Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Giọng điệu thơ chế lan viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (336.73 KB, 20 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

GIỌNG ĐIỆU
THƠ CHẾ LAN VIÊN

LUẬN ÁN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

CHUYÊN NGÀNH : VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ : 5.04.33
NGƯỜI HƯỚNG DẪN : PHÓ GIÁO SƯ TIẾN SĨ TRẦN HỮU TÁ
NGƯỜI THỰC HIỆN : NGUYỄN HOÀNG MINH HÀ

KHÓA 8
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2000


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

GIỌNG ĐIỆU
THƠ CHẾ LAN VIÊN

LUẬN ÁN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
CHUYÊN NGÀNH : VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ : 5.04.33
NGƯỜI HƯỚNG DẪN : PHÓ GIÁO SƯ TIẾN SĨ TRẦN HỮU TÁ
NGƯỜI THỰC HIỆN : NGUYỄN HOÀNG MINH HÀ



KHÓA 8
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2000


MỤC LỤC
MỤC LỤC .................................................................................................................................3
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................................4
DẪN LUẬN...............................................................................................................................5
1. Lý do chọn đề tài: .............................................................................................................5
2. Lịch sử vấn đề:...................................................................................................................6
3. Phạm vi nghiên cứu: ..........................................................................................................9
4. Phương pháp nghiên cứu: ................................................................................................10
4.1. Phương pháp lịch sử: ................................................................................................10
4.2. Phương pháp hệ thống: .............................................................................................10
4.3. Phương pháp so sánh: ...............................................................................................10
4.4. Phương pháp phân tích, tổng hợp: ............................................................................10
5. Phương pháp triển khai đề tài và cấu trúc luận án: ..........................................................10
CHƯƠNG 1: KHÁI NIỆM VỀ GIỌNG ĐIỆU VĂN CHƯƠNG VÀ GIỌNG ĐIỆU THƠ
TRỮ TÌNH...............................................................................................................................10
1.1. Khái niệm về giọng điệu văn chương: ..........................................................................10
1.1.1. Giọng và giọng điệu:..............................................................................................10
1.1.2. Giọng điệu văn chương:.........................................................................................12
1.2. Giọng điệu thơ trữ tình: ................................................................................................19
1.2.1. Khái niệm trữ tình và thơ trữ tình: .........................................................................19
1.2.2. Giọng điệu thơ trữ tình: .........................................................................................23
CHƯƠNG 2: GIỌNG ĐIỆU THƠ TRỮ TÌNH SỬ THI CỦA CHẾ LAN VIÊN ..................38
2.1. Trữ tình sử thi: ..............................................................................................................38
2.2. Cảm hứng sử thi:...........................................................................................................39

2.2.1. Cảm hứng về Cách Mạng: .....................................................................................41
2.2.2. Cảm hứng về Tổ Quốc:..........................................................................................44
2.2.3. Cảm hứng về Đảng: ...............................................................................................46
2.2.4. Cảm hứng lịch sử: ..................................................................................................48
2.2.5. Cảm hứng về lãnh tụ:.............................................................................................49
2.2.6. Cảm hứng đời thường: ...........................................................................................52
2.2.7. Cảm hứng về thơ:...................................................................................................54
2.3. Nhân vật trữ tình: ..........................................................................................................56
2.4. Những nghệ thuật đặc sắc:............................................................................................59


2.4.1. Các hình ảnh thơ đối lập về thời gian và không gian: ...........................................62
2.4.2. Hình ảnh đối lập giữa hiện tượng và bản chất: ......................................................63
2.4.3. Hình ảnh đối lập giữa nguyên nhân và kết quả:.....................................................64
2.4.4. Hình ảnh đối lập về các trạng thái cảm xúc:..........................................................65
2.4.5. Hình ảnh đối lập về ý thức hệ: ...............................................................................66
2.4.6. Hình ảnh đối lập giữa các tính chất, trạng thái của đối tượng: ..............................67
CHƯƠNG 3: GIỌNG ĐIỆU THƠ TRỮ TÌNH THẾ SỰ CỦA CHẾ LAN VIÊN .................69
3.1. Trữ tình thế sự:..............................................................................................................69
3.2. Cảm hứng thế sự: ..........................................................................................................72
3.2.1. Cảm hứng về số phận con người: ..........................................................................72
3.2.2. Cảm hứng về nỗi đau: ............................................................................................76
3.2.3. Cảm hứng thương cảm con người sáng tạo: ..........................................................79
3.2.4. Cảm hứng tình yêu:................................................................................................82
3.2.5. Cảm hứng về thơ và nghề thơ:...............................................................................85
3.2.6. Cảm hứng về chữ vô: .............................................................................................89
3.3. Nhân vật trữ tình: ..........................................................................................................91
3.4. Những hình ảnh nghệ thuật đặc sắc: .............................................................................94
3.4.1. Những hình ảnh biểu tượng cố ý nghĩa mới: .........................................................94
3.4.2. Những hình ảnh tưởng tượng có tính giả thiết:......................................................97

3.4.3. Những hình ảnh lý luận về thơ và nhà thơ bằng thư:...........................................100
KẾT LUẬN............................................................................................................................104
TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................................................................................107
TÁC PHẨM CỦA CHẾ LAN VIÊN TỬ 1945 .....................................................................111


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi nơi đây lòng biết ơn sâu sắc đối với phó giáo sư, phó tiến sĩ Trần Hữu
Tá, người trực tiếp hướng dẫn giúp đỡ tôi trong quá trình làm luận án.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các giáo sư đã giảng dạy, Ban Giám Hiệu,
phòng Đào Tạo sau Đại Học cùng Ban Chủ Nhiệm khoa Ngữ Văn trường Đại Học Sư
Phạm Thành Phố Hồ Chí
Minh, Ban Giám Hiệu trường Trung Học Phổ Thông Phan Đăng Lưu đã tạo mọi
điều kiện giúp đỡ tôi trong thơi gian học tập và làm luận án đúng thời hạn.

