Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Bản đồ địa lí là hình vẽ thu nhỏ toàn bộ bề mặt trái đất hoặc một số khu vực của bề mặt trái đất trên mặt phẳng dựa vào các phương pháp toán học, phương pháp biểu hiện bằng kí hiệu để thể hiện các thông tin về địa lí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.3 KB, 14 trang )

A – ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong nhu cầu phát triển giáo dục hiện nay của đất nước cùng với sự phát triển
như vũ bão của khoa học kỹ thuật đòi hỏi phải có một thế hệ trẻ năng động, sáng tạo
và tự chủ. Do đó trong giáo dục không ngừng đổi mới nội dung, chương trình,
phương pháp dạy học và cải tiến phương tiện dạy học để đáp ứng yêu cầu phát triển
của xã hội. Trong điều kiện phát triển của các phương tiện truyền thông, trong bối
cảnh hội nhập, mở rộng giao lưu, học sinh được tiếp cận nhiều nguồn thông tin đa
dạng phong phú từ nhiều mặt của cuộc sống, có hiểu biết nhiều hơn, linh hoạt và
thực tế hơn. Trong học tập, các em không còn thoả mãn với vai trò của người tiếp
thu thụ động, không chỉ chấp nhận các giải pháp đã có sẵn được đưa ra. Như vậy, ở
lứa tuổi này nảy sinh một số yêu cầu và cũng là một quá trình, sự lĩnh hội độc lập
các tri thức và phát triển kĩ năng. Nhưng các phương thức học tập tự lập ở học sinh
nếu muốn được hình thành và phát triển một cách có chủ định thì cần thiết phải có
sự hướng dẫn của giáo viên với các phương tiện dạy học trực quan.
Trong quá trình học tập của các em có rất nhiều bộ môn. Nhưng ở đề tài này
tôi muốn đề cập đến bộ môn địa lí. Địa lí là một môn học tổng hợp. Nó được kết hợp
chặt chẽ giữa các môn khoa học tự nhiên và các môn khoa học xã hội. Bởi vậy muốn
học tốt, hiểu biết và giải thích các sự vật hiện tượng địa lí một cách thành thạo. Học
sinh cần phải xét trong mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố tự nhiên và các yếu
tố xã hội, giữa các yếu tố tự nhiên với tự nhiên, xã hội với xã hội. Để làm được
những điều đó cần phải có phương pháp dạy học phù hợp, sử dụng phương tiện dạy
học phù hợp.
Trong số các phương tiện dạy học trực quan của môn địa lí, bản đồ là phương
tiện cần thiết và gần gũi nhất với học sinh. “Bản đồ Địa lí là hình vẽ thu nhỏ toàn
bộ bề mặt Trái Đất hoặc một số khu vực của bề mặt Trái Đất trên mặt phẳng
dựa vào các phương pháp Toán học, phương pháp biểu hiện bằng kí hiệu để thể
hiện các thông tin về Địa lí”. Bản đồ có khả năng phản ánh sự phân bố và những
1


mối quan hệ của các đối tượng Địa lí trên bề mặt Trái Đất một cách cụ thể mà không


một phương tiện nào có thể thay thế được. Do đó, bản đồ vừa là phương tiện trực
quan, vừa là nguồn tri thức quan trọng trong việc dạy học Địa lí. Bản đồ là cuốn
SGK thứ 2 của địa lí, đồng thời sử dụng bản đồ cũng là một phương pháp đặc trưng
trong dạy học địa lí. Chính vì vậy, tôi đã nghiên cứu, áp dụng vào quá trình giảng
dạy và rút ra một số kinh nghiệm về vấn đề “ Sử dụng bản đồ trong dạy học môn
Địa lí lớp 8 ”.

B – GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I . CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ.
Địa lí là một môn học tổng hợp nó có khả năng cung cấp cho học sinh kiến thức
khoa học về tự nhiên, dân cư, xã hội, hoạt động kinh tế của con người ở khắp mọi nơi
trên Trái Đất. Trang bị cho học sinh những kĩ năng về bản đồ mà rất ít bộ môn đề cập
tới. Một trong những phương pháp học tập tốt môn địa lí là học sinh phải biết cách
đọc và sử dụng bản đồ thành thạo. Đọc bản đồ không phải thuần túy là đọc kênh chữ ,
kênh hình…. Mà cần phải đọc và biết chúng trong mối tương quan gắn bó chặt chẽ
với nhau của đơn vị kiến thức trên bản đồ và trong sách giáo khoa. Nhưng thực tế hiện
nay tại rất nhiều nhà trường trong đó có trường THCS Hoằng Lý học sinh còn rất yếu
về kĩ năng sử dụng bản đồ trong quá trình học tập. Nhiều học sinh trong nhà trường
còn chưa biết sử dụng và sử dụng chưa thành thạo bản đồ trong quá trình học tập môn
địa lí nên kết quả học tập không cao. Đa số các em đặc biệt là học sinh khối lớp 8 chỉ
mới nhớ kiến thức lí thuyết một cách máy móc mà chưa hiểu và vận dụng kiến thức
bản đồ vào quá trình học tập.
Xuất phát từ cơ sở lí luận trên để học sinh học tập môn địa lí đạt kết quả cao hơn
thì ngoài việc nâng cao và bồi đắp không ngừng vốn kiến thức về tự nhiên và xã hội
đặc biệt là kiến thức địa lí thì giáo viên trực tiếp dạy bộ môn địa lí phải trang bị và
rèn luyện cho các em cách sử dụng bản đồ trong quá trình học tập một cách thành
thạo nhất. Bởi đây là một kĩ năng cơ bản nhất của môn học. Khi đã rèn luyện cho
2



các em kĩ năng sử dụng bản đồ trong quá trình học tập thì tôi tin chắc rằng các em
sẽ học rất tốt bộ môn địa lí. Ngoài ra từ sự hiểu biết đó học sinh cũng sẽ rèn luyện
được cách sử dụng bản đồ cho đúng yêu cầu thể hiện, sự hoàn hảo và chuẩn xác khi
trình bày cho người hiểu và nắm bắt được vấn đề mình muốn trình bày.
II . THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ.
1. Thực trạng chung:
Với nhu cầu phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ thì việc sử dụng bản
đồ trong quá trình giảng dạy gần như bị coi là lạc hậu. Nhưng thực tế trong các nhà
trường THCS hiện nay nói chung, trường THCS Hoằng Lý nói riêng không có đủ
điều kiện để trang bị cho mỗi phòng học một máy chiếu đa năng để áp dụng công
nghệ thông tin trong quá trình dạy – học. Chính vì vậy bản đồ treo tường vẫn là đồ
dùng trực quan thiết thực và đem lại hiệu quả cao nhất, phù hợp với tình hình thực tế
của nhà trường. Trong quá trình giảng dạy tôi nhận thấy rất nhiều học sinh đặc biệt
là học sinh khối lớp 8 còn thiếu, yếu trong kĩ năng sử dụng bản đồ. Trong các bài
học có liên quan đến sử dụng bản đồ việc rèn luyện kĩ năng bản đồ cho học sinh còn
gặp rất nhiều khó khăn. Vì không có đủ thời gian để nhắc lại cách sử dụng bản đồ và
nhiều học sinh còn không biết cách xác định phương hướng trên bản đồ, ngại tiếp
xúc với bản đồ, đặc biệt là bản đồ địa lí tự nhiên và bản đồ kinh tế - xã hội của các
khu vực và thế giới. Với tâm lí lung túng, không nhớ kiến thức bản đồ của những lớp
trước nên nhiều em có cảm giác lo sợ khi phải học bản đồ, rất ngại học bộ môn. Đây
là khó khăn lớn đối với giáo viên khi rèn luyện kĩ năng sử dụng bản đồ cho học sinh
trong quá trình giảng dạy.
2 . Đối với giáo viên:
Trong quá trình giảng dạy nhiều năm ở tất cả các khối lớp, tôi nhận thấy:
Trong chương trình địa lí, ngoài một số bài học về bản đồ ở lớp 6, không có bài học
nào dành riêng cho việc rèn luyện kĩ năng sử dụng bản đồ cho học sinh mà chỉ được
lồng ghép rất ít vào một số bài học. Nên nhiều học sinh đặc biệt là học sinh khối lớp
8 không biết cách sử dụng bản đồ nên đôi khi giáo viên cũng ngại dạy bằng bản đồ.
3



