiều hạng người, mỗi người có cách tha hóa khác nhau trước thế lực của đồng tiền và sự
tham nhũng. Ông là một nhà văn, một nhà văn đích thực, viết về sự tha hóa của con người. Tác
phẩm của ông là nguồn cảm hứng về xã hội Việt Nam dưới thời Pháp thuộc, những năm 1930 –
1940, với tất cả những tệ đoan của xã hội đương thời, nhưng tác giả không quy kết hoàn toàn cho
chính phủ bảo hộ hay vua An nam, mà ông đào sâu hơn vào các hành động của cá nhân con người,
để xác định rõ trách nhiệm mỗi cá nhân trước bổn phận và đạo đức sống của chính mình. Trong
những truyện đầu tay như Một cái chết (1931), Bà lão lòa (1931), ông đã nêu đích danh thủ phạm
của những cái chết bi thương, đói khát. Đó là sự độc ác không cưu mang nhau giữa người với
người.
Vũ Trọng Phụng khác những nhà văn cùng thời, tác phẩm của ông không bị giới hạn trong

luận đề chôn xã hội cũ như phần lớn các nhà văn nhóm Tự Lực văn đoàn và ông cũng không trực
tiếp tố cáo xã hội thực dân như các ngòi bút hiện thực phê phán. Vì thế, ta có thể nói Vũ Trọng
Phụng là nhà văn tả chân nhất của hai chữ tả chân. Tức là ông chỉ tìm kiếm sự thật, sự thật về con
người mà thôi, nên tác phẩm của ông luôn đạt đến sự phổ quát cao, trong đó những nhân vật của Vũ
Trọng Phụng, ta có thể tìm thấy trong bất cứ xã hội nào mà tham nhũng và tiền bạc luôn làm chủ,
xưa cũng như nay, Đông cũng như Tây. Vũ Trọng Phụng miêu tả con người của mọi thời đại dưới


khía cạnh thực nhất. Đó là sự đánh mất, sự thay lòng đổi dạ của con người trong một môi trường xã
hội mà đồng tiền có thể chi phối tất cả.
Văn của Vũ Trọng Phụng viết về sự tha hóa của con người, trong khi các nhà văn khác lại đề
cập đến con người là nạn nhân của xã hội, của chế độ, như chị Dậu trong “Tắt đèn - Ngô Tất Tố” là
nạn nhân của sưu cao thuế nặng, của quan lại dâm ô, Loan trong “Đoạn tuyệt- Nhất Linh” là nạn
nhân của chế độ mẹ chồng nàng dâu, và Bính trong “Bỉ vỏ – Nguyên Hồng” là nạn nhân của sự phản
bội của người tình, sự tàn ác của cha mẹ, sự đọa đày của xã hội đương thời…
Tính người trong tiểu thuyết “Giông tố” được phơi bày một cách phủ phàng, không thương
tiếc: Từ cô Mịch con gái ông đồ, hiền lành, ngây thơ, quê mùa, đã hứa hôn với Long – một thanh
niên đứng đắn. Mịch ban đầu là nạn nhân, bị hãm hiếp, được dân làng thương xót, rồi Mịch có
mang, bị mọi người đàm tiếu, khinh bỉ. Nhưng khi trở thành vợ bé của Nghị Hách, một bước lên
“bà lớn”, Mịch cảnh vẻ, quát tháo con ở, ngoại tình với Long, dâm đãng như bất cứ người đàn bà có
tiền, có thế lực nào. Ông bà đồ Uẩn- cha Mịch, ngày trước thanh bần trong sạch, tôn trọng đạo đức
thánh hiền, nay vểnh vao trong chiếc xe hơi của Nghị Hách, dạo phố Hà Nội như những kẻ giàu mới
phất, mặt mũi phởn phơ, không kém gì hạng người mà ngày trước ông bà từng khinh bỉ. Chính bản
thân Mịch cũng thù ghét cha mẹ ở thái độ đổi trắng thay đen, đã bán khoáng mình với giá rẻ cho
Nghị Hách để hưởng giàu sang.
Trong khi đó, Tú Anh - con trưởng của Nghị Hách, tưởng là một nhân vật tốt, muốn cứu vớt
thanh danh gia đình Mịch, đã bắt buộc bố phải cưới Mịch làm vợ lẽ. Nhưng để thực hiện chương
trình phúc thiện, Tú Anh đã dùng thủ đoạn đen tối, lừa dối hai người tình Mịch và Long để họ hiểu
lầm nhau.
Trong “Giông tố”, đầu óc rửa thù trùm lên toàn thể các nhân vật. Gia đình Nghị Hách là cuộc