Thành phố Hồ Chí Minh
Ngày 1/4/2000

4


DẪN LUẬN
1. Lý do chọn đề tài:
Nhà thơ Chế Lan Viên tên thật là Phan Ngọc Hoan, sinh ngày 14/1/1920, mất ngày
19/6/1989. Quê ông ở Cam Lộ, Quảng Trị. Song ông lớn lên, học hành và làm thơ ở Bình
Định, cùng thời với Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Xuân Diệu ... Ông đã từng tham gia Ban lãnh đạo
Hội nhà văn Việt Nam, là đại biểu Quốc hội khóa IV, V, VI, nhiều lần là sứ giả của vãn hóa
Việt Nam tham dự các diễn đàn văn hóa quốc tế ở Liên Xô, Pháp, Nam Tư, An Độ, Na uy,
Thụy Điên ...
Năm 16 tuổi, lần đầu tiên xuất hiện trên thi đàn với tập Điêu Tàn, Chế Lan Viên đã gây

một niềm kinh dị bởi giọng thơ rất riêng không lẫn với một ai và bởi niềm ám ảnh không
nguôi về thời gian và sự tồn tại. với những đau thương tựa hồ vô lý nhưng thành thực vô
cùng. Ngay từ tập thơ đầu tay ấy, chất suy nghĩ của Chế Lan Viên đã khác hẳn các thanh niên
cùng lứa và cũng chẳng giống bất kỳ một nhà thơ nào.
Sau Cách mạng tháng tám năm 1945, đi theo Cách Mạng, Chế Lan Viên thực sự có một
sự chuyển hướng sang quan niệm nghệ thuật cách mạng phù hợp với yêu cầu của dân tộc và
thời đại. Sự chuyển hướne này đạt đến đỉnh cao vào những năm 60, mở đầu là tập Anh Sáng
và Phù Sa, sau đó là một loạt các tập thơ khác mà giới nghiên cứu văn học đều thống nhất
chung một sự đánh giá là thơ Chế Lan Viên sau Cách mạng đã vượt lên tầm của chính mình
trước Cách mạng. Trên con đường thơ của mình, Chế Lan Viên thực sự đã hình thành phong
cách thơ mang đậm chất trí tuệ mà phong cách này có ảnh hưởng đến một số nhà thơ lớp sau
như Phạm Tiến Duật, Bằng Việt...
Sau khi Chế Lan Viên mất, nhà văn Vũ Thị Thường (vợ ông) đã rút từ trong những bản
thảo còn lại của ông những bài thơ chưa từng công bố: ba tập "Di cảo thơ Chế Lan Viên" đã
ra đời lại là một hiện tượng văn học. Năm 1993, Di cảo thơ tập II được trao giải thưởng duy
nhất về thơ của Hội nhà văn Việt Nam. Năm 1996, Chế Lan Viên là một trong bốn nhà thơ
lớn của Việt Nam được nhận giải thưởng cao quý - giải thưởng Hồ Chí Minh.
Chế Lan Viên vẫn được xem là một trong những cây đại thụ thơ tỏa bóng mát xum xuê
trong khu rừng lớn văn học Việt Nam hiện đại. Thơ ông là những gì tinh túy nhất, thơm thảo
nhất của cuộc đời ông, của tâm linh ông, của hồn thơ ông mà chúng ta có thể học ở đó rất
nhiều điều.
Từ lúc sinh thời cũng như cho đến tận ngày hôm nay, năm cuối cùng của thế kỷ 20, các
tác phẩm của Chế Lan Viên đều được người đọc đón nhận, yêu mến và được bạn bè đồng
5


nghiệp đánh giá cao. Đã có hàng trăm bài viết, tuyển tập hoặc công trình nghiên cứu, phê
bình, tiểu luận, luận án về con người và sự nghiệp thơ ca của ông với tất cả niềm trân trọng,
quí mến.
Là một trong những người ngưỡng mộ thơ ông, tôi chọn một vấn đề "giọng điệu nghệ

thuật" để làm đề tài cho mình. Đây cũng là một trong những vấn đề chưa được nghiên cứu
kỹ. Đây đó trong các bài nghiên cứu về Chế Lan Viên, cũng có bàn về giọng điệu thơ Chế
Lan Viên nhưng các ý kiến đều chỉ là bàn qua, bàn về. Mỗi người có một nhận định chủ quan
của mình. Chưa có một công trình nào tập trung nghiên cứu riêng về giọng điệu nghệ thuật
thơ của ông.
Với niềm mong muốn được đóng góp vào việc nghiên cứu một chân dung văn học độc
đáo ở một nét tiêu biểu, chúng tôi mong được nhận nhiều đóng góp để có thể đi đến quan
điểm thống nhất về "giọng điệu nghệ thuật thơ Chế Lan Viên".

2. Lịch sử vấn đề:
Từ trước đến nay các nhà nghiến cứu đã dùng nhiều phương pháp khác nhau để đánh
giá, phân tích, tìm tòi thế giới nghệ thuật thơ Chế Lan Viên. Lịch sử nghiên cứu về Chế Lan
Viên bắt đầu có từ khi Điêu tàn ra đời và cho đến nay vẫn chưa thể có một công trình nào bao
quát nổi một hiện tượng thơ lớn như vậy. Trong 50 năm sáng tác, Chế Lan Viên để lại 1035
bài thơ đã xuất bản, 7 tập văn xuôi, 8 tập phê bình tiểu luận.
Cũng giống như bất kỳ nhà văn, nhà thơ lớn hiện đại nào khác, việc đánh giá từng tác
phẩm nói riêng hay toàn bộ sự nghiệp của Chế Lan Viên nói chung không thể tránh khỏi cách
đánh giá khác biệt nhau, thậm chí trái ngược nhau, tùy theo quan điểm thẩm định riêng của
mỗi thời và mỗi người. Người nghệ sĩ càng lớn, các tác phẩm càng đa diện, đa thanh, đa sắc.
đa tầng thì sự đánh giá càng phong phú và phức tạp. Nhất là về ba tập Di cảo thơ. Có người
cho rằng "giọng trầm" trong Di cảo thơ là bước lùi, yếu đuối. Giáo sư Lê Đình Kỵ lại gọi đó
là "trí tuệ, tài năng, tâm hồn"

(1)

. Giáo sư Trần Thanh Đạm tìm thấy ở giọng thơ Chế Lan

Viên một tín hiệu của kiểu thơ trí tuệ (2) .
Tính chất đa thanh có thể thấy rõ ở Chế Lan Viên. Trong 14 tập thơ, ta có thể thấy cả
giọng trữ tình sử thi, cả giọng trữ tình thế sự, giọng chính luận bình luận, giọng trầm tĩnh triết

lý, giọng tiêu tao, hiện thực pha màu huyền ảo, giọng trào lộng pha chút mùi vị chua cay,
giọng trầm tư suy ngẫm, giọng nghi vấn, giọng khẳng định, thơ trữ tình điệu nói ...
(1)

Lê Đình Kỵ - Trên đường văn học - NXB văn học, 1995, tập 2 trang 265.
Trần Thanh Đạm - những vần thơ triết lý của Chế Lan Viên qua những trang Di cảo - Báo văn nghệ số 36. Ra
ngày 4/9/ 1993.
(2)

