Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

skkn hình thành kỹ năng giải bài tập hóa học cho học sinh trường trung học cơ sở nhằm nâng cao hiệu quả dạy và học bộ môn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.21 KB, 16 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
PHÒNG GD&ĐT THÀNH PHỐ THANH HÓA
---------------------------&--------------------------

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

HÌNH THÀNH KỸ NĂNG GIẢI BÀI TẬP HÓA HỌC CHO
HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ NHẰM NÂNG CAO HIỆU
QUẢ DẠY VÀ HỌC BỘ MÔN

Người thực hiện: Nguyễn Thị Thu
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Hoằng Lý

SKKN thuộc lĩnh vực: Hóa học

THANH HOÁ. NĂM 2015

1


A.

ĐẶT VẤN ĐỀ

Hoá học ở trường Trung Học Cơ Sở là môn học tương đối khó đối với
học sinh. Vì lên lớp 8 học sinh mới được làm quen môn học. Phần nhiều bài tập
định lượng tập trung ở cuối lớp 8 và lớp 9. Để học sinh tiếp cận được kiến thức
thường thông qua một phương tiện hiệu nghiệm đó là bài tập hoá học. Đây là
một trong những nguồn để hình thành kiến thức cho học sinh. Giải bài tập hoá
học (BTHH) cũng giúp học sinh (HS) tìm kiếm được kiến thức và kỹ năng mới.


Thông qua bài tập hoá học học sinh sẽ hình thành, củng cố kiến thức, kỹ năng
hoá học, rèn luyện, phát triển tư duy...
Tuy nhiên với nhiều dạng bài tập hoá học khác nhau thì để hiểu và thành thạo
trong khi giải các bài tập này là vấn đề không đơn giản.
Qua một số năm và hiện tại giảng dạy Hoá học ở Trường THCS tôi thấy học
sinh thường dễ mắc những vấn đề sau: Không nắm được dạng bài tập, chưa định
hướng được cách giải, lúng túng khi trình bày lời giải, học xong thường quên
dạng bài tập, hoặc các bài tập cùng dạng mà khi thay một số từ ngữ là bế tắc,
luẩn quẩn, không định hình được dạng bài tập.... Nhìn chung, kỹ năng giải bài
tập Hoá học ở các em còn rất non yếu, chỉ một số ít học sinh các em giải được
các dạng bài tập (có thể được nhiều cách).
Vậy làm thế nào để giải quyết được vấn đề này ? Qua kinh nghiệm một số
năm và hiện tại giảng dạy Hoá học, tôi rút ra được một số kinh nghiệm thiết thực
cho việc ‘‘hình thành kỹ năng giải bài tập hóa học cho học sinh ở trường
trung học cơ sở nhằm nâng cao hiệu quả dạy và học bộ môn’’

2


B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I.

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Trong chương trình THCS nói chung và bộ môn Hoá học nói riêng, mục tiêu
đặt ra là không chỉ truyền đạt cho học sinh kiến thức theo yêu cầu mà phải hình
thành ở các em những kiến thức tổng quát để từ đó các em có thể vận dụng trong
mọi trường hợp, các em có thể giải quyết được những vấn đề đặt ra, giải các bài
tập bình thường và bài tập nâng cao.
Vì lẽ đó mà mỗi giáo viên cần truyền đạt cho học sinh các phương pháp, kỹ

