Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Các kiểu lô gích mờ trong tác phẩm của nam cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.57 KB, 20 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


ĐÀO MẠNH TOÀ N

CÁC KIỂU LÔ GÍCH MỜ
TRONG TÁC PHẨM CỦA NAM CAO

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, 2004


PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Ngôn ngữ không những là công cụ của tư duy mà còn là công cụ giao tiếp quan trọng nhất của
con người. Với hai chức năng quan trọng đó, ngôn ngữ đã trở thành đối tượng nghiên cứu không
chỉ của ngôn ngữ học, tâm lý học, mà còn là đối tượng nghiên cứu của lô gích học… Đặc biệt là từ
khi các nhà ngôn ngữ học đã thấy được những hạn chế khi coi đối tượng nghiên cứu của mình
thuần túy là ngôn ngữ “ trong bản thân nó và vì bản thân nó” (hiểu theo quan điểm của
F.de.Saussure). Trên thế giới, liên tục xuất hiện những hướng nghiên cứu mới dưới những góc độ
khác như: Trào lưu triết học phân tích ngôn ngữ, trào lưu triết học phân tích lô gích, ngữ pháp chức
năng… với những tên tuổi lớn như: B.Russel, J.R.Austin, H.P.Grice, J.D.McCawley,M.A.K.
Halliday… Những vấn đề mà những bậc thầy ngôn ngữ ấy để lại cho chúng ta tới nay vẫn là những
tài sản vô giá, trong những tài sản ấy có lý thuyết về lô gích mờ.
Lô gích mờ (fuzzy logic) là một phổ niệm ngôn ngữ, nó là một vấn đề lý thú nhưng đồng thời
cũng cực kỳ phức tạp, có nhiều khía cạnh tế nhò, gây ra rất nhiều tranh cãi trong giới ngôn ngữ
học. Có nhà nghiên cứu cho rằng đây là vấn đề thuộc ngôn ngữ học, thậm chí phải là vấn đề trung
tâm của ngôn ngữ học, có người lại cho rằng nó thuộc phạm trù lô gích thuần tuý… Ngay trong
quan điểm xếp lô gích mờ vào lónh vực nghiên cứu của ngôn ngữ học thì cũng có nhà nghiên cứu


xếp nó vào bộ môn ngữ nghóa học (Semantics) lại có nhà nghiên cứu xếp nó vào ngữ dụng học
(Pragmatics)…
Chúng tôi cho rằng lô gích mờ thuộc về giao diện của lô gích học và ngôn ngữ học, và cần
thiết phải có một quan điểm tiếp cận liên ngành về vấn đề này. Đây cũng là một xu thế tất yếu
của khoa học ngày nay.
Xuất phát từ vấn đề còn rất nhiều phức tạp và gai góc này chúng tôi quyết đònh chọn đề tài
các kiểu lô gích mờ trong tác phẩm của Nam Cao.
Qua việc thực hiện đề tài, chúng tôi hi vọng sẽ hệ thống được những quan điểm của giới
nghiên cứu Việt ngữ nói riêng và của các nhà nghiên cứu thế giới nói chung về vấn đề lô gích mơ
ø(dựa trên những tài liệu mà chúng tôi có được). Bước đầu thử ứng dụng lý thuyết này vào việc
khám phá tác phẩm nghệ thuật ngôn từ – một hướng tiếp cận mới có nhiều triển vọng trong tương


lai và hiện vẫn còn là một khoảng trống chưa được nghiên cứu. Với luận văn này, chúng tôi hy
vọng sẽ phần nào lấp được khoảng trống đó. Ít ra, cũng có thể góp được một kiến giải riêng về
vấn đề này. Đây chính là lý do chủ yếu thôi thúc chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu trên cho luận
văn.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ .
Theo Nguyễn Đức Dân (1992), việc nghiên cứu câu mơ hồ nói chung và lô gích mờ nói riêng
trong giai đoạn đầu là chưa hoàn toàn tách bạch và đã được tiến hành từ rất sớm trên thế giới qua
các ngôn ngữ thuộc nhiều loại hình khác nhau như: Tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga, tiếng Trung
Quốc… Tiêu biểu là các công trình của các tác giả:
 W.Em pson. Bảy kiểu mơ hồ. 1930 (đã được in 5 lần tính tới 1992).
 Yuen Ren Chao. 1959.
 Uspen skij. Struktumaja tipologija jazykov. Moskva. 1965.
 L. A. Zadeh. Lý thuyết về tập hợp mờ. 1965.
 J.Kooij.Tính mơ hồ trong ngôn ngữ tự nhiên. (luận án tiến só). 1971.
 James. D. McMawley. Tất cả những gì mà các nhà ngôn ngữ học luôn luôn muốn biết
về logic, nhưng đã ngượng không dám hỏi. Chi cago. 1981...
Việc nghiên cứu này không những đã thu hút sự chú ý của giới ngôn ngữ học mà còn thu hút

sự quan tâm của những người làm công tác giảng dạy ngoại ngữ, tin học, lô gích, biên soạn từ
điển…
Những công trình của họ đã góp phần khẳng đònh rằng:
Hiện tượng mơ hồ và sự tồn tại một loại lô gích mờ trong ngôn ngữ là một vấn đề rất đáng
phải lưu tâm vì nó là một phổ niệm ngôn ngữ.
Họ bắt đầu đi vào miêu tả (J. Kooij ), phân loại (W.Em p son ), chỉ ra tính tất yếu và tiềm
năng lớn lao của xu thế tiếp cận dưới góc độ liên ngành ( McCawley, L.A.Zadeh)…
Ở Việt Nam, theo Hồ Lê (1993) thì Hoàng Phê là người đầu tiên giới thiệu và ứng dụng lý
thuyết lô gích mờ vào việc nghiên cứu tiếng Việt. Quan điểm của ông thể hiện qua những bài viết
đăng rải rác trong các báo cáo khoa học (1986), tạp chí ngôn ngữ ( 1975, 1981, 1982, 1984, 1985),


