Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Đồng âm và đa nghĩa trong tiếng việt (đối chiếu với tiếng việt hiện đại)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 20 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM


LUẬN VĂN TIẾN SỸ
ĐỀ TÀI:
U

U

ĐỒNG ÂM VÀ ĐA NGHĨA
TRONG TIÊNG VIỆT
(ĐỐI CHIẾU VỚI TIẾNG HÁN HIỆN ĐẠI)

Mã số: 62.22.01.01

GVHD
SVTH

: PGS. HỒ LÊ, TS. TRẦN HỒNG
: ĐÀO MẠNH TỒN

TP. HỒ CHÍ MINH - 2011


MỤC LỤC
MỤC LỤC ....................................................................................................................................... 2
0T

T
0



DẪN NHẬP ..................................................................................................................................... 5
0T

T
0

1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI ................................................................... 5
0T

T
0

2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ .............................................................................................................................. 6
0T

0T

3. NHIỆM VỤ CỦA LUẬN ÁN ............................................................................................................ 28
0T

0T

4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ NGUỒN NGỮ LIỆU .............................................................. 28
0T

T
0

5. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN............................................................................................. 30

0T

0T

6. BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN ................................................................................................................. 31
0T

0T

Chương 1 : NHỮNG CƠ SỞ LÍ LUẬN CHUNG ........................................................................... 33
0T

T
0

1.1. TỪ VÀ CẤU TRÚC NGHĨA TỪ .................................................................................................... 33
0T

0T

1.2.HIỆN TƯỢNG CHUYỂN LOẠI CỦA TỪ ................................................................................... 37
0T

T
0

1.3. VAI TRÒ CỦA CHỮ VIẾT TRONG VIỆC NGHIÊN CỨU HIỆN TƯỢNG ĐỒNG ÂM VÀ HIỆN
TƯỢNG ĐA NGHĨA ............................................................................................................................. 38
0T


0T

1.4. KHÁI NIỆM ĐỒNG ÂM, ĐA NGHĨA VÀ TỪ ĐỒNG ÂM ĐA NGHĨA ..................................... 40
0T

T
0

1.5. VỀ DANH XƯNG “TỪ ĐỒNG ÂM VÀ ĐA NGHĨA” .................................................................. 44
0T

T
0

1.6. TIÊU CHÍ XÁC ĐỊNH CÁC ĐƠN VỊ ĐỒNG ÂM, ĐA NGHĨA VÀ TỪ ĐỒNG ÂM ĐA NGHĨA. 44
0T

T
0

1.7. GIỚI HẠN CỦA CÁC ĐƠN VỊ ĐỒNG ÂM, ĐA NGHĨA .............................................................. 46
0T

T
0

1.8. PHÂN LOẠI CÁC ĐƠN VỊ ĐỒNG ÂM, CÁC ĐƠN VỊ ĐA NGHĨA VÀ TỪ ĐỒNG ÂM ĐA
NGHĨA .................................................................................................................................................. 49
0T


T
0

1.9. VỊ TRÍ CỦA TỪ ĐỒNG ÂM CÙNG GỐC TRONG TỔNG THỂ TỪ ĐỒNG ÂM TIẾNG VIỆT ... 54
0T

T
0

1.10. NHẬN DIỆN CÁC ĐƠN VỊ ĐỒNG ÂM, CÁC ĐƠN VỊ ĐA NGHĨA VÀ TỪ ĐỒNG ÂM ĐA
NGHĨA TRONG TỪ ĐIỂN ................................................................................................................... 55
0T

0T

Chương 2 : HIỆN TƯỢNG ĐỒNG ÂM TRONG TIẾNG VIỆT ĐỐI CHIẾU VỚI TIẾNG HÁN
HIỆN ĐẠI ...................................................................................................................................... 58
0T

T
0

2.1. HIỆN TƯỢNG ĐỒNG ÂM TRONG TIẾNG VIỆT ........................................................................ 58
0T

T
0

2.1.1. Tổng quan về hiện tượng đồng âm trong tiếng Việt .................................................................. 58
T

0

T
0

2.1.2. Phân loại hiện tượng đồng âm trong tiếng Việt ......................................................................... 58
T
0

T
0

2.1.2.1. Phân loại hiện tượng đồng âm từ tiêu chí nguồn gốc ......................................................... 58
T
0

T
0

2.1.2.2. Phân loại HTĐÂ từ tiêu chí SLÂT và từ tiêu chí quan hệ ngữ nghĩa ................................. 60
T
0

T
0

2.1.2.3. Phân loại hiện tượng đồng âm từ góc độ các đơn vị ngôn ngữ .......................................... 61
T
0


T
0

2.1.2.5. Những hiện tượng đồng âm khác ...................................................................................... 76
T
0

T
0

2.2. ĐỐI CHIẾU MỘT SỐ HTĐÂ TRONG TIẾNG VIỆT VỚI THHĐ ................................................. 76
0T

T
0

2.2.1. HTĐÂ trong THHĐ nhìn từ tiêu chí SLÂT tham gia cấu tạo .................................................. 77
T
0

T
0

2.2.2. HTĐÂ trong THHĐ nhìn từ tiêu chí hình - âm – nghĩa............................................................. 78
T
0

T
0


2.2.2.1. Hiện tượng đồng âm đồng hình trong THHĐ .................................................................... 78
T
0

T
0

2.2.2.2. Hiện tượng đồng âm dị hình trong THHĐ......................................................................... 86
T
0

T
0

2.3. TIỂU KẾT....................................................................................................................................... 88
0T

T
0


Chương 3 : HIỆN TƯỢNG ĐA NGHĨA TRONG TIẾNG VIỆT ĐỐI CHIẾU VỚI TIẾNG HÁN
HIỆN ĐẠI ...................................................................................................................................... 90
0T

T
0

3.1. HIỆN TƯỢNG ĐA NGHĨA TRONG TIẾNG VIỆT........................................................................ 90
0T


T
0

3.1.1. Tổng quan về hiện tượng đa nghĩa trong tiếng Việt .................................................................. 90
T
0

T
0

3.1.2. Phân loại hiện tượng đa nghĩa trong tiếng Việt ......................................................................... 90
T
0

T
0

3.1.2.1.Hiện tượng đa nghĩa biểu vật ............................................................................................. 91
T
0

0T

3.1.2.2. Hiện tượng đa nghĩa biểu niệm và việc phân loại đa nghĩa biểu niệm ............................... 91
T
0

T
0


3.1.2.3. Hiện tượng đa nghĩa thường gặp ....................................................................................... 94
T
0

T
0

3.1.2.4. Hiện tượng đa nghĩa ít gặp ................................................................................................ 94
T
0

0T

3.1.2.5. Hiện tượng từ đa nghĩa ..................................................................................................... 96
T
0

0T

3.1.2.6. Hiện tượng ngữ đa nghĩa .................................................................................................. 96
T
0

0T

3.2. ĐỐI CHIẾU MỘT SỐ HTĐN TRONG TIẾNG VIỆT VỚI THHĐ ................................................. 97
0T

T

0

3.2.1. Các đơn vị đa nghĩa trong THHĐ ............................................................................................. 97
T
0

0T

3.2.2. Phân loại các đơn vị đa nghĩa trong THHĐ ............................................................................ 102
T
0

T
0

3.2.2.1. Phân loại các ĐVĐN trong THHĐ từ tiêu chí SLÂT tham gia cấu tạo ............................ 103
T
0

T
0

3.2.2.2. Phân loại các ĐVĐN trong THHĐ từ tiêu chí DLN ........................................................ 105
T
0

T
0

3.2.3. Đối chiếu cấu trúc ngữ nghĩa, ngữ dụng của các từ ăn, hoa, hồng, đỏ trong TV với các từ吃1,

T
0

P

P

花 ,红, 赤trong THHĐ.................................................................................................................. 106
1
P

P

0T

3.2.3.1. Cơ sở đối chiếu ............................................................................................................... 106
T
0

0T

3.2.3.2. Đối chiếu cấu trúc ngữ nghĩa, ngữ dụng của từ hoa 1 trong TV với từ 花1 trong THHĐ.... 107
T
0

R

R

P


P

T
0

3.2.3.3. Đối chiếu cấu trúc ngữ nghĩa của các từ hồng, đỏ trong TV với các từ 红, 赤trong THHĐ
................................................................................................................................................... 112
T
0

T
0

3.2.3.4. Đối chiếu cấu trúc ngữ nghĩa, ngữ dụng của từ ăn trong TV với từ 吃1trong THHĐ........ 120
T
0

P

P

T
0

3.3. TIỂU KẾT..................................................................................................................................... 127
0T

T
0


Chương 4 : TỪ ĐỒNG ÂM VÀ ĐA NGHĨA TRONG TIẾNG VIỆT ĐỐI CHIẾU VỚI TIẾNG
HÁN HIỆN ĐẠI .......................................................................................................................... 128
0T

T
0

4.1. VỀ CÁC ĐƠN VỊ ĐỒNG ÂM VÀ ĐA NGHĨA TRONG TỪ ĐIỂN ............................................. 128
0T

T
0

4.2. PHÂN LOẠI CÁC ĐƠN VỊ ĐÂ&ĐN TRONG TIẾNG VIỆT ..................................................... 128
0T

T
0

4.3. ĐẶC ĐIỂM CỦA NHỮNG ĐƠN VỊ ĐÂ&ĐN TRONG KHU VỰC ĐỒNG ÂM KHÁC GỐC NGỮ
NGHĨA ................................................................................................................................................ 128
0T

T
0

4.3.1. Về nguồn gốc ......................................................................................................................... 128
T
0


0T

4.3.2. Về dung lượng nghĩa .............................................................................................................. 131
T
0

0T

4.3.3. Về cấu tạo .............................................................................................................................. 131
T
0

0T

4.3.4. Về quan hệ ngữ nghĩa ............................................................................................................ 131
T
0

0T

4.3.4.1. Mối quan hệ ngữ nghĩa giữa các đơn vị trong loạt đồng âm ............................................ 131
T
0

T
0

4.3.4.2. Mối quan hệ ngữ nghĩa giữa các nghĩa trong một đơn vị ĐÂ&ĐN ................................. 131
T

0

T
0

4.4. ĐẶC ĐIỂM CỦA NHỮNG ĐV ĐÂ&ĐN TRONG KHU VỰC ĐÂCG .......................................... 133
0T

T
0

4.4.1. Về số lượng .......................................................................................................................... 133
T
0