năng giải bài tập để từ những phương pháp, kỹ năng được học các em vận dụng
vào những vấn đề cụ thể.
Mặt khác đối với môn Hoá học nếu không giải được các bài toán Hoá học thì
các em cũng sẽ không nắm được kiến thức về lý thuyết một cách cụ thể, về bài
tập để củng cố lý thuyết. Chính vì điều đó mà vấn đề đặt ra ở đây là phải truyền
đạt cho các em một cách đầy đủ và có hệ thống các phương pháp và thành thạo
về kỹ năng giải toán Hoá học, vì các bài toán cũng là thước đo mức độ hiểu bài
và trình độ tư duy của học sinh.
Như vậy qua những luận điểm nêu trên tôi thấy phương pháp giải toán Hoá học
và hình thành kỹ năng giải bài tập Hoá học cho học sinh ở trường trung học
cơ sở thực sự là cần thiết đối với học sinh bậc trung học cơ sở nói riêng và học
sinh phổ thông nói chung.
II. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC DẠY VÀ HỌC HÓA HỌC 8, 9 Ở
TRƯỜNG THCS.
1. Thực trạng
- Về phía nhà trường, học sinh và nhân dân. Nhiều người quan niệm Hoá học 8
là môn học mới nhiều lý thuyết, ít bài tập chỉ cần học thuộc lý thuyết là được,
cốt lõi khó phải là ở lớp 9 và trên nữa, nhưng ngày nay chủ yếu học sinh, phụ
huynh và toàn xã hội tập trung học Toán, Văn, Anh, ít chú trọng quan tâm học
môn khác nên việc dạy học của giáo viên gặp nhiều khó khăn, nhiều học sinh
3


không theo khối A, B , nhiều học sinh ngại khó, một bộ phận học sinh nhác học,
ham chơi nên chất lượng môn học của các em cuối năm chưa cao.
- Về đặc trưng bộ môn. Đây là môn học khó và mới đối với học sinh, vì lần đầu
tiên các em được học và nó đặt nền móng cho việc học bộ môn của các em ở các
lớp trên, nếu không vững kiến thức và kỹ năng giải bài tập ở lớp 8 thì sẽ không
giải được bài tập ở lớp 9 bao gồm cả bài tập định tính và bài tập định lượng, một
bài tập có nhiều cách giải khác nhau.

2. Kết quả học tập bộ bộ môn Hóa học 8, 9 năm học 2013 – 2014
Số học sinh

Kết quả học tập bộ môn
Giỏi
Khá
TB
Yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
Lớp 8 : 56
4
7,1 10
17,9
34
60,7
8
14,3
Lớp 9 : 40
2
5
7
17,5
27

67,5
4
10
- Trước thực trạng đó, để việc dạy của giáo viên và việc học tập bộ môn của học
sinh đạt kết quả cao hơn tôi đề ra một số phương pháp và hình thành kỹ năng
khi dạy phần Giải bài tập Hoá học 8, 9 để học sinh dễ tiếp thu và có hứng thú
học tập bộ môn.
III. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
HÌNH THÀNH KỸ NĂNG GIẢI BÀI TẬP HOÁ HỌC CHO HỌC SINH
TRUNG HỌC CƠ SỞ
1. Các giai đoạn của việc hình thành kĩ năng giải bài tập hoá học.
Sự hình thành kĩ năng giải bài tập hoá học (BTHH) là quá trình diễn ra trong
suốt thời gian học tập hoá học của học sinh. Có thể thấy gồm các giai đoạn
chính sau.
- Giai đoạn 1: Học sinh vận dụng lí thuyết để giải những BTHH. Khi học sinh
giải những bài tập sơ đẳng này sẽ tạo nên những thao tác cần thiết để giải các bài
tập hoá học cơ bản.
Ví dụ: Viết tên hoặc kí hiệu của nguyên tố hoá học, viết công thức theo hoá trị,
tính hoá trị dựa vào công thức, viết tên và công thức hoá học của một số đơn
chất , hợp chất (oxit, axit, bazơ, muối...), tính phân tử khối, khối lượng mol...

4


- Giai đoạn 2: Học sinh vận dụng kiến thức, thao tác để giải bài tập hoá học cơ
bản.
- Giai đoạn 3: Học sinh vận dụng kiến thức, kĩ năng giải bài tập cơ bản để giải
các bài tập phân hoá (BTPH) đa dạng, phức tạp hơn.
Ta thấy khi phát triển tri thức thì các kĩ năng tương ứng cũng nảy sinh. Kiến
thức hoá học ngày càng được mở rộng, nâng cao thì kĩ năng cũng mở rộng và