đặc biệt là qua công trình Lô gíc ngôn ngữ học 1989. ( Nxb Đà Nẵng tái bản năm 2003 ). Bắt đầu từ
đây, chúng tôi sẽ dựa vào công trình 2003 để nhận xét quan điểm của Hoàng Phê về lô gích mờ.
Trong công trình (2003) ông khẳng đònh lô gích mờ trong lời không hiếm thấy trong văn bản.
Ông viết: “ Trong ngữ nghóa của từ, của câu/ lời, hiện tượng ranh giới không rõ ràng, dứt khoát là
tương đối phổ biến” (Tr 68).
Ông giới thiệu lý thuyết tập hợp mờ của L.A.Zadeh và ứng dụng lý thuyết này vào phân tích
một số khái niệm: Ít, nhiều; Không mấy người biết, nhiều người biết, hầu như ai cũng biết; Trẻ, rất
trẻ, không trẻ và già, rất già; Có khả năng, có nhiều khả năng, ít có khả năng. Bằng việc sử dụng
bốn đồ thò (xin xem phụ lục 4), một số thuật toán và các khái niệm như: Tập hợp mờ (fuzzy set),
Tập hợp con mờ trong tập hợp (fuzzy subset), Vũ trụ đề cập (universe of discourse ), Tương thích
(Compatible), Điểm vượt tuyến (Crossover point), Phép ngưng tụ (Conden sation) những khái niệm
trên đã được giải thích một cách sáng rõ. Qua việc phân tích các ví dụ, ông đã chứng minh được
tầm quan trọng của nhiều yếu tố hợp thành cách hiểu một khái niệm mờ. Chẳng hạn trong đồ thò 3,
ngoài yếu tố Tỷ lệ số người biết so với tổng số người được nói đến thì các yếu tố khác như : Con số
tuyệt đối (người được nói đến cũng như người biết), Vấn đề nhận thức (bao gồm quan điểm, sự đánh
giá), Yêu cầu, Thang giá trò, Hoàn cảnh nói năng của con người… cũng là những điều kiện quan
trọng để hiểu và lý giải những khái niệm mờ như không mấy người biết, nhiều người biết, hầu như ai
cũng biết.

Cũng trong công trình này, Hoàng Phê còn áp dụng lý thuyết lô gích mờ để khảo sát kiểu câu
P, trừ phi Q. Từ kết quả khảo sát, ông chỉ ra ảnh hưởng quan trọng của ngôn cảnh đối với việc hiểu
một phát ngôn.(2003.Tr 79 -88).
Hoàng Phê cũng có ý kiến về ranh giới giữa ngữ nghóa mờ và nghóa mơ hồ. Ông viết: Hiện
tượng ngữ nghóa mờ khác hiện tượng nghóa mơ hồ. Hiện tượng ngữ nghóa mờ phản ánh cái mờ trong
nhận thức của con người, và suy đến cùng, phản ánh cái mờ trong hiện thực khách quan. Mờ nhưng
vẫn chính xác: càng phản ánh đúng, trung thực cái mờ khách quan bao nhiêu thì độ chính xác càn g
cao bấy nhiêu. Trái lại, hiện tượng mơ hồ chỉ là riêng của ngôn ngữ và của nhận thức, là khuyết
điểm của một nhận thức hoặc của một cách diễn đạt bằng ngôn ngữ (trừ trường hợp mơ hồ cố ý)
không phân biệt rõ ràng giữa những cái thật ra có ranh giới dứt khoát.” (2003. Tr 74).


Có thể nói rằng những gợi dẫn có tính chất tiên phong của Hoàng Phê về lô gích mờ đã góp
phần kích thích, đònh hướng cho một hướng nghiên cứu ngôn ngữ mới ở Việt Nam.
Nguyễn Đức Dân cũng là một nhà nghiên cứu có nhiều đóng góp lớn về lý thuyết lô gích mờ ở
Việt Nam. Những đóng góp của ông thể hiện rõ nét qua các công trình sau :
 Lô gích – Ngữ nghóa – Cú pháp. 1987
 Câu sai và câu mơ hồ ( viết chung với Trần Thò Ngọc Lang ) 1992.
 Tiếng Việt ( dùng cho đại học đại cương ) 1998.
 Lô gích và tiếng Việt. 1999.
 Nỗi oan thì, là, mà. 2002.
Trong những công trình trên thì công trình (1999) là công trình thể hiện rõ nhất quan điểm của
Nguyễn Đức Dân về lô gích mờ. Ông viết: Lô gích mờ “ thể hiện các cấp độ và phạm vi của giá trò
chân lý” (Tr 107). Theo ông, phạm vi của giá trò chân lý trong lô gích mờ khác với trong lô gích
truyền thống. Nếu lô gích truyền thống chỉ nhận một trong hai giá trò sai (0) và đúng (1) thì trong lô
gích mờ, phạm vi của giá trò chân lý lại dao động trong khoảng ( 0, 1 ). Ông nêu ví dụ
(1) Anh Ba đứng trước ngôi nhà.
(2) Lấy chai rượu, rót ra mấy ly rồi chúng ta nói :
(2a) Trong chai, rượu còn đầy 9/ 10.
Rót tiếp ly nữa, chúng ta nói :

(2b). Trong chai, rượu còn đầy 8/10.
Quá trình đó tiếp tục, chúng ta được hàng loạt các phán đoán tương tự
(2c). Trong chai, rượu còn đầy 7/10.
….
(2d). Trong chai, rượu còn đầy 3/10.
(2e). Trong chai, rượu còn đầy 1/10.
Theo ông, câu (1) sẽ đúng trong trường hợp anh Ba ở vò trí được coi là phía trước của ngôi nhà (
hiểu một cách tương đối ) và ở một khoảng cách nhất đònh với ngôi nhà, chẳng hạn là 5 m. Nếu anh
Ba cách ngôi nhà 500 m thì câu (1) sẽ sai. Có một vấn đề đặt ra là: Nếu khoảng cách từ anh Ba đến
ngôi nhà tăng dần, chẳng hạn: 20m - 50m - 100m - 200m… thì sẽ có những khoảng cách mà một số


người cho rằng nói như câu (1) đúng, nhưng một số người khác lại cho rằng nói như vậy sai. Tỷ lệ
này thay đổi theo khoảng cách, anh Ba càng đứng gần nhà thì tỷ lệ người bảo đúng càng nhiều và
tỷ lệ này sẽ giảm dần khi anh Ba càng cách xa nhà. Tính đúng (1), sai (0) trong câu này là không rõ
ràng. Nói khác đi là được xác đònh một cách mờ.
Trong câu (2), nếu chai rượu vơi đi tới một mức x% nào đó thì người ta sẽ phải thay “còn đầy”
bằng “chỉ còn”. Nhưng rất khó xác đònh cái ranh giới x% ấy là bao nhiêu. Nghóa là sẽ nảy sinh tình
huống như câu (1). Tức là tính đúng sai trong trường hợp này cũng chỉ là tương đối, được xác đònh
một cách mờ xong vẫn đúng với một tỷ lệ nào đó.
Trong công trình (1999) Nguyễn Đức Dân còn đặt ra những vấn đề sau:
Thứ nhất, cách hiểu và xác đònh lượng từ phải tùy vào tình huống cụ thể ( Tr 107 ). Ông đưa ví
dụ và chứng minh:
(3). Một số học sinh trong lớp chuyên toán này say mê văn học.
(4). Một số nhà toán học mê văn học.
(5). Nhiều học sinh trong lớp chuyên toán này say mê văn học.
(6). Nhiều nhà toán học mê văn học.
Ông đặt ra vấn đề: Giới hạn trên của một số là bao nhiêu và giới hạn dưới của nhiều là bao
nhiêu ? và khẳng đònh rằng: Giới hạn đó sẽ khác nhau tuỳ trường hợp. Chẳng hạn trong câu (3) “
một số < 15”, Trong câu (4) “một số < 40”. Trong câu (5) thì “ nhiều > 15” nhưng ở câu (6) thì “