0T


4.4.2. Về cấu tạo .............................................................................................................................. 133
T
0

0T

4.4.3. Về dung lượng nghĩa .............................................................................................................. 136
T
0

0T


4.5. BƯỚC ĐẦU ĐỐI CHIẾU TỪ ĐÂ&ĐN KHÁC GỐC NGHĨA TRONG TIẾNG VIỆT VỚI THHĐ
............................................................................................................................................................ 138
0T

T
0

4.5.1. Về số lượng và nguồn gốc ......................................................................................................... 138
0T

0T

4.5.2. Về dung lượng nghĩa .................................................................................................................. 138
0T

0T

4.5.3. Về chữ viết và cấu tạo ................................................................................................................ 138
0T

0T

4.5.4. Về quan hệ ngữ nghĩa ................................................................................................................. 139
0T

0T

4.6. BƯỚC ĐẦU ĐỐI CHIẾU TỪ ĐÂ&ĐN CÙNG GỐC NGHĨA TRONG TIẾNG VIỆT VỚI THHĐ
............................................................................................................................................................ 140
0T


4.6.1.Những điểm tương đồng ......................................................................................................... 140
T
0

0T

4.6.2. Những điểm khác biệt ............................................................................................................ 142
T
0

0T

4.7. TIỂU KẾT..................................................................................................................................... 143
0T

T
0

KẾT LUẬN .................................................................................................................................. 144
0T

T
0

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................................ 150
0T

0T


T
0


DẪN NHẬP
1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Đồng âm (ĐÂ), đa nghĩa (ĐN) là hiện tượng (HT) có tính phổ quát trong ngôn ngữ, nó bao gồm:
ĐÂ và ĐN trong từ, ĐÂ và ĐN trong ngữ, ĐÂ và ĐN trong câu. Trong đó, ĐÂ và ĐN trong từ là HT
phổ biến nhất. Với tư cách là trung tâm của HTĐÂ và HTĐN, từ ĐÂ và từ ĐN đã được bàn đến từ
khá sớm. Tuy vậy, cho tới nay, HT này vẫn còn nhiều bất đồng trong giới nghiên cứu. Những công
trình khảo sát về từ ĐÂ và từ ĐN cho thấy HT này đã được tiếp cận từ nhiều hướng và mỗi hướng
tiếp cận đều cho ta những phát hiện khác nhau. Ngay trong một hướng tiếp cận thì những đặc điểm,
những khía cạnh liên quan đến từ ĐÂ và từ ĐN cũng được nhìn nhận không hoàn toàn giống nhau
giữa các tác giả.
Trong giới Việt ngữ học, rất nhiều nhà nghiên cứu dựa trên các quan niệm, đường hướng tiếp cận và mức độ
khác nhau đã bàn về từ ĐÂ và từ ĐN. Một số tác giả đã cố gắng xác định các tiêu chí nhận diện từ ĐÂ, từ ĐN, đề
xuất các hướng miêu tả, phân loại chúng. Một số tác giả còn trình bày số liệu về các đơn vị (ĐV) ĐÂ và ĐN của họ.
Tuy nhiên, chưa có tác giả nào lấy từ ĐÂ, từ ĐN và từ vừa ĐÂ vừa ĐN làm đối tượng nghiên cứu chính của mình,
đặc biệt là họ chưa xác lập được sự đối lập cơ bản giữa từ ĐÂCG nghĩa (từ ĐÂCG) với những từ ĐÂKG nghĩa
(ĐÂngẫu nhiên). Đây là điểm mà luận án (LA) sẽ đề cập tới.
Vấn đề từ ĐN cũng còn nhiều chỗ phải đề cập tới như: xác định rõ các loại từ ĐN, sự khác biệt
giữa ĐN của một từ ĐN thông thường (giữa các nghĩa thường có quan hệ phái sinh) với ĐN giữa các từ
ĐÂ (không có quan hệ phái sinh, thường chỉ có liên hệ về nghĩa). Từ những lí do này, chúng tôi xác
định: đối tượng nghiên cứu chính của LA là từ ĐÂ, từ ĐN; từ ĐÂ và ĐN trong TV. Đồng thời, sẽ đối
chiếu nó với vấn đề tương ứng trong tiếng Hán, một ngôn ngữ gần gũi về loại hình, nhằm tìm ra những
chỗ đồng nhất và khác biệt trong 2 ngôn ngữ. Đây là những lí do để chúng chọn đề tài: Đồng âm và đa
nghĩa trong tiếng Việt (đối chiếu với tiếng Hán hiện đại).
Như trên đã nói, LA không dừng lại ở sự nghiên cứu từ ĐÂ và từ ĐN nói chung mà sẽ còn tập
trung nghiên cứu từ ĐÂ và ĐN trong loại từ ĐÂCG và ĐÂKG của TV. Nghiên cứu những đối
tượng này, chúng ta một mặt sẽ làm rõ được đặc điểm của từ ĐÂ, từ ĐN trong TV, mặt khác cũng

làm rõ được vị trí, vai trò và đặc điểm của từ ĐÂCG, từ vừa ĐÂ vừa ĐN trong khu vực ĐÂCG và
ĐÂKG của TV. Từ đó làm rõ được những đồng nhất và khác biệt cũng như thấy được những điểm
giao thoa giữa hai HT này. LA cũng sẽ đối chiếu từ ĐÂ, từ ĐN, từ ĐÂ và ĐN trong TV với từ ĐÂ, từ
ĐN, từ ĐÂ và ĐN trong THHĐ để tìm ra những điểm tương đồng và dị biệt trong hai ngôn ngữ.


2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
2.1 Ở Việt Nam, trước 1945, HTĐÂ, ĐN của TV đã gián tiếp được đề cập tới trong một số tự vị
do chính người Việt Nam biên soạn nhằm chuẩn hóa chính tả, chữ viết (chữ quốc ngữ) nhưng chưa
được soi rọi dưới góc độ lí luận. Chẳng hạn:
Năm 1895, có Đại Nam quấc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của [13 ]. Đây là cuốn tự điển tường giải
đầu tiên do người Việt biên soạn, là nguồn tài liệu quý về từ vựng ngữ nghĩa TV những năm cuối thế kỉ
XIX. Theo Lê Quang Thiêm [131, tr.50-52] thì: “Trong một mức độ nhất định, tác giả Đại Nam quấc
âm tự vị đã phân biệt được các đề mục ĐÂ (Lê Quang Thiêm gọi là ĐÂ ngữ nghĩa). Khảo sát công trình
này chúng tôi còn nhận thấy: tác giả công trình còn bỏ sót nhiều ĐVĐÂ được tạo ra từ quá trình phân li
ngữ nghĩa như trường hợp của các ĐV bạc, đài…
Năm 1925, ở Sài Gòn, Nguyễn Văn Mai [91] là người đầu tiên đề cập tới HTĐÂ của TV với
việc xuất bản ĐÂ tự vị. Công trình này thu thập “những chữ khó viết hoặc những chữ ĐÂ cùng
những chữ không nhằm ĐÂ mà phải viết dấu hỏi hay dấu ngã, hoặc viết d hay g ở trước, c hay là t,
có g hay là không có g ở sau”. Khảo sát công trình này chúng tôi thấy: cấu tạo của ĐÂ tự vị gồm hai
phần (1) phần thu thập những “chữ” ĐÂ với SL lên tới 1779 ĐV, (2) Phần phụ thêm thu thập những
ĐV mà theo tác giả là sẽ có vấn đề về chính tả, những ĐV gốc Ấn Âu không được thu thập và giải
thích trong công trình này. Mặc dù tác giả không hiển ngôn thế nào là ĐÂ song qua cách giải thích,
sắp xếp của tác giả, ta vẫn có thể thấy được. Đó là những ĐV có âm đọc giống nhau, có nghĩa khác
nhau và là những ĐV đơn tiết. Do hạn chế về thời đại nên ĐÂ tự vị của Nguyễn Văn Mai mới chỉ
thống kê được một SL rất nhỏ các ĐVĐÂ của TV, chưa xử lí thỏa đáng các vấn đề của HTĐÂ
trong TV, ngữ liệu mới chỉ dừng lại trong ngôn ngữ sinh hoạt và trong văn ngôn tiếng Hán song
bước đầu cũng đã gợi mở ra một số vấn đề lí luận liên quan đến HTĐÂ của TV như: HTĐÂ giữa từ
thuần Việt với từ gốc Hán, giữa từ địa phương với từ toàn dân, vấn đề các ĐVĐÂ đơn tiết.… Đó là
những đóng góp không thể phủ nhận.

Năm 1931, có thêm sự góp mặt của Việt Nam tự điển [63]. So với Đại Nam quấc âm tự vị của
Huỳnh Tịnh Của, Việt Nam tự điển đã chú trọng tới việc phân biệt các ĐVĐÂ và các ĐVĐN, các
ĐVĐÂ đều được phân tách và giải thích khá rõ ràng. Nếu là ĐÂ Hán Việt thì còn dẫn cả chữ Hán
để phân biệt. Nghĩa của các ĐVĐN được phân biệt bằng kí số Ả Rập 1, 2, 3…, sau mỗi nghĩa đều
có ví dụ minh họa. Các ĐV ĐÂCG được xếp liền nhau và phân biệt với nhau bằng kí số La Mã. Sau
cùng là việc liệt kê những kết hợp có chứa mục từ đó. Chẳng hạn, loạt ĐÂ có âm đọc là A được giải
thích và sắp xếp như sau:
A.