phát triển theo.
Ví dụ: Ở bài tính theo phương trình hoá học, học sinh mới chỉ biết tính theo
phương trình hoá học với các chất là tinh khiết, phản ứng xảy ra không còn chất
dư ban đầu, với hiệu suất là 100%. Khi học sinh có kiến thức về chất khí oxi, thể
tích về một chất khí thì học sinh lại có thêm kĩ năng tìm thể tích khí tham gia
hoặc tạo thành sau phản ứng mà cácchất tham gia có thể tác dụng vừa đủ với
nhau hoặc dư một chất ban đầu... Khi học sinh có thêm kiến thức về nồng độ
dung dịch, về một số chất mà phản ứng xảy ra trong dung dịch thì kĩ năng giải
bài tập hoá học về tính theo phương trình hoá học (phản ứng xảy ra trong dung
dịch cũng được hình thành).
Ngoài ra nếu hình thành kĩ năng riêng lẻ cho học sinh thì có thể gồm ccác giai
đoạn sau:
- Giai đoạn 1: Giải bài tập mẫu. Có thể do giáo viên giải mẫu hoặc giáo viên gợi
ý để học sinh độc lập thực hiện tuỳ trình độ học sinh và phương pháp của giáo
viên
- Giai đoạn 2: Luyện theo mẫu
- Giai đoạn 3: Rèn không theo mẫu để cũng cố và phát triển. Đây là các bài tập
phức tạp, đa dạng hơn, biển đổi so với bài mẫu. Để hình thành được kĩ năng giải
các bài tập, phải nắm được hệ thống của nó. Đây là một mối quan hệ và mật
thiết với nhau.
2. Hệ thống kĩ năng giải bài tập hoá học.
* Kĩ năng giải bài tập hoá học gồm:
+ Kĩ năng giải bài tập lí thuyết
5


- Kĩ năng giải bài tập lí thuyết định tính
- Kĩ năng giải bài tập lí thuyết định lượng
+ Kĩ năng giải bài tập thực nghiệm
- Kĩ năng giải bài tập thực nghiệm định tính

- Kĩ năng giải bài tập thực nghiệm định lượng
Trong các kĩ năng trên bao gồm kĩ năng giải bài tập cơ bản và kĩ năng giải bài
tập phân hoá. Qua quá trình dạy hoá học 8, 9 tôi rút ra được sơ đồ chung định
hướng cho học sinh khi gặp các loại bài tập trên
3. Sơ đồ định hướng giải bài tập hoá học.
- Trong thực tiễn dạy các lớp, có rất nhiều học sinh không nắm được ngay cả
hành động, thao tác giải những bài tập mẫu đơn giản phổ biến nên không thể
giải được các bài tập khó. Vạch ra sơ đồ để định hướng cho học sinh sẽ có nhiều
tác dụng.
Chỉ dẫn ra được phương hướng chung sẽ tìm kiếm lời giải bài tập, tạo điều kiện
cho học sinh có thói quen xác định được phương hướng và cách hành động
trước khi bắt tay vào hành động cụ thể. Mặt khác mỗi chỉ dẫn nêu ra cần phải
làm gì, còn phải thực hiện trình tự thao tác nào ?
- Giải bài tập hoá học theo sơ đồ định hướng chuẩn bị cho học sinh giải bài tập
hoá học độc lập, sáng tạo. Vì trong khi hướng dẫn học sinh giải bài tập mẫu ,
những thao tác tư duy và kĩ năng giải bài tập của học sinh được hình thành, đồng
thời học sinh sẽ thực hiện các thao tác ấy đến mức thành thạo từ bài tập mẫu
sang bài tập tương tự hoặc bài tập phân hoá.
- Giải bài tập hoá học theo sơ đồ định hướng giảm khó khăn cho học sinh trong
quá trình nắm vững kĩ năng giải bài tập và có thể dạy mọi đối tượng học sinh,
Đặc biệt với học sinh trung bình, khá và kém. Riêng với học sinh giỏi có thể tự
rút ra phương pháp giải mỗi loại bài tập và vận dụng để giải bài tập tương tự và
bài tập biến đổi. Nhưng học sinh trung bình khá trở xuống thì không có khả
năng này. Sơ đồ định hướng sẽ giúp học sinh phương hướng tìm kiếm lời giải dễ
hơn.
6