nhiều > 40”.
Thứ hai, ông chỉ ra rằng: Trên thực tế, còn tồn tại những cách đánh giá khác nhau cho một hiện
tượng mờ (Tr 108). Chẳng hạn: Bằng việc khảo sát mệnh đề “X thì cao” ông đã chứng minh được sự
phân chia chiều cao của con người thành các thang độ như: Cực kì cao - rất cao – cao - khá cao - hơi
cao - trung bình – thấp - rất thấp… hoặc thành hai giá trò cao; thấp hay bằng những chỉ số cụ thể
như 1,58m; 1,65m; 1,70m… là võ đoán. Bởi việc xác đònh tính từ cao cũng chỉ là tương đối (do không
có một đối tượng nào cụ thể).Và kết quả sẽ là khác nhau nếu đối tượng khảo sát thuộc về những
giới tính, độ tuổi, dân tộc… khác nhau. Ông kết luận: “Từ một cái chuẩn chiều cao cho một loại đối
tượng cụ thể nào đó mà dẫn tới sự xác đònh về mức độ rất cao, khá cao, cao, hơi thấp, thấp và rất
thấp cũng cho loại đối tượng đó”. (1999. Tr109)


Nguyễn Đức Dân còn giới thiệu phương pháp đánh giá độ mờ của Zadh, Mc. Cawley, tiến hành
so sánh, đánh giá ưu, nhược của từng phương pháp, chỉ ra giới hạn, tiềm năng của từng phương
pháp trong thực tiễn. (chi tiết xin xem NĐD. 1999. Tr 110-113 ).
Bàn về phạm vi của giá trò chân lý trong lô gích mờ ông đưa ra một kết luận quan trọng là: “giá
trò chân lý của một phán đoán tuy khó có thể xác đònh chính xác bằng một tỷ lệ cụ thể nhưng hoàn
toàn có thể xác đònh trong một phạm vi nào đó. (Tr.115) Chẳng hạn:
(7). Trên một số phương diện, Nha Trang là một thành phố đẹp.
(8). Trên hầu hết các phương diện, Đà Lạt là một thành phố đẹp.
(9). Đà Lạt là một thành phố đẹp.
(10). Paris là một thành phố đẹp.
Các câu (7, 8 ) cho thấy: Để đánh giá một thành phố đẹp, người ta có nhiều tiêu chí khác nhau.
Và do vậy, các câu (9 ;10) cần được hiểu là không phải về tất cả các tiêu chí cho một thành phố
đẹp thì Đà Lạt và Paris đều có. Những câu (9,10) thật ra là những phán đoán về loại còn các câu
(7, 8) là những phán đoán về phạm vi.
Như vậy là với công trình (1999), Nguyễn Đức Dân cũng đã trở thành một nhà nghiên cứu có
đóng góp rất lớn về lý thuyết lô gích mờ ở Việt Nam.
Hồ Lê là nhà nghiên cứu ngôn ngữ học thứ ba ở Việt Nam đề cập tới vấn đề lô gích mờ qua hai
công trình:

 Cú pháp tiếng Việt quyển III, cú pháp tình huống.1993.
 Quy luật ngôn ngữ. Quyển 2. Tính quy luật của cơ chế ngôn giao. 1996.
Một trong những nội dung trọng tâm của công trình (1993) là vấn đề: khả năng chứa lô gích mờ
trong phát ngôn. Trong tổng số VI chương của công trình, ông đã dành một phần của chương VI để
bàn về vấn đề lô gích mờ trong phát ngôn . Các vấn đề được đặt ra và giải thuyết trong chương VI
của công trình này là: Phạm vi của các tập hợp mờ; Vai trò của các tập hợp mờ trong phát ngôn;
Mối liên hệ giữa việc sử dụng lô gích mờ với tính lột tả và tính hàm súc trong phát ngôn.
Về vấn đề phạm vi của các tập hợp mờ, ông đã chỉ ra và chứng minh rất thuyết phục rằng:
Danh từ, số từ, tính từ, động từ, đại từ, tình thái từ… đều ẩn chứa tiềm năng tạo ra tập hợp mờ bên
cạnh những tập hợp tỏ.


Về vai trò của tập hợp mờ trong phát ngôn ông cũng chỉ ra rằng: trong loại phát ngôn phi nhận
thức như (Tâm ơi !; Đau quá !…) thì sự tồn tại/ không tồn tại tập hợp mờ không có liên quan gì đến
tính tương thích/ bất tương thích của phát ngôn. Trái lại, trong loại phát ngôn nhận thức như (Có lẽ
nó muốn thi vào đại học kiến trúc…) thì sự tồn tại/ không tồn tại tập hợp mờ biểu thò một nhận thức
có tính tng thích hay bất tương thích về những điều mà người phát ngôn phản ánh, và công chúng
có quyền xét về tính tương thích/ bất tương thích ấy. Tương thích, bất tương thích trong phát ngôn
được ông hiểu là: Sự phù hợp/ không phù hợp của phát ngôn với ngữ huống; sự phù hợp/ không phù
hợp với hiện tượng được phản ánh (hiện tượng mờ; hiện tượng tỏ, hay vừa mờ vừa tỏ).
Theo Hồ Lê, việc sử dụng lô gích mờ có liên quan ở một mức độ nào đó đến tính lột tả và tính
hàm súc của phát ngôn.
Qua việc tìm hiểu lòch sử nghiên cứu vấn đề lô gích mờ, chúng ta có thể rút ra được một số
nhận xét sau:
Thứ nhất, lô gích mờ là một phổ niệm ngôn ngữ, đã được tiến hành tìm hiểu từ những thập niên
đầu của thế kỷ XX trên nhiều cứ liệu ngôn ngữ thuộc những loại hình khác nhau trong đó có tiếng
Việt.
Thứ hai, ở những mức độ và góc độ khác nhau, vấn đề đã được nhận diện, khảo sát, miêu tả,
phân loại và ứng dụng vào việc lý giải ngôn ngữ tự nhiên, ngôn ngữ trong văn bản. Vấn đề lô gích
mờ còn được ứng dụng vào công tác biên soạn từ điển, ngôn ngữ máy, dạy và học tiếng…