I. Đồ làm ruộng để cắt rạ ở ruộng chiêm, Nam-Kỳ gọi là cái trang, cái gạc: Rèn một lưỡi a

bằng ba lưỡi hái. Cắt rạ thì dùng bằng a, quét nhà thì dùng bằng chổi.
II. Cắt rạ bằng cái a: Ruộng đã gặt rồi cầm cái a đi a rạ. (…)


Việt Nam tự điển đã phân biệt rõ từ ĐÂ và hình vị ĐÂ. Tuy vậy, công trình này vẫn còn bỏ sót
những HTĐÂ khác mà thời ấy chắc chắn đã có như HTĐÂ giữa những ĐV thuần Việt với những
ĐV có nguồn gốc Ấn Âu…
Năm 1932, đáng chú ý là công trình Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh [01]. Đây là một bộ TĐ có
ảnh hưởng lớn ở Việt Nam. Khảo sát vấn đề thu thập, giải thích, phân loại các ĐVĐÂ và ĐN của Hán
Việt từ điển chúng tôi thấy: Hán Việt từ điển đã rất coi trọng vấn đề thu thập, giải thích và phân biệt,
xử lí các ĐVĐÂ Hán và Hán -Việt. Cách xử lí của ông như sau: đầu tiên, tác giả liệt kê tất cả các
ĐVĐÂ có trong mục từ đó, tiếp theo là việc liệt kê các kết hợp song tiết có chứa các ĐVĐÂ đó
cùng lời giải nghĩa về các ĐV này. Chẳng hạn: mục từ có âm đọc là DAO được ông phân tách thành
07 mục từ nhỏ như sau:
Dao 摇 Lay động.
Dao 遥 Xa.
Dao 瑶 Một thứ ngọc tốt; quý báu; sáng sủa trong sạch.
Dao 谣 Câu hát không thành chương khúc; lời nói bằng không đặt ra.
Dao 愮 Lo buồn không tỏ cùng ai được.

Dao 徭 Xch. Dao dịch.
Dao 猺 Tên một dân-tộc ở miền núi thượng-du Bắc-kỳ và nhiều tỉnh phía tây-nam nước tàu… (Hán Việt từ điển,
tr. 197-198)

Năm 1939, có quan điểm của Trà Ngân Lê Ngọc Vượng [94]. HTĐÂ, ĐN được tác giả bàn
đến trong phần Những nguyên tắc chung (tr.29) và trong phần Lược khảo về từ chương (tr.139).
Theo tác giả thì: “ĐÂ nghĩa là đọc giống nhau. Những TV – Nam cùng một âm như: nước chè –
Nước Việt Nam – Nước cờ là những tiếng Đ”. Và “Đ tất phải khác nghĩa”.
Năm 1940, có quan điểm của Trần Trọng Kim, Bùi Kỉ, Phạm Duy Khiêm trong Việt Nam văn
phạm [70]. Trong 18 chương của Việt Nam văn phạm thì trong chương I Những điều khái lược
(tr.18-19) và ở mục Lời tựa (tr. VIII, XI) là những chỗ thể hiện rõ quan điểm của họ về từ ĐÂ và
ĐN. Theo họ, “tiếng ĐÂ là những tiếng viết giống nhau và đọc đồng một âm như nhau, nhưng cái
nghĩa thì khác mà không có liên – lạc gì với nhau cả. Ví như một tiếng nước là nói một xứ có vua
quan cai trị; một tiếng nước khác là nói chất lỏng ở sông ở biển. Một tiếng năm là nói khoảng thời
gian có mười – hai tháng; một tiếng năm khác là nói số đếm sau số bốn” (Việt Nam văn phạm, tr.18).
Họ còn bàn về nguồn gốc của từ ĐÂ và nhược điểm của chữ Quốc ngữ: “những tiếng ĐÂ ấy
nhiều nhất là những tiếng gốc ở chữ nho mà ra” , họ nêu ví dụ: Chữ minh là sáng thì viết chữ 明,
chữ minh là tối thì viết chữ 冥, chữ minh là mờ - mịt bát - ngát thì viết chữ 瞑, chữ minh là thề
thì viết chữ 盟, chữ minh là ghi, khắc thì viết chữ 铭, chữ minh là kêu (nói về chim) thì viết chữ
鸣”.Theo họ thì “những chữ ấy viết bằng chữ nho là sáu chữ khác nhau, mà viết bằng quốc - ngữ


thì tiếng nào cũng như nhau cả. Song ta phải biết phân – biệt rằng đó là sáu tiếng minh có sáu nghĩa
riêng, chứ không phải là một tiếng minh mà có sáu nghĩa...” (Việt Nam văn phạm; tr.19).
Trong Lời tựa, họ đưa ra nhận xét: “Chữ quốc – ngữ rất tiện – lợi là nhờ có năm cái dấu giọng
có thể phiên – dịch đúng hết thảy các âm. Chỉ hiềm vì các âm tuy đúng, song khi gặp những tiếng
đồng – âm thì viết giống nhau cả, thành ra người nào không biết chữ nho, không làm thế nào phân biệt những nghĩa khác nhau trong những tiếng ấy...” (Việt Nam văn phạm; tr. III).
Có thể nói rằng, ngay từ rất sớm, HTĐÂ, ĐN trong TV đã được quan tâm lưu ý. Ở giai đoạn
này, do những hạn chế về thời đại nên chưa có những công trình có tính lí luận, những công trình
tập thể còn ít, chủ yếu là những công trình dựa trên sự nỗ lực, cố gắng và kinh nghiệm của một số

học giả nên thành tựu nghiên cứu chưa nhiều, còn bỏ sót nhiều vấn đề liên quan đến HTĐÂ, ĐN
trong TV song bước đầu đã hé mở những vấn đề lí luận như: (1) tầm quan trọng và cái khó của việc
phân biệt những ĐVĐÂ thuần Việt và những ĐVĐÂ gốc Hán khi không có chữ Hán chú kèm, (2)
HTĐÂ giữa từ toàn dân với từ địa phương, (3) việc chuẩn hóa chính tả, chữ viết, (4) sự xung đột
giữa các loại văn tự đã và đang được sử dụng (chữ Hán, chữ Nôm, chữ Quốc ngữ) trong việc nhận
diện các ĐVĐÂ, ĐN của TV, (5) nhược điểm của chữ Quốc ngữ trong phản ánh các cách phát âm
vùng miền, (6) phân biệt những ĐVĐÂ với những ĐVĐN...
Từ sau 1945 đến 1975, HTĐÂ, ĐN tiếp tục nhận được sự quan tâm của các nhà Việt ngữ học.
Khảo sát những công trình này chúng tôi nhận thấy, trong khi các học giả phía Nam vẫn tuân theo
tôn chỉ chuẩn hóa chính tả, chữ viết và góp phần truyền bá chữ Quốc ngữ là chính thì các học giả
phía Bắc lại có xu thế nghiêng nhiều về lí luận. Những quan điểm có tính lí luận ở giai đoạn này
phần lớn là về vấn đề từ điển học. Đáng chú ý là các công trình và quan điểm sau:
Năm 1947, ở Sài Gòn có Đồng âm vận tuyển của Trần Văn Khải [68]. Tiến bộ hơn Nguyễn
Văn Mai, Trần Văn Khải đã phát hiện và chỉ ra những nhược điểm, những bất cập của chữ Quốc
ngữ trong việc ghi âm, thể hiện giọng nói của ba miền. Tác giả đã rất chú trọng đến thao tác so sánh
đối chiếu và chọn mẫu trong việc thu thập ngữ liệu: “trong quyển từ điển nầy, chúng tôi đối chiếu
các tự điển ở ba kỳ và chọn lấy cách viết của phần đông, hầu ngày sau điển - chế và thống - nhứt
văn – tự Việt – Nam” (Phàm lệ). Trần Văn Khải cũng đã có những cải tiến, sáng tạo hơn về phương
pháp biên soạn, điều này thể hiện ở phương pháp sắp xếp các ĐVĐÂ của tác giả: thứ nhất, sau mỗi
một đầu mục từ hay sau mỗi một hình vị được giải thích đều có đánh số Ả-Rập chỉ rõ những từ hay
hình vị ĐÂ trong đầu mục ấy. Thứ hai, nghĩa của những hình vị ĐÂ được cho vào ngoặc đơn để
phân biệt với hình vị được giải thích. Sau cùng, là việc liệt kê những kết hợp từ có chứa hình vị
được giải thích. Ví dụ:


Ái 1 Ch.(Yêu) : ân ái ; ái chủng ; ái đái ; ái hộ ; ái hữu ; ái kỷ ; ái quốc ; ái sủng ; ái tình ; bác ái ; bể ái ;
luyến ái. 2 Ch. (giống như) : ái nam ; ái nữ. (lại đực ; lại cái). 3 Ch. (nấc cụt) : phát ái. 4 n. Êm ái ; ái đau ; ái
ôi. (Đồng âm vận tuyển; tr 09).

Nghĩa của các từ hay các hình vị ĐÂ được thống kê và giải thích trong Đồng âm vận tuyển khá

rõ ràng và chính xác, nhất là các hình vị Hán Việt. Theo thống kê của LA, ngoài 3647 hình vị và từ
được đưa ra giải thích còn có phần Câu rời là phần thu thập thêm những kết hợp từ có chứa những
hình vị được giải thích trong các mục từ trước đó và những chữ dễ gây nhầm lẫn với hình vị được
đưa ra giải thích. Phần này được tác giả cấu tạo thành những câu thơ lục bát nhằm mục đích giúp
người học dễ học, dễ nhớ, dễ phân biệt. Chẳng hạn, án và áng được tác giả phân biệt như sau:
“Án binh, hương án, án quan
Áng công danh, với áng chiến trường có g” (Đồng âm vận tuyển; tr. 10).