ân oán trên hai thế lực với những oan nghiệt do chính Nghị Hách gây ra. Dùng tất cả những thủ
đoạn đê hèn để làm giàu và tiến thân, Nghị Hách là một trường hợp đặc biệt của tội ác như hiếp
dâm, giết người, không hề ngần ngại, miễn sao đạt được hai mục đích: thỏa mãn tính dâm dục,
thành công trong địa hạt tiến thân, chính đứa con trai của Nghị Hách đã xét đoán về cha như “Cái
thằng cha ấy đẻ ra moa, chính là vì một phút điên rồ của xác thịt”.
Sự tha hóa bao trùm lên các nhân vật trong “Giông tố”, từ trong gia đình ra đến xã hội, nó
không chỉ có trong gia đình thối nát của Nghị Hách, mà trong cả gia đình Mị – đối cảnh của Nghị
Hách cũng không thoát khỏi. Bà đồ Uẩn trong sự giàu sang, hãnh diện vì trả thù được bọn dân làng
từng khinh bỉ, riếc móc con gái bà. Mịch sau khi bị nhục, nghĩ mình không còn xứng đáng với
người tình, đã từng chọn cái chết để giữ thanh danh và trong sạch đối với người yêu. Giờ thành
người bất cần, trong Mịch chỉ còn lại sự căm hờn cho nhân tình thế thái.


Từ đó cho thấy “Giông tố” là thảm kịch về sự thấp hèn, bất tín của con người trên mọi lĩnh
vực, không ai có thể tin được ai, không ai có thể nhờ cậy được ai. Từ trong ra ngoài, từ anh em đến
cha mẹ, từ vợ đến chồng, từ cha đến con, tất cả đều sống trong lừa dối, một vòng loạn luân khép
kín: Tội ác và lừa bịp gieo rắc khắp nơi. Sự tha hóa đó đã được Vũ Trọng Phụng phanh phui qua
những “Thú tính” nơi con người, kể cả những người được coi là hiền lành, chân thật. Ngoài ra, Vũ
Trọng Phụng đã tả chân cái xã hội hai mặt với những con người hai mặt, với lối văn đối thoại và độc
thoại nội tâm của nhân vật như một phương pháp thám hiểm tiềm thức của họ. Trong khi những tác
giả hiện thực cùng thời chỉ mới phân chia xã hội thành những lớp tốt xấu, đề cao cái tốt, hạ bệ cái
xấu.
Quá trình tha hóa - quá trình đánh mất mình ở mỗi người có sự khác nhau. Nghiêm khắc mà
nói, mọi người đang sống không được như họ mong muốn. Ở đây không đề cập đến những tội lỗi đã
thành danh mục quản lý của pháp luật, mà chỉ nói tới những thói xấu nho nhỏ, những thói xấu vẫn
bị coi bỏ qua như xoay xoay vụ lợi, làm dỡ báo hay, qua loa vô trách nhiệm, khéo léo tô vẽ mình
trước cấp trên, hùa theo số đông, nói cho đám đông vừa lòng chứ không dám nói sự thật… Có thể
nói không nhiều thì ít, hằng ngày những thói xấu đó không ngừng phát triển. Nếu so với con người
lí tưởng mà ta mong muốn noi theo, khi trưởng thành thì thật ra ta đã xa dần, thẩm chí có những
phẩm chất tốt mà ta vốn có từ nhỏ và cứ tưởng đã giữ được mãi, bây giờ cũng đã đánh mất. Trong