Bởi nếu dạy bằng bản đồ thì giáo viên chỉ còn cách áp dụng phương pháp thuyết
trình là chính mà không áp dụng được phương pháp mới – lấy học sinh làm trung
tâm trong quá trình dạy học. Không đổi mới được phương pháp giảng dạy cũng như
nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
3. Đối với học sinh:
Có rất nhiều học sinh dường như không biết cách sử dụng bản đồ với mỗi bản
đồ treo tường trên lớp có nhiều em chưa biết đâu là các hướng Bắc – Nam – Tây –
Đông, các em không biết cách khai thác kiến thức từ bản đồ. Nên trong các giờ học
nếu giáo viên gọi lên bảng để chỉ trên bản đồ treo tường về một đối tượng địa lí nào
đó là các em rất ngại, chần chừ và tâm lí không muốn lên bảng, có những em lại sợ
sệt khi giáo viên gọi lên bảng. Do vậy kiến thức các em tiếp thu được sau mỗi tiết
học là không chắc chắn hay nói đơn giản là “ học vẹt” nên rất nhanh quên. Đến các
bài thực hành phải làm việc nhiều với bản đồ, thì các em thấy rất khó khăn và lúng
túng, nhiều em chỉ nói và làm theo bạn bè mà không hiểu gì cả. Mặc dù trong sách
giáo khoa địa lí có khá nhiều bản đồ nhưng hiện nay nhiều học sinh sử dụng bản đồ
trong học tập bộ môn còn ở mức yếu và trung bình, số học sinh sử dụng tốt không
nhiều nên hiệu quả giờ học không cao.
4. Kết quả kiểm tra trước khi thực hiện đề tài:
Mức độ Chưa biết sử dụng Biết sử dụng
SL
%
SL
%
Lớp(25 học
8A
15
60
5
20

sinh)
8B (23 học
14
60.9
4
17.4
sinh)
Ghi chú : Số lượng (SL)

Sử dụng tốt
SL
%
5

20

5

21.7

Từ những thực trạng và kết quả trên để việc giảng dạy đạt hiệu quả bản thân tôi
đã mạnh dạn cải tiến phương pháp giảng dạy theo những giải pháp sau:
III. GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN.
4


1. Tìm hiểu đối tượng học sinh :
Qua quá trình giảng dạy, tìm hiểu học sinh tôi nhận thấy: nhìn chung học
sinh rất thích với những tiết học có bản đồ vì các em được tận mắt nhìn thấy phương
hướng, địa điểm, địa hình, sông ngòi…các em học say sưa, hứng thú và giờ học có