Ngoài việc thu thập giải thích các hình vị Hán Việt, thuần Việt, Đồng âm vận tuyển còn thu
thập, giải thích cả những hình vị ĐÂ gốc Pháp.
Năm 1951, có Tự- điển Việt- Nam phổ- thông của Đào Văn Tập [118]. Công trình này vẫn bộc
lộ khá nhiều nhược điểm ở các khâu xác định nghĩa, sắp xếp nghĩa, phân biệt các ĐVĐN với các
ĐVĐÂ. Chẳng hạn: khi xác định nghĩa của hình vị Hán Việt 白(bạch) tác giả đã gán thêm cho nó
nghĩa của hình vị bạch trong các kết hợp như: bạch đinh, bạch thủ, trinh bạch khi quan niệm hình vị
này ngoài cái nghĩa là “sắc trắng” ra còn có nghĩa là “sạch sẽ, sáng sủa; trắng trơn, không có của
cải, không có chức tước” (Tự- điển Việt- Nam phổ- thông; tr 27). Về việc xử lí các ĐVĐÂ, Đào Văn
Tập đã đem tất cả các ĐVĐÂ mà ngày nay được dán nhãn là “ĐÂ được cấu tạo theo kiểu chuyển
loại” như: cuốc (dt) <-> cuốc (đgt); bào (dt) <-> bào (đgt)... nhập chung vào một mục từ ĐN. (Tựđiển Việt- Nam phổ- thông; tr.139, 34).
Năm 1969, đáng chú ý là quan điểm phân loại từ ĐN và từ ĐÂ của Hoàng Phê [104, tr.3-18].
Ông cho rằng: “phân biệt HT từ nhiều nghĩa với HT từ ĐÂ là một vấn đề khó khăn. Nhiều khi rất
khó quyết định nên coi đây là một từ nhiều nghĩa hay là nên tách ra thành mấy từ ĐÂ. Trong từ điển
phổ thông, nếu quan hệ giữa các nghĩa ngày nay không rõ ràng lắm, thì tốt hơn là tách ra thành Đ”.
Năm 1969, Đỗ Hữu Châu [17, tr.43-50] thông qua quá trình khảo sát việc giải thích nghĩa của các ĐV
từ trong TĐTV 1967 (Văn Tân chủ biên) đã thể hiện quan điểm và phương pháp xử lí nghĩa của mình đối
với các ĐVĐN. Đây là một công trình thể hiện rõ những vấn đề lí luận ở giai đoạn này.
Trong phần thứ nhất của bài viết, ông nhấn mạnh tầm quan trọng và những khó khăn của việc
biên soạn từ điển một thứ tiếng, đặc biệt là những khó khăn trong việc giải thích nghĩa của từ TV và
khẳng định: “điều quan trọng nhất là tính hệ thống trong cách làm việc”.
Ở phần thứ hai, ông chỉ ra những nhược điểm thường thấy trong những quyển từ điển của ta
trước đó. Trong đó, nhược điểm lớn nhất theo ông là “rời rạc, thiếu tính hệ thống”. Nhược điểm này



thể hiện ở ba điểm sau: (1) Bộc lộ ở cách sắp xếp theo thứ tự chữ cái mà hệ quả của nó là “không
thể giúp cho người đọc thấy được những mối quan hệ giữa các ĐV từ vựng [...] cho rằng từ
vựng chỉ là một tập hợp hỗn độn những ĐVcô lập với nhau”.(2) Bộc lộ ở cách giải thích các
nghĩa khác nhau cho cùng một ĐV từ vựng mà hệ quả của nó là “người đọc từ cách giải thích đó
thường không thấy được mối quan hệ giữa các nghĩa ấy như thế nào”. (3) Bộc lộ ở cách tách từ ĐÂ
và tách nghĩa của từ với những biểu hiện sau: ở những từ có cấu trúc ngữ nghĩa giống nhau thì trong
trường hợp A được tách thành 04 hay 05 nghĩa nhưng ở trường hợp B lại gộp thành 01 hay 02 nghĩa.
Có khi, với hai nghĩa khác nhau của cùng một từ, tác giả tách làm hai từ nhưng ở một từ khác tương
tự lại được nhập làm một như trường hợp các từ băng, đèn, bay.
Trong phần thứ ba, ông trình bày quan điểm của mình về cơ sở phân tách nghĩa của từ, các
nguyên tắc cần chú ý khi giải thích nghĩa của từ trong từ điển. Tác giả đưa ra 02 nguyên tắc và 03
tiêu chuẩn khi giảng nghĩa của các từ như sau:
Nguyên tắc thứ nhất, “khi xử lí một ĐV từ vựng nào đó về mặt nghĩa cần chú ý đến các HT
giống nhau xảy ra trong toàn nhóm, tránh tình trạng cô lập đối tượng. […] Vì việc tách một ĐV
thành những từ riêng rẽ có liên quan tới lí luận về ranh giới giữa HT nhiều nghĩa và HTĐ”. Đỗ
Hữu Châu đề ra tiêu chuẩn tách từ ĐÂ như sau: “nếu HT chuyển nghĩa xảy ra một cách cá biệt
mà ngày nay không thể giải thích mối quan hệ giữa nghĩa ấy với các nghĩa khác của từ thì có
thể tách nghĩa ấy thành một từ ĐÂ hay một quán ngữ.... Không thể tách các từ ĐÂ nếu HT
chuyển nghĩa đó xảy ra giống nhau trong cả một loạt từ. Còn đối với các HT cá biệt thì việc có
tách thành từ ĐÂ hay không là tùy vào cách xử lí của người biên soạn và việc ấy không có ảnh
hưởng gì tới toàn hệ thống”.
Nguyên tắc thứ hai, “khi xử lí một từ cần nêu được thuộc tính thường trực tổ chức và chi phối
các nghĩa khác nhau của từ đó”. Theo Đỗ Hữu Châu, “đối với các từ một nghĩa thì việc so sánh nó
với các từ khác cùng nhóm (trái nghĩa, đồng nghĩa) là điều quan trọng. Còn đối với từ nhiều nghĩa
thì ngoài việc cần so sánh với các từ cùng nhóm còn cần so sánh các nghĩa khác nhau của nó với
nhau”.
Về việc sắp xếp các nghĩa của từ theo thứ tự, ông cho rằng: “nên sắp xếp làm sao cho quan hệ
giữa các nghĩa được nổi bật, làm sao cho thuộc tính thường trực được nổi bật và được hiện lên trong

lời giải thích”.
Về việc tách các nghĩa, ông đề ra ba tiêu chuẩn sau: (1) “Nếu từ được giải thích có bao nhiêu
đặc điểm từ loại khác nhau thì có thể chia thành bấy nhiêu nghĩa”, (2) “nếu trong cùng một đặc
điểm từ loại, từ đó có bao nhiêu đặc điểm cú pháp (đặc điểm kết hợp) thì có thể có bấy nhiêu nghĩa
trong phạm vi đặc điểm từ loại ấy”, (3) “sau khi đã chia thành những đặc điểm ngữ pháp khác nhau
nếu trong cùng một đặc điểm ngữ pháp, từ ấy có khả năng kết hợp với bao nhiêu từ loại khác xét về


ngữ nghĩa thì có thể chia thêm thành bấy nhiêu nghĩa”. Theo ông, trong ba tiêu chuẩn trên thì các
tiêu chuẩn 01 và 02 là tiêu chuẩn mạnh còn tiêu chuẩn 03 là tiêu chuẩn thứ yếu hay được dùng trong
các cuốn từ điển trước đây.
Xem xét quan điểm của Đỗ Hữu Châu, chúng tôi thấy rằng: tác giả nhấn mạnh và chú ý nhiều
tới tiêu chuẩn tính thường trực và quan điểm hệ thống trong việc xử lí nghĩa của các ĐV từ vựng
trong từ điển. Qua quan điểm này, chúng ta thấy được những khó khăn và những giải pháp của các
nhà từ điển học cũng như của tác giả khi xử lí nghĩa của các ĐV từ vựng trong từ điển, nhất là việc
thu thập, sắp xếp, xử lí các từ ĐÂ và ĐN.
Năm 1971, Nguyễn Thiện Giáp [43, tr.21-27] trình bày quan điểm về HTĐÂ trong TV. Theo
ông, có 02 đặc điểm quan trọng chi phối HTĐÂ trong TV là: (1) không biến hình và (2) hình vị
trong TV thường trùng với âm tiết. Theo Nguyễn Thiện Giáp, từ ĐÂ trong TV có 04 đặc điểm sau:
từ đơn một âm tiết nhiều, chỉ tìm được một SL rất nhỏ từ đa âm tiết và từ ghép ĐÂ với nhau nhờ HT
chuyển loại. HTĐÂ trong TV ít hơn so với THHĐ bởi SLÂT cơ bản trong tiếng Hán ít hơn TV và
bao giờ cũng có giá trị đối lập về ý nghĩa. Đặc điểm nổi bật của HTĐÂ trong TV là ĐÂ bộ phận
(ĐÂ xảy ra giữa một hình vị cấu tạo từ với một từ một hình vị). Ông phân loại từ ĐÂ trong TV
thành 02 loại là: từ ĐÂ hoàn toàn và từ ĐÂ bộ phận.
Từ 1976 tới nay, HTĐÂ, ĐN của TV tiếp tục nhận được sự quan tâm của các nhà Việt ngữ học.
Đáng chú ý là các công trình và quan điểm sau:
Năm 1976, đáng chú ý là quan điểm của Hồ Lê [77, tr.111-254]. Tác giả, khi trình bày về Các
mẫu cấu tạo từ tiếng Việt (06 loại nguyên vị), thông qua việc lập danh sách các loại nguyên vị trong
TV đã phân biệt rất rõ ràng các nguyên vị ĐÂ trong hệ thống nguyên vị của TV. Bên cạnh công
trình này Hồ Lê còn có một số công trình khác hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp bàn về HT từ ĐÂ, ĐN

trong TV như: [80, tr.59-152] (khi trình bày về đặc điểm ngữ nghĩa – cú pháp của các từ loại dt, đg,
tt, phụ từ; khi trình bày những tiểu loại chính trong từng loại từ, đặc biệt là khi bàn về sự phân loại
đg). Về HTĐN nói chung và về từ ĐN nói riêng, ông cũng có những đóng góp và kiến giải sâu sắc
về lí luận [82].
Năm 1978, Đinh Văn Đức [40, tr.31-39] đã gián tiếp bày tỏ quan điểm của mình về từ ĐÂ (ĐÂ
do chuyển loại) và việc phân loại từ ĐÂ. Theo ông, những ĐVĐÂ do chuyển loại có SL không lớn, là
những ĐV có chung biểu vật nhưng thuộc về những từ loại khác nhau, không có sự phân biệt về hình
thái học nhưng có những đặc trưng cú pháp khác nhau, có những quan hệ mới trong những trường
hợp khác nhau (khi làm chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ), bởi vậy tác giả cho rằng nên tách ra hai từ riêng biệt
và nên xếp chúng vào hai từ ĐÂ ngữ pháp và chỉ có thể phân biệt với nhau bởi các ý nghĩa ngữ pháp.
Và như vậy, chúng trở thành một tiểu loại ĐÂ (ĐÂ ngữ pháp) bên cạnh loại ĐÂ truyền thống là ĐÂ
ngẫu nhiên.


