Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

marie cuire

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.93 KB, 8 trang )

Marie Curie - Nữ bác học lừng danh nhất thế giới
Marie Curie (1867 - 1934) là một trong các nhà bác học tiền phong
nghiên cứu về chất phóng xạ. Các thành tích của bà rất lớn lao, đã ảnh
hưởng tới các nhà vật lý nguyên tử sau này và đã được xác nhận bằng
hai Giải Thưởng Nobel lừng danh. Việc khám phá ra neutron của Sir
James Chadwick và tính phóng xạ nhân tạo của Irène và Fréderic Jolio
Curie đều bắt nguồn từ các công trình khảo cứu của bà Curie.
1. Thuở thiếu thời.
Ngày 7 tháng 11 năm 1867 tại Cracovie, một thị trấn nhỏ gần thủ đô
Varsovie nước Ba Lan, vợ chồng giáo sư khoa học Wladislaw
Sklodowski đã cho chào đời cô gái út đặt tên là Marya Sklodowski. Từ khi có mặt cô bé
này, gia đình Sklodowski đã không gặp may mắn và bà mẹ lại mắc chứng bệnh nan y: bệnh
ho lao, vì vậy, tuy yêu thương các con, bà Sklowdowski không bao giờ dám ôm hôn chúng.
Do thiếu tình thương của mẹ, cô bé Marya thường quấn quít bên người chị cả là Zosia để
nghe các câu chuyện cổ tích. Ngoài ra, Marya còn ưa thích đứng ngắm cái tủ đựng các
dụng cụ khoa học của cha cô trong đó có bày nhiều thứ: nào các ống nghiệm, phong vũ
biểu, cân tiểu li, những cục đá địa chất…
Cuộc sống gia đình của Marya đã ít vui vẻ, tình hình quốc gia cũng chẳng sáng sủa hơn.
Vào khoảng năm 1872, khi Marya lên 5 tuổi, nước Ba Lan của cô bị sâu xé bởi ba đế quốc:
Nga, Đức và Áo. Miền quê hương của cô thuộc khu vực ảnh hưởng của Sa Hoàng. Sau
cuộc cách mạng nhân dân thất bại năm 1831, vua Nicolas nước Ba Lan, dưới sự giật dây
của nước Nga, đã thẳng tay đàn áp các phần tử cách mạng ái quốc: cầm tù, đầy ải, tịch biên
gia sản… Ngoài ra, chính quyền còn cố tình áp dụng một đường lối giáo dục rất vô nhân
đạo: Chính sách ngu dân. Thời bấy giờ, khoa học và triết học bắt đầu phát triển rất mạnh
tại châu Âu, vậy mà các tư tưởng của Auguste Comte, Darwin, những phát minh của
Pasteur, Faraday… không thể lọt nổi vào nước Ba Lan.
Trong hoàn cảnh đó, cô bé Marya đã cắp sách đi học. Mới trông bề ngoài, cô bé không có
vẻ gì là thông minh, xuất chúng mà trái lại, với khuôn mặt hơi dài, với đôi mắt nâu mơ
màng, cô bé còn tỏ lộ vẻ hơi đần. Tuy nhiên cô bé Marya nổi tiếng học giỏi từ thuở nhỏ.
Luôn luôn kém các bạn từ 2 tới 3 tuổi mà với môn học nào cô cũng đứng đầu lớp: Từ các
môn học chính như toán học, lịch sử, văn chương đến những môn phụ như tiếng Pháp,