6


Nhưng chưa có một công trình nào tập trung nghiên cứu kỹ về giọng điệu nghệ thuật
thơ Chế Lan Viên một cách hoàn chỉnh cả về hình thức biểu hiện lẫn nội dung.
Có một điểm thống nhất chung ở các nhà nghiên cứu phê bình là Chế Lan Viên có một
giọng điệu thơ riêng, không thể lẫn với một ai, giọng điệu thơ riêng đó là "điệu hồn" riêng
của nhà thơ, tạo nên một phong cách thơ riêng, trong đó đậm đặc chất tư duy suy ngẫm, suy
ngẫm về lý tưởng, về quan niệm sống, về hoạt động, trong đó có hoạt động nghệ thuật cao
quý, được nâng lên thành triết lý.
Giọng tư duy suy ngẫm của Chế Lan Viên giai đoạn 1945 - 1975 đặt cơ sở trên cái ta
trữ tình nên nó mang âm hưởng chung của thời đại là trữ tình sử thi, tráng lệ, hào hùng. Nó ca
ngợi đất nước, nhân dân, dân tộc. Đó là "giọng cao" như Chế Lan Viên tự nhận xét về thơ
mình.
Từ sau năm 1975, cái tôi trong thơ trữ tình đã đổi khác, hầu như có một sự thức tỉnh cá
nhân mới. Đúng ra là sự thức tỉnh những nhu cầu xã hội và cá nhân trong cái tôi trữ tình. Đó
là sự đòi hỏi khẳng định cá tính cùng với cá tính sáng tạo, là nhu cầu giãi bày về muôn mặt
đời thường, về tình yêu trần thế. Trong thơ, con người riêng tư đích thực ngày càng được xác
nhận. Con người có nhu cầu xác định chỗ đứns của mình trước thế giới, trong các quan hệ xã
hội và cá nhân mà trước kia, trong chiến tranh, chỗ đứng ấy là chỗ đứng trong hàng ngũ,
trong tập thể, trong nhân dân, trong cái "ta" chung cửa dân tộc. Cái "tôi" nhiều khi phải tạm

thời nhường chỗ cho cái "ta". Nhưng bây giờ là hòa bình, con người phải trở về với các giá trị
nhân bản. Con người trước kia là đối tượng để ngợi ca hay phê phán, Giờ đây nó còn thêm
tính chất là đối tượng để nghiên cứu, phân tích.
Cho nên giọng tư duy suy ngẫm của Chế Lan Viên ở giai đoạn cuối đời là tư duy suy
ngẫm về bản thể của con người, nhân cách, cái có hạn. cái bất cập, cái không may ... Nhà thơ
nghĩ suy về sự hữu hạn của thời gian, về tài năng và sự sáng tạo ... có cả những bất lực, bất
mãn của một nghệ sĩ đặt cho mình những yêu cầu rất cao về sáng tạo nghệ thuật.
Thơ Chế Lan Viên trong giai đoạn này chủ yếu là thơ trải nghiệm, kết hợp óc tư duy
phân tích tỉnh táo nên giọng thơ triết lý bình thản đến sắc lạnh. Đó là nguyên nhân khiến
người ta nhận xét Chế Lan Viên đổi giọng thơ. Nếu xét như vậy thì cả một nền thơ Việt Nam
sau 1975 đều chuyển theo xu thế có một sự thức tỉnh những nhu cầu xã hội và cá nhân trong
cái tôi trữ tình. Ở đây, không phải là Chế Lan Viên chủ động đổi giọng thơ mà hoàn cảnh đã
thay đổi : giọng trữ tình sử thi phải nhạt dần và chuyển sang trữ tình thế sự, trữ tình nhân bản.

7


Giọng tư duy suy ngẫm ở giai đoạn cuối đời của Chế Lan Viên, đặc biệt là ở ba tập Di
cảo thơ giúp chúng ta hiểu cái tâm của nhà thơ, cái tâm luôn trăn trở những nghĩ suy sâu sắc
về tình thế, về đất nước, về cuộc đời không hề đơn giản, cũng như cả những lo toan, xao
xuyến, vui buồn, mong nhớ chân thật được trải nghiệm trong những năm tháng cuối đời và
nhà thơ cũng tự nhận xét giọng của mình lúc này là "giọng trầm'' [(Xưa giọng cao giờ anh hát
giọng trầm - (giọng trầm)].
Dù là giọng cao hay giọng trầm thì sắc thái của nó vẫn là giọng tư duy suy ngẫm. Trước
kia Chế Lan Viên tư duy suy ngẫm với cả dân tộc, với những tráng ca, những khúc bi hùng,
với tâm tư tình cảm của cả cộng đồng, tạo nên chất sử thi anh hùng trong thơ, Giai đoạn sau
1975, Chế Lan Viên tư duy suy ngẫm với những vấn đề sâu lắng trầm tĩnh của con người, của
cuộc sống, của nhà thơ, của sự tồn tại, của sự ra đi ... Đoàn Trọng Huy (1) trong bài "Khuynh
hướng vận động thơ Chế Lan Viên từ sau 1975" có viết : "Lúc này, cần thiết một "định lý
đảo" phải đổi "ngôn ngữ thời chiến" qua "ngôn ngữ thời bình"". Giong thơ giai đoạn sau sâu

sắc. trầm tĩnh, như chắt lọc tất cả tâm huyết, tất cả kinh lịch, tất cả trải nghiệm một đời. Tâm
niệm và tâm sự, độc thoại và đối thoại, răn mình và nhắn đời ... đó chính là điệu hồn của nghệ
sĩ.
Nguyễn Bá Thành trong bài "Đọc hai tập Di cảo thơ" (2) có nhận xét giọng thơ trong Di
cảo : ""là giọng thơ đơn lẻ, não nùng và có phần chua chát". Một cung bậc rất trầm, rất thấp
như một thứ âm thanh thì thào, có khi đứt quãng. Nhà thơ cố tình xuống giọng. Thế là, tính
đến thời điểm ấy (1987 - 1988), nhà thơ đã hai lần đổi giọng. Lần thứ nhất là từ "than" thành
"hỏi", từ "hát" thành "nói" :
Xưa tôi hát mà bây giờ tôi tập nói
Chỉ nói thôi mới nói hết được đời"
Nguyễn Bá Thành tiếp "thơ Chế Lan Viên giờ đây là lời độc thoại để tự trấn an".
Theo tôi, những lời nhận xét của Nguyễn Bá Thành có những điểm bi quan hơn chính
những vấn đề Chế Lan Viên thể hiện trong Di cảo thơ. Võ Tấn Cường khi nói về Di cảo thơ
Chế Lan Viên thì nhận xét : "Ý thức nghệ thuật của ông không còn song hành, đồng nhất với
ý thức công dân mà đã vượt lên, hướng về những triết lý nhân sinh sâu thẳm và sự sinh tồn
của nhân loại" (1) .
(1)

Đoàn Trọng Huy - khuynh hướng vận động thơ Chế Lan Viên ... in trong sách Chế Lan Viên - người làm
vườn vĩnh cửu - Nhà xuất bản Hội nhà văn Hà Nội 1995.
(2)
Nguyễn Bá Thành - Đọc hai tập Di cảo thơ - in ương sách Chế Lan Viên -người làm vườn vĩnh cửu - Nhà
xuất bản Hội nhà văn Hà Nội 1995.
(1) (2)(3)(4)(5)

Các bài này đều in trong sách Chế Lan Viên - Người làm vườn vĩnh cửu - Sách đã dẫn.