Năm 1978, Nhữ Thành [124, tr.40-48] tìm hiểu từ ĐÂ dưới góc độ tu từ học. Qua việc khảo
sát bốn kiểu hoạt động của âm tiết TV (hoạt động độc lập thành một từ, hoạt động hạn chế với tư
cách là một yếu tố CTT, hoạt động láy âm, hoạt động kết hợp đơn nhất), tác giả đưa ra 05 nhóm
đối lập có thể tạo nên ĐÂ trong cách chơi chữ cổ và 03 cách đối lập khác do vai trò của từ phiên
âm trong TV hiện đại có thể tạo nên HTĐÂ. Từ việc đưa ra những nhóm đối lập trên, tác giả đã
loại trừ hai HT: (1) Âm tiết phiên âm ĐÂ với âm tiết phiên âm và (2) âm tiết láy âm ĐÂ với âm
tiết láy âm. Tiếp đó, tác giả đi vào khảo sát năm nhóm đối lập đầu tiên và kết luận “hình thức âm
tiết tự do ĐÂ với âm tiết tự do xuất hiện nhiều nhất”.
Năm 1978, còn có quan điểm của Nguyễn văn Tu [138]. Quan điểm của ông tập chung chủ yếu ở
chương VI (Nghĩa từ vựng và kết cấu nghĩa của từ, tr.93-179) và ở chương XV (Từ điển Việt Nam, tr.321337). Trong chương VI, ông bàn về: nguồn gốc, cách phân loại, cách phân giới hạn từ ĐÂ. Ông chia từ ĐÂ
thành hai kiểu: (1) Từ ĐÂ từ vựng và (2) từ ĐÂ từ vựng – ngữ pháp. Theo tác giả, từ ĐÂ có ba nguồn gốc
sau: (1) Từ ĐÂ ngẫu nhiên, (2) từ ĐÂ tạo ra do sự diễn biến về ngữ âm, (3) những từ ĐÂ do sự tách rời các
ý nghĩa của một từ ĐN. Tác giả đề ra 03 cách phân biệt từ ĐÂ và từ nhiều nghĩa: (1) tìm những dấu hiệu
khách quan, (2) áp dụng “tiêu chuẩn nội dung”, (3) chú ý cả đến mặt lôgích, mặt tâm lí của nghĩa và mặt
ngôn ngữ mà trong đó nghĩa tồn tại. Theo ông, trong ba cách trên, cách thứ ba là cách có hiệu năng hơn
trong việc phân biệt từ nhiều nghĩa và từ ĐÂ trong TV.

Năm 1981, đáng chú ý là quan điểm của Đỗ Hữu Châu [19]. Ông cho rằng: “những ĐVĐÂ là
những ĐV giống nhau về hình thức ngữ âm nhưng khác nhau về ý nghĩa”. Và “chỉ nên xem là ĐÂ
thực sự khi các ĐV trong cùng một cấp độ ĐÂ.” (tr.228). Ông cũng không coi là ĐÂ những trường
hợp do cách phát âm lệch chuẩn gây ra. Lí giải nguyên nhân hình thành HTĐÂ, ông cho rằng: do sự
trùng hợp ngẫu nhiên về ngữ âm, do sự rút gọn gây ra.
Bàn về việc phân biệt từ ĐÂ và từ nhiều nghĩa, Đỗ Hữu Châu cho rằng: “khó khăn nhất là
phân biệt từ ĐÂ và từ nhiều nghĩa. Có những từ mà nghĩa chuyển biến đến một mức độ nào đấy thì
tách ra thành hai ba từ ĐÂ... tuy nhiên rất nhiều trường hợp chuyển nghĩa làm chúng ta băn khoăn...”
Những trường hợp khó xác định theo ông là: (1) những trường hợp chuyển nghĩa kèm theo sự
chuyển từ loại lớn như: cuốc (cuốc đất) và cuốc (cái cuốc), thịt (miếng thịt) và thịt (thịt một
con lợn)..., (2) những trường hợp chuyển nghĩa kèm theo sự chuyển tiểu loại như: chạy (chạy
trên đường) và chạy (chạy gạo)..., (3) những trường hợp nhiều nghĩa mà quan hệ giữa các
nghĩa tuy đã khá mờ nhạt nhưng vẫn chưa mất hoàn toàn như: lóng (lóng tre) và lóng (lóng
tay), lỏi (tốt lỏi) và lỏi (thằng lỏi)..., những khó khăn trên theo ông là vẫn chưa thể giải quyết
được (tr.231-233).
Năm 1989, đáng chú ý là quan điểm của Lê Quang Thiêm [130, tr.116-189]. Trong chương IV,
tác giả khẳng định: “…TV, do những đặc điểm của hình vị, thường đơn nghĩa hoặc có ĐN thì cũng


có SL rất hạn chế […] hình vị TV có đặc trưng nổi bật nhất là ở mặt ĐÂ. Do hình vị TV tuyệt đại
bộ phận là có nghĩa, ngoài từ, phạm vi hoạt động rộng, hoàn thành nhiều chức năng nên thường có
nhiều cặp ĐÂ: về (đgt), về (từ liên hệ)” (tr.117). Trong chương VII, khi bàn về Biểu hiện ĐÂ giữa
các ngôn ngữ, Lê Quang Thiêm đã chia HTĐÂ thành: (1) HTĐÂ ngẫu nhiên giữa các ngôn ngữ, (2)
ĐÂ do kết quả tiếp xúc, vay mượn, (3) HTĐÂ do sự giống nhau hoặc gần gũi về ngữ hệ và cấu trúc
ngôn ngữ.
Khi bàn về Các bình diện ĐÂ, tác giả cho rằng “ĐÂ là những ĐV khác nhau, có hình thức ngữ
âm giống nhau. Như vậy, sự khác nhau chủ yếu là về mặt nội dung. Và cần được xác định trên ba cơ
sở là: (1) dựa vào sự phân biệt cấp độ (cùng hoặc khác cấp độ), (2) các loại ĐV xác định (từ, hình vị,
từ tổ), (3) các mức độ khác nhau của sự Đ” (tr. 139). Theo tác giả, những ĐV giống nhau về âm
thanh mà khác cấp độ thì chắc chắn là ĐÂ. Đó là những ĐVĐÂ khác bậc. Còn những ĐV giống

nhau về âm thanh, ở cùng một cấp độ, khác nhau về nội dung thì là những ĐVĐÂ cùng bậc (ĐÂ
giữa từ với từ, hình vị với hình vị, từ tố với từ tố). Trong hai loại trên, Lê Quang Thiêm xếp loại
01vào ĐÂ hình vị. Theo ông, khi phân biệt các hình vị ĐÂ cũng nhất thiết phải dựa vào tiêu chuẩn ý
nghĩa (ý nghĩa từ vựng, ý nghĩa ngữ pháp, ý nghĩa tạo từ, ý nghĩa cấu trúc). Theo ông, “Trong TV,
các hình vị ĐÂ là các âm tiết, chúng có SL lớn…, TV có nhiều ĐÂ khác bậc (từ - hình vị; từ thuần
– hình vị Hán Việt)” (tr.140).
Bàn về các dạng thể hiện ĐÂ từ, ông cho rằng “loại ĐV thể hiện ĐÂ điển hình hơn cả là từ, vì
rằng từ là ĐV phức tạp về cấu trúc và ý nghĩa. Từ cũng là ĐV đảm nhiệm nhiều chức năng khác
nhau và có nhiều hình thức thể hiện trong ngôn ngữ và trong lời nói. Xét về mặt ý nghĩa, từ cũng là
ĐV phức tạp, điển hình về nghĩa”. Theo Lê Quang Thiêm “đối với ĐÂ từ vựng, cần phải xem xét:
các dạng biểu hiện ĐÂ của từ (có ý nghĩa từ vựng khác nhau) và ĐÂ hình thái của từ (có ý nghĩa
ngữ pháp khác nhau)”. Đáng chú ý là những nhận xét của tác giả về 02 khái niệm “hình thức từ” và
“âm thanh từ”. Theo ông, “hình thức từ đối với nhiều ngôn ngữ hiện đại biểu hiện ở mặt âm thanh
và cả chữ viết. Khi nói về sự giống nhau hay đồng nhất về hình thức thì trước hết và quan trọng nhất
là âm thanh. Song mặt khác không kém phần quan trọng, mặc dầu không hoàn toàn chính xác là
giống nhau về chữ viết. Chữ viết là biểu hiện kèm theo, vì hệ thống chữ viết dù là “ghi âm vị” như
TV cũng còn nhiều bất hợp lí cho nên không thể dựa vào chữ viết làm chính mà chỉ xem là biểu
hiện kèm theo. ĐÂ là giống nhau về âm thanh. Đó là điều kiện tiên quyết, bắt buộc…” (tr.142).
Theo tác giả, ĐÂ hình thái là: “khi 02 hình thái từ (nói và viết) như nhau, có ý nghĩa ngữ pháp khác
nhau thì đó là ĐÂ hình thái”. Theo ông, TV và các ngôn ngữ đơn lập không có ĐÂ hình thái.
Theo Lê Quang Thiêm, khi nói về ĐÂ cần chú ý tới các dạng ĐÂ và các thuật ngữ sau: (1) ĐT
dạng: là dạng viết giống nhau của các từ khác nhau (xét về ý nghĩa từ vựng), (2) ĐÂ dạng: là dạng
nói giống nhau của những từ khác nhau (xét về ý nghĩa từ vựng), là ĐÂ theo nghĩa rộng, (3) từ ĐÂ:


là những từ khác nhau mà viết và nói như nhau, hay là từ ĐÂ hoàn toàn, ĐÂ theo nghĩa hẹp, (4) ĐÂ
hình thái: là ĐÂ ngữ pháp, đó là những hình thái của cùng một từ, giống nhau về mặt âm thanh và
chữ viết, có ý nghĩa ngữ pháp khác nhau.
Khi bàn về đặc điểm của sự thể hiện ĐÂ ở các ngôn ngữ (tr 144) Lê Quang Thiêm cho rằng:
“ (1) TV là ngôn ngữ không biến đổi hình thái từ để biểu hiện ý nghĩa ngữ pháp nên tiêu chuẩn quan

trọng để xác định từ ĐÂ hoàn toàn là khả năng kết hợp của từ, (2) ĐÂ bộ phận (thường là các từ ĐÂ
khác từ loại, khả năng kết hợp ngữ pháp khác nhau) như: về 1 (về nhà) về 2 (bàn về)…, (3) ĐÂ dạng,
R