tiếng Đức và cả Thánh Kinh nữa.
Năm Marya lên 10 tuổi, người chị thân yêu và cũng là người bạn tâm sự của cô, chị Zosia,
đã bị thiệt mạng vì mắc phải một bệnh truyền nhiễm do các bạn cùng lớp mang tới: bệnh
chấy rận. Rồi ít lâu sau, bà mẹ sau nhiều năm bị vi trùng lao phổi tàn phá, đã từ giã cõi đời,
để lại cho người chồng gánh nặng nuôi dạy 4 đứa con thơ: một trai Joseph và 3 gái Hela,
Bronia và Marya, tất cả trong tuổi đi học.
Năm 1883, Marya với tuổi 16, đã học xong ban trung học và tốt nghiệp ra với lời khen
thưởng của hội đồng giám khảo. Lúc đó anh Joseph đang theo học tại trường Đại học Y
khoa, chị Bronia cũng học xong ban trung học và muốn trở thành bác sĩ nhưng vào thời đó,
trường Y khoa không nhận vô các nữ sinh viên, vì vậy chị phải xin đi dạy học.
Năm 1884, chị Bronia sang Pháp theo học tại Đại học Paris. Sở dĩ chị Bronia chọn nước
Pháp một phần vì Đại học Sorbonne là một trường có nhiều vị giáo sư danh tiếng mà phần
lớn cũng vì nước Pháp là một nước Tự Do, điều mong ước của tất cả sinh viên thế giới thời
bấy giờ cũng như đối với mọi thời đại. Ở Pháp, mọi ý kiến dị biệt đều được tiếp nhận, đây
quả là điều kiện tất yếu của mọi công việc tiến bộ về Khoa Học và Nghệ Thuật. Trong khi
chị Bronia theo hoc để trở thành bác sĩ thú y tại Paris thì ở Ba Lan, Marya xin được một
chân giáo sư tại một vùng quê hẻo lánh.
2. Thời kỳ du học.
Nghề gõ đầu trẻ không phải là nghề mà Marya ưa thích.
Sau 6 năm trời kéo dài cuộc sống khô khan ấy, đến năm
1891, Marya quyết định viết thư cho chị Bronia, xin chị
giúp đỡ nàng sang Pháp du học. Vào ngày lên đường,
Marya đã ngập ngừng nói với cha: "Cha ơi, con sẽ không
đi lâu, chừng hai hay ba năm học xong, con sẽ trở về sống
bên cha mãi mãi". Nhưng Marya đã không giữ được lời
hứa chân thành này. Một nhà bác học, một người chồng,
một người bạn tri kỷ đã giữ nàng lại đất Pháp, người đó là
Pierre Curie.

Khi sống tại Pháp, muốn cho tên mình dễ đọc, Marya đã

"phiên âm" tên nàng sang tiếng Pháp thành Marie: Marie
Sklodowski. Marie không theo hoc Y khoa, Nha khoa hay
Dược khoa là những môn học ưa thích của phụ nữ thời đó.
Không hiểu nghĩ sao, nàng lại chọn môn Khoa Học thuần
túy. Trong buổi ban đầu gặp khó khăn về ngôn ngữ, Marie
đã được sự hướng dẫn của một giáo sư trẻ tuổi, có tài: Giáo Sư Paul Appell. Ngoài ra, nàng
còn được học hỏi với các Giáo Sư Gabriel Lippmann và Edmond Bouty. Nàng cũng gặp gỡ
các nhà vật lý lừng danh thời bấy giờ như Jean Perrin, Charles Maurain và Aimé Cotton…
Cuộc sống của một du học sinh thật là vất vả, với một nỗi khó khăn đã ngăn trở sự học, đó
là vấn đề tiền bạc: tiền ăn, tiền học, tiền mua sắm, tiền xe buýt ngày hai buổi đi học. Mùa
đông tại Paris, trời lạnh như cắt da nhưng nàng Marie can đảm này đã dấn thân vào việc
học và Trời đã không phụ công của người có chí: sau ba năm học tập, nàng đã đỗ đầu trong
kỳ thi ra trường và được cấp văn bằng Cử Nhân Khoa Học năm 1893 và năm sau, đậu thứ
nhì trong kỳ thi lấy văn bằng Cử Nhân Toán. Học xong, nàng Marie đã định quay về nước
nhưng do sự hiểu biết hoàn toàn thuộc về phạm vi lý thuyết, nàng muốn phục vụ Tổ Quốc
không phải chỉ với chức vụ Giáo Sư mà bằng tài năng của một kỹ sư, nàng Marie muốn
giúp đỡ đồng bào bằng những công trình thực tế hơn.
Năm 1893, do sự giới thiệu của bà Dydynska cũng là người Ba Lan, nàng Marie xin được
học bổng Alexandrowitch để học về ngành luyện sắt và thép. Nàng được giới thiệụ với một
vị Giáo Sư trẻ tuổi, đang khảo cứu về hiện tượng từ tính của các chất gang thép: Giáo Sư
Pierre Curie. Pierre Curie sinh ngày 19/4/1859 tại Paris, là con thứ hai của Bác Sĩ Eugène
Curie. Năm 16 tuổi, Pierre đã đậu bằng trung học và năm 18 tuổi lại đậu Cử Nhân Khoa
Học, rồi được chấp nhận làm Giảng Nghiệm Viên tại Trường Đại Học Paris vào năm 1878.
Khi tốt nghiệp đại học ra, ông Pierre Curie đã cùng với người anh là Jacques vùi đầu vào
các công cuộc thí nghiệm: Họ nghiên cứu tính áp điện (piezoelectricity) của các tinh thể,
đặc biệt là của tinh thể thạch anh (quartz).
Năm 1883, anh Jacques được bổ nhiệm làm Giáo Sư tại trường Đại Học Montpellier và
Pierre làm giảng nghiệm trưởng của Trường Lý Hóa (Ecole de Physique et de Chimie).
Năm 1895, Pierre Curie đậu bằng Tiến Sĩ Khoa Học rồi vào mùa xuân năm 1894, trong
thời gian nghiên cứu về hiện tượng điện từ của các chất gang thép, Pierre Curie đã gặp