8



Phạm Xuân Nguyên trong bài "Chế Lan Viên - Người đi tìm mặt" thì cho rằng : "Thành
thực giãi bày và thừa nhận những góc khuất đời thật của mình, đó là điểm khá thú của Di
cảo thơ Chế Lan Viên". (2)
Huỳnh Văn Hoa trong bài "Chế Lan Viên với cái nhìn nghệ thuật trong thơ''

(3)

lại

không đồng ý với Nguyễn Bá Thành cho là "ở Di cảo Chế Lan Viên rơi vào cái trận đồ siêu
hình ... hạ thấp thơ mình" mà cho là "vấn đề sống chết, ý nghĩa thời gian, về công nghiệp một
đời người, về cõi quên là những vấn đề triết học muôn đời của con người",
Trong bài "Con đường và tầm vóc thơ Chế Lan Viên" (4) Phạm Hổ nhận xét : "Chế Lan
Viên nhiều giọng nói, lúc như có lửa bốc lên rừng rực, lúc như dòng nước mát chảy êm —
nhưng cái chất Chế Lan Viên chì một".
Hoài Anh ở bài "Chế Lan Viên - một bản lĩnh một tâm hồn thơ phong phú, đa dạng và
bí ẩn" (5) lại nhận xét Di cảo thơ "mang giọng tiêu tao, hiện thực pha màu huyền ảo".
Còn rất nhiều nhận định khác nhau về thơ Chế Lan Viên. Nhưng chỉ là bàn qua, bàn về,
chưa làm rõ một sự thống nhất trước sau như một ở thơ ông. Sự thay đổi do hoàn cảnh tuyệt
đối không phải là bước lùi mà chỉ là một tiếng nói phù hợp với thời đại.
Trên cơ sở lịch sử vấn đề đã nêu ở trên, chúng tôi sẽ cố gắng tìm tòi phát hiện vấn đề
giọng điệu thơ Chế Lan Viên một cách toàn diện hơn.

3. Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn chỉ giới hạn nghiên cứu thơ của Chế Lan Viên từ sau cách mạng tháng 8 cho
đến ba tập Di cảo thơ. Và cũng chỉ tập trung vào một vấn đề "giọng điệu nghệ thuật" - một
phương diện của cá tính sáng tạo.
Một số bài thơ trong Di cảo thơ nhưng năm ra đời từ trước năm 1945 cũng không nằm
trong diện khảo sát cua chúng tôi, vì chúng chịu ảnh hưởng quá trình phát triển chung của
phong trào Thơ Mới cũng như khuynh hướng thần bí, siêu hình của riêng nhà thơ giai đoạn

trước cách mạng tháng 8.
Giọng điệu nghệ thuật thuộc về cả nội dung tư tưởng và hình thức thể hiện. Nó là "điệu
hồn" của nhà thơ, cái "rám" của nhà thơ và được biểu hiệu qua cảm hứng, ngôn ngữ, hình
ảnh, nhịp điệu, kết cấu và cái nhìn nghệ thuật của nhà thơ, qua nhân vật trữ tình ... Tim hiểu
giọng điệu có nhiều hướng tiếp cận, song trong luận án này, chúng tôi tìm hiểu giọng điệu
thông qua một số phương diện : cảm hứng, nhân vật và hệ thống hình ảnh. Đi theo hướng
này, chúng tồi muốn tìm tính nội dung của giọng điệu. Còn các yếu tố ngôn ngữ, nhịp điệu,
kết cấu, điểm nhìn nghệ thuật ... xin được tiếp tục bàn đến trong một thời gian khác.
9


Một điều đáng lưu ý là ba tập Di cảo thơ không phải ra đời dưới bàn tay sắp xếp có chủ
đích của chính nhà thơ Chế Lan Viên. Mà nó là nhiều bản thảo chưa hoàn chỉnh, ở dạng phác
thảo, do vợ nhà văn tuyển chọn, sắp xếp. Cũng có một số bài đã hoàn chỉnh, nhưng cũng
không phải do chính Chế Lan Viên tuyển chọn, sắp xếp theo ý đồ nghệ thuật của mình. Nên
theo tôi, đưa ra những nhận xét quyết đoán, thậm chí nặng nề về một công trình không phải
do chính nhà thơ đem đến nhà xuất bản là không nên. Chắc gì nếu còn sống nhà thơ sẽ cho in
những phác thảo đó bởi vì có thể có bài còn yếu về nội dung hoặc yếu về nghệ thuật.

4. Phương pháp nghiên cứu:
Để hoàn thành luận văn này, chúng tôi đã vận dụng các phương pháp nghiên cứu sau :

4.1. Phương pháp lịch sử:
Đọc toàn bộ tác phẩm thơ Chế Lan Viên, luôn luôn đặt tác phẩm vào hoàn cảnh lịch sử
cụ thể để hiểu mối quan hệ tác động qua lại giữa hoàn cảnh và tác phẩm.

4.2. Phương pháp hệ thống:
Hệ thống lại những yếu tố gần nhau, tương đồng hoặc những yếu tố khác nhau, đối lập
để làm nổi bật vấn đề chính. Việc rút ra những kết luận về giọng điệu thơ Chế Lan Viên phải
dựa trên cơ sở phân tích cụ thổ từng yếu tố nghệ thuật của thơ ông : Hệ thống cảm hứng chủ

đạo. hệ thống hình ảnh, nhân vật trung tâm ...

4.3. Phương pháp so sánh:
- So sánh thơ Chế Lan Viên với một số nhà thơ lớn cùng thời Xuân Diệu, Tố Hữu ... để
tìm ra những điểm khu biệt.
- So sánh thơ Chế Lan Viên giai đoạn 1945 - 1975 và dai đoạn sau của đời ông : từ
1975 - 1989 để làm rõ các luận điểm khác nhau về thơ ông ở hai thời kỳ này. Từ đó toát lên
cái độc đáo và sự đóng góp của Chế Lan Viên cho thơ Việt Nam hiện đại.