đoạn văn miêu tả tâm trạng của Chí Phèo sau khi tỉnh, Nam Cao viết “Buồn thay cho đời! Có lý nào
như thế được? Hắn đã già rồi hay sao… Dẫu sao, đó không phải tuổi mà người ta mới bắt đầu sửa
soạn. Hắn đã tới cái dốc bên kia của đời…” {18; 55}, tác giả trăn trở, xót xa cho nhân vật đã đánh
mất cả tuổi trẻ, rồi bất chợt nhận ra khi đã quá trễ. Con người cũng thường tìm cách ngụy biện cho
sự tha hóa của bản thân mình. Quá trình tha hóa có thể xảy ra ở tất cả mọi người, mọi lúc. Vấn đề là
nếu quá trình này không được kiểm soát, xảy ra quá nhiều và lâu dài, con người không có ý thức
hay mất ý thức kiểm soát với nó thì sẽ dẫn tới những hậu quả nặng nề, đó là khi đánh mất mình lúc
nào không biết. Vì thế mà cổ nhân đã dạy “Chiến thắng vĩ đại nhất là chiến thắng bản thân mình”.
Nên kiểm soát cuộc sống và hành động của bản thân là cảnh giác với sự tha hóa. Cũng như hiểu
người, hiểu chính mình để có những biện pháp hoặc suy nghĩ tích cực nhất để mức độ tha hóa của
mình thấp nhất. Mặt khác, ta nghĩ rằng nếu đã có khái niệm tha hóa và con người dễ hình thành thói
quen tha hóa thì chắc chắn sẽ có khái niệm ngược lại và cũng có thể trở thành những thói quen giúp
cho lối sống mình tốt hơn, mọi vấn đề đều có hai mặt của nó.
1.2. Vấn đề tha hóa trong sáng tác của Nam Cao:
1.2.1. Quan niệm của Nam Cao về tha hóa:
Vấn đề con người là trọng tâm sáng tác của các nhà văn, cũng là vấn đề nghiên cứu của các nhà
khoa học nhất là các nhà triết học. Họ trăn trở trong những câu hỏi: “Con người từ đâu ra? Ý nghĩa


cuộc sống của con người là gì? Trong mỗi thời đại lịch sử, con người quan hệ với tự nhiên và đồng
loại như thế nào? Rồi, tư tưởng, tình cảm, tâm lí, tính cách… Của mỗi người cũng khác nhau. Con
người có làm chủ được tự nhiên, xã hội và bản thân mình không? Và con người cần phải làm gì để
có cuộc sống xứng đáng với con người?”. Có lẽ, đây là những vấn đề chung nhất, cơ bản nhất mà
các nhà nghiên cứu từ xưa đến nay luôn đặt ra và có những cách giải quyết khác nhau.
C. Mác đã đưa ra quan niệm hoàn chỉnh về khái niệm con người cũng như bản chất của con
người. Ông phân biệt rõ hai mặt trong khái niệm con người: mặt xã hội và mặt sinh học. Trước hết,
C. Mác thừa nhận con người là động vật cao cấp, sản phẩm của sự tiến hóa lâu dài của giới sinh vật
như tiến hóa luận của Đác - uyn đã khẳng định. Như các loài động vật khác, con người phải đấu
tranh để kiếm ăn, sinh tồn, sinh con đẻ cái. Theo C. Mác con người vốn là một sinh vật có đầy đủ
đặc trưng về sinh vật, nhưng lại có điểm phân biệt với con vật khác. Theo Fhranklin “Con người

khác con vật ở chỗ con người biết sử dụng công cụ lao động”. Còn Arixtốt đã gọi con người là
“Một động vật có tính xã hội”. Hay Pascal nhấn mạnh đặc điểm con người và sức mạnh của con
người là ở chỗ con người biết suy nghĩ “Con người là một cây sậy, nhưng là một cây sậy biết suy
nghĩ”.
Các nhận định trên đều đúng khi nêu lên một khía cạnh về bản chất con người, nhưng những
nhận định đó đều phiến diện, chưa nói lên được nguồn gốc và mối quan hệ biện chứng giữa chúng
với nhau. Theo C. Mác và Ph. Ăngghen cho thấy vai trò lao động ở con người. Ông kết luận “Con
vật chỉ tái sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên. Đó là sự
hòa hợp giữa con người với giới tự nhiên. Và nhờ hoạt động thực tiễn, con người quan hệ với tự
nhiên cũng có nghĩa là con người quan hệ với chính bản thân mình”, bởi tự nhiên là “Thân thể vô
cơ của con người”. Con người có tính xã hội bởi bản thân hoạt động sản xuất của con người là hoạt
động mang tính xã hội. Chính tính xã hội là đặc điểm cơ bản làm cho con người khác con vật. Tính
xã hội của con người thể hiện ở hoạt động và giao tiếp xã hội. Hoạt động của con người không phải
là hoạt động theo bản năng như con vật mà là hoạt động có ý thức. Tư duy của con người phát triển
trong hoạt động giao tiếp xã hội. Mặt khác, con người khác con vật về bản chất ở cả ba mặt: quan hệ
với tự nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với bản thân. Cả ba mối quan hệ đều mang tính xã hội,
trong đó quan hệ xã hội là quan hệ bản chất nhất, bao quát nhất trong mọi hoạt động của con người.
Với Nam cao, thế giới con người thật muôn màu muôn vẻ. Đời sống nhân vật trong sáng của
ông bị ảnh hưởng và chi phối từ nhiều phía. Có khi bị áp lực từ hoàn cảnh đói nghèo (Dần), từ ảnh
hưởng của tư tưởng Phật giáo với thuyết ở hiền (Nhu, Phúc), cũng có khi bị chi phối bởi đức thánh
thiện của Thiên Chúa Giáo như (Dì Hảo). Những nhân vật của Nam Cao nhẫn nhục đến cựu độ, hi
sinh hết lòng nhưng kết cục đều bất hạnh. Cuộc đời của họ cứ âm thầm mà rụi đi mặc dù đời sống