Marie Sklodowski đến học hỏi thêm kinh nghiệm. Khi mới gặp nàng Cử Nhân Khoa Học
và Toán Học của trường Đại Học Sorbonne, Pierre đã thấy có cảm tình và kính trọng người
thiếu nữ tài ba này. Lúc đó Pierre đã 35 tuổi, chàng vẫn sống độc thân vì còn mải mê
nghiên cứu. Sau vài lần gặp mặt và thảo luận với Marie về Khoa Học, chàng thấy ngay ở
nàng hình bóng của người vợ lý tưởng. Đối với Marie, sau khi mối tình đầu tại Ba Lan tan
vỡ, nàng muốn xóa bỏ chuyện yêu thương. Nàng thấy Pierre rất xứng đáng nhưng vì còn
nhớ đến cha già, đến lời thề sẽ học thật nhanh để quay về sống bên cha và phục vụ cho Tổ
Quốc Ba Lan, nàng rời Paris. Khi tiễn nàng Marie về nước, Pierre đã nói như van xin: "Cô
là người có tài. Cô nên trở lại nước Pháp để nghiên cứu Khoa Học.Cô không có quyền bỏ
rơi Khoa Học".
Marie Sklodowski là kỹ sư đầu tiên của nước Ba Lan nhưng vào thời bấy giờ, người ta
không tin tưởng lắm vào tài năng của phụ nữ nên nàng đã không được trọng dụng. Quá
chán nản, ở quê nhà chưa đầy một năm, Marie quyết định trở lại nước Pháp, nàng đã không
thể bỏ rơi Khoa Học, xa cách Pierre. 10 tháng sau, Marie nhận lời thành hôn với Pierre.
Hôn lễ cử hành rất đơn giản vào ngày 25/7/1895: ngoài những người thân trong gia đình
như Bác Sĩ Eugène là thân phụ của Pierre, Giáo Sư Sklodowski là thân phụ của Marie, vợ
chồng chị Bronia, anh Jacques, họ chỉ mời vài người bạn thân thiết. Tại gia đình mới này,
chỉ có Pierre kiếm ra tiền mà số tiền kiếm ra cũng không nhiều, còn Marie vẫn chưa xin
được việc làm, Marie chỉ là một sinh viên học giỏi, một nhà khoa học tài ba. Sau hai văn
bằng Cử Nhân, nàng Marie lại đậu thêm văn bằng Thạc Sĩ Khoa Học rồi tiếp tục nghiên
cứu về hiện tượng từ tính của các chất gang thép. Vào tháng 7 năm 1897, Marie sinh hạ
được cô gái đầu lòng, đặt tên là Irène. Từ nay, gia đình Curie lại có thêm nhu cầu mới.
May thay, Pierre đã xin được cho vợ vào làm phụ tá trong phòng thí nghiệm Vật Lý của
mình và cũng từ nay, bắt đầu sự nghiệp của nhà nữ bác học số một trên Thế Giới.
3. Khảo Cứu Khoa Học.