kết quả cao. Học sinh được tự mình lên bảng cầm que chỉ bản đồ để xác định vị trí,
tìm và chỉ các đối tượng địa lí trên bản đồ. Sau những giờ học có bản đồ, phần đông
học sinh nắm chắc kiến thức.
2. Phương pháp giảng dạy của giáo viên:
Phương pháp sử dụng bản đồ là phương pháp dạy học truyền
thống đặc trưng cho môn Địa lí ở trường phổ thông. Do bản đồ vừa có chức năng
minh hoạ, vừa có chức năng là nguồn tri thức, là phương tiện trực quan giúp học
sinh củng cố kiến thức, hiểu sâu và ghi nhớ kiến thức, phát triển tư duy trong quá
trình dạy học địa lí. Nên trong dạy học giáo viên cần phải biết kết hợp chặt chẽ giữa
việc giúp học sinh tìm tòi, lĩnh hội kiến thức với việc hình thành, phát triển kĩ năng
sử dụng bản đồ cho học sinh qua từng bài học. Muốn làm được điều này giáo viên
không nên sử dụng bản đồ như một phương tiện minh hoạ mà phải sử dụng bản đồ
như một nguồn tri thức địa lí quan trọng, là đồ dùng trực quan để từ đó học sinh tiếp
thu và khai thác kiến thức về địa lí tự nhiên, kinh tế - xã hội, rèn luyện kỹ năng bản
đồ. Đồng thời, bản đồ phải được sử dụng thường xuyên trong mọi khâu của quá trình
dạy học, từ bài học mới đến ôn tập, kiểm tra, đánh giá kiến thức kỹ năng. Ngoài ra
trong quá trình giảng dạy giáo viên cũng cần tổ chức cho học sinh chơi các trò chơi,
thống kê, so sánh, tổng hợp kiến thức từ bản đồ. Trong những giờ lên lớp cần gọi từ
3 – 5 học sinh lên chỉ bản đồ, phân tích về vị trí, hình thái, đặc điểm của từng đối
tường trong mối quan hệ biện chứng của chúng để hình thành cho các em cánh học
trên bản đồ và đối chiếu với lược đồ trong SGK để tìm ra kiến thức và lĩnh hội kiến
thức trong từng giờ học. Đồng thời cần tập cho học sinh bên dưới nhận xét, điều
chỉnh, bổ sung những thao tác sai, chưa phù hợp nhằm củng cố và phát huy tính tích
cực, chủ động trong học tập của học sinh. Đối với học sinh khá giỏi giáo viên có thể
5


cho các em trình bày một vấn đề nào đó thông qua bản đồ trước lớp nhằm nâng cao
kĩ năng đọc và chỉ bản đồ cho học sinh thông qua các hoạt động như giải quyết các
bài thực hành, câu hỏi củng cố hay câu hỏi kiểm tra bài cũ.

Để giúp học sinh có khả năng làm việc độc lập với bản đồ, trong
quá trình dạy học, giáo viên phải chú trọng việc hình thành và phát triển ở học sinh
một số kĩ năng sử dụng bản đồ như: xác định phương hướng, tìm và xác định vị trí
các đối tượng địa lí trên bản đồ, mô tả một đối tượng địa lí dựa vào bản đồ …
2.1. Rèn luyện kỹ năng xác định phương hướng trên bản đồ .
- Xác định phương hướng một cách chính xác trên bản đồ là một kỹ năng cơ
bản và rất quan trọng. Việc xác định vị trí Địa lí hoặc mô tả một đối tượng Địa lí
trên bản đồ sẽ trở nên khó khăn hoặc sai lệch nếu không nắm chắc được cách xác
định phương hướng trên bản đồ.
- Muốn hình thành và phát triển kỹ năng xác định phương hướng cho học
sinh, công việc đầu tiên giáo viên phải làm là yêu cầu học sinh thuộc và nhớ các quy
định về phương hướng trên bản đồ. Với những bản đồ tỉ lệ lớn, người ta thường quy
ước, phía trên bản đồ là hướng Bắc, phía dưới là hướng Nam, bên phải là hướng
Đông, bên trái là hướng Tây. Sau đó giáo viên có thể hướng dẫn học sinh dựa vào
các đường kinh tuyến, vĩ tuyến trên bản đồ để xác định phương hướng. Giáo viên chỉ
cần giới thiệu để học sinh chấp nhận là trên bản đồ thường có những đường kẻ dọc
và kẻ ngang. Đường kẻ dọc là kinh tuyến, đường kẻ ngang là vĩ tuyến. Đầu phía trên
của kinh tuyến là hướng Bắc, đầu phía dưới của kinh tuyến là hướng Nam. Đầu bên
phải của vĩ tuyến là hướng Đông, đầu bên trái của vĩ tuyến là hướng Tây. Khi đã biết
các hướng chính thì cũng có thể tìm ra các hướng khác trên bản đồ.
Ví dụ: Giữa hướng Bắc và hướng Đông là hướng Đông Bắc, giữa hướng
Đông và hướng Nam là hướng Đông Nam, giữa hướng Tây và hướng Bắc là hướng
Tây Bắc,…
Để đạt hiệu quả cao trong việc rèn luyện kỹ năng xác định phương hướng của
học sinh, giáo viên nên đưa ra các dạng bài tập dưới nhiều hình thức khác nhau như
điền từ vào chỗ trống (…), lựa chọn đúng sai, đi du lịch trên bản đồ theo một số
6