Tạo cho học sinh có thói quen làm việc theo quy trình chặt chẽ, đặt kế hoạch
trước khi thực hiện cụ thể , có thói quen lập luận và hành động chặt chẽ, chính

xác.
Qua các tác dụng trên, dạy học sinh phương pháp tìm kiếm lời giải bài tập hoá
học nói chung, giải bài tập lí thuyết, bài tập thực hiện theo từng loại bài tập cơ
bản và bài tập phân hoá.
Ở đây, tuỳ theo tính chất tạm chia ra hai loại sơ đồ định hướng sau:
3.1. Là sơ đồ định hướng khái quát khi giải BTHH:
Đây là dạng sơ đồ gồm các giai đoạn và yêu cầu khi giải bất kì bài tập hoá học
nào. Có thể gọi là bước chung, phương pháp chung, dàn bài...
a) Nghiên cứu đầu bài.
Giáo viên phải hướng dẫn học sinh đọc kĩ đầu bài, tìm điều kiện đầu bài cho và
yêu cầu đầu bài còn ẩn chứa...
Tóm tắt đầu bài. Đổi đơnvị của các đại lượng ra cùng một hệ thống nhất.
Ví dụ: Đổi ml ra cm3, gam hoặc lít ra mol...
Ví dụ: Tính thể tích oxi (đktc) cần dùng để đốt cháy hoàn toàn :
a/ 11,2 lit khí H2 ?
b/ 24 gam C ?
11,2

Giải: a/ Số mol hiđro đã dùng là: nH 2 = 22,4 = 0,5 mol H2
+ O2 → 2H2O

Phương trình phản ứng: 2H2
2mol

1mol

0,5 mol

xmol


Số mol O2 cần dùng là x =

0,5.1
= 0,25 mol
2

Hay 0,25 . 22,4 = 5,6 (l) O2
b/ Số mol C đã dùng là: nC =

22,4
= 2mol C
12

Phương trình phản ứng: C +

O2



CO2

1mol 1mol
7


2mol xmol
Số mol O2 đã dùng theo phương trình phản ứng là: x =

2.1
= 2 mol O2

1

Hay VO 2 (đktc) cần là: 2 . 22,4 = 44,8 (l) O2.
b) Xác định phương hướng giải
Tìm mối liên hệ giữa yêu cầu của bài và các điều kiện của bài. Lập kế hoạch giải
theo từng bước chi tiết và thứ tự thực hiện . Trong mỗi bước cần xác định sử
dụng kiến thức nào, kĩ năng nào ?
c) Trình bày lời giải
Học sinh phân tích tổng hợp, khái quát hoá để rút ra kết luận. Viết các PTHH
hoặc thực hiện để lập công thức hoá học. Lập phương trình toán học hoặc sử
dụng các biểu thức sẵn có biểu diễn mối liên hệ giữa các đại lượng tìm. Tính
toán hoặc lập luận để rút ra kết luận cần thiết.
d) Kiểm tra kết quả.
Đây là khâu cuối cùng rất quan trọng . Tác dụng xem câu trả lời có sai yêu cầu
của bài không ? Lập luận chặt chẽ không ? Đã sử dụng hết điều kiện của bài
chưa ? Sử dụng biểu thức đã đúng chưa ? Tính toán chính xác chưa ? Kết quả có
phù hợp với thực tế không ?
Giáo viên khi hướng dẫn học sinh làm bài tập cần tạo cho học sinh có thói quen
giải theo sơ đồ khái quát. Vì đây là bảng chỉ dẫn hành động chung.
Tuy nhiên với mỗi dạng bài tập thì hành động, thao tác cụ thể sẽ khác nhau,
nhưng luôn giống nhau ở 4 bước cơ bản. Và để phù hợp với từng loại bài tập
hoá học lại phải có sơ đồ cụ thể.
3.2. Sơ đồ định hướng cụ thể.
Đây là sơ đồ cụ thể hoá sơ đồ khái quát hoá ở trên đối với mỗi loại bài tập.
Ví dụ: Sơ đồ cụ thể với với dạng bài tập:
- Tính a (g) nguyên tố trong b (g) hợp chất.
- Tính thể tích khí theo lượng chất khác trong PTHH.

