Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Bài thu hoạch XII chính trị hè năm học 20162017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.5 KB, 8 trang )

ĐẢNG BỘ XÃ PHONG HÓA
CHI BỘ TRƯỜNG MN NAM PHONG

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

BÀI VIẾT THU HOẠCH
Việc học tập, quán triệt và thực hiện Nghị quyết
Đại hội lần thứ XII của Đảng cộng sản Việt nam
1. Phân tích làm rõ nhận thức của cá nhân về những vấn đề cơ bản và mới trong
ba chuyên đề vừa được tiếp thu
Trong thời gian một ngày được học tập, nghiên cứu, quán triệt Nghị quyết Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng. Đây là lần đầu tiên Đảng bộ tổ chức học tập
và quán triệt Nghị quyết theo cách làm mới đã đem lại hiêu quả thiết thực, tạo ra khí
thế học tập nghiêm túc, hào hứng và đem lại hiệu quả thiết thực cho tất cả đảng viên,
cán bộ tham gia học tập. Việc học tập, quán triệt Nghị quyết lần này được các đồng chí
báo cáo viên là Giáo sư, phó Giáo sư có trình độ chuyên môn cao của Hội đồng lý luận
Trung Ương truyền đạt, đã phân tích làm rõ thêm những kết quả đạt được, những tồn
tại, hạn chế trong việc lãnh đạo phát triển kinh tế, văn hoá - xã hội, quốc phòng - an
ninh và công tác xây dựng Đảng trong 5 năm qua (2010 - 2015). Việc học tập và quán
triệt Nghị quyết lần này, đã làm cho mỗi Đảng viên nhận thức sâu sắc hơn, hiểu hơn và
sẳn sàng chia sẽ với những khó khăn, thách thức mà Đảng, đất nước ta đang phải trải
qua, từ đó nâng cao nhận thức, kiên định, vững vàng hơn để góp phần xây dựng đất
nước Việt Nam ổn định và phát triển.
NHÌN LẠI 30 NĂM ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC (1986 - 2016)

Bối cảnh thế giới, khu vực: Tình hình thế giới, khu vực 5 năm qua diễn biến nhanh,
rất phức tạp, khó lường; đất nước đứng trước nhiều vấn đề mới, có cả những thuận lợi,
thời cơ đan xen khó khăn, thách thức gay gắt, tác động mạnh đến nước ta.
Kinh tế thế giới phục hồi chậm hơn dự báo. Khủng hoảng nợ công diễn ra trầm
trọng hơn ở nhiều quốc gia, nhiều nước tăng cường bảo hộ thương mại và sản xuất.
Khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu tác động làm cho mặt trái của


chính sách kích cầu và những yếu kém nội tại của nền kinh tế bộc lộ nặng nề hơn.
Khủng hoảng chính trị ở nhiều nơi, nhiều nước; các nước lớn cạnh tranh quyết liệt
giành ảnh hưởng trong khu vực. Tình hình phức tạp, căng thẳng ở Biển Đông đe doạ
nghiêm trọng hoà bình, ổn định và tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước.
- Ở trong nước, những thành tựu của công cuộc đổi mới đã tạo những điều kiện và tiền
đề thuận lợi cho sự phát triển đất nước trong nhiệm kỳ 2011 - 2015.
Ngay từ đầu nhiệm kỳ, cùng với những ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và
suy thoái kinh tế toàn cầu, những hạn chế, khiếm khuyết vốn có của nền kinh tế chưa
được giải quyết, những hạn chế, yếu kém trong lãnh đạo, quản lý và những vấn đề mới
phát sinh đã làm cho lạm phát tăng cao, ảnh hưởng nghiêm trọng đến ổn định kinh tế
vĩ mô, tốc độ tăng trưởng và đời sống nhân dân. Thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu
gây thiệt hại nặng nề...
Trước diễn biến mới của tình hình, Trung ương Đảng, Bộ Chính trị đã quyết định
điều chỉnh mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Tập trung ưu tiên kiềm chế
lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô; bảo đảm an sinh xã hội, cải thiện đời sống nhân dân;
duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý gắn với đẩy mạnh thực hiện ba đột phá chiến lược, cơ
cấu lại nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng; bảo đảm quốc phòng - an ninh và
ổn định chính trị - xã hội; tăng cường hoạt động đối ngoại và nâng cao hiệu quả hội