tuyến nhất định…với nhiều góc độ khác nhau, lặp đi lặp lại nhiều lần trên cơ sở yêu

cầu học sinh quan sát một nội dung cụ thể. Ngoài ra việc rèn luyện kỹ năng xác định
phương hướng cho học sinh phải được tiến hành thường xuyên trong quá trình học
tập môn Địa lí.
2.2. Rèn luyện kĩ năng tìm và chỉ vị trí Địa lí của các đối tượng Địa lí trên bản
đồ:
- Vị trí Địa lí của một đối tượng nào đó là mối quan hệ không gian của nó với
các đối tượng khác có liên quan nằm ở bên ngoài nó.
Ví dụ: Như một dãy núi hay một con sông…
- Khi hình thành kỹ năng tìm và chỉ vị trí của các đối tượng Địa lí trên bản đồ
giáo viên chỉ cần đưa ra các bài tập yêu cầu học sinh dựa vào bảng chú giải và các kí
hiệu, chữ viết trên bản đồ để xác định vị trí của một đối tượng nào đó.
Ví dụ: Dựa vào bản đồ hành chính Việt Nam em hãy tìm và chỉ vị trí của thủ
đô Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh,...
Hoặc dựa vào bản đồ tự nhiên Việt Nam em hãy tìm và chỉ vị trí
của sông Hồng, dãy núi Hoàng Liên Sơn…
-Điều đáng lưu ý ở đây là giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách chỉ vị trí một đối
tượng trên bản đồ như thế nào cho đúng.
Ví dụ: + Khi chỉ vị trí của một dòng sông, học sinh phải chỉ xuôi theo dòng chảy từ
thượng nguồn đến hạ lưu theo một nét liền liên tục chứ không chỉ theo hướng ngựơc
lại hoặc chỉ vào một điểm trên sông.
+ Khi chỉ vị trí của một thành phố, thị xã thì phải chỉ vào kí hiệu thể hiện
thành phố, thị xã chứ không chỉ vào chữ ghi tên thành phố, thị xã.
+ Khi chỉ về vùng lãnh thổ ( một tỉnh, khu vực, quốc gia…) thì phải chỉ theo
đường biên giới khép kín của vùng lãnh thổ đó. Sau đó dùng que chỉ gạt cả một tỉnh,
một khu vực hay một quốc gia đó để học sinh dễ dàng nhận diện đối tượng.
- Một trong những biện pháp nhằm giúp cho học sinh nhanh chóng tìm ra vị
trí của các đối tượng địa lí trên bản đồ là: giáo viên lưu ý học sinh nên chú ý tới một
số dấu hiệu đặc trưng, dễ nhận biết về hình dáng, kích thước của đối tượng.
7