4.4. Phương pháp phân tích, tổng hợp:
Đây là phương pháp cơ bản và phổ biến trong nghiên cứu văn học nói chung. Chúng tôi
sẽ vận dụng phương pháp này để phân tích, tổng hợp từ cấp độ câu thơ, khổ thơ, đoạn thơ, bài
thơ có tính chất tiêu biểu, điển hình để minh họa cho các luận điểm của luận án.

5. Phương pháp triển khai đề tài và cấu trúc luận án:
Chúng tôi đi sâu tìm hiểu giọng điệu nghệ thuật thơ Chế Lan Viên nhằm khẳng định
những nét đặc trưng làm nên phong cách riêng của Chế Lan Viên. Qua đó, tìm hiểu những

10


đóng góp cho nền thơ hiện đại của Chế Lan Viên : một giọng thơ tư duy chính luận, tư duy
suy ngẫm độc đáo và sáng tạo.
Cấu trúc của luận văn :
Ngoài phần dẫn luận (9 trang) và phần kết luận (4 trang), nội dung của luận án được
triển khai trong ba chương :
Chương 1 : Khái niệm về giọng điệu văn chương và giọng điệu thơ trữ tình (35 trang).
Chương 2 : Giọng điệu nghệ thuật trong thơ trữ tình sử thi của Chế Lan Viên (35
trang).
Chương 3 : Giọng điệu nghệ thuật trong thơ trữ tình thế sự của Chế Lan Viên (39

trang).
***

11


CHƯƠNG 1: KHÁI NIỆM VỀ GIỌNG ĐIỆU VĂN CHƯƠNG VÀ
GIỌNG ĐIỆU THƠ TRỮ TÌNH
1.1. Khái niệm về giọng điệu văn chương:
1.1.1. Giọng và giọng điệu:
Một trong những yếu tố quan trọng cấu thành nét đặc trưng riêng cho mỗi loại hình lời
văn nghệ thuật là giọng và giọng điệu. Không những thế giọng và giọng điệu còn góp phần
khu biệt đặc trưng phong cách của mỗi một nhà văn, mỗi một khuynh hướng sáng tác. Trong
bất kỳ hình thức văn học nào cũng đều có sự lựa chọn chung một giọng điệu : giọng của tiểu
thuyết khác giọng của thơ trữ tình. M. Bakhtin đã đưa ra khái
niệm "đa thanh" nhàm ghi nhận sự phát triển của giọng và giọng điệu. Ở Việt Nam, các
công trình nghiên cứu của phó giáo sư Đặng Anh Đào (Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết
phương Tây hiện đại, 1995), giáo sư Trần Bình Sử (Lý luận và phê bình văn học, 1996) cũng
đều có quan tâm đến giọng và giọng điệu.
Trong nghiên cứu văn học, khi đề cập đến vấn đề âm thanh (sound) của tác phẩm, giới
nghiên cứu thường sử dụng hai khái niệm voice và tone. Ta có thể dịch là voice = giọng ;
tone = giọng điệu.
Bách khoa toàn thư Mỹ định nghĩa : (1) : "Voice là âm thanh được sinh vật phát ra",
"Tone là âm thanh được xét trong sự can thiệp của trường độ, cường độ, âm sắc và âm lượng
của nó". Như thế, ở đây người ta dựa trên cơ chế xác định âm thanh để phân biệt, và giọng
điệu (tone) thì cụ thể hơn giọng (voice).
Các nhà phê bình văn học đã xác định "voỉce" và "tone" theo nhiều kiểu khác nhau.
Năm 1961, trong Nhập môn phê bình văn học, K. Danzger và S. Johnson

(2)


không đề

cập đến giọng (voice) mà chỉ ghi nhận giọng điệu (tone) : "Là một phạm trù có liên quan đến
tất cả các yếu tố tạo nên văn phong (style) bao gồm : cách diễn đạt, hình tượng, cú pháp, âm
thanh và nhịp điệu, là biểu hiện của một thái độ về phía đối tượng (object) được nêu rõ hay
ngụ ý".
Nhưng trong Từ điển thuật ngữ văn học (1971) M. H. Abrams

(1)

đã phân biệt giọng và

giọng điệu. Theo ông, giọng điệu : "Là thái độ của người phát ngôn văn học đối với người
nghe của anh tà". Bên cạnh đó, ông còn chỉ rõ : "Một số người sử dụng giọng điệu với nghĩa
rộng hơn, trùng với phạm vi mà những nhà phê bình khác gọi là giọng, giọng được xác định :
(1) (2)

theo Lê Huy Bắc - "Giọng và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại" Tạp chí văn học số 9- 1998.
theo Lê Huy Bắc - Sách đã dẫn.

(1) (2) (3)

10


có một giọng bao trùm lên tất cả các giọng hư cấu trong một tác phẩm và có một người ở
đằng sau tất cả những nhân vật văn học, thậm chí kể cả người kể chuyện ở ngôi thứ nhất".
Đến đây ta thấy về cơ bản giọng điệu của Abrams và Danziger là giống nhau nhưng
Abrams, ngoài việc phân biệt giọng và giọng điệu, chỉ ra các cấp độ giọng, ông còn nêu thêm

quan niệm khác với Danziger, ở chỗ "thái độ đối với người nghe" chứ không phải với "đối
tượng" như Danziger đã viết.
X.LKennedy

(2)

thì lại không đề cập đến giọng mà ông cho rằng "Bất cứ cái gì giúp ta

luận ra thái độ của tác giả thì thường được gọi là giọng điệu".
Cũng đề cập đến giọng và giọng điệu, Katie Wales

(3)

trong Từ điển phong cách học

(1989) quan niệm : "Giọng được dùng để miêu tả ai là người nói". "Giọng điệu được dùng
với nghĩa một phẩm chất âm thanh đặc biệt nào đó có liên quan đến những xúc cảm hoặc
tình cảm đặc biệt nào đó". Nhưng ông còn nói thêm: "đôi lúc giọng điệu được dùng để chỉ
một chất giọng phổ quát được điều hành bởi một tác giả ẩn".
Theo Từ điển tiếng Việt của các soạn giả Việt Nam, giọng được xác định như sau :
1/ Độ cao thấp mạnh yếu của lời nói, tiếng hát.
2/ Cách phát âm riêng của một địa phương.
3/ Cách diễn đạt bằng ngôn ngữ, biểu thị tình cảm thái độ nhất định.
4/ Gam đã xác định âm chủ.
Và giọng điệu được xác định như sau :
1/ Giọng nói, lối nói biểu thị một thái độ nhất định.
2/ Như ngữ điệu.
Như thể điểm chung giữa hai khái niệm là : "Biểu thị một thái độ nhất định".
Đến đây ta thấy, do bản chất của giọng và giọng điệu là âm thanh nên trường giao thoa
giữa chúng là khó tránh. Nhưng trong lãnh vực phê bình văn học, dựa vào các định nghĩa đã

nêu, chúng ta có thể phân biệt chúng như sau :
1/ Giọng : là âm thanh được xét ở góc độ vật lý như cường độ, trường độ, cách phối âm,
âm lượng.
Giọng điệu : là âm thanh được xét ở góc độ tâm lý, biểu hiện các thái độ : buồn, vui,
giận, hờ hững...