Thứ ba, cách hiểu về lô gích mờ của họ về cơ bản là giống với đònh nghóa về lô gích mờ trong
từ điển của Asher: Fuzzy logic: “A system of thought involving approximate reasoning in which truth
values and quantifiers are seen as possibility distributions difined, eg., as ‘true’, ‘very true’, ‘many’,
‘not many’, etc.” ( Asher R. [ed] 1994. The Encyclopedia of Language and Linguistics. Oxford:
Pergamon Press, tr. 5125, Volume 10).
Tạm dòch: Lô gích mờ là một hệ thống ý tưởng (suy nghó) liên quan đến sự lập luận gần đúng
trong đó các chân giá trò và số lượng được xem xét như là sự phân bố các khả năng có tính xác đònh
như ‘đúng’, ‘rất đúng’, ‘nhiều’, ‘không nhiều’”…


Thứ tư, vấn đề này còn phải tiếp tục được đầu tư nghiên cứu, hoàn chỉnh hệ thống thuật ngữ,
phương pháp… Mặt khác, cần tiếp tục khảo sát thêm trên các cứ liệu ngôn ngữ mới, dưới nhiều góc
độ khác nhau, trong đó có ngôn ngữ nghệ thuật.
3. MỤC ĐÍCH CỦA LUẬN VĂN.
Ngoài kỳ vọng kế thừa kết quả nghiên cứu của những nhà ngôn ngữ học đi trước, luận văn còn
nhằm vào những mục đích sau:
- Xác đònh ranh giới giữa lô gích mờ trong hiện thực và lô gích mờ trong tư duy.
- Xác đònh sự khác biệt giữa lô gích mờ trong tư duy khoa học, tư duy hành chính và tư duy
nghệ thuật.
- Tư duy nghệ thuật rất đa dạng, gồm có những loại như: Tư duy hội hoạ, tư duy âm nhạc, tư
duy sân khấu, tư duy vũ đạo… và tư duy văn học. Tư duy văn học lại phân ra hai loại chính là tư duy
trong truyện và tư duy trong thơ. Mục đích của luận văn là xác đònh bản chất của lô gích mờ trong
tư duy truyện.
Tiếp đó, phải tìm ra những kiểu lô gích mờ trong truyện, tập trung vào các kiểu lô gích mờ
trong tác phẩm của Nam Cao.
- Cuối cùng, phải đưa ra những nhận đònh về tác dụng nghệ thuật và ý nghóa văn hoá của
những kiểu lô gích mờ trong truyện, lấy tác phẩm của Nam Cao làm điểm tựa để phân tích. Qua đó
có thể liên hệ đến thực tiễn giảng dạy văn học lâu nay, phát hiện những điểm thiếu sót trong giảng
dạy vì chưa nhận thức rõ và khai thác đúng những điểm tế nhò mang tính văn hoá- nhân văn trong
lô gích mờ của văn học.

4. PHẠM VI VÀ NGUỒN NGỮ LIỆU CỦA LUẬN VĂN.
Như trên đã nói, luận văn sẽ tập trung phân tích lô gích mờ trong tác phẩm của Nam Cao. Vì
vậy, phạm vi của luận văn cũng sẽ là tất cả những trường hợp chứa lô gích mờ trong những tác
phẩm ấy. Tuy nhiên, với một dung lượng tác phẩm khá đồ sộ (trên năm chục tác phẩm với cả ngàn
trang sách) nên để có thể bao quát được toàn bộ lô gích mờ trong một khối ngữ liệu đồ sộ như vậy,
luận văn sẽ đi vào điểm rồi tiếp đó mới tỏa ra diện. Điểm mà chúng tôi chọn là truyện “Chí Phèo”.
Đây là một trong những truyện được nhắc đến nhiều trong những năm qua, phổ biến rộng, có số
trang vừa phải (38 trang), không quá ngắn như truyện “Nghèo” chỉ có 06 trang, không quá dài như


“Sống mòn” tới 250 trang. Từ cái điểm ấy, luận văn sẽ có cơ sở để rà soát các trường hợp khác có
chứa lô gích mờ trong những tác phẩm khác của Nam Cao.
Nguồn ngữ liệu mà luận văn sử dụng là “Tuyển tập Nam Cao, tập I, II, Nxb văn học, 2002”.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
Về phương pháp nghiên cứu, chúng tôi chủ yếu sử dụng những phương pháp sau:
 Phương pháp phân tích và miêu tả đồng đại.
 Phương pháp so sánh đối chiếu.
 Phương pháp điều tra thống kê.
6. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA LUẬN VĂN.
6.1 Ý nghóa khoa học.
Qua việc thực hiện luận văn, chúng tôi hy vọng sẽ tìm ra các loại lô gích mờ trong hiện thực
cũng như trong tư duy, và nhất là sẽ xác đònh được các kiểu lô gích mờ trong tư duy văn học mà tiêu
biểu là trong tác phẩm của Nam Cao.
6.2 Ý nghóa thực tiễn .
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần phục vụ cho công tác biên soạn giáo trình lý luận
văn học, phương pháp phân tích tác phẩm văn chương, dạy và học tiếng Việt. Nó cũng có thể góp
phần mở rộng biên độ nghóa và đònh nghóa trong từ điển phổ thông, nhất là từ điển phổ thông loại
lớn.
7. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn còn có các chương sau:

Chương I: Lô gích mờ trong các loại văn bản.
Chương II: Lô gích mờ trong truyện ngắn Chí Phèo của nhà văn Nam Cao.
Chương III: Tổng quan về những kiểu lô gích mờ trong tác phẩm của nhà văn Nam Cao
Chương IV: Ý nghóa văn hoá trong việc sử dụng các kiểu lô gích mờ của nhà văn Nam Cao.
Luận văn còn gồm các bảng phụ lục sau:
 Phụ lục 1: Văn bản tác phẩm “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chủ Tòch.
 Phụ lục 2: Văn bản bài báo “Chủ nghóa tư bản thân hữu” của Nguyễn Só Dũng, báo pháp
luật Tp HCM 13/ 11/ 2003.