Ví dụ: Lãnh thổ phần đất liền Việt Nam có hình dạng chữ S, đồng bằng sông
Hồng có dạng giống như một tam giác, dãy núi Hymalaya có hình giống con hươu…
ngoài ra, giáo viên cũng cần hướng dẫn học sinh nên dựa vào toàn bộ khung cảnh để
nhận rõ vị trí của đối tượng trong khung cảnh đó; nghĩa là: học sinh phải nhớ một số
đối tượng Địa lí xung quanh làm điểm tựa để nhanh chóng tìm ra vị trí Địa lí của đối
tượng cần tìm. Chẳng hạn muốn tìm vị trí địa lí của dãy Hoàng Liên Sơn, thì ngoài
việc nhớ đặc điểm về độ cao (đây là dãy núi cao nhất của Việt Nam), học sinh cần
nhớ được vị trí của dãy núi này nằm giữa sông Hồng và sông Đà. Như vậy, muốn
tìm vị trí của dãy Hoàng Liên Sơn trên bản đồ thì học sinh phải tìm được sông Hồng,
sông Đà. Ngược lại, nếu biết vị trí của dãy Hoàng Liên Sơn thì học sinh cũng dễ
dàng tìm được vị trí của sông Hồng, sông Đà trên bản đồ (vì sông Hồng có vị trí nằm
ở phía đông của dãy Hoàng Liên Sơn, còn sông Đà có vị trí nằm ở phía Tây của dãy
Hoàng Liên Sơn ).
Một ví dụ khác: Nếu học sinh biết được vị trí của đèo Hải Vân thì học sinh
cũng dễ dàng tìm được vị trí của hai thành phố Huế và Đà Nẵng ( vì HuÕ ở phía Bắc
và Đà Nẵng ở phía Nam đèo Hải Vân). Tương tự như vậy nếu biết vị trí của HuÕ thì
cũng tìm được vị trí của Đà Nẵng và vị trí của Đèo Hải Vân.
Hoặc: Học sinh có thể tìm được nơi phân bố của khoáng sản Crôm là ở Thanh
Hóa. Ngược lại, nếu cần tìm khoáng sản nổi bật của Thanh Hóa thì học sinh biết
ngay đó là Crôm.( Vì Crôm chỉ có ở Thanh Hóa).
2.3. Rèn luyện kĩ năng đọc bản đồ:
Giáo viên cần giúp học sinh hiểu: Đọc bản đồ không phải là đọc các chữ ghi
trên bản đồ mà là một quá trình tìm hiểu kiến thức địa lí chứa đựng trong các kí hiệu
trên bản đồ, ở các mức độ cao, thấp khác nhau, tuỳ theo đối tượng và mục đích sử
dụng.
Đọc bản đồ có 3 mức độ:
- Mức độ 1: Học sinh chỉ cần dựa vào kí hiệu ở bản chú giải, chỉ và đọc tên
các đối tượng địa lí trên bản đồ (đây là Hà Nội, kia là Hải Phòng, đây là sông Hồng,
kia là sông Gâm…)

8


- Mức độ 2: Học sinh dựa vào bản đồ kết hợp với các kiến thức địa lí và
những hiểu biết của mình để tìm ra các đặc điểm tương đối rõ ràng của những đối
tượng địa lí được biểu hiện trên bản đồ. Ví dụ: Khi nói tới dãy Hoàng Liên Sơn thì
ngoài việc xác định vị trí của núi ở đâu ? học sinh còn phải xác định núi dài từ đâu
đến đâu? Núi cao hay thấp ? hướng núi ?
- Mức độ 3: Học sinh vận dụng các kiến thức địa lí đã có xác lập mối quan hệ
địa lí để rút ra những điều mà trên bản đồ không trực tiếp thể hiện;
- Ví dụ: Mối quan hệ giữa dãy Hoàng Liên Sơn với hướng chung của địa hình
miền Tây Bắc , với hướng chảy của sông Hồng, khí hậu của miền Tây Bắc. Khi
hướng dẫn học sinh sử dụng bản đồ, giáo viên cần giúp học sinh nắm được các bước
tiến hành đọc bản đồ từ đơn giản đến phức tạp.
Chẳng hạn, muốn đọc được bản đồ ở mức độ 1, học sinh cần phải đi theo các bước
sau:
Bước 1: Nắm được mục đích của việc làm hay yêu cầu của giáo viên.
Ví dụ: Tìm vị trí của các đồng bằng Miền Trung trên bản đồ tự nhiên Việt Nam.
Bước 2: Đọc bảng chú giải để biết kí hiệu của đối tượng cần tìm.
Bước 3: Căn cứ vào kí hiệu, chữ viết để tìm vị trí các đối tượng trên bản đồ.
(Ở đây là tìm vị trí các đồng bằng Miền Trung ).
Sang mức độ 2, học sinh cần thực hiện thêm một bước nữa.
Bước 4: Dựa vào bản đồ nhận xét, đối chiếu, so sánh…để tìm ra đặc điểm của
đối tượng .
Cụ thể ở ví dụ trên là: so sánh, đối chiếu độ lớn của các đồng bằng miền trung
với các đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu long để nêu đặc điểm các đồng
bằng miền trung đều nhỏ, hẹp.
Tới mức độ 3 học sinh phải thực hiện :
Bước 5: Xác lập các mối quan hệ giữa kiến thức địa lí đã có với những kiến
thức trên bản đồ để lí giải vì sao các đồng bằng miền trung đều nhỏ, hẹp.