cũng có nhiều sự kiện, những bước ngoặc như lấy chồng, lấy vợ, đi xa làm ăn nhưng nỗi bất hạnh
càng ngày càng chồng chất thêm và càng lún sâu vào kiếp sống âm thầm tủi nhục.
Nam Cao không đưa ra ý niệm tha hóa cụ thể như Hê - ghen mà ông cụ thể hóa nó bằng những
hiện thực sinh động trong sáng tác của mình. Đó là trạng thái con người bị mất gốc, bị cắt đứt
những giá trị NGƯỜI, tách rời với những chuẩn mực đạo đức xã hội. Xa rời cộng đồng, họ biến đổi
theo chiều hướng ngày càng xấu đi, thành những cái khác đối nghịch lại cái ban đầu, những giá trị

NGƯỜI.
Với cách hiểu như vậy, trong sáng tác của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám có khoảng
30 trong 136 nhân vật thuộc kiểu người đang đánh mất dần nhân tính: liều mạng, hung dữ, bất cần
đời như Chí Phèo, Binh Chức, Năm Thọ. Tham ăn, khát uống, giành giật, tồi tệ như anh cu Lộ trong
Tư cách mõ, người cha trong Trẻ con không được ăn thịt chó, San trong Sống mòn. Thô bạo, hành
hung, đánh đập vợ con như: thầy giáo Thứ (Sống mòn), văn sĩ Hộ (Đời thừa), Độ (Giăng sáng).
Hoặc những kẻ làm biếng, bỏ bê vợ con, suốt ngày cầu vận may bên chiếu bạc như người cha (Mua
nhà), Thai (Làm tổ), bố cái Ninh (Từ ngày mẹ chết), anh cu Thêm (Thôi về đi)… Họ là những kẻ
đang đánh mất dần nhân tính, đang tha hóa đi. Dù có lúc họ cũng ý thức được việc làm của mình
nhưng đó chỉ là những ý nghĩ chóng qua như đánh thức một phần lương tri của họ và rồi họ vẫn tiếp
tục trượt dài trên cái dốc của sự tha hóa.
Trước Nam Cao đã có nhiều nhà văn như Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Nguyên
Hồng cũng đã viết nhiều về vấn đề tha hóa của con người ở hai lĩnh vực giàu – nghèo trong xã hội.
Họ tập trung miêu tả nhân vật bị tha hóa bề ngoài. Trong Bỉ vỏ, Nguyên Hồng miêu tả nhân vật Tám
Bính dù tha hóa nhưng trước sau vẫn là một tâm hồn phụ nữ thuần hậu giàu đức hi sinh, muốn sống
bằng bàn tay lao động của mình. Còn Vũ Trọng Phụng miêu tả sự trụy lạc của con người do những
dục vọng không thành, đó là tình trạng tha hóa của Long, Mịch, ông bà đồ Uẩn trong Giông tố. Họ
bị chi phối bởi đời sống vật chất hoặc sự biến đổi vị trí trong xã hội từ nghèo hèn trở nên giàu sang.
Với Nam Cao, sứ mạng của nhà văn với tư cách là “Người thư kí trung thành của thời đại”, ông mải
miết đi tìm những nguyên nhân dẫn đến sự tha hóa của con người. Ông không phơi bày những tính
hư tật xấu của nhân vật, mà từ trái tim nhân hậu, yêu thương trân trọng con người đã cho thấy tha
hóa là một quá trình biện chứng có tính quy luật do nhiều yếu tố tác động. Lão Hạc tự vẫn cũng vì
thương con, giữ lại mảnh vườn, chị đĩ Chuột nói dối con, nói dối chồng vì lo cho sức khỏe của
chồng “Đã bảo hết cơm rồi, tí nửa chè chín thì ăn chè mà… Cơm gạo đỏ không chịu ăn, nó đòi ăn
cơm trắng của thầy cơ” {18, 17}. Còn cái Gái nói dối cha, cũng vì thương cha “Lúc nảy mẹ con
mày ăn cám phải không? Gái gượng cười cãi: ăn chè đấy chứ” {18, 17}. Và rồi, người cha cũng nói
dối con, tìm đến cái chết cũng vì thương vợ, thương con, không muốn bệnh tật mãi làm khổ vợ con
“Con đi lấy cho thầy cái ghế buộc giậu, với sợi thừng ở gác bếp để thầy mắc lại cái võng, thế này