Nhân được đọc các bài khảo cứu của nhà
vật lý Henri Becquerel và sau khi đã hỏi
ý kiến của chồng, Marie Curie quyết tâm
thám hiểm vào khu rừng vật lý hãy còn

âm u, ít ai biết tới. Thời bấy giờ, người ta
chỉ thấy được những chất lạ có đặc tính
là phát ra tia sáng song chưa ai biết được
là có bao nhiêu chất như vậy và các chất
này cùng các tia của chúng khác nhau
như thế nào. Các nhà vật lý đặt tên chung
cho các chất kể trên là "chất phóng xạ".
Sau khi Roentgen tìm ra quang tuyến X,
nhà bác học Henri Becquerel đã nghĩ
rằng tia phóng xạ có cùng nguồn gốc với
quang tuyến X. Rồi Henri Becquerel dựa
vào ý tưởng trên và làm nhiều thí nghiệm
với các tia phóng xạ của chất Urane
giống như các thí nghiệm đối với quang
tuyến X và đã nhận thấy rằng hai tia đó có cùng tính chất. Becquerel tự hỏi tại sao có sự
phóng xạ và các chất phóng xạ lấy năng lượng từ đâu, dù rằng năng lượng rất nhỏ, để phân
tích mà phát ra tia sáng. Công cuộc khảo cứu của Becquerel mới chỉ là bước đầu. Sự hiểu
biết về các định luật phóng xạ phải đợi hai thiên tài Pierre và Marie Curie mới phát kiến ra
được.
Mới nghiên cứu trong ít lâu, bà Marie Curie đã nhận thấy rằng không phải cả cục Urane có
tính phóng xạ mà cục đá đó chỉ chứa một phần rất nhỏ chất phóng xạ mà thôi. Tuy hiểu
rằng tỉ lệ chất phóng xạ trong Urane ít, nhưng bà Curie không biết rõ nó là bao nhiêu. Bà
cho rằng tỉ lệ đó vào khoảng một phần ngàn. Thật ra về sau, khi người ta được biết chính
xác thì tỉ lệ đó còn nhỏ hơn thế nhiều: một phần triệu. Nhưng công lao của ông bà Curie
chính là làm cho giới Khoa Học biết rằng có rất nhiều chất phóng xạ khác nhau, dù rằng
nhiều chất chỉ là biến thể của nhau và có những chất không phóng xạ như chì, vàng… cũng
là biến thể của các chất phóng xạ. Y kiến này rất quan trọng vì nhờ đó mà người ta tìm ra
được cách phá nhân của nguyên tử và chế tạo ra bom nguyên tử sau này.
Khởi đầu, bà Curie tìm ra hai chất phóng xạ khác nhau, chất đầu tiên vào mùa hè năm 1891
và được bà đặt tên là "Polonium" để tưởng nhớ nước Ba Lan thân yêu của bà, chất thứ hai