 Phụ lục 3: Danh mục các tác phẩm của Nam Cao phục vụ cho công tác
luận văn.
 Phụ lục 4: Một số đồ thò trong công trình (2003) của Hoàng Phê.

nghiên cứu của


CHƯƠNG I

LÔ GÍCH MỜ TRONG CÁC LOẠI VĂN BẢN
1. Lô gích mờ trong hiện thực và trong tư duy
Nhìn lại lòch sử của nhân loại ta thấy: Nhu cầu nhận thức và lý giải hiện thực khách quan
(HTKQ) là một vấn đề có tính lòch sử (từ ngây thơ, thuần phác tới tónh tại rồi biện chứng). Và tương
ứng với từng giai đoạn đó là các hình thức: Phi lô gích, lô gích hình thức lưỡng trò (Aristote), lô gích
đa trò (J.Lu kasiewicz…), lô gích mờ (A.Zadeh…), lô gích biện chứng (Marx, Engels, Lenin). Sự phát
triển đi lên về phương pháp nhận thức và tư duy nói trên thể hiện sự tiến bộ của loài người đồng
thời cũng thể hiện tính hai mặt của HTKQ: Vừa tónh tại vừa biến chuyển không ngừng. Cho nên, để
nhận thức sự vật chính xác, có hiệu quả chúng ta vừa phải tạm thời cô lập nó vừa phải nhận thức nó
trong quá trình phát triển với mối quan hệ phức tạp vốn có của nó. Và như vậy, tư duy của con
người không những phải sử dụng tới phán đoán, khái niệm, suy luận… mà còn phải hết sức linh

hoạt. Thực tiễn đã chứng thực rằng: Chỉ có kiểu tư duy linh hoạt mới có thể nắm bắt sự vật trong
tính toàn vẹn, vận động cùng với những mối quan hệ của nó. Lô gích mờ (fuzzy logic) ra đời, cùng
với lô gích biện chứng chính là những phương pháp tư duy linh hoạt nhằm bổ khuyết cho lô gích
hình thức, là một trong những điều kiện cần để nhận thức HTKQ.
Ra đời từ lô gích ba trò của J.Lu kasiewicz (1920), E.L. Post (1921), B.So. Bocinski (1933), J. S.
Lupecki (1938)… Lô gích mờ còn có nguồn gốc từ hệ thống lô gích bốn trò của Benap (1977). Người
có công lớn trong việc xây dựng lý thuyết lô gích mờ là nhà toán học người Mỹ Lotfi A. Sker.
Zadeh… (xin xem lại phần mở đầu). Theo nội dung của lý thuyết này thì mối quan hệ, ranh giới
giữa những sự vật, khái niệm… trong HTKQ là không hoàn toàn rõ ràng, vừa mờ vừa tỏ, chẳng hạn:
Trong một lớp học có 30 học sinh. Có học sinh nữ, có học sinh nam. Có học sinh giỏi, khá, trung
bình, kém. Học sinh nữ, chẳng hạn, làm thành một tập hợp, học sinh khá cũng làm thành một tập
hợp. Bất cứ học sinh nào cũng hoặc là nữ (là một phần tử của học sinh nữ), hoặc không phải là nữ
(ở ngoài tập hợp này), cho nên tập hợp học sinh nữ có bao nhiêu người là một số hoàn toàn xác
đònh (chẳng hạn là 16). Nhưng không phải bất cứ học sinh nào cũng hoặc là khá (là một phần tử
của tập hợp học sinh khá), hoặc là không khá (ở ngoài tập hợp này), mà có một số có thể cho là


khá cũng được, mà cho là giỏi, chứ không phải chỉ là khá cũng được. Và cũng có một số cho là khá
cũng được, mà cho là trung bình, chứ chưa là khá cũng được. Tập hợp học sinh khá có bao nhiêu
người là một con số không thể xác đònh dứt khoát. Nó là một tập hợp con mờ trong tập hợp các học
sinh của lớp.
Tương tự như vậy, ranh giới giữa các khái niệm như Đẹp, xấu; Sướng, khổ; Nhiều, ít… trong thực
tiễn cũng được xác đònh một cách mờ, tuỳ thuộc rất nhiều điều kiện, hoàn cảnh khác nhau.
Điều này dẫn tới một hệ quả quan trọng là: Tư duy, muốn phản ánh đúng và trung thực nội hàm
và ngoại diên của những khái niệm trên thì phải xác đònh một cách mờ và có mờ mới đúng. Và như
vậy là: Tư duy, với đặc điểm mờ có cơ sở khách quan là từ HTKQ mờ và tính lô gích - mờ là một
đặc trưng của tư duy nhân loại và không có cách khái quát nào sâu sắc bằng cách khái quát mờ.
Văn bản là sản phẩm của tư duy con người, là kết quả của quá trình nhận thức có tính chủ quan của
con người về HTKQ, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng nên về mặt lý luận nó phải hàm chứa lô
gích mờ. Lẽ đương nhiên, tùy vào từng loại văn bản, tùy vào tầm khái quát của người tạo văn bản,

tùy vào đối tượng, mục đích, nội dung, hoàn cảnh, loại hình ngôn ngữ… mà mức độ đậm, nhạt có
khác nhau, hình thức ngôn từ có khác nhau. Những mục tiếp theo của chương này chúng tôi sẽ cố
gắng làm sáng tỏ phần nào những nhận đònh trên.
2. Tổng luận chung về văn bản.
Trong thực tế, có khá nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm văn bản, đặc trưng của văn
bản, tiêu chí phân loại văn bản… (xin xem Diệp Quang Ban 1999; Trần Ngọc Thêm 2000…). Sau
đây là quan niệm của chúng tôi về những vấn đề trên:
Văn bản (text) là chỉnh thể của một sản phẩm viết để diễn đạt trọn vẹn ý kiến về một vấn đề
hoặc về một hệ thống vấn đề nào đó.
Về đặc trưng của văn bản, chúng tôi đồng ý với những đặc trưng do Diệp Quang Ban đưa ra
trong công trình (1999) nhưng có bổ sung thêm một đặc trưng là có tính mờ (về cơ sở lý luận của
đặc trưng này xin xem mục 1 của chương I).Và như vậy văn bản sẽ gồm những đặc trưng sau:
(1) Có đích hay chủ đònh của người nói.
(2) Có đề tài, chủ đề xác đònh.
(3) Có tính mạch lạc và liên kết.


(4) Gồm nhiều câu và phát ngôn nối tiếp.
(5) Có tính đònh biên.
(6) Có tính mờ trong nhiều trường hợp. (đặc trưng do chúng tôi bổ sung ).
Về phân loại văn bản, chúng tôi nhất trí với quan niệm phân chia văn bản thành 5 loại sau:
(1)

Văn bản chính luận.

(2)

Văn bản hành chính công vụ.

(3)


Văn bản khoa học.

(4)

Văn bản nghệ thuật.

(5)

Văn bản báo chí thông tin.