cao quá” {18, 17}. Do đó, có những yếu tố do tác động của ngoại cảnh nhưng cũng có yếu tố do tự
thân con người tạo ra. Cả hai yếu tố trên cũng có quan hệ biện chứng, hoàn cảnh tác động và trách
nhiệm của bản thân không vượt lên được hoàn cảnh. Đó cũng chính là vần đề cốt lõi hình thành
quan niệm của nhà văn về con người và cuộc sống. Từ đó, ta có thể hình dung được phong cách và
tầm vóc của nhà văn trong xã hội đương thời.
1.2.2. Nguyên nhân của sự tha hóa:
1.2.2.1.Tha hóa do tự thân.
Khi bàn về hiện tượng tha hóa, Vương Trí Nhàn đã nêu ra bảy bước dẫn tới sự tha hóa trên tạp
chí Tia sáng, ngày 9/10/2006 qua mạng Internet.
Thứ nhất: “Có nhiều việc ta biết là trái đạo lý song vẫn phải làm, chẳng qua chỉ là nhằm kiếm
thêm tiền bạc”,
Thứ hai: “Các thói xấu lấn lướt ta mỗi ngày một ít”.
Thứ ba: “Không phải chỉ có riêng mình làm sai”, nên “Hơi đâu gái góa lo việc triều đình”.
Thứ tư: “Có nhiều việc thấy trái lương tâm ta vẫn cứ làm, vì xem ra chung quanh mình, mọi
người đều hành động như vậy”.
Thứ năm: “Những người tốt như mình thường thua thiệt, còn những kẻ xấu thì có được đủ thứ”
Thứ sáu: “Tình trạng phân thân, sống một đằng, nói một nẻo”
Thứ bảy: “Mê tín chính là mắt xích cuối cùng của sự tự làm hỏng, giống như một thứ bảo
hiểm”.
Là nhà văn hiện thực, Nam Cao đã có cái nhìn tổng thể về con người, con người chịu sự chi
phối của hoàn cảnh sống và bản thân con người cũng bất lực trước hoàn cảnh sống. Tuy nhiên,
không phải ai cũng buông xuôi theo số phận, mà họ đã có gắng rất nhiều, vật lộn với đời sống từng
giờ, từng ngày. Rõ ràng, con người là sản phẩm của hoàn cảnh với ý nghĩa rộng rãi của từ này.
Trong những sáng tác của Nam Cao trước Cách mạng, cái đói, miếng ăn cứ trở đi, trở lại như
một quy luật, một nỗi ám ảnh đeo bám con người. Các nhà văn cùng thời Kim Lân, Ngô Tất Tố, Tô
Hoài, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan… Cũng đau lòng, nhức nhối trước tình trạng đói
nghèo, tha hóa ở người nông dân. Còn đối với Nam Cao nó không chỉ tập trung ở người nông dân
cùng khổ, mà còn ở những người trí thức. Có lẽ, Nam Cao trăn trở nhất là bi kịch tinh thần của
người trí thức. Những người lẽ ra có cuộc sống hạnh phúc nhưng lại là những người đau khổ nhất
do họ ý thức được nỗi đau của mình hơn ai hết.

Nhân vật trong sáng tác của Nam Cao đã tự thân tha hóa ở nhiều phương diện khác nhau, từ
cách ăn mặc, suy nghĩ tới lời nói và hành động của mình. Trạch Văn Đoành trong “Đôi móng giò”,
tiêu biểu cho hiện tượng tha hóa về cách ăn mặc. “Đoành thuộc vào hạng ấy. Suốt một mùa, hắn chỉ
mặc một cái áo ba – đờ – xuy sắc chó gio, hắn mua hồi đi lính sang Tây, có bảy mươi quan. Thế mà