được gọi bằng tên "Radium", khám phá ra vài tháng sau đó. Nhưng các công trình của ông
bà Curie chưa được giới Khoa Học chấp nhận ngay. Nhiều kẻ hoài nghi không công nhận
có hai chất Polonium và Radium. Họ viện lý rằng mỗi chất đều phải có các lý tính và hóa
tính. Vậy thì nguyên tử khối và phân tử khối của Radium là bao nhiêu? Radium có ái lực
với những chất nào? Muối của nó là gì? Nó màu gì ? Độ chẩy là bao nhiêu? Nhiều câu hỏi
đã làm bù đầu hai nhà bác học trẻ tuổi. Muốn trả lời các nhà hóa học đa nghi, Pierre và
Marie Curie phải tìm ra Radium nguyên chất.
Nguyên liệu có chứa Radium là chất pechblend.
Pechblend là một chất dùng trong kỹ nghệ làm thủy tinh. Chất này rất đắt tiền mà lượng
Radium ở trong lại không nhiều. Với số tiền lương eo hẹp, hai nhà bác học làm sao có thể
tiếp tục công cuộc nghiên cứu? May thay, có một kỹ nghệ gia thủy tinh người Bỉ nghe
danh ông bà Curie, đã bằng lòng chở sang Pháp cho hai nhà bác học hàng xe vận tải vụn
pechblend mà nhà máy không dùng tới. Lại thêm một điều may mắn nữa: ông Pierre xin
được một căn nhà cũ của Trường Đại Học Khoa Học, hai ông bà Curie liền chứa
pechblend và đặt luôn tại đây phòng thí nghiệm.
Trong 4 năm trời từ 1898 tới 1902, sau khi gạn lọc 8 tấn pechblend, hai nhà bác học đã tìm
ra được 1 gam Radium nguyên chất. Đây là gam Radium đầu tiên của thế giới và trị giá
của nó lên tới 750 ngàn quan tiền vàng. Radium quả là một chất kim đắt giá nhất. Từ nay
chất Radium đã chính thức được ông bà Curie "khai sinh", phân tử khối của nó là 225.
Năm 1898, Trường Đại Học Sorbonne đang thiếu một chân Giáo Sư Vật Lý. Pierre nộp
đơn xin vì muốn kiếm ra một số lương cao hơn. Nhưng vì ông không hề học qua một
trường cao đẳng sư phạm hay Trường Bách Khoa nào nên ông đã bị từ chối. Năm 1900,
ông Pierre Curie xin được một chân Giáo Sư tại Trường Bách Khoa với lương 2,500 quan
một năm. Với số lương này, gia đình Curie vẫn chưa đủ tiêu dùng. Trong khi đó, Trường
Đại Học Genève, Thụy Sĩ, bỗng nhiên gửi thư mời ông Pierre sang nhận chức Giáo Sư Vật
Lý với lương hàng năm 10,000 quan, lại được thêm hai người phụ tá cùng một phòng khảo
cứu đầy đủ dụng cụ. Thật là một may mắn không ngờ. Nhưng tiếc thay, Genève lại ở quá
xa, công ty thủy tinh Bỉ không chịu chở pechblend sang đó. Giữa khoa học và tiền bạc, ông
Pierre đã chọn Khoa Học và đành viết thư cảm ơn ông Khoa Trưởng Trường Đại Học
Khoa Học Genève.