R

R

R

có khi không được thể hiện ra bằng chữ viết cho nên không thể căn cứ vào chữ viết để xác định: ty 1
R

(ty; sở); ti 2 (cái ti). Trong TV, HTĐÂ dạng xảy ra với từ có cách viết với các âm vị: k – k, c; i – y; z

R

R

R

– d, gi… như: cuốc 1 (cái cuốc) và quốc 2 (tổ quốc); dây 1 (sợi dây) và giây 2 ( giây phút), (4) khi bàn
R

R

R

R


R

R

R

R

về Đồng tự dạng trong TV phải chú ý tới khả năng khu biệt nghĩa của thanh không dấu, (5) TV
không biến đổi hình thái nên không có vấn đề đồng hình thái”.
Theo Lê Quang Thiêm, “HTĐN là HT một ĐV ngôn ngữ mà cấu tạo nội dung của nó có nhiều
nghĩa khác nhau… là HT phổ biến trong mọi ngôn ngữ”. (tr.174). Chọn cách hiểu “từ ĐN là từ mà
nội dung bao gồm một số nghĩa khác nhau, các nghĩa này lập thành một hệ thống nằm trong các mối
quan hệ liên kết với nhau, gồm một vài nét nghĩa chung và nhiều nét nghĩa loại biệt. Các nét nghĩa
loại biệt thường biểu thị các đối tượng khác nhau nhưng lại được đặt cơ sở trên một số giống nhau
về chức năng, hình thức hoặc thuộc tính nào đó của đối tượng”. Ông nhấn mạnh: “ĐN từ vựng trước
hết là ĐNBN vì đó là dạng nghĩa khái quát, ổn định, mang tính hệ thống cao […]. Nhờ có tính hệ
thống ổn định này mà ta mới có thể phân lập, tổng hợp, mô tả theo đặc điểm và tôn ty nhất định
trong TĐ […]. Dựa trên cấu trúc biểu niệm thì mới có cơ sở để đối chiếu đặc điểm ĐN của mỗi
ngôn ngữ như là sản phẩm sáng tạo, như là thành tựu được tập thể ngôn ngữ ấy xây dựng nên. Nó
cũng cho phép thấy rõ cái chung và cái riêng của từ ĐN trong tất cả các lớp từ, các từ loại cơ bản
của ngôn ngữ.” (tr.178).
Trong công trình này, Lê Quang Thiêm sau khi phân tích các dt, đg, tt trong 37.088 từ TV đã đưa ra
số liệu: trong TV, từ đơn nghĩa chiếm 61,48 %; từ ĐN chiếm 38,52 %. Và chỉ ra sự phân bố về tỷ lệ ĐN
qua các từ loại chính như sau:
ĐỘNG TỪ

DANH TỪ
ĐN
30,16 %


Đơn nghĩa

ĐN

69,84 %

31,48 %

Đơn nghĩa
69,52 %

TÍNH TỪ
ĐN
27,70 %

Đơn nghĩa
72,30 %

Nguồn: Lê Quang Thiêm, Nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ; tr.178, 179.

Bàn về đặc điểm tổ chức nội dung của từ ĐN, ông chỉ ra tình hình phân bố DLN của các ĐVĐN
trong TV (tính theo tỷ lệ %) như sau:


02

03

04


05

06

07

08

09

10

11

12

79,30 %

12,60

6,38

1,82

0,82

0,53

0,54


0,17

0,12

0,9

0,08

%

%

%

%

%

%

%

%

%

%

13

….

Nguồn: Lê Quang Thiêm, Nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ, tr.184.
Với quan điểm đồng đại, Lê Quang Thiêm cho rằng: nghĩa cơ bản là nghĩa có chứa các nét
nghĩa được đặt điều kiện chủ yếu bằng các quan hệ hệ hình. Nghĩa không cơ bản là nghĩa mà các
nét nghĩa tạo nên chúng phụ thuộc nhiều vào các quan hệ cú đoạn. Trong một từ ĐN, có một nghĩa
cơ bản và một số nghĩa không cơ bản. Sự phân biệt nghĩa cơ bản, không cơ bản của một từ có thể
dựa vào các mức độ khác nhau của sự phụ thuộc nhiều hơn vào các quan hệ hệ hình và ít hơn vào
các quan hệ cú đoạn. Theo Lê Quang Thiêm, mối quan hệ về nghĩa về mặt đồng đại được tổ chức
theo 03 loại hình là: loại kế tiếp, loại song song, xen kẽ kế tiếp với song song. Trong đó: (1) mối
quan hệ kế tiếp là quan hệ đặc trưng cho từ chỉ có 02 nghĩa và những từ nhiều hơn hai nghĩa mà các
nghĩa liên kết nhau theo tổ chức đơn tuyến, (2) mối quan hệ song song chỉ xuất hiện ở những từ trên
hai nghĩa mà các nét nghĩa liên kết theo tổ chức đa tuyến (tổ chức hình cây, tẽ nhánh), (3) mối quan
hệ xen kẽ giữa kế tiếp và song song xẩy ra với những từ trên 03 nghĩa và theo một tổ chức phức hợp.
Bàn về giới hạn của việc phân li ĐN thành ĐÂ và tiêu chuẩn xác định những ĐVĐÂ ngữ
nghĩa ông cho rằng: “sự tồn tại hay vắng mặt nét nghĩa chung trong các nghĩa của từ ĐN là tiêu
chuẩn xác định ĐN và ĐÂ ngữ nghĩa”.
Trong công trình này, tác giả còn nhấn mạnh đến việc cần thiết phải phân biệt các loại quan hệ
tôn ty giữa các loại nghĩa trong từ ĐN khi biên soạn TĐ đồng đại và TĐ lịch đại. Theo ông, cần
phân biệt hai loại quan hệ tôn ty sau: (1) tôn ty theo tuần tự phái sinh, phát triển (tôn ty lịch đại) để
phân biệt nghĩa gốc, nghĩa phái sinh và các nghĩa phái sinh thứ cấp, (2) tôn ty hiện hành (tôn ty
đồng đại) để phân biệt nghĩa cơ bản, nghĩa không cơ bản định danh, nghĩa không cơ bản hình
tượng (nghĩa bóng). Theo ông thì: “đối với những từ có từ 2 nghĩa trở lên thì việc phân biệt theo tôn
ty nhiều khi không thực hiện được vì rất khó xác định niên đại và mô tả 2 ý nghĩa cùng loại. Đặc
biệt là đối với kiểu sơ đồ cấu trúc nghĩa có quan hệ hình nhánh”. Đây là một nhận xét rất chính xác.
Năm 1992, đáng chú ý là quan điểm của Nguyễn Đức Dân, Trần Thị Ngọc Lang [31]. Hai tác
giả này khi phân tích các câu mơ hồ trên chữ viết, các kiểu câu mơ hồ về từ vựng đã gián tiếp bình
luận tới nguyên nhân và tác dụng của từ ĐÂ và từ ĐN (tr. 88, 91- 93) đồng thời chỉ ra các kiểu ĐÂ
trong các từ loại, nhất là trong các từ loại có SL lớn như dt, đg, tt (tr.113-116). Họ không những
khảo sát và chỉ ra HT mơ hồ do việc sử dụng những từ đơn tiết ĐÂ mà còn khảo sát sự mơ hồ do sử

dụng những ngữ ĐÂ, chuỗi ĐÂ (tr.113-120) và từ ĐÂ Hán Việt gây ra như: đồng tử 1 và đồng tử 2
R

(tr.120).

R

R

R


Năm 1995, đáng chú ý là quan điểm của Phan Ngọc [100, tr.51-74]. Tuy mục đích là bàn về
phong cách, song qua những lập luận của tác giả, ta có thể thấy được quan điểm của ông về HTĐÂ
trong TV.
Phan Ngọc khẳng định “Mọi ngôn ngữ đều có HTĐÂ vì vỏ ngữ âm của từ là võ đoán, không
liên can gì đến nội dung của nó […] kết quả là một hình thức ngữ âm có thể hiểu hai ba cách”. Theo
tác giả, “HTĐÂ chỉ phổ biến ở những từ chỉ có một hay hai âm tiết mà thôi, trái lại, rất hiếm ở
những từ ba âm tiết trở lên […]. Mặt khác, ở các ngôn ngữ đơn tiết như tiếng Hán, TV, tiếng
Thái…số từ ĐÂ phải lớn hơn ở các ngôn ngữ đa tiết.” (tr. 66). Theo Phan Ngọc, nếu đã thừa nhận
trong TV có 3 lớp từ là thuần Việt, Hán Việt, láy âm thì về mặt lí thuyết, tối đa chỉ có 6 kiểu từ ĐÂ
sau: (1) thuần Việt - thuần Việt, (2) láy âm - láy âm, (3) thuần Việt - láy âm, (4) Hán Việt - thuần
Việt, (5) Hán Việt - láy âm, (6) Hán Việt - Hán Việt.
Từ việc xác lập 6 kiểu từ ĐÂ, ông lần lượt đi vào khảo sát từng kiểu một và khẳng định: “tuy
về mặt cấu trúc có thể có sáu kiểu từ ĐÂ, nhưng một khi TV đã là đơn tiết, thì chắc chắn HTĐÂ
giữa từ thuần Việt với từ thuần Việt phải là cơ bản nhất, tức là quen thuộc nhất… tần số xuất hiện
nhiều nhất, làm cơ sở cho mọi HTĐÂ khác” (tr. 67). Theo kết quả khảo sát, phân tích của Phan
Ngọc thì đứng ở vị trí thứ hai trong sáu kiểu ĐÂ là kiểu Hán Việt - Hán Việt. Trong bài viết, Phan
Ngọc còn lí giải một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn tới HTĐÂ trong TV khác với HTĐÂ
trong THHĐ là do SL âm tiết thực sử dụng của tiếng Hán ít hơn so với TV.