8



- Tính thể tích dung dịch A có nồng độ C để tác dụng với một lượng xác định
chất B...
- Tính thành phần % về khối lượng nguyên tố trong hợp chất của nó.
Với mỗi dạng bài tập này giáo viên cần cho học sinh nắm vững được sơ đồ cụ
thể
Bài tập ví dụ:
Ví dụ 1: Tính thể tích khí H 2 sinh ra ở (đktc) khi cho 28 (g) Fe tác dụng vừa đủ
với HCl.
Giải:
Theo em: ? Đề bài cho biết gì ? Tìm gì ?
? Nêu thuận lợi của bài toán ? (lượng HCl vừa đủ )
? Đề bài cho biết 28 (g) Fe nghĩa là ta dễ dàng tìm được đại lượng nào
trước ?
? Một em nêu hướng giải ?
Theo đề lượng Fe đem dùng là: nFe =
Phương trình phản ứng: Fe

28
= 0,5 mol Fe
56

+ 2HCl

=

FeCl2

+


H2

1mol

1mol

0,5 mol

x mol

⇒x=

0,5.1
= 0,5 mol H2
1

Thể tích H2 sinh ra ở (đktc) là 0,5 . 22,4 = 11,2 (l)
Ví dụ 2: Tính thành phần % về khối lượng nhôm trong Al2O3 ?
? Đề bài cho biết gì ?

Tìm gì ?

? Nêu hướng giải ?
Giải:
MAl 2 O 3 = (27 . 2) + (16 .3) = 102

;

M Al


MAl = 27 .2 = 54
54.

⇒ % Al = M
. 100 =
. 100 = 53%
102
Al O
2

3

9


4. Hướng dẫn học sinh suy nghĩ, tìm kiếm lời giải bài tập hoá học.
Nếu giáo viên đã hướng dẫn học sinh sơ đồ định hướng bài tập hoá học rồi thì
việc hướng dẫn học sinh tìm kiếm lời giải với mỗi bài tập hoá học là việc mang
tính gợi mở, dẫn dắt và gồm các bước sau:
4.1. Đặt vấn đề: (nêu tình huống) trong bài tập.
Nhằm kích thích tư duy và gây hứng thú cho học sinh nếu giáo viên chỉ đọc
sách giáo khoa sẽ rất hạn chế.
Ví dụ: Khi dạy học sinh tính theo PTHH, thay cho việc đọc bài tập. Giáo viên
nêu vấn đề như sau: Một nhà sản xuất muốn có 2,7 tấn nhôm thì phải dùng bao
nhiêu tấn nhôm oxit (Al2O3) ? Làm thế nào để tính được ?
4.2. Dùng hệ thống câu hỏi dẫn dắt học sinh tìm kiếm lời giải bài tập hoá học.
Giáo viên dùng câu hỏi gợi mở để học sinh suy nghĩ và thực hiện bằng vận dụng
kiến thức, kĩ năng đã biết, câu hỏi cô đọng, chính xác và phải hướng theo sơ đồ
định hướng chung và sơ đồ cụ thể mà giáo viên hướng dẫn cho học sinh.
Ví dụ: Khi giải bất kì bài tập hoá học nào tính theo PTHH ta đều phải hỏi gợi