bền, cho đến nay, tất cả có đến ngót ba chục năm rồi đấy… Hắn mặc suốt ngày suốt đêm, khi ăn,
khi ngủ, khi làm, khi chơi. Cái áo ba – đờ – xuy mất hết cúc rồi. Hắn đơm hai cái dải thật to hình
cái bơi chèo. Những khi hắn đi cày, hai cái dải được bắt giao nhau để thắt lại ở sau lưng. Chặt chẽ
và gọn gàng không kém một cái đai. Những lúc hắn đi chơi hoặc ra đình thì hai dải lại cởi ra buông
cho lẫn vào hai mép áo trong. Hắn lại có vẻ ung dung lắm. Ai dám bảo cái áo ba – đờ – xuy này là
áo ba – đờ – xuy đi cày? Mà có bảo đi cày nữa thì đã sao.” {18; 115}. Cha ông ta có câu “Lấy của
che thân, ai lại lấy thân che của”, trường hợp của Trạch Văn Đoành là ngược lại. Hắn sống bất cần
đời, không nể một ai, không danh dự, không cần lòng tự trọng.
Hình ảnh người cha trong “Trẻ con không được ăn thịt chó” với những biểu hiện của sự thèm
thuồng. Đầu óc hắn lúc nào cũng nghĩ đến rượu, thịt chó, rồi tưởng tượng về nó cùng những biểu
hiện của sự thèm khát như một con vật. Đặc biệt là ghép tội cho con chó để có lí do giết thịt “Mắt
hắn sáng hẳn lên một chút. Chúng có vẻ vừa trông thấy con chó thui béo căng và vàng óng treo
lủng lẳng trên cái chõng hàng nhà mụ Tam. Nước dãi tứa ra đầy miệng hắn, một hơi rượu rất mong
manh thoáng qua mũi hắn rồi vụt biến. Chà ! Chà! Hôm nay, mát trời lắm nhỉ? Rượu với thịt chó
mà lại gặp khi trời mát thì ngon biết chừng nào là ngon! Hắn nuốt dãi hai, ba lượt… Hắn nhổ bọt
vào chân cột rồi vừa chép chép môi vừa hếch mặt nhìn lên nóc nhà. Rượu… Thịt chó… Rượu… Thịt
chó… Óc hắn cứ lẩn quẩn nghĩ đến hai thứ đó.” {18; 122}. Hay một đoạn khác “Hắn dùng dằng
không nỡ bước. Trong khi ấy thì nước dãi từ từ dâng lên miệng hắn. Rượu… Thịt chó!… Rượu…
Thịt chó!…Trước mắt hắn lại lập lòe hai sắc: vàng bóng và xanh nhợt. Hắn nuốt nước dãi kêu ừng
ực. Rồi hắn tặc lưỡi một cái để ra hiệu cho hắn đường do dự nữa” {18; 122}. Quá trình tự tha hóa
của nhân vật có sự vận động nội tâm phức tạp. Đầu tiên hắn hút thuốc lào và tự thưởng thức về
tiếng kêu của điếu thuốc, rồi hắn thấy thời tiết đẹp mà mình phải ngồi ở nhà thì xót xa quá. Tiếp
theo, hắn muốn đi đâu đó, nhưng không có tiền, rồi hắn thầm ước có ai đó đến mua bưởi nhà hắn và
hắn mơ thấy năm đồng, thấy con chó thui vàng óng, mắt hắn sáng lên. Và từ đó, thịt chó đã trở

thành nỗi ám ảnh, choáng ngộp cả tâm trí hắn. Hắn suy tính, trăn trở, do dự, bế tắc và thất vọng.
Nhưng bất chợt thấy con chó vàng nhà hắn, thì hắn lại nghĩ ra lí do để giết nó “Nghèo rớt mùng tơi
như nhà hắn nuôi làm gì? Giả thử nhà còn trẻ nhỏ, thì nuôi chó cũng còn được việc. Nhưng nhà
không còn con trẻ” {18; 124} và việc mời bạn “Trả nợ miếng “ cũng hợp lẽ phải để giết thịt con chó
cùng ba ông khách nhấm rượu trong khi vợ con ngồi nhìn, ngồi chứng kiến chứ không được tham
dự bữa ăn bởi vì “Trẻ con không được ăn thịt chó”, “Láo toét! Chỗ này là chỗ quan viên uống rượu,
có phải không các cụ” {18; 130}
Như vậy, từ việc hút thuốc lào ban sáng đến việc giết con chó tưởng chẳng liên hệ gì nhưng lại
rất hợp lý. Đó là một quá trình tha hóa, không phải là hệ quả của ý tưởng trước nảy sinh ý tưởng
sau, mà là sự đan xen chuyển hóa lẫn nhau.