Năm 1998, đáng chú ý là quan điểm của của Nguyễn Thiện Giáp [47, tr.147-189]. Tác giả
phân chia từ vựng TV thành hai loại là từ, ngữ (ngữ định danh, thành ngữ, ngữ láy âm, quán ngữ).
Ông cho rằng “từ của TV là một chỉnh thể nhỏ nhất có ý nghĩa dùng để tạo câu nói, nó có hình thức
của một âm tiết, một khối viết liền” (tr 69). Ông quan niệm “nghĩa của từ là quan hệ” (tr. 125), bao
gồm 04 thành tố sau: (1) nghĩa sở chỉ, (2) nghĩa sở biểu, (3) nghĩa sở dụng, (4) nghĩa kết cấu. Tác
giả chia các từ của TV thành năm loại: (1) các từ kiểu một như: nhà, đẹp, đi…, (2) các từ kiểu hai
như: sẽ, tuy, với…, (3) các từ kiểu ba như: quốc, thủy, hỏa…, (4) các từ kiểu bốn như: búa (chợ
búa), lạnh (lạnh lẽo)…, (5) các từ kiểu năm như: bù, nhìn, bồ, hóng….
Theo ông, HTĐN trong TV có những đặc điểm riêng sau đây: (1) để biểu thị những SV, HT hoặc
khái niệm mới, TV có thiên hướng cấu tạo các ĐV từ vựng mới hơn là phát triển nghĩa của các ĐV từ
vựng đã có từ trước, (2) số ĐV có nhiều nghĩa cũng như số nghĩa trong những từ ĐN của TV đều thấp
hơn so với nhiều ngôn ngữ khác, trong khi đó, SL các ĐV từ vựng mới tăng lên rất nhanh, đặc biệt là
những ĐV hai âm tiết, (3) HTĐN của TV chủ yếu xảy ra ở các từ, ở các ngữ thì tỷ lệ ĐN chỉ khoảng
1/10 và cũng chỉ có hai hoặc ba nghĩa mà thôi. Các ngữ ĐN phần lớn là có nguồn gốc Hán.
Theo Nguyễn Thiện Giáp, HT từ ĐN của TV chỉ bao gồm 2 kiểu sau đây: (1) HTĐN của các
từ kiểu một (nhà, đẹp, đi) và (2) HTĐN của các từ kiểu ba (quốc, thủy, hỏa). Tiến hành thống kê,


phân tích những từ ĐN kiểu một trong TĐTV do Văn Tân chủ biên, ông nhận xét: (1) số từ ĐN
chiếm khoảng 33% tổng số (33% tổng số từ kiểu một, là những từ thuần Việt và đều là đơn tiết),
trong đó những từ có 2 và 3 nghĩa chiếm khoảng 86% tổng số từ ĐN, từ nhiều nghĩa nhất là 19
nghĩa, (2) về tỉ lệ ĐN ở các từ loại, đg có tỉ lệ cao nhất (32%), kế đó là dt (23%), cuối cùng là
tt (20%).
Phân tích các nghĩa của mỗi từ ĐN, tác giả đi đến 2 nhận xét sau: (1) Các nghĩa của mỗi từ ĐN
có thể thuộc hai loại là: nghĩa tự do (là nghĩa liên hệ trực tiếp với sự phản ánh các HT của TTKQ),
sự hoạt động của các nghĩa này không bị hạn chế vào các ngữ cố định, có mối quan hệ đa dạng.
Nghĩa hạn chế (là nghĩa chỉ được thể hiện trong những kết hợp hạn chế, do quy luật nội tại của hệ
thống từ vựng quy định, không do nội dung lô gích của các từ quy định). Theo tác giả, đối với TV
thì nghĩa hạn chế là HT phổ biến hơn trong các ngôn ngữ khác vì TV đã và đang phát triển mạnh
khả năng cấu tạo các ngữ bởi chính các nghĩa hạn chế góp phần tạo ra tính cố định của các cụm từ.

(2) Trong các nghĩa của một từ ĐN, có một nghĩa là cơ bản còn các nghĩa khác là phái sinh. Theo
ông, nghĩa cơ bản thường phải là nghĩa tự do. Trong trường hợp từ có một vài nghĩa tự do thì sẽ có
một nghĩa tự do là cơ bản, các nghĩa khác là nghĩa tự do phái sinh.
Trong phần III của Từ vựng học TV (tr.147-189), HTĐÂ cũng là một trong sáu trọng tâm được
Nguyễn Thiện Giáp đề cập tới. Trong phần Nhận xét chung, trước tiên, ông coi HTĐÂ là một phổ
niệm trong ngôn ngữ. Kế đó, tác giả đi vào phân tích, so sánh HTĐÂ trong các loại hình ngôn ngữ
đơn lập và biến hình với ngữ liệu từ tiếng Anh, tiếng Nga, TV, tiếng Hán. Đáng chú ý là 5 nhận xét
sau:
(1) HTĐÂ thường xảy ra trong phạm vi những từ ngắn, có cấu trúc đơn giản do có tính võ
đoán cao.
(2) Trong các ngôn ngữ Ấn Âu, từ ĐÂ thường là các từ đơn. Trong TV, do mỗi âm tiết đồng thời
là một từ, cấu trúc âm tiết TV lại gồm các thành phần (âm đầu, vần, thanh điệu. Vần lại chia ra thành âm
chính, âm cuối, âm đệm), mỗi thành phần của âm tiết làm thành một đối hệ do đó các thành phần cấu
tạo âm tiết luôn có mặt. Vì vậy, HTĐÂ trong TV chắc chắn phổ biến hơn các ngôn ngữ Ấn Âu.
(3) HTĐÂ phụ thuộc rất nhiều vào SLÂT được ngôn ngữ sử dụng là nhiều hay ít. TV sử dụng
khoảng 6000 âm tiết, còn tiếng Hán chỉ sử dụng một SL ít (khoảng 1/10 TV) cho nên HTĐÂ trong tiếng
Hán phổ biến hơn, nhiều hơn trong TV.
(4) So với các tiếng Ấn Âu, từ ĐÂ trong TV có những phẩm chất khác như sau: (a) Vì TV
không biến hình cho nên các từ đã có quan hệ ĐÂ sẽ giữ mãi quan hệ đó trong tất cả hoàn cảnh sử
dụng của mình, không có HTĐÂ ở một dạng thức biến đổi nào đó của từ, TV chỉ có một dạng ĐÂ
hoàn toàn mà thôi. (b) Vì trong TV, mỗi hình vị là một từ cho nên cũng không có sự đối lập giữa
HTĐÂ gốc từ và HTĐÂ phái sinh, chỉ có một loại ĐÂ gốc từ mà thôi.


(5) Trong TV, tuy có HTĐÂ giữa các ngữ và các cụm từ như: băng hà 1 và băng hà 2 … nhưng
R

R

R


R

HTĐÂ của từ vẫn là cơ bản và quan trọng nhất bởi: (a) HTĐÂ hoàn toàn của ngữ hoặc cụm từ tự do
ít hơn rất nhiều so với HTĐÂ của từ. (b) HTĐÂ của ngữ và cụm từ thường chỉ tạo nên từng cặp một,
trong khi ấy, loạt ĐÂ của từ khá phong phú, có khi lên tới 8 hay 9 thành viên. (c) Sự ĐÂ của từ
quyết định toàn bộ sự ĐÂ của những ĐV khác vì các ngữ, các cụm từ tự do ĐÂ với nhau là do từng
từ một tạo nên, chúng có quan hệ ĐÂ với nhau. HTĐÂ của ngữ và cụm từ chỉ là sản phẩm hậu kỳ
do kết quả của quá trình sử dụng có dụng ý của con người. (d) Các HTĐÂ trong TV đều bắt nguồn
từ sự ĐÂ của các từ và cần phải xuất phát từ sự ĐÂ của các từ để soi sáng các HTĐÂ khác là phù
hợp với thực tế TV. Tuy kết luận như vậy, nhưng tác giả cũng nêu lên những ngoại lệ sau: anh
nuôi 1 và anh nuôi 2 (theo tác giả là hai từ ghép); ý thức 1 và ý thức 2; hy vọng 1 và hy vọng 2… cũng
R

R

R

R

R

R

R

R

R


R

R

R

không phải là do ĐÂ của những từ đơn tiết tạo ra mà được hình thành từ HTCL.
Căn cứ vào năm kiểu từ khác nhau về nghĩa đã được phân chia, tác giả chia từ ĐÂ thành 14
kiểu quan hệ. Theo Nguyễn Thiện Giáp, bức tranh về HTĐÂ của TV rất đa dạng, trong một loạt ĐÂ
của TV có thể có trên dưới 10 từ thuộc các kiểu khác nhau (tr.173). Nguyễn Thiện Giáp còn bình
luận về tác dụng của từ ĐÂ. Theo ông, trong 14 kiểu quan hệ trên, chỉ có hai kiểu quan hệ có thể
gây ra sự hiểu lầm đó là: kiểu từ thuần việt - từ Hán Việt (kiểu 1.3) và kiểu từ Hán Việt - từ Hán
Việt (kiểu 3.3). Theo ông, sở dĩ các từ kiểu 1.3 và 3.3 dễ gây hiểu lầm bởi chúng không hoạt động
tự do nhưng cũng không chỉ nằm trong những kết hợp đơn nhất, nghĩa của chúng ít nhiều có sự
cộng hưởng với nghĩa của các từ cùng kết hợp với chúng, vì vậy người ta khó nhận ra nghĩa riêng
của từng từ. Ví dụ: nghĩa của các từ đại trong các kết hợp đại ác; đại biểu, thời đại…
Theo Nguyễn Thiện Giáp, có bốn con đường hình thành nên các ĐVĐÂ của TV, đó là: (1) do
sự tiếp nhận các từ nước ngoài, trong đó, các từ gốc Hán tạo nên SL lớn các loạt ĐÂ trong TV, (2)
do sự biến đổi ngữ âm, (3) do sự phân hóa ý nghĩa của từ ĐN, (4) do sự hình thành các ĐV từ vựng
mới trên chất liệu cũ.
Bàn về vấn đề phân biệt ĐVĐN và ĐVĐÂ trong TV, tác giả cho rằng: “TV là ngôn ngữ không
biến hình cho nên không thể áp dụng tiêu chuẩn hình thái của từ vì hoàn toàn không có tác dụng”.
Ông chủ trương vận dụng tiêu chuẩn ngữ nghĩa, theo ông “khi một ý nghĩa của một ĐV nhiều nghĩa
bị phân hóa xa đến mức cái nghĩa tố chung vốn có của ý nghĩa này với các ý nghĩa khác của từ trở
nên không quan yếu đối với nó nữa, đặc trưng cho ý nghĩa này là một nghĩa tố khác, chính nghĩa tố
đó đưa từ nhập vào một trường HT mới, khi đó có thể coi như đã xuất hiện một từ mới”.
Năm 1998, có quan điểm của tập thể tác giả Hoàng Văn Hành, Hà Quang Năng, Nguyễn Văn
Khang [57, tr.143-184]. Xuất phát từ quan điểm của Bloomfield, họ cho rằng: “hình vị là ĐV ngôn
ngữ nhỏ nhất, có nghĩa”. Các tác giả này tuy không đưa ra một định nghĩa cụ thể nào về từ song họ
thừa nhận “từ là ĐV cơ bản của TV”.