It lâu sau, ông Pierre Curie được vị Phó Khoa Trưởng Trường Đại Học Sorbonne mời
giảng dạy môn Vật Lý cho chứng chỉ Lý Hóa Nhiên (S.P.C.N.) và bà Curie được nhận làm
Giáo Sư Trường Cao Đẳng Sư Phạm (Ecole Normale Superieure) dành cho nữ sinh viên tại
Sèvres. Ngân quỹ gia đình đã khả quan, từ nay hai ông bà Curie có thể yên tâm phụng sự
cho Khoa Học.
Năm 1902, kết quả của công trình khám phá ra chất Radium được công bố. Giáo Sư
Mascart do mến tài ông Curie nên đã cố khuyên ông nộp đơn xin vào Hàn Lâm Viện Khoa
Học nhưng đến ngày bỏ phiếu, các ông Hàn đã nhận ứng viên đối lập là Amagat. Vào lúc
này, Giáo Sư Paul Appell đã được cử làm Khoa Trưởng Trường Đại Học Khoa Học Paris.
Muốn an ủi Pierre, Appell xin ông Tổng Trưởng Giáo Dục Pháp ban huy chương danh dự
cho nhà bác học và trước khi trao huy chương, Appell đã năn nỉ bà Curie khuyên chồng
nên chấp nhận huy chương đó. Nhưng ông Pierre đã từ chối vì ông chỉ cần một phòng thí
nghiệm, không cần tới một huy chương đeo ngực. Trong suốt cuộc đời, ông Pierre Curie
luôn luôn mong mỏi sẽ lập ra được một cơ sở khảo cứu mà tất cả những ai muốn tìm tòi về
chất phóng xạ đều được tự do xử dụng.
Sau khi chất Radium được khám phá, danh tiếng ông bà Curie đã vượt ra khỏi nước Pháp.
Từ năm 1900, các viện đại học, các trung tâm khảo cứu tại các nước Anh, Đức, Đan Mạch,
Hoa Kỳ… đều gửi thư đến hỏi ông bà Curie về chất Radium. Các nhà vật lý đua nhau tìm
hiểu về tính phóng xạ như Boltzmann, Crookes, Paulsen, Ramsay… họ đã tìm thêm được
nhiều chất mới như Mesothorium, Ionium, Protactinium, chì phóng xạ, khí Helium phóng
xạ…
Năm 1903, bà Curie được Đại Học Sorbonne trao văn bằng Tiến Sĩ Khoa Học, hạng tối ưu
với lời khen ngợi của Hội Đồng Giám Khảo về luận án "Khảo cứu về các chất phóng xạ"
và cũng vào năm này, Hội Khoa Học Hoàng Gia Anh gửi thư mời hai nhà bác học Curie
sang diễn thuyết bên nước Anh. Sau đó không lâu, nước Thụy Điển đã biểu quyết chia Giải
Thưởng Nobel 1903 về Vật Lý, một nửa dành cho ông Henri Becquerel, một nửa tặng ông
bà Curie vì công trình khám phá ra chất phóng xạ. Ông bà Curie được lãnh 10,000 quan
tiền vàng. Nhưng khi vừa được tin mừng về Giải Thưởng Nobel, hai nhà bác học lại gặp
phải nhiều chuyện bực mình: Những kẻ hiếu kỳ, các phóng viên nhà báo đã bao quanh nhà,
làm ồn ào, gây bận rộn cho hai nhà bác học. Ông bà Curie vốn ưa thích sự yên tĩnh để làm

việc, nên đã không khỏi khó chịu khi các kẻ hiếu kỳ muốn coi ông bà như những minh tinh
màn bạc. Bà Curie đã phải nói: "Về Khoa Học, chúng ta chỉ nên để ý đến sự vật mà đừng
nghĩ tới nhân vật".
Sau khi các nước ngoài nhận rõ chân tài, ông Pierre Curie mới được nước Pháp biết đến.
Năm 1904, ông được Viện Trưởng Đại Học Sorbonne bổ nhiện làm Gáo Sư Vật Lý thực
thụ. Trước khi nhận lời, ông đưa ra yêu cầu lập nên một phòng thí nghiệm. Lần này, Bộ
Giáo Dục Pháp không còn làm những chuyện viển vông như gắn huy chương cho nhà bác
học nữa, mà bằng lòng xây dựng một trung tâm nghiên cứu, chấp nhận cho nhà nữ bác học
Curie làm trưởng phòng Vật Lý, dưới quyền chồng và lại cho thêm hai nhân viên phụ tá.
Cũng vào năm 1904, hai nhà bác học có thêm một tin mừng khác: Bà Curie vừa sinh hạ cô
gái thứ hai và cũng là cô gái út: Eve Curie. Năm 1905, ông Pierre Curie được bầu vào Hàn
Lâm Viện Khoa Học Pháp (Academy of Sciences).
Nhưng vinh quang không đến với nhà bác học được lâu. Ngày 19 tháng 4 năm 1904, sau
khi rời nhà xuất bản Gauthier-Villars để về nhà, không rõ ông Pierre Curie bận tâm suy
nghĩ điều gì trong lúc băng qua đường, ông đã bị xe ngựa cán phải, vỡ óc chết ngay trên
đường Dauphine tại Paris. Ông Pierre Curie đã là một nhà vật lý học xuất sắc, một trong
các vị sáng lập ra nền Vật Lý Mới. Để ghi nhớ nhà bác học Pierre Curie, ngày 13 tháng 5
năm 1906, Trường Đại Học Sorbonne đặc cách mời bà Curie thay chồng trong chức vụ
Giảng Sư. Bà Marie Curie là nữ Giáo Sư đầu tiên của Trường Đại Học Sorbonne, Paris.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×