1.2.2.2. Tha hóa do các tác nhân ngoại cảnh.
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa ngoại cảnh (dt), “Những hoàn cảnh bên ngoài đối với đời sống
nói chung, hoàn cảnh khách quan nói chung” {153; 1201}. Hoàn cảnh bên ngoài ít nhiều tác động
đến đời sống của các nhân vật trong sáng tác của Nam Cao. Trong đó, bên cạch những tác động tích
cực, phần nhiều là những tác động tiêu cực, ảnh hưởng trực tiếp đến suy nghĩ, hành động của nhân
vật theo hướng suy đồi, biến chất, tha hóa. Với người nông dân hoàn cảnh sống đã đẩy họ vào
những con đường bần cùng, bế tắc, không lối thoát. Những con người cùng khổ như Chí Phèo, lão
Hạc, lang Rận, dì Hảo, chị đĩ Chuột, anh cu Lộ… Không chỉ giống chị Dậu (Tắt đèn – Ngô Tất Tố),
anh Pha (Bước đường cùng – Nguyễn Công Hoan) ở hoàn cảnh đói nghèo mà hơn thế mỗi người
trong họ phải chịu nỗi đau về nhân phẩm. Một người cha tự tử (Nghèo) bỏ lại vợ, con với cảnh nợ
nần chồng chất vì không muốn bệnh tật của mình là gánh nặng cho vợ con. Trường hợp lão Hạc
cũng tự tử vì không muốn ăn vào phần của con, nhưng có phần đau đớn với những giằng xé lương
tâm khi nghĩ mình đã nỡ lừa một con chó. “Thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi, còn đánh lừa một
con chó, nó không ngờ tôi nỡ tâm lừa nó” {18; 252}. Rồi đến anh lang Rận cũng thắt cổ tự tử cũng
vì quá nhục nhã, đau đớn. “Y thẹn. Y buồn. Y giận đời. Y giận trời. Y giận thân. Y tím ruột, tím gian.
Y nghĩ đến cái nhục sáng hôm sau” {18; 281}. Một Chí Phèo muốn hoàn lương “Hắn thèm lương
thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao. Thị Nở sẽ mở đường cho hắn”{18; 57}, “Tao
muốn làm người lương thiện” {18; 61}, Kết cục Chí cũng chết trên ngưỡng cửa trở lại làm người do

hoàn cảnh đã không chấp nhận khát vọng làm người của anh. Nhưng bi kịch đau đớn nhất là lúc họ
nhận thức được sự trói buộc của hoàn cảnh và những chi phối của nó, họ nhận thấy được sự bất lực
của bản thân, lương tâm giày vò và có lẽ, họ nghĩ cái chết sẽ giải quyết tất cả. Chí Phèo nhận thấy
hoàn cảnh trở lại làm người không còn “Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất
được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện được nữa?” {18; 61}.
Cả cuộc đời của Chí Phèo hầu hết chịu sự tác động của ngoại cảnh. Cũng có lúc, anh đứng vững
bằng ý chí, nghị lực “Hai mươi tuổi, người ta không là đá, nhưng cũng không hoàn toàn là xác thịt.
Người ta không thích cái gì người ta khinh. Vả lại bị một con đàn bà gọi đến mà bóp chân! Hắn
thấy nhục hơn là thích, huống hồ lại sợ” {18; 56}. Với chị Dậu trong Tắt đèn (Ngô Tất Tố), những
nổ lực cuối cùng phải bán con, bán chó, bán cả gánh khoai để trả những đồng sưu cao thuế nặng vô
lý ấy. Sống trong xã hội bất công, thiếu dân chủ ấy, con người con người có cố gắng vùng vẫy bằng
cũng không thoát được sự bủa vây của ngoại cảnh.
Có nhiều tác nhân dẫn đến sự tha hóa, trong đó cái đói và miếng ăn là nguyên nhân chính “Ở
làng Thứ, bao giờ cũng như bao giờ, hiếm hoi lắm mới có một nhà được mỗi ngày hai hay ba bữa
cơm no. Còn thì chỉ bữa no hay bữa đói thôi. Mà có được toàn cơm! Họ phải ăn độn ngô, khoai, rau
má, cháo cám, rau luộc trừ cơm. Thứ đã thấy có người ăn lá sắn tàu luộc làm rau, lá bà nụ nấu