11


2/ Các cơ sở để tạo nên giọng và giọng điệu : cách diễn đạt, hình ảnh, ngôn ngữ, cú
pháp, âm thanh , nhịp điệu, thể loại.
3/ Đối tượng của giọng và giọng điệu : là các sự kiện, tình huống, tâm trạng. Còn đối
tượng để nhận biết giọng và giọng điệu ấy chính là độc giả.
Giọng và giọng điệu là một bộ phận của phong cách (Style) và góp phần tạo nên phong
cách cho mỗi tác phẩm, tác giả.
Giọng và giọng điệu cũng chịu sự chi phối của điểm nhìn (point of view) nhưng lại góp
phần thể hiện điểm nhìn.
Như vậy đường biên giới giữa các phạm vi điểm nhìn, giọng, giọng ? điệu và phong
cách luôn có những điểm giao nhau : nhìn từ góc độ này, chúng là giọng điệu, nhưng ở khía
cạnh kia, chúng lại là điểm nhìn hay phong cách... Tuy nhiên, các phạm vi ấy vẫn có những
nội hàm nhất định để tồn tại như một đơn vị nghệ thuật mang nghĩa trong tổng thể các đơn vị
nghệ thuật khác của tác giả.

1.1.2. Giọng điệu văn chương:
1.1.2.1. Quan niệm giọng điệu trong văn chương cổ:
Vấn đề giọng điệu văn chương đã được bàn đến từ lâu trong lý luận văn học cổ. Những
khái niệm "hơi văn", "điệu văn", "văn khí", "thần văn", "âm hưởng" trong mỹ học phương
Đông đều là những khái niệm gần gũi với khái niệm giọng điệu. Bởi nó hàm chứa cái "điệu
hồn", cái "tình", cái "mạch", cái "khúc ca bên trong" của người viết. Nó là cái cốt lõi làm nên
giọng điệu văn chương.

Cách đây năm thế kỷ, người xưa đã nhắc đến giọng. Khi đề tựa cho cuốn "Việt Nam thi
tập" do Phan Phu Tiên và Chu Xa biên soạn, Lý Tử Tấn có viết : "Lời ý phải giản dị đầy đủ,
mạch lạc thông suốt, chất phác mà vẫn nhã, mới lạ mà không trúc trắc, trung hậu mà không
thô kệch, cao siêu mà vẫn giọng ôn hòa" (1)
Để nói về mối quan hệ giữa cảm xúc và cái "điệu hồn" của nhà thơ, Ngô Thời Nhậm
trong Cúc hoa thi trận viết : "Hãy xúc động hồn thơ để cho ngòi bút có thần'' (2)
Người xưa làm thơ cót biêu hiện cái chí. Phùng Khác Khoan nói : "Nếu chí mà ở đạo
đức thì tất phát ra lời lẽ hồn hậu, chí mà ở sự nghiệp tất nhả ra khí phách hào hùng, chí ở

(1)
(2)

Thơ văn Lý Trần tập I NXB Khoa học xã hội Hà Nội 1989.
Tác phẩm mới số 57 (1976) trang 88.

12


rừng núi gò hoang thì thích giọng thơ liêu tịch, chí ở gió mây trăng tuyết thì thích vẻ thơ
thanh cao, chí ở niềm thương cảm thì làm ra điệu thơ ai oán" (3)
Người xưa thường bình thơ, bình văn. Bình thơ văn là phải đọc lớn tiếng, lên bổng
xuống trầm, ngân nga không theo tùy hứng mà phải theo qui luật, nhấn mạnh vào một số
tiếng, giọng khoan thai, nhẹ nhàng, kéo dài. Bình văn thơ như vậy sẽ thấm được, hiểu được
cái hay của giọng văn, hơi văn, "khí văn", "thần văn". Giọng thơ làm cho con người xúc
động, đồng cảm, thương cảm với số phận con người, hiểu và cảm được cái bí mật cùng cái
đẹp của vũ trụ.
Như vậy, kể cả ở quan niệm, kể cả ở sinh hoạt bình văn thơ, người xưa đều thấy tầm
quan trọng của giọng điệu trong tác phẩm.
Theo cổ nhân, "thần" và "khí" là những vấn đề cốt yếu của văn chương. Cái "thần" là
độ sâu thẳm của tâm hồn, phút thăng hoa của tâm hồn, và cái "khí" lại là tầm cao của tri thức.

Trong Thạch Nông toàn tập, Nguyễn Tư Giản viêt: "Bàn về văn của văn nhân có văn nghĩa
lý, có văn chính sự, có văn từ chương mà cốt yếu là ở thần, ở khí... Tình nghĩa nhập thần thì
cái thần văn sẽ đầy đặn. Nuôi tầm nhìn rộng, trông xa thì hơi văn sẽ thăng bằng" (1) .
Trong lời tựa tập Thập Anh đường thi tập, nhà giáo Bùi Dương Lịch cho rằng : "Thơ
xuất phát từ tình, nhưng cái thần vận lành ở trong đó. Cái đúng ở tình thì ai chẳng có nhưng
cái tột cùng của tình lại là cái thần"

(2)

. Theo đó, ta hiểu cái tình là nơi vận hành của cái

chần, nhưng không phải cái tình nào cũng là thần. Chỉ có cái tình ở mức độ cao mới tạo nên
cái thần, tức giây phút làm nên "điệu hồn" của người nghệ sĩ, phút thăng hoa của tâm hồn,
sáng tạo.
Theo quan niệm văn chương cổ, giọng điệu còn là một tiêu chí quan trọng để xác định
tư cách và chí khí của người cầm bút. Văn như người vậy. Trong "Lịch triều hiến chương loại
chí, Phan Huy Chú nhận xét về thơ Trần Quang Khải : "Lời thơ thanh thoát, nhàn nhã, xem
thơ có thể thấy tướng mạo, phong thái của người". Khi đọc truyện Kiều, cái giọng xé ruột xé
gan của Nguyễn Du làm ta đau đến tận bây giờ :
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung

(3)

Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam - Lê Trí Viễn - trang 165.
Từ trong di sản trang 189 và trang 155 Nhà xuất bản Tác phẩm mới 1988.