Để làm rõ điểm phổ quát của lô gích mờ trong các loại văn bản, đồng thời chỉ ra mức độ, những
điểm riêng khác trong việc sử dụng lô gích mờ của từng loại văn bản chúng tôi thấy cần thiết phải
tiến hành khảo sát việc sử dụng lô gích mờ trong một số văn bản thuộc những thể loại văn bản nói
trên. Tuy nhiên, mục đích của chúng tôi trong chương một này không nhằm khảo sát kó lưỡng tất cả
các biểu hiện của lô gích mờ trong từng loại văn bản cũng như thống kê đầy đủ tất cả các kiểu
dạng trong từng loại văn bản trong các phong cách ngôn ngữ khác nhau vì đó là công việc vượt ra
khỏi giới hạn của luận văn cũng như năng lực của bản thân, cần đến thời gian, sức lực và trí tuệ của
nhiều người. Trong luận văn này, chúng tôi chỉ đặt ra mục đích chứng minh sự tồn tại/ không tồn tại
của lô gích mờ trong các dạng văn bản, trong các phong cách ngôn ngữ khác nhau. Bước đầu chỉ ra
một vài biểu hiện của chúng trong các dạng văn bản, trong các phong cách ngôn ngữ ấy. Bởi vậy,
ngữ liệu mà chúng tôi khảo sát chắc chắn sẽ không đầy đủ mà có tính giới hạn trong một số văn
bản thuộc những phong cách ngôn ngữ khác nhau, thuộc những phân ngành của những chuyên
ngành giống hoặc khác nhau.
3. Một số biểu hiện của lô gích mờ trong văn bản khoa học
Văn bản khoa học (VBKH) là một kiểu văn bản dùng cho các mục đích diễn đạt chuyên môn
sâu. Nó có những đặc điểm nổi bật sau đây:
- Dùng nhiều thuật ngữ khoa học, có sự khái quát cao.
- Các phát ngôn hàm chứa nhiều lập luận khoa học, thể hiện chất lượng tư duy cao.



- Câu điều kiện -hệ quả và câu ghép được sử dụng nhiều, có sự liên hệ giữa các vế trong câu
và giữa các phát ngôn với nhau, thể hiện những luận cứ khoa học chặt chẽ. Vì vậy, độ dư thừa trong
các phát ngôn nói chung là ít nhất so với độ dư thừa trong các dạng văn bản khác.
VBKH gồm có hai cấp độ:
- Cấp độ phổ thông. Chẳng hạn như SGK phổ thông, sách phổ biến kiến thức các loại…
- Cấp độ chuyên sâu. Chẳng hạn như những công trình nghiên cứu khoa học chuyên ngành,
luận văn thạc só, tiến só… Theo chúng tôi, đây là những văn bản điển hình nhất cho dạng VBKH cần
được khảo sát để phát hiện việc sử dụng lô gích mờ trong diễn đạt, truyền tải thông tin khoa học.
Thế nhưng, do giới hạn về dung lượng, chúng tôi chỉ tiến hành chọn ngẫu nhiên một số vấn đề cơ
bản hay một số đoạn, chương, mục trong một số công trình khoa học xã hội (ngôn ngữ học) làm đối
tượng để khảo sát – một lónh vực đang có sự xâm nhập mạnh mẽ của nhiều ngành khoa học khác.
Trong khi lựa chọn chúng tôi cố gắng tuyển lựa những công trình, những chuyên luận có uy tín, có
tiếng vang trong giới nghiên cứu Việt ngữ học, có giá trò khoa học cao, tầm khái quát lớn.
Kết quả xử lý của chúng tôi cho thấy: Trong văn bản khoa học cũng tìm thấy nhiều biểu hiện
của lô gích mờ như lô gích mờ đònh danh, lô gích mờ khái quát… Chẳng hạn:
Ở lónh vực ngữ pháp (syntactics), Lónh vực thường được coi là lónh vực của những thao tác có
tính hình thức thì những biểu hiện của lô gích mờ cũng là thường gặp, thường thấy. Ví dụ như trong
việc đònh danh đơn vò cơ bản, nhỏ nhất, có nghóa, đơn vò cấu tạo từ chung cho cả từ vựng lẫn ngữ
pháp là: Hình vò (Xonlxhev), ngữ vò (Nguyễn Kim Thản), nguyên vò (Hồ Lê), từ (Cao Xuân Hạo)… Ở
việc đònh danh đơn vò cú pháp tương đương từ (phức tạp về cấu trúc hơn từ) là nhóm từ, từ tổ, cụm
từ, ngữ … Ở việc đònh danh đơn vò ở cấp chuyển tiếp là cú (Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê),
mệnh đề (Trần Trọng Kim), từ tổ tường thuật, cụm từ chủ vò (Nguyễn Kim Thản), ngữ đoạn thuyết
tính chưa kết thúc ở cấp độ chuyển tiếp từ ngữ sang câu (Lưu Vân Lăng), tiểu cú (Cao Xuân Hạo)….
Ở lónh vực ngữ nghóa học (Semantisc) những biểu hiện của lô gích mờ đònh danh thể hiện ở việc
cấp cho những khái niệm cơ bản liên quan đến nghóa của từ, của câu… những nội hàm, ngoại diên
khác nhau. Chẳng hạn như khái niệm tình thái (modality)… (chi tiết về vấn đề này xin xem chương
III).