mở dẫn dắt.
? Trước tiên chúng ta phải làm gì ? (đọc đề và tóm tắt đề)
? Tiếp theo chúng ta phải làm gì ? (tìm dữ liệu đàu bài)
? Dữ liệu đầu bài có tác dụng gì ? (thấy thuận lợi, khó khăn của bài toán, xác
định được việc nào làm trước, việc nào làm sau ).
? Em hãy nêu trình tự một cách giải ?
- Bước1: Dựa theo dữ kiện bài cho để tính toán các đại lượng liên quan cần thiết.
- Bước 2: Viết PTHH và đặt tỉ lệ của PTHH và dữ liệu của đầu bài cho.
- Bước 3: Tính toán theo PTHH để tìm kết quả.
4.3. Qua cách làm cụ thể giáo viên yêu cầu học sinh tự rút ra sơ đồ giải loại
bài tập hoá học nào đó.
- Giúp phân biệt được lực học của học sinh. Nâng cao khả năng khái quát vấn đề
, với học sinh giỏi sẽ giỏi hơn, học sinh yếu, học sinh trung bình sẽ định hướng

10


được hành động của mình. Giáo viên nên cho thêm một số bài tập tương tự để
cho họcsinh áp dụng cho thành thạo.
5. Sử dụng bài tập hoá học trong quá trình dạy học hoá học nhằm hình thành
kĩ năng giải bài tập hoá học.
Việc hình thành kĩ năng giải BTHH chỉ có thể được khi thông qua hoạt động
giải BTHH của học sinh. Có giáo viên cho rằng: số tiết phân phối ít (1 - 2 tiết/
tuần), thời gian hạn chế thì làm sao giải BTHH cho học sinh được ? Theo tôi,
BTHH không phải chỉ vận dụng sau tiết học mà nó bao gồm trong tài liệu mới,
luyện tập, thực hành, có thể chiếm phần lớn tiết học. Tôi có một số ý kiến như
sau:
5.1. Sử dụng bài tập hoá học trong bài mới.
Gồm bài tập lí thuyết và bài tập thực nghiệm thường xuyên xuất hiện là: Bài tập
đề xuất vấn đề, bài tập giải quyết vấn đề, sử dụng bài tập để cũng cố kiến thức.

Ví dụ 1: Bài tập đề xuất vần đề khi học bài Canxi oxit. Giáo viên nêu câu hỏi: ?
liệu Canxi oxit có đầy đủ tính chất hóa học của oxit bazơ không ? khi hướng dẫn
học sinh giải bài tập tính theo PTHH, giáo viên đặt vấn đề: làm thế nào thu được
khối lượng, thể tích sản phẩm mong muốn mà lại tiết kiệm được hoá chất (lấy
vừa đủ chất tham gia phản ứng).
Khi nêu bài tập như vậy sẽ kích thích tính tò , tư dy tích cực của học sinh.
Ví dụ 2: Để hình thành khái niệm của một số hợp chất: oxit , axit... thường qua
một số ví dụ cụ thể. Giáo viên yêu cầu học sinh phân tích tìm ra đặc điểm chung
trong thành phần phân tử của các chất cụ thể và khái quát hoá để hình thành khái
niệm.
Ví dụ 3: Nhận xét trạng thái, màu sắc, mùi, vị của các chất... trước khi tham gia
phản ứng, nhận xét hiện tượng khi phản ứng xảy ra, nhận xét, giải thích hiện
tượng, kết luận về sản phẩm của phản ứng, những kết luận rút ra. Viết phương
trình phản ứng.
Ví dụ 4: Đây là các bài tập cũng cố, nhằm vào các tình huống học sinh dễ mắc
sai lầm, hoặc muốn khắc sâu kiến thức kĩ năng nào đó, hoặc mở rộng nâng cao...
11


Qua các tình huống của bài tập học sinh thấy rõ sâu sắc hơn kiến thức và kĩ
năng. Sau khi học sinh biết khái niệm oxit, axit..., giáo viên có thể phân loại
ngay bài tập lựa chọn.
Bài tập: Hãy cho biết công thức nào dưới đây là ôxit, axit, bazơ, muối... ?
CaO ; NaOH ; H2SO4 ; CaCl2 ; SO2...
Giải:
- Ôxit: CaO ; SO2.
- Axit: H2SO4
- Bazơ: NaOH
- Muối: CaCl2.
5.2. Sử dụng BTHH trong tiết luyện tập, ôn tập...