(1) (2)

13



Không chỉ có ta đau mà các thế hệ mai sau cũng sẽ đau cùng Nguyễn Du. Giọng xé ruột
xé gan ấy là cơ sở để xác định Nguyễn Du có tư tưởng nhân đạo và nhân bản. Qua giọng
điệu, ta biết được tư chất người cầm bút.
Trong Nam Sơn Tùng Thoại, Nguyễn Đức Đạt viết : "Văn thâm hậu thì con người của
nó trầm mà tĩnh. Vãn ôn nhu thì con người của nó khiêm mà hòa. Văn cao khiết thì con người
của nó đạm mà giản. Văn hùng hồn thì con người cửa nó thuần tuy mà đứng đắn" (1)
Đúng như vậy, trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã thể hiện giọng hùng văn,
truyền cảm và lôi cuốn miêu tả cuộc chiến tranh chính nghĩa của dân tộc.
Trận Bồ đằng sấm vang chớp giật
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay
Cơn gió to trút mạnh lá khô
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.
Đó là giọng hùng tráng, mạnh mẽ, sảng khoái, hào hùng như những đợt sóng dồn dập
liên tiếp nhau, gối đầu nhau cho đến cuối bài. Giọng hùng văn đó làm Bình Ngô đại cáo có
giá trị như một tuyên ngôn độc lập và tên tuổi Nguyễn Trãi mãi sáng rực trên thi đàn dân tộc.
Giọng điệu là khúc nhạc tự bên trong lòng người. Những khúc nhạc tấu lên từ đáy sâu
lòng người ấy có tác dụng diệu kỳ. Nó có sức lay động, cả non sông trời đất, nó biến cải
những thế lực hắc ám, như trường hợp bài thơ "Thần" của Lý Thường Kiệt.
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Nhừ hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại thư
Cái thần của bài thơ là giọng sang sảng khẳng định chủ quyền đất nước, sự mềm dẻo
trong cái cứng rắn là ở giọng hỏi và giọng trả lời cuối bài. Hỏi thì cứng rắn, giọng chính
nghĩa, bề trên còn trả lời giọng lại mềm mỏng : mình đánh nó thất bại mà cứ nói là tự chúng
chuốc lấy thất bại vì làm việc phi nghĩa. Cái giọng nói lên cái cứng và mềm chính trị, ngoại
giao. Đó là giọng của một ý chí lớn, một sự nghiệp lớn của một dân tộc mang nhiều tình cảm
lớn và cao thượng. Chẳng thế mà theo truyền thuyết, Lý Thường Kiệt cho người nấp vào

trong điện thờ hai anh em Trương Hướng, Trương Hát bên bờ sông Như Nguyệt, đọc to lên
(1)

Từ trong di sản - Sách đã dẫn trang 189.

14


và truyền lan ra, 10 vạn quân Tống đóng bên kia sông nghe thấy đã hồn bay phách lạc ngay
cả trước khi quân ta tiến công tiêu diệt chúng. Quân phi nghĩa bao giờ cũng sợ giọng chính
nghĩa.
Người xưa cũng rất ghét thói rập khuôn, bắt chước, xóa nhòa bản thân mình. Trong
"Phương trì Đông dương tiên sinh văn lập", Cao Xuân Dục viết: "Nếu chỉ biết rập khuôn,
chắp nhặt thì dù câu đẹp lời hay, vẽ trăng, tả gió, nhưng ý hướng không ký thác được vào, thì
rốt cuộc cũng là bắt chước giọng điệu của người khác, chẳng nói lên được giọng thực
mình" (1)
Như vậy ta thấy người xưa đã đánh giá đúng về tầm quan trọng của giọng điệu nghệ
thuật và còn sử dụng đắc lực giọng điệu trong tác phẩm của mình để thể hiện tư tưởng tình
cảm của người viết.

1.1.2.2. Quan niệm giọng điệu văn chương hiện đại:
Nếu quan niệm tác phẩm văn học là một chỉnh thể nghệ thuật thì đề tài, chủ đề, hình
tượng nghệ thuật, ngôn ngữ, kết cấu, thể loại, cảm hứng và giọng điệu... là những yếu tố làm
nên chỉnh thể đó.
Việc phát huy từng yếu tố trong hệ thống tùy thuộc vào khả năng, sở trường và cái
"tạng" của từng nhà văn. Nhưng nhất thiết nó không được tách rời những yếu tố khác trong
hệ thống.
Yếu tố giọng điệu gắn với tình điệu có ý nghĩa phong cách là một khái niệm nằm trong
thi pháp nói chung chứ không phải chỉ riêng ở trong thơ.
Trong văn học, khái niệm giọng điệu vừa được biểu hiện ở phương diện ngữ âm : trầm,

bổng, trong, đục, nhanh, chậm, dài, ngấn... vừa được biểu hiện ở phương diện phong cách :
nóng, lạnh, nhu, cương, khoan thai hay dồn dập sôi nổi : trân trọng hay mỉa mai khinh bỉ, phế
phán hay ngợi ca, yêu thương hay căm giận, mềm mại dịu dàng hay cứng cỏi kiên quyết, tha
thiết gắn bó hay thờ ơ lãnh đạm... Có những giọng điệu huênh hoang khoác lác nhưng bộc lộ
một sự rỗng tuêch ở bên trong như giạ nạ, của Mã Giám Sinh :
Lặng ngồi, lẩm nhẩm giật đầu
"Ta đây phải mượn ai đâu mà rằng
Nàng đã biết đến ta chăng
Bể trầm luân, lấp cho bằng mới thôi !"
(1)

Văn học số 3/1979-trang 151.