Theo họ, ĐÂ và nhiều nghĩa là những khái niệm khác nhau trong ngôn ngữ học. Song có một
điểm chung là: “sự khác nhau về ý nghĩa trong khi đồng nhất về hình thức”, điểm khác biệt giữa hai
HT này là ở chỗ: “trong trường hợp ĐÂ thì những cái được biểu hiện là khác nhau, còn trong trường
hợp nhiều nghĩa thì cái biểu hiện chỉ là một” (tr.159). Theo họ, “Hệ thống các nghĩa của từ ĐN
chính là toàn bộ các mối liên hệ [...] bị chế định theo một kiểu nhất định [...] và được bảo đảm bằng
tính liên tục của các quan hệ phái sinh giữa các nghĩa riêng rẽ của hệ thống... chỉ cần tính liên tục
này bị phá hủy, bị đứt đoạn dù chỉ ở một chỗ, chỉ cần một mắt xích bảo đảm cho tính liên tục này bị
mất đi thì sự thống nhất về ngữ nghĩa của từ sẽ bị phá vỡ và khi đó xảy ra sự phân rã HT nhiều
nghĩa, tức là biến một từ nhiều nghĩa thành hai từ ĐÂ không có liên hệ gì với nhau nữa”(tr.161).
Theo họ, “để nhận biết sự tồn tại hay vắng mặt các quan hệ phái sinh giữa các nghĩa có thể dùng:
phương pháp phân tích thành tố, phương pháp so sánh cách giải thích của từ điển, phương pháp cải
biến cách giải thích”(tr.162)... Họ đưa ra 02 tiêu chí sau để xác định HTĐÂ trong TV: (1) đồng nhất
về mặt biểu hiện (trùng về âm thanh), (2) khác nhau về bình diện được biểu hiện (ý nghĩa từ vựng, ý
nghĩa ngữ pháp).
Năm 1999, có quan điểm của Diệp Quang Ban [03, tr.69-70]. Ông quan niệm: “từ là ĐV nhỏ
nhất mà có nghĩa và có thể hoạt động tự do trong câu”. Khi bàn về yếu tố ngoại lai trong CTT TV,
tác giả có đề cập tới HTĐÂ trong TV. Ông khẳng định: “các yếu tố Hán vừa chiếm đa số vừa giữ
vai trò khá quan trọng trong vốn từ và trong CTT TV”. Theo ông, “các yếu tố gốc Hán du nhập vào
TV vốn tự chúng đã chứa nhiều trường hợp ĐÂ như: thủy 1 (nước), thủy 2 (bắt đầu, trước...). Thêm
R

R

R

R

vào đó là những trường hợp ĐÂ giữa các yếu tố gốc Hán với các yếu tố thuần Việt như: công 1

R

R

(thuần Việt) có nghĩa là “tha đi” như trong chim công mồi...và công 2 (Hán Việt) có ý nghĩa
R

R

là “chung cho mọi người” như trong của công, ruộng công...
Năm 1999, Lê Biên [05, tr.177-183] dưới góc độ cú pháp học, gián tiếp trình bày quan điểm
của mình về từ ĐÂ và ĐN khi trình bày HTCL trong TV. Theo tác giả, HTCL có liên quan đến
HTĐÂ, ĐN của từ: chuyển loại không phải là HTĐÂ từ vựng mà là ĐÂ – ngữ pháp (ĐÂCG). Theo
tác giả, “đây là những từ giống nhau về hình thức ngữ âm (ĐÂ), cùng gốc (xét về nghĩa) mà hiện
nay được sử dụng thành hai từ khác nhau về bản chất từ loại” (tr.179).
Năm 1999, Bùi Minh Toán [133, tr.61-68; tr.79,101] trình bày quan điểm của mình về từ ĐÂ và
ĐN trong TV. Tác giả cho rằng: “từ là ĐV nhỏ nhất mà có nghĩa và có thể dùng độc lập để tạo câu,
đồng thời là ĐV nhỏ nhất mà thực hiện được một số chức năng đối với tư duy và giao tiếp” (tr 39).
Theo ông, nghĩa của từ bao gồm: (1) thành phần NBV, (2) thành phần NBN, (3) thành phần nghĩa tình
thái.
Ông cho rằng: “Từ ĐÂ là những từ có hình thức âm thanh hoàn toàn giống nhau nhưng lại
khác hẳn nhau về ý nghĩa và có thể khác nhau cả về các phương diện khác như bản chất ngữ pháp,


chức năng trong giao tiếp, sắc thái phong cách...” (tr. 61). Theo ông, từ ĐÂ là HT có trong nhiều
ngôn ngữ. Nhưng có những ngôn ngữ, từ ĐÂ chỉ tồn tại trong dạng ngôn ngữ nói, còn khi hoạt động
giao tiếp tiến hành bằng ngôn ngữ viết thì chữ viết hiện thực hóa sự khác nhau giữa những từ ĐÂ
khác nghĩa. Lúc đó, các từ ĐÂ chỉ giống nhau khi nói hoặc khi đọc, còn khi viết, chúng được hiện
thực hóa theo các dạng chữ viết khác nhau. Điều này thể hiện rõ trong các loại chữ viết như chữ
Hán. Ông nêu ví dụ : trung 1 中 có nghĩa là: ở giữa và: trung 2 忠có nghĩa là: sự trung thành, một

R

R

R

R

lòng một dạ.
Theo Bùi Minh Toán, trong TV “các từ ĐÂ có sự giống nhau cả ở hình thức âm thanh khi nói, cả
ở hình thức văn tự khi viết. Nếu viết các từ ĐÂ bằng chữ quốc ngữ và viết rời từng từ thì ta không thể
phân biệt được chúng với nhau”. Theo ông, trong TV, đại đa số các từ ĐÂ là từ đơn tiết. Tuy vậy vẫn
có từ ĐÂ đa tiết. Cũng theo tác giả, “không chỉ ở bình diện nghĩa mà ở bình diện ngữ pháp cũng có từ
ĐÂ. Nhưng chúng mang những thuộc tính và bản chất ngữ pháp hoàn toàn khác nhau. Chúng thuộc các
hệ thống từ loại khác nhau, do đó chúng hiện thực hóa các thuộc tính ngữ pháp khác nhau khi tham gia
hoạt động giao tiếp”, (tr.79). Ông nêu ví dụ : là1 (là dt, chỉ hàng tơ, thưa, mỏng), là2 (là đg, chỉ hành
R

R

R

R

động làm phẳng quần áo), là3 (chỉ hành động sà xuống gần sát mặt phẳng nằm ngang nào đó), là4 (là
R

R

R


R

hệ từ) Nó là sinh viên, là5 (là tình thái từ) trông nó hiền hiền là.
R

R

Theo chúng tôi, mặc dù tác giả đã nêu lên được một số đặc điểm cơ bản của HT từ ĐÂ, ĐN
trong một số ngôn ngữ và trong TV, song khái quát chưa đủ, chưa toàn diện. Chẳng hạn, khi bàn về
HTĐÂ trong THHĐ ông đã bỏ sót HT ĐÂĐT và những HTĐÂ trong khi nói nhưng trên chữ viết lại
phân biệt trong TV.
Năm 2001, đáng lưu ý là công trình Từ điển đồng âm tiếng Việt của tập thể tác giả Hoàng Văn
Hành, Nguyễn Văn Khang, Nguyễn Thị Trung Thành, [58]. Công trình thu thập và giải thích
khoảng 7000 ĐVĐÂ (bao gồm từ, ngữ và các yếu tố CTT), đây là một trong số rất ít những công
trình thực hiện nhiệm vụ thu thập, xử lí những ĐVĐÂ trong TV. Mặc dù kết quả thống kê, phân loại và xử
lí của họ vẫn còn tồn tại những nhược điểm như: bỏ sót khá nhiều ĐV ĐÂST của TV… song đóng góp của
họ là quan trọng và rất đáng ghi nhận.
Năm 2007, đáng chú ý là quan điểm của Nguyễn Văn Khang [69, tr.144-198]. Những nội dung
liên quan tới HT từ ĐÂ, ĐN trong TV chủ yếu được tác giả khai thác từ góc độ từ ngoại lai.
Theo tác giả, khi các từ Hán Việt hoạt động trong TV đã tạo ra xung đột ĐÂ: Thứ nhất là HTĐÂ xảy
ra giữa các từ Hán Việt với từ Việt như: 埃 (ai) bụi ĐÂ với ai (đại từ);布(bố) vải ĐÂ với bố (cha);车(xa)
xe ĐÂ với xa (nói về khoảng cách). Thứ hai, là HTĐÂ xảy ra giữa các từ Hán Việt với nhau như:平 (bình)
bằng ĐÂ với 评 (bình) bình luận;人(nhân) người ĐÂ với 仁 (nhân) nhân đức (tr.144).
Theo tác giả, HTĐÂ có thể xảy ra giữa từ với từ, giữa hình vị với hình vị, giữa hình vị với từ
như: yếu要(quan trọng, là hình vị) ĐÂ với yếu (không khỏe, là từ) lưu留(giữ, ở lại; là từ) ĐÂ với




×