Các BTHH sử dụng trong tiết học này có thể bao gồm các loại: Bài tập lí thuyết
định tính, bài tập lí thuyết định lượng, bài tập thực nghiệm định tính và bài tập
thực nghiệm định lượng. Khi ôn giáo viên có thể sử dụng bài tập cơ bản hoặc
bài tập phân hoá nhưng thường là bài tập phân hoá.
Trong tiết luyện tập, giáo viên và học sinh cùng giải một bài tập phân hoá do
giáo viên nêu ra, sau đó giáo viên yêu cầu học sinh tự xây dựng, khái quát ra sơ
đồ thực hiện. Để cũng cố lại thì giao cho học sinh giải bài tập phân hoá để cũng
cố kiến thức kĩ năng đã học.
Ngoài ra có thể làm theo cách vừa chữa, vừa hướng dẫn học sinh kiểm tra theo
sơ đồ thực hiện đã hướng dẫn. Ngoài bài tập của sách giáo viên thì sách giáo
viên nên bổ sung thêm những bài tập giúp nâng cao trình độ, kĩ năng của học
sinh ở mức thành thạo, linh hoạt sáng tạo.
5.3. Sử dụng bài tập hoá học khi thực hành thí nghiệm.
Ở cấp T.H.C.S học sinh bước đầu làm quen với hoá học. Đây là môn học thực
nghiệm, do đó rèn luyện kĩ năng giải bài tập thực nghiệm là rất quan trọng, rèn
luyện kĩ năng thực hành thí nghiệm qua việc thực hiện thí nghiệm nghiên cứu,
quan sát, thao tác giáo viên biểu diễn thí nghiệm cũng rất cần thiết. Ngoài ra
giáo viên có thể cho học sinh giải bài tập thực nghiệm ở các bài thực hành. Ở bài
12


này, học sinh phải tiến hành giải lí thuyết theo sơ đồ sau đó đến phần thực hiện
các thí nghiệm.
- Trước buổi thực hành, giáo viên yêu cầu học sinh đọc trước bài và tìm cách
thiện thí nghiệm. Giải các bài tập thực nghiệm theo hệ thống câu hỏi trong bài
thực hành.
- Ở tiết thực hành, giáo viên nêu câu hỏi và lôi cuốn học sinh giải bài tập thực
nghiệm theo 2 bước; giải lí thuyết và tiến hành thí nghiệm: Giáo viên yêu cầu
học sinh áp dụng các sơ đồ đã học để giải lí thuyết và thực hiện thao tác thí
nghiệm theo thứ tự mà lí thuyết vạch ra.

- Giáo viên yêu cầu học sinh nhớ trình tự thực hiện, hiện tượng trước và sau
phản ứng. Giải thích kết quả. Nếu khó quá, giáo viên biểu diễn để học sinh quan
sát và sau đó thực hiện các nhiệm vụ đặt ra:
Cuối cùng giáo viên yêu cầu học sinh làm bài tập ở nhà theo mẫu:
+ Nêu tên thí nghiệm
+ Cách tiến hành
+ Hiện tượng xảy ra. Giải thích hiện tượng
+ Viết phương trình phản ứng xảy ra
Với bất cứ cách sử dụng nào thì bài tập hoá học giáo viên đưa ra nên đảm bảo
yêu cầu:


Hình thành, cũng cố và vận dụng các kiến thức vào bài học



Cũng cố, phát triển kĩ năng trước đó



Bài tập đưa ra phù hợp với nội dung bài



Lựa chọn bài tập phù hợp với các đối tượng học sinh



Bài tập hoá học nên kế thừa, dựa vào bài đã học hoặc tương tự bài tập cơ


bản có biến đổi chút ít để học sinh phát triển tư duy, rèn luyện kĩ năng giải bài
tập hoá học, hoặc học sinh rút ra được các vấn đề sau khi giải.


Liều lượng vừa phải, mang tính tổng hợp.