9


Cụ thể, học sinh phải xác lập mối quan hệ giữa địa hình với sông ngòi để nêu được
ý: Vì dãy Trường Sơn tiến sát ra biển, địa hình hẹp ngang các sông miền trung đều
nhỏ, ngắn, dốc, ít phù sa, => các đồng bằng miền trung có đặc điểm là nhỏ, hẹp.
Trong quá trình hướng dẫn học sinh đọc bản đồ, giáo viên nên
kết hợp việc rèn luyện kĩ năng mô tả các đối tượng địa lí dựa vào bản đồ như mô tả
về một dãy núi, một dòng sông, một vùng đất…Muốn cho học sinh biết cách mô tả
về một đối tượng địa lí nào đó, giáo viên nên đưa ra dàn ý nói về những nội dung
cần mô tả cho học sinh hiểu. Giáo viên một mặt phải từng bước hướng dẫn học sinh
biết cách vận dụng các thao tác tư duy để tìm ra mối quan hệ địa lí. Nhưng mặt khác
cũng đồng thời phải hướng dẫn học sinh vận dụng được các kĩ năng về bản đồ thích
hợp.
Ví dụ: Khi mô tả về một dòng sông, học sinh phải mô tả lần lượt theo các ý: Sông
được kí hiệu như thế nào trên bản đồ? Sông bắt nguồn từ đâu ? Đổ nước ra đâu ?
Sông chảy theo hướng nào ? Sông dài bao nhiêu km? Đây là sông lớn hay nhỏ?...
3. Một số điểm cần lưu ý để nâng cao hiệu quả sử dụng bản đồ trong dạy học:
- Bản đồ phải có nội dung phù hợp với bài giảng, tránh khập khiễng.
- Sử dụng nhiều bản đồ trong một bài học, tiết học, kết hợp với sự chỉ dẫn cụ thể,
tránh rơi vào suy diễn máy móc. Chẳng hạn: nơi màu xanh là đồng bằng phù xa, nơi
màu vàng là núi…
- Sử dụng bản đồ thường xuyên trong giờ học, ngay từ những bài học đầu tiên, luyện
tập cho học sinh sử dụng bản đồ tuần tự các bước, từ thấp lên cao, từ đơn giản đến
phức tạp, từ dễ đến khó.
- Không chỉ sử dụng bản đồ trong nghiên cứu bài mới, mà cả trong ôn tập, kiểm tra,
ra bài tập về nhà, bài thực hành, tham quan, ngoại khoá…

IV. KẾT QUẢ KIỂM NGHIỆM THỰC TẾ.

10


Qua quá trình nghiên cứu và áp dụng đề tài: “Sử dụng bản đồ trong dạy học
Địa lí lớp 8” vào quá trình giảng dạy trong năm học 2011 – 2012 ở trường THCS
Hoằng Lý- Hoằng Hóa bản thân tôi đã kiểm tra và thu được kết quả như sau:
Mức độ Chưa biết sử dụng
SL
%
8A ( 25
2
8.0
Học sinh)
8B
( 23
2
8.7
Học sinh)

Biết sử dụng
SL
%

Sử dụng tốt
SL

%

6


24

17

68

5

21.7

16

69.6

So sánh với kết quả khi chưa thực hiện đề tài tôi nhận thấy: Nhìn chung ở cả 2
lớp tỉ lệ học sinh biết sử dụng thành thạo bản đồ trong học tập địa lí tăng lên rõ rệt;
số học sinh chưa biết sử dụng còn lại rất ít thực tế này chứng tỏ việc triển khai đề tài
trong quá trình giảng dạy đã đem lại hiệu quả thiết thực cho học sinh. Do đó, kết quả
học tập của các em ở học kỳ II cũng cao hơn nhiều so với học kỳ I.