15


(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
Bề ngoài thơn thớt nói cười
Mà trong nham hiểm giết người không dao.
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
Giọng điệu là âm hưởng chung toát lên từ toàn bộ tác phẩm nghệ thuật. Nó là hình thức
bộc lộ rõ rệt nhất chủ quan người nghệ sĩ. Toàn bộ cách cảm, cách nhìn, phương pháp tư duy,
kiểu nhận thức thế giới, tình cảm, thái độ, lập trường, quan điểm, đạo đức của nhà văn được
thể hiện đậm nét qua giọng điệu, tạo nên giọng nói riêng, phong cách riêng, mang dấu ấn của
cá tính sáng tạo, không thể bắt chước hoặc thay thế. Vì vậy mà giọng điệu văn chương còn có
ý nghĩa như một tiêu chí để xác định chân tài của nhà văn.
Như thế đứng ở bình diện thi pháp, chủ yếu chúng ta tìm hiểu các giọng điệu gắn với
tình điệu, với văn khí, với hơi văn, mạch văn, giọng văn, cái giai điệu, cái "hồn" chi phối toàn
tác phẩm và đây chính là một trong những yếu tố quan trọng nhất để phân biệt nhà văn này so
với nhà văn khác. Chính cái giọng rời rạc, nhát gừng kiểu "ông bảo", "cô bảo", "tôi bảo",

"cha tôi bảo", " ông Bảo bảo", " ổng Chương bảo" được lặp đi lặp lại nhiều lần trong truyện
ngắn "Tướng về hưu" đã góp phần đắc lực làm cho Nguyễn Huy Thiệp trở thành độc đáo, tất
nhiên là độc đáo có nghệ thuật. Chính cái giọng rời rạc cộc lốc này đã góp phần diễn tả khá
đậm nét thực chất của mối quan hệ tình cảm đã trở nên hết sức lỏng lẻo rời rạc của những con
người trong gia đình "Tướng về hưu". Từng con người ở đây đã trở thành một thế giới cô độc,
dường như không có mối. giao cảm gì với xung quanh, ngay cả đối với những người thân
thiết nhất. Tác phẩm trở thành tiếng chuông cảnh tỉnh về sự rạn vỡ không tránh khỏi của đạo
lý truyền thống khi có sự xâm nhập của yếu tố thực dụng theo mọi kiểu. Lẽ đương nhiên, chủ
đề này được hình thành bởi nhiều yếu tố nghệ thuật khác nữa, trong đó giọng điệu giữ một
vai trò quan trọng.
Nhưng làm thế nào để có tiếng nói riêng, giọng điệu riêng là một điều không dễ dàng.
Nó luôn luôn là nỗi băn khoăn trăn trở, niềm day dứt không nguôi của biết bao thế hệ nhà
văn.
"Giọng điệu riêng là mục tiêu và kết quả được tạo nên bởi cả quá trình phấn đấu toàn
diện, đồng bộ mọi mặt tích lũy, lao động sáng tác trên công cụ chữ nghĩa của nhà văn". "Đó
là sự huy động tổng lực mọi thứ vốn của người viết, trong đó dứt khoát phải có tài năng". (1)

(1)

Phong Lê - Trên hành trình của 40 năm văn xuôi, ngôn ngữ và giọng điệu -Tạp chí VH số 5-5/1985.

16


Ngay cả ở những nhà văn lớn thì việc tìm kiếm giọng điệu phù hợp với tác phẩm của
mình cũng không phải là việc dễ. Mỗi tác phẩm lại cần có một giọng điệu riêng, Ở "Chảy đi
sông ơi" của Nguyên Huy Thiệp là giọng trầm tư thế sự, ở "Con gái thủy thần", ở "Thung
lũng Hua tát" giọng kể lại đẫm màu sắc huyền thoại.
Giọng điệu không đợi đến lúc tác phẩm hoàn tất mới định hình mà ngay từ đầu nó đã
tham dự trực tiếp vào quá trình sáng tác.

Phân tích tác phẩm văn chương mà bỏ qua giọng điệu, tức là tước đi cái phần rất quan
trọng tạo nên bản sắc độc đáo của tác phẩm. Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến đã phân tích một cách
sâu sắc vai trò của giọng điện qua mấy từ "khéo la", "lạ gì", "quen thói" trong truyện Kiều.
Chính giọng điệu qua mấy từ trên đã biểu hiện rõ nét thái độ khinh bỉ, chì chiết, căm ghét của
tác giả Nguyễn Du đối với cái thói vô lý, nghiệt nsã, ngang trái của cuộc đời. Văn học là nghệ
thuật ngôn từ. Hoàng Ngọc Hiến quan niệm : "Câu văn phải có hồn. Câu văn có hồn là câu
văn có giọng, có ngữ điệu. Sự phong phú, tính đa nghĩa, ý vị đậm đù của bài văn trước hết là
ở giọng". (1)
Không có giọng câu văn sẽ trở nên nhạt nhẽo vô vị. Ngôn ngữ tạo ra giọng điệu và
giọng điệu lại làm cho ngôn ngữ "có thần".
Nhà văn, nhà thơ trước khi bắt tay vào viết phải bắt đầu từ "khúc ca bên trong" như
cách nói của Larmartine, phải chọn được một giọng điệu từ một "tâm trạng mang màu sắc
nhạc tính" như M. Amaudov quan niệm (2) .
Về giọng điệu và sức mạnh của ngôn từ, Liliem Jimenes nói : "Mỗi từ có tiếng nói
riêng của nó, mỗi từ nôn nao một nổi xúc động riêng. Mỗi từ mang sẵn trong đó một tiếng
vang cực kỳ sâu sắc. Từ này chứa trong mình hơi thờ của gió, từ kia mang tiếng ồn ào của
con sông rộng hoặc cái dồn dập của cánh chim đang vỗ, còn trong một từ khác người ta lại
nghe cái nhịp câm lặng của đá. Nhưng lại có những từ cô đọng cả nước mắt, mồ hôi, hơi thở
của con người... Ngôn từ xuyên qua thế kỷ" (3)
Không chỉ đóng vai trò chủ yếu trong sáng tạo ngôn ngữ, giọng điệu còn là hơi thở, là
sự sống của đề tài, tư tưởng, hình tượng. Cả 3 yếu tố này chỉ có thể được biểu hiện trong một
giọng điệu nhất định, trong phạm vi của một thái độ cảm xúc nhất định. Giọng điệu trong tác
phẩm chính là cái nhạc tính của tâm trạng, nó là chất keo gắn những liên tưởng, những cảm
xúc mà thiếu nó thì không thể có sáng tạo nghệ thuật. Giọng điệu là chất nghệ thuật đặc sắc
(1)

Vãn học học văn - Trường CĐSP TP Hồ Chí Minh và Trường viết văn Nguyễn Du Hà Nội 1990, trang 64
Theo Nguyễn thị Dư Khánh - Phân tích tác phẩm văn học từ góc độ thi pháp -Nhà xuất bản Giáo dục 1995.
(3)
Mười nhà thơ lớn của thế kỷ - Nhà xuất bản tác phẩm mới Hội nhà văn - 1982

(2)

17



×