13


Tuy nhiên với thời gian có hạn, để hiệu quả trong việc hình thành kĩ năng thì
giáo viên phải có kế hoạch cho bài hoặc chương đưa bài tập gì ? đưa bài tập
nào ? mục đích là gì ?. Giáo viên cũng nên sử dụng phương pháp hỗ trợ trong
giờ dạy: bảng phụ, phiếu học tập, tranh ảnh, hình vẽ, sơ đồ để tiết kiệm thời gian
và học sinh dễ hiểu.
6. Quy trình thực hiện hình thành kĩ năng giải BTHH.
Theo tôi thực hiện thường theo trình tự sau:
- Luyện tập theo mẫu
- Luyện tập không theo mẫu
- Luyện tập thường xuyên
* Để cũng cố và phát triển kĩ năng
Giải bài tập hoá học, cần tạo điều kiện cho học sinh vận dụng vừa sức với yêu
cầu cao dần.
- Luyện tập theo nhiều hình thức
Ngoài sử dụng đa dạng các bài tập hoá học thì giáo viên cần phải phối hợp nhiều
hình thức giải bài tập hoá học . Giải bằng lời nói, giải thực nghiệm. Học sinh
tham gia giải ở lớp, ở nhà...
IV. KIỂM NGHIỆM
1.

So sánh với năm học trước


Số học sinh tích cực, chủ động học tập nhiều hơn, các em có hứng thú học tập
bộ môn hơn, nhiều em đạt kết quả cao hơn trong học tập và rèn luyện, việc học
môn Hóa học không còn là khó khăn, trở ngại, bế tắc đối với các em, tâm lý
ngại khó, ngại học đã được khắc phục nhiều ở học sinh, các em hứng thú hăng
say học tập, biết phân loại bài toán để giải nên kết quả học tập tăng lên rõ rệt:
Loại Giỏi tăng: 7,2 %, Khá tăng 12,5 %,Trung bình giảm 9%, Yếu giảm 10,7 %
2.

Kết quả đạt được
Kết quả học tập bộ môn Hóa học 8, 9 học kỳ I năm học 2014 – 2015
Số học sinh

Kết quả học tập bộ môn
14


Lớp 8:
Lớp 9:

40
56

Giỏi
SL
%
5 12,5
8 14,3

Khá

SL
12
17

%
30
30,4

TB
SL
21
29

%
55
51,7

Yếu
SL
1
2

%
2,5
3,6

C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
Qua thực tiễn giảng dạy, tôi thấy rằng việc áp dụng những đúc rút kinh nghiệm
trên mang lại hiệu quả cao hơn. Học sinh dễ hiểu bài, nắm bắt nhanh kiến thức
và lại có khả năng sáng tạo trong học tập, giải quyết được hầu hết những vướng

mắc trong việc học tập HOÁ HỌC.
Tuy nhiên đó mới chỉ là một số kinh nghiệm của bản thân. Để đạt được
hiệu quả như mong muốn còn cần thêm một số điều kiện cũng rất thiết yếu:
Giáo viên phải chuẩn bị bài tốn thời gian hơn (đầu tư kiến thức và bài soạn kĩ

15


hơn), đồ dùng giảng dạy phải đầy đủ (mô hình, thí nghiệm, thực hành, tranh
vẽ...) .
Do thời gian làm đề tài còn hạn chế, nên đề tài chưa thật hoàn hảo. Rất mong
được sự trao đổi, đóng góp ý kiến, ủng hộ của các đồng nghiệp để đề tài được
hoàn thiện hơn, việc tạo điều kiện của nhà trường để tôi thực hiện tốt nhiệm vụ
của mình trong những năm công tác tiếp.
Xin trân trọng cảm ơn.
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị

TP Thanh hóa, ngày 20 tháng 3 năm 2015
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác
Người viết

Nguyễn Thị Thu
ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG

MỤC LỤC
A.
ĐẶT VẤN ĐỀ
B.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

I .Cơ sơ lý luận của vấn đề nghiên cứu
II. Thực trạng của việc dạy và học hóa học 8,9 ở trường THCS
III. Các biện pháp thực hiện: hình thành kỹ năng giải bài tập hóa học cho học
sinh THCS
IV. Kiểm nghiệm
C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
16



×