Ở lónh vực dụng pháp (Pragmatics) – lónh vực của việc sử dụng ngôn từ trong những tình huống
cụ thể, với những mục đích cụ thể thì những biểu hiện của lô gích mờ cũng thể hiện qua việc đònh
danh và hiểu những khái niệm liên quan đến lónh vực này như: Cấu trúc đề thuyết của câu, Cấu
trúc thông báo, Các hiện tượng tiêu điểm hóa, Các giá trò ngôn trung… Có lẽ chính vì vậy cho nên
trước khi khảo sát đối tượng của một công trình nghiên cứu khoa học, các nhà nghiên cứu thường
phải đònh nghóa khái niệm hay nêu ra cách hiểu và quan điểm của mình về khái niệm đó.
Ngoài những biểu hiện của lô gích mờ đònh danh, trong văn bản khoa học lô gích mờ còn được
biểu hiện rất rõ qua những lập luận, diễn đạt, đúc kết của nhà khoa học. Chẳng hạn: Song song với
việc khái quát tính phổ biến của một hiện tượng hay khi đưa ra một quy tắc, các nhà nghiên cứu
đều cẩn thận nêu lên các “lệ ngoại”. Và họ thường sử dụng các từ và cụm từ như: thông thường, có
thể, nhiều khi, thường là, có lẽ là, hầu như… Đây là một phương pháp khái quát mềm dẻo, linh hoạt
vì trong khoa học xã hội không phải lúc nào cũng có thể đưa ra được những con số tuyệt đối chính
xác, không bao gồm các trường hợp ngoại lệ. Chẳng hạn, Nguyễn Tài Cẩn khi bàn về phạm trù
thiết đònh trong công trình chuyên khảo “Từ loại danh từ trong tiếng Việt hiện đại”, 1975, chương
IV, Tr 278 đã khái quát về hai từ các, những như sau:
“… Thông thường (những + danh từ) là một dạng đòi hỏi đònh ngữ ở sau (…) những trường hợp
này, nhiều khi chúng ta có thể thay “các” bằng “những”; sau “các” thì đònh ngữ có tác dụng bổ
sung, tác dụng miêu tả, do đó thường có thể lược bỏ…”
(Những chỗ in đậm và gạch chân là do chúng tôi nhấn mạnh)
Cao Xuân Hạo, khi bàn về nghóa biểu hiện của câu trong phần dẫn luận của công trình “ Tiếng
Việt- sơ thảo ngữ pháp chức năng, Q1”; 1991; Tr 49 cũng chọn cách khái quát như đã nói ở trên:
“… Trong khuôn khổ của phần trình bày không cho phép chúng tôi giới thiệu dài hơn về quan
điểm của Halliday cũng như của các tác giả trước về bình diện nghóa biểu hiện của câu, mặc dầu
đó là lónh vực dễ tìm thấy sự tương đồng về cơ bản (…) Dù ngữ pháp của các ngôn ngữ có phân biệt
các phạm trù, các chức năng, các sắc độ tình thái một cách khác nhau đến đâu thì cách cảm thụ
những sự tình của thế giới hiện thực vẫn như nhau và do đó, cái được biểu hiện phải giống nhau.
Nếu không, không thể nào có được việc dòch thuật từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, nếu không


kể những sự nhầm lẫn (…) dòch chỉ có thể là phản ở những bình diện nào kia, chứ riêng ở bình diện

biểu hiện thì sự tương ứng thường là hoàn toàn.”
(Những chỗ in đậm và gạch chân là do chúng tôi nhấn mạnh)
Có thể nói rằng, mờ về đònh danh và mờ về khái quát vừa là một trong những biểu hiện của lô
gích mờ trong văn bản khoa học vừa là một trong những biểu hiện của lối tư duy khoa học: Vừa cụ
thể, rõ ràng, khách quan trong chứng minh vừa trừu tượng, khái quát trong kết luận về bản chất của
sự vật hiện tượng hay khi chỉ ra quy luật, xu hướng phát triển của sự vật hiện tượng trong HTKQ,
làm nên điểm khác biệt với các dạng văn bản khác.
4. Một số biểu hiện của lô gích mờ trong văn bản báo chí thông tin
Văn bản báo chí thông tin là kiểu diễn đạt trong các bài đưa tin, các mẩu quảng cáo, tiếp thò
hay các bài phỏng vấn, phóng sự và bình luận tin tức thời sự về các lónh vực của đời sống xã hội.
Văn bản báo chí thông tin có một số những đặc trưng sau đây:
 Thường tuân theo những khuôn mẫu văn bản và công thức hành văn nhất đònh cho nội dung
của mỗi bài tin. Thường gồm các yếu tố sau:
(1) Thời gian (2) Đòa điểm (3) Nhân vật/ Sự kiện (4) Diễn biến (5) nguyên nhân (6) Bình luận…
Từ ngữ trong những loại bài đưa tin phần lớn là lớp từ ngữ chuyên dùng trong các hoạt động
của bộ máy nhà nước, các đoàn thể xã hội. Trong đó:
Từ ngữ trong các mẫu quảng cáo thường là tên các hàng hóa (các từ chỉ đòa danh, các từ chỉ
phẩm chất…)
Từ ngữ trong các bài phỏng vấn, phóng sự thường là những từ ngữ chuyên dùng trong lónh vực
được tiến hành phỏng vấn hoặc làm phóng sự. Từ ngữ trong những bài bình luận thời sự thì thiên về
lónh vực thời sự.
 Cấu trúc cú pháp thường lặp lại một số kiểu nhất đònh. Trong đó: Quảng cáo thường sử dụng
câu đơn, các bài đưa tin thường sử dụng nhiều câu đơn hoặc câu đơn có kết cấu phức tạp. Bài phỏng
vấn, phóng sự thì tùy lónh vực, tùy nội dung vấn đề mà nó đi sâu mà sử dụng cấu trúc cú pháp giản
đơn hoặc phức tạp. Bài bình luận thời sự thì dùng nhiều câu đề ứng và câu điều kiện - hệ quả.


Nhìn chung, văn bản báo chí thường hướng tới đặc điểm ngắn gọn, súc tích, hấp dẫn, kòp thời…
do nó phải đáp ứng thông tin tối ưu trong một diện tích khuôn báo hữu hạn. Kể từ việc đặt tiêu đề
cho một bài đưa tin, phóng sự, bình luận…đến cách miêu thuật, kết thúc chúng.

Kết quả khảo sát bước đầu của chúng tôi cho thấy: Trong văn bản báo chí, có một số biểu
hiện của lô gích mờ sau đây:
4.1 Mờ về nguồn dẫn
Nguồn dẫn là một trong những phương thức chỉ ra, nêu ra hay giới thiệu nguồn tin (nguồn phát
tin). Trong văn bản báo chí, nó được nhận biết qua một số kiểu cấu trúc như:
THEO X + KHUÔN TIN hay TIN TỪ X + KHUÔN TIN…
Trong đó:
 X là nguồn phát tin. Nó thường là một ngữ danh từ hay là một ngữ động từ đã được danh hóa,
rất ít khi X là một từ.
 KHUÔN TIN thường gồm: (1)Thời gian (2) Đòa điểm (3) Nhân vật/ Sự kiện (4) Diễn biến (5)
nguyên nhân (6) Bình luận… Chẳng hạn:
“Theo ước tính của UBDS – GĐ – Trẻ em, năm nay Việt Nam có khoảng 500.000 phụ nữ mang
thai…)
(Báo GD  TĐ. 4/11/2003)
Cấu trúc nguồn dẫn trên thường được sử dụng khi một kí giả hay một tờ báo vay mượn, xử lý lại
thông tin từ một nguồn khác (dẫn gián tiếp). Khi sử dụng kiểu dẫn này thì tờ báo, kí giả thường
không phải chòu trách nhiệm về thông tin được đưa ra. Cấu trúc nguồn dẫn này là một trong những
phương thức thể hiện tính khách quan của thông tin, rất hay được sử dụng trên các phương tiện
thông tin đại chúng.
Khảo sát cấu trúc nguồn dẫn này chúng tôi nhận thấy rằng: Bên cạnh chức năng dẫn tin, tỏ
hóa thông tin từ một nguồn X nào đó thì cấu trúc nguồn dẫn này cũng còn dùng để mờ hóa thông
tin từ một nguồn phát nào đó . Đặc biệt là trong những trường hợp “tế nhò” như để “bảo vệ” nguồn
dẫn hay trong những trường hợp chưa được công bố chính thức nguồn dẫn tin….
Khi mờ hóa, cấu trúc nguồn dẫn trên thường có dạng:
THEO (một) X + KHUÔN TIN hay TIN TỪ (một) X + KHUÔN TIN…


Chẳng hạn:
”Theo một nguồn tin từ cơ quan công an, khoảng giữa năm 2001, thực trạng xuống cấp của thảo
cầm viên….”