C- KẾT LUẬNVÀ ĐỀ XUẤT
I . KẾT LUẬN CHUNG:
Bằng yêu cầu thực tiễn của nội dung sách giáo khoa đổi mới cùng với các
phương pháp dạy học mới để tiếp tục đưa “Bản đồ” vào dạy học địa lí đạt hiệu quả
cao. Tránh được tình trạng giáo viên “dạy chay”, học sinh “ học chay”, mà lại phù
hợp với phương pháp dạy học mới “ Dạy - học lấy học sinh làm trung tâm” và “
Sử dụng đồ dùng trực quan trong quá trình dạy - học”. Để đạt được kết quả cao
trong quá trình giảng dạy người giáo viên cần phải có tâm huyết với nghề. Trước khi
lên lớp bản thân giáo viên cần nghiên cứu bài, lựa chọn bản đồ nói riêng và các
phương tiện dạy học khác nói chung cho phù hợp, soạn bài nghiêm túc, học hỏi đồng

nghiệp, bản thân tự rút kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy để nâng cao năng lực,
trình độ. Giáo viên cần tạo không khí nhẹ nhàng trong các giờ học, tạo các trò chơi
để tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học. Cần đặt nhiều câu hỏi kích thích tính tò
11


mò của học sinh tạo cơ hội để các em được làm việc nhiều với bản đồ, rút ra được
các kiến thức cơ bản của bài học từ bản đồ. Thường xuyên theo dõi, bảo ban, uốn
nắn kịp thời những sai sót của học sinh đồng thời luôn động viên khen thưởng những
học sinh tiến bộ vươn lên trong học tập.
Qua quá trình thực hiện đề tài học sinh đã biết làm việc độc lập với bản đồ, tìm
được kiến thức qua phân tích các sự vật, hiện tượng địa lí trong mối quan hệ biện
chứng. Như đi từ vị trí để suy xét về đặc điểm khí hậu, cảnh quan hay sự giao lưu
hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới . Học sinh đã mạnh dạn hơn
trong khi tiếp xúc với bản đồ, không còn cảm giác sợ sệt mà còn tỏ ra rất tự tin khi
giáo viên gọi lên bảng để xác định các đối tượng địa lí trên bản đồ.
Trên đây chỉ là kinh nghiệm nhỏ của tôi. Trong khi nghiên cứu và thực hiện bản
thân tôi đã có nhiều cố gắng để hoàn thiện đề tài song không thể tránh khỏi những
thiếu xót. Rất mong nhận được sự góp ý của các đồng nghiệp.
II. ĐỀ XUẤT.
Để giúp giáo viên nhanh chóng có được tờ bản đồ khi lên lớp tôi đề nghị nhà
trường nên đầu tư đầy đủ hơn nữa về cơ sở vật chất để học sinh có được những tiết
học trên lớp, thực địa, tham quan, ngoại khoá đạt kết quả cao hơn để học sinh được
hiểu biết sâu và rộng hơn, từ đó làm tăng thêm sự yêu thích bộ môn của các em.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hoằng Lý, ngày 10 tháng 5 năm 2012
Người thực hiện:

Hoàng Thị Quyên


Ý kiến nhận xét, đánh giá và xếp loại của Hội đồng khoa học cấp trường
12


……………………………………………………………………………………..…..
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
Hoằng lý, Ngày

tháng 5 năm 2012

Chủ tịch HĐKH

Ý kiến nhận xét, đánh giá và xếp loại của Hội đồng khoa học cấp Huyện.
………………………………………………………………………………….…...…
………………………………………………….……………………………...
…………………………………………………………………………………………
………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
Chủ tịch HĐKH

Ý kiến nhận xét, đánh giá và xếp loại của Hội đồng khoa học cấp Tỉnh
…………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………...……………….…
…………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………..…..………
…………………………………………………………………………………………

Chủ tịch HĐKH
13


14



×