canh, sung luộc….Có người ăn cháo nấu chỉ có một ít gạo còn thì chỉ toàn nõn khoai ngứa, có khi
cả những cái lá non, bỏ vào cho đặc và nhiều. Có người ăn củ chuối… Một ông già hàng xóm kể
cho Thứ nghe một câu chuyện giống như truyện ngụ ngôn. Một năm lụt, một buổi tối ông gọt sạch
sẽ một cái củ chuối, ngâm bên dưới cầu ao cho nó hết nhựa đi, để sáng mai ăn. Ông cứ tưởng mình
như thế đã cùng cực lắm rồi, và đi ngủ rất yên tâm, chẳng thắc mắc một tí nào về kẻ trộm. Ấy thế
mà lại có một anh hàng xóm khổ hơn, lúc chập tối thấy ông ngâm cái củ chuối ở cầu ao, đêm đói
quá, sinh thèm, chẳng ngủ được, phải vùng dậy, im hơi lặng tiếng lội qua ao, lấy trộm củ chuối, rồi
lại lóp ngóp lội về nhà mình.” {18; 631}. Giống như người xưa nói “Bần cùng sinh đạo tặc” củ
chuối không đáng giá, nhưng vì đói quá mà tha hóa, họ có thể ăn những thứ mà dành cho gia súc ăn
như ngô, khoai, cám… Thậm chí có những thứ mà lần đầu tiên người ta mới biết như nõn khoai
ngứa, củ chuối, lá bà mụ nấu canh, sung luộc… Nhà văn Kim Lân từng nói đến nồi chè cám mà bà
cụ Tứ đãi hai con trong đêm nên vợ nên chồng. Miếng ăn của con người ngang tầm hoặc thấp hơn

của loài súc vật. Ở bài “Cái đói và miếng ăn trong truyện Nam Cao” của Nguyễn Đăng Mạnh, theo
ông, nhà văn kêu gọi hãy cứu lấy nhân phẩm, nhân tính và nhân cách con người trước cái đói và
miếng ăn chứ không phải kêu gọi cứu lấy cái đói cho con người như một số nhà văn khác cùng thời
“Nhưng nếu như ở tác phẩm của Ngô Tất Tố là tiếng kêu cứu đói, thì ở tác phẩm của Nam Cao lại
là tiếng kêu cứu lấy nhân cách, nhân phẩm, nhân tính con người đang bị cái đói, miếng ăn làm cho
tiêu mòn đi… Hãy cứu lấy những nhân cách đang bị hủy diệt, những linh hồn đang héo hắt chết
mòn, chết mỏi vì miếng cơm, manh áo” {70; 12}. Nam cao nói nhiều về cái đói, miếng ăn, cái nhục,
cái khổ. Trong đó, cùng là những con người đói nhưng miếng ăn có phần được đề cập nhiều hơn cái
đói. Cũng như, cùng là những con người khốn khổ ấy nhưng cái nhục vẫn được nói đến nhiều hơn
cái khổ. Cho nên dù khổ và đói vẫn hơn miếng ăn và cái nhục. Bởi “Miếng ăn là miếng nhục”. Dù
nhục nhưng con người vẫn chấp nhận vì quá đói, chấp nhận cái nhục tức là chấp nhận tha hóa, từ bỏ
nhân phẩm, từ bỏ tính người để chấp nhận cách sống của một con vật. Chẳng hạn, bà của cái Tý
trong Một bữa no, bị cái đói dày vò nhiều ngày “Hơn ba tháng, bà lão chỉ ăn toàn bánh đúc, mới
đầu thì còn được ba tấm, sau một tấm cũng không có nữa” {18; 228}. Rồi bà than thở “Chao ôi!
Nếu người ta không phải ăn thì đời sẽ giản dị biết bao” {18; 226}. Nên suy nghĩ được cho là sáng
suốt để kiếm một bữa ăn đã nhục lắm rồi, nhưng cái cách mà bà ăn còn nhục nhã, khốn khổ hơn
nhiều: “Bà ăn nhanh, ăn vội, cố theo kịp người ta vì sợ người ta ăn hết. Bà lão lập cập, run rẩy làm
rớt cả mắm ra ngoài… Vả đã đi ăn chực thì còn danh giá gì mà làm khách. Bà cứ ăn như không biết
gì. Đến khi bà đã tạm no, thì cơm vừa hết” {18; 233 - 234}. Trong “Tư cách mõ”, cũng vì miếng ăn
mà anh cu Lộ đã đánh mất tư cách người và tạo nên một tư cách mõ ở một anh nông dân vốn rất
hiền lành và có lòng tự trọng. “Từ ấy, không những hắn đòi cỗ to, lúc ăn hắn lại còn xin thêm xôi,
thêm thịt, thêm cơm nữa. Không đem lên cho hắn thì tự hắn xông vào chỗ làm mà xúc lấy. Ăn hết



×