(Bình Dương 5/11)
“ Theo tin từ một cán bộ UBND tỉnh, ngày 1/11 phó giám đốc lâm trường Kông K” dé (huyện
Kông chro, Gia Lai) Ông Đỗ Văn Lợi vừa bò cơ quan điều tra (công an Gia Lai) khởi tố.”
(Lao động 4/11/2003)
Theo chúng tôi, chức năng và khả năng sử dụng linh hoạt của cấu trúc nguồn dẫn trên vừa là
một minh chứng rõ ràng về một trong những đặc điểm của kiểu dẫn tin thường gặp trong một số thể
loại của văn bản báo chí vừa là một dẫn chứng chứng tỏ kinh nghiệm nghề nghiệp, bản lónh, đặc
điểm nghề nghiệp của nghề báo và người làm báo – một nghề rất đặc biệt: Nhiều khi đứng trước
những sự việc tế nhò như: không thể nói thẳng ra, chưa thể nói thẳng ra… mà vẫn cần phải thông tin
đến bạn đọc.
4.2 Mờ về số lượng và tình thái nói chung
Trong một số thể loại của văn bản báo chí, thường cho phép ở một mức độ nào đó việc sử dụng
một số phương thức diễn đạt, suy luận mờ hay gần đúng. Đặc biệt là trong một số thể loại như:
Bình luận tin tức, trả lời – hỏi đáp trong phỏng vấn, phóng sự điều tra… Những suy luận hay những
kiểu diễn đạt như vậy đã góp phần biểu hiện những thông tin “ngầm ẩn” hay những thông tin
“chìm” trong ngôn ngữ báo chí. Một loại thông tin mà nhiều khi còn quan trọng hơn cả những thông
tin “nổi” trên bề mặt, một loại thông tin mà không phải bất cứ người làm báo nào dám làm và làm
nổi. Sau đây chúng tôi xin trích lược một trong những bài viết có đặc điểm như vậy. Bài viết có tựa
đề “Chủ nghóa tư bản thân hữu” Đăng trong mục “Thời sự và suy ngẫm” Báo pháp luật thành phố
Hồ Chí Minh 13/11/2003. Do bài viết có dung lượng tương đối dài nên chúng tôi chỉ tóm tắt cấu
trúc của bài viết, còn nguyên văn bài báo sẽ được đưa vào phụ lục số 02 của luận văn.
Bài viết có cấu trúc ba phần. Trong phần thứ nhất (02 đoạn đầu), tác giả chỉ ra những biểu hiện
của “ chủ nghóa tư bản thân hữu” thông qua các mối liên hệ giữa các doanh nghiệp tư nhân với các
quan chức nhà nước, giữa việc bố mẹ làm chính trò với việc con cái làm kinh tế tư nhân. Trong phần
thứ hai: Đầu tiên, tác giả chỉ ra tác hại ghê gớm của “chủ nghóa tư bản thân hữu” đối với nền kinh


tế của một quốc gia (tác giả đưa ra ví dụ về đất nước Indonesia dưới thời tổng thống Suharto và
nước Nga dưới thời tổng thống Yeltsin). Tiếp đó, là sự liên hệ với tình hình ở đất nước chúng ta.
Phần ba là phần bày tỏ quan điểm của tác giả khi viết về vấn đề này (đánh động) và quan điểm

của nhà nước ta đối với vấn đề “chủ nghóa tư bản thân hữu” trong phát triển kinh tế tư nhân (không
chấp nhận). Sau đây là đoạn văn có đặc điểm mờ về số lượng và tình thái:
“ … Ở Việt Nam ta, bao nhiêu công ty tư nhân đã phất lên nhờ sự đỡ đầu của các quan chức nhà
nước? Có lẽ chưa nhiều. Ít nhất thì chưa đến mức mà dư luận xã hội bò đánh động. Tuy nhiên,
những mối quan hệ thân thiết thì đã bắt đầu hình thành. Và có thể không ít hợp đồng cũng đã được
chuyển cho các công ty tư nhân theo sự thân quen…”.
Trong đoạn văn trên, những từ như: có lẽ, có thể là những từ tình thái mờ về một thế giới các
khả năng. Còn những từ , ngữ như: chưa nhiều, chưa đến mức mà dư luận xã hội bò đánh động,
không ít là những từ, ngữ mờ về số lượng, dẫn tới nhiều cách hiểu khác nhau mà mỗi một cách
hiểu đều đúng trong một giới hạn nào đó.
5. Một số biểu hiện của lô gích mờ trong văn bản chính luận
Văn bản chính luận là kiểu diễn đạt trong những văn bản thuộc lónh vực chính trò – xã hội. Kiểu
diễn đạt này thể hiện ở những thể loại như: Xã luận, các báo cáo chính trò, lời kêu gọi, tuyên ngôn…
Những thể loại này đề cập tới tất cả các mặt của đời sống xã hội như kinh tế, chính trò, ngoại giao,
văn hóa, khoa học, y tế… Kiểu diễn đạt trong những dạng văn bản này có một số đặc điểm trội, làm
nên nét khu biệt với các kiểu diễn đạt trong một số dạng văn bản khác. Cụ thể:
(i) Có tính bình giá công khai.
(ii) Có tính lập luận chặt chẽ.
(iii) Có tính truyền cảm mạnh mẽ.
Nói khác đi là nó thuyết phục người đọc, người nghe bằng cả lý trí tỉnh táo, sáng suốt và tình
cảm nồng nhiệt, chân thành.
Đối tượng tiếp nhận của loại văn bản này rất đa dạng, đặc biệt là đối tượng của những bản
tuyên ngôn, lời kêu gọi. Bởi vậy ngôn ngữ trong những dạng văn bản này thường phải hướng tới
yêu cầu giản dò, rõ ràng, chính xác ngay cả khi diễn đạt những khái niệm trừu tượng, phức tạp.
Trên thực tế, ngôn ngữ trong những dạng văn bản này phần nhiều thuộc về lớp từ toàn dân.



×