nhập quốc tế; tạo tiền đề vững chắc cho tăng trưởng cao hơn ở những năm cuối của kế
hoạch 5 năm.
- Những thành quả đạt được: "Nhìn tổng quát, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã nỗ
lực phấn đấu đạt được những thành quả quan trọng". Đánh giá như vậy là phù hợp,
đúng mức, phản ánh được cả những nỗ lực, cố gắng của chúng ta trong bối cảnh khó
khăn, phức tạp của tình hình thế giới và trong nước, cũng như cả những yếu kém,
khuyết điểm cần được khắc phục. Được thể hiện trên các mặt sau đây:
+ Lạm phát được kiểm soát, kinh tế vĩ mô dần ổn định.
+ Tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức hợp lý, từ năm 2013 dần phục hồi, năm sau

cao hơn năm trước; chất lượng tăng trưởng được nâng lên.
+ Ba đột phá chiến lược được tập trung thực hiện và đạt kết quả tích cực.
+ Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng đạt kết quả tích cực
bước đầu.
+ Văn hoá, xã hội có bước phát triển, an sinh xã hội cơ bản được bảo đảm, đời sống
nhân dân tiếp tục được cải thiện.
+ Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu có những
chuyển biến tích cực.
+ Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, hoà bình, ổn định được giữ vững để
phát triển đất nước.
+ Quan hệ đối ngoại, vị thế, uy tín quốc tế của nước ta tiếp tục được nâng cao.
+ Dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được phát
huy.
+ Tiếp tục hoàn thiện quan điểm và thể chế về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
+ Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị được chú trọng và đạt một số kết quả
quan trọng.
- Những hạn chế, khuyết điểm:
+ Đổi mới chưa đồng bộ và toàn diện.
+ Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội chưa đạt kế hoạch; nhiều chỉ tiêu, tiêu chí trong mục
tiêu phấn đấu để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại không đạt được.
+ Kinh tế vĩ mô ổn định nhưng chưa vững chắc; nợ công tăng nhanh, nợ xấu đang
giảm dần nhưng còn ở mức cao; sản xuất kinh doanh còn gặp rất nhiều khó khăn.
+ Kinh tế tăng trưởng thấp hơn 5 năm trước, không đạt mục tiêu đề ra; năng suất, chất
lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp.
+ Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chậm được hoàn thiện, chưa
có cơ chế đột phá để thúc đẩy phát triển; chất lượng nguồn nhân lực còn thấp; kết cấu
hạ tầng thiếu đồng bộ, tiếp tục là những yếu tố cản trở phát triển.
+ Thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng còn chậm.

+ Nhiều hạn chế, yếu kém trong các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và công
nghệ, văn hoá, xã hội chậm được khắc phục.
+ Ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường còn bất cập.
+ Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí,... chưa được ngăn chặn và
đẩy lùi; tội phạm và tệ nạn xã hội còn diễn biến phức tạp; đạo đức xã hội có mặt xuống
cấp.


+ Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước nhiều mặt còn hạn chế. Quản lý xã hội còn một
số mặt bất cập.
+ Dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy
đầy đủ; kỷ cương, phép nước chưa nghiêm.
+ Một số mặt công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa và Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội chuyển biến chậm.
+ Công tác dự báo, hoạch định và lãnh đạo tổ chức thực hiện chính sách của Đảng,
Nhà nước, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý phát triển xã hội còn nhiều bất
cập.
+ Hội nhập quốc tế có mặt chưa chủ động, hiệu quả chưa cao.
+ Một số mặt trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa và Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội chuyển biến chậm.
+ Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập, chưa làm rõ một số vấn
đề đặt ra trong quá trình đổi mới để định hướng trong thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa
học cho hoạch định đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
+ Kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu và thực tế
nguồn lực được huy động. Chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động xã hội và năng lực
cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Phát triển thiếu bền vững cả về kinh tế, văn hoá,
xã hội và môi trường. Đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế; năng lực và
hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ.
+ Bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng

(năm 1994) nêu lên vẫn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp, như nguy cơ "tụt hậu xa
hơn về kinh tế" và nguy cơ "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch và những biểu
hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ. Niềm tin của cán bộ, đảng viên và
nhân dân vào Đảng, chế độ có mặt bị giảm sút.
VỀ MỤC TIÊU TỔNG QUÁT PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC 5 NĂM (2016 - 2020)

Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Phát huy sức mạnh
toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi
mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã
hội chủ nghĩa. Giữ gìn hoà bình, ổn định, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để
phát triển đất nước; nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế
giới.
- Về kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 6,5 - 7%/năm. Đến năm
2020, GDP bình quân đầu người khoảng 3.200 - 3.500 USD; tỉ trọng công nghiệp và
dịch vụ trong GDP khoảng 85%; tổng vốn đầu tư toàn xã hội bình quân 5 năm bằng
khoảng 32 - 34% GDP; bội chi ngân sách nhà nước còn khoảng 4% GDP. Năng suất
các nhân tố tổng hợp (TFP) đóng góp vào tăng trưởng khoảng 30 - 35%; năng suất lao
động xã hội bình quân tăng khoảng 5%/năm; tiêu hao năng lượng tính trên GDP bình
quân giảm 1 - 1,5%/năm. Tỉ lệ đô thị hoá đến năm 2020 đạt 38 - 40%.
- Về xã hội: Đến năm 2020, tỉ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội
khoảng 40%; tỉ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 65 - 70%, trong đó có bằng cấp,
chứng chỉ đạt 25%; tỉ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%; có 9 - 10 bác sĩ và


trên 26,5 giường bệnh trên 1 vạn dân; tỉ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt trên 80% dân số;
tỉ lệ hộ nghèo giảm bình quân khoảng 1,0 - 1,5%/năm.

- Về môi trường: Đến năm 2020, 95% dân cư thành thị, 90% dân cư nông thôn được sử
dụng nước sạch, hợp vệ sinh và 85% chất thải nguy hại, 95 - 100% chất thải y tế được
xử lý; tỉ lệ che phủ rừng đạt 42%.
- Các nhiệm vụ trọng tâm:
+ Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ. Tập
trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực,
phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
+ Xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực,
hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu.
+ Tập trung thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao
động và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả ba đột phá
chiến lược (hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đổi mới
căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo; phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân
lực chất lượng cao; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ), cơ cấu lại tổng thể và
đồng bộ nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, chú trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn
gắn với xây dựng nông thôn mới. Chú trọng giải quyết tốt vấn đề cơ cấu lại doanh
nghiệp nhà nước, cơ cấu lại ngân sách nhà nước, xử lý nợ xấu và bảo đảm an toàn nợ
công.
+ Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất
nước; bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Mở rộng và đưa vào
chiều sâu các quan hệ đối ngoại; tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện hiệu
quả hội nhập quốc tế trong điều kiện mới, tiếp tục nâng cao vị thế và uy tín của đất
nước trên trường quốc tế.
+ Thu hút, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực và sức sáng tạo của nhân dân. Chăm lo
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, giải quyết tốt những vấn đề bức thiết; tăng cường
quản lý phát triển xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; bảo đảm an sinh
xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội và giảm nghèo bền vững. Phát huy quyền làm chủ của

nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
+ Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây
dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây dựng
môi trường văn hoá lành mạnh.
2. Việc triển khai thực hiện Nghị quyết Trung Ương 4 về xây dựng Đảng:
Chúng ta có thể khẳng định rằng: Những kết quả qua 4 năm thực hiện Nghị quyết
tuy chưa được như mong muốn, nhưng đã tạo được một số chuyển biến quan trọng
bước đầu về công tác xây dựng Đảng, thể hiện trên các nội dung chủ yếu sau đây:
- Thứ nhất: Góp phần củng cố, nâng cao và thống nhất nhận thức tư tưởng trong Đảng
về tình hình Đảng và công tác xây dựng Đảng hiện nay. Thông qua việc tổ chức học
tập, quán triệt Nghị quyết và các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của Trung ương một cách
nghiêm túc ở các cấp, đã trở thành đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn Đảng;
giúp cho các cấp ủy, tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên nâng cao nhận thức về
vị trí then chốt của công tác xây dựng Đảng; thấy rõ và sâu sắc ý nghĩa quan trọng, sự
cần thiết phải thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 và nhận diện rõ hơn những biểu hiện


của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên. Từ
đó, mỗi cán bộ, đảng viên xác định trách nhiệm của mình, nêu cao ý thức tự giác,
gương mẫu trong việc thực hiện Nghị quyết.
- Thứ hai: Đã góp phần đấu tranh, ngăn chăn, đẩy lùi được một số biểu hiện suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên. Qua việc chuẩn bị và
tổ chức kiểm điểm, tự phê bình, phê bình tập thể, cá nhân và lắng nghe, tiếp thu ý kiến
góp ý trước kiểm điểm, là dịp để mỗi cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên tự
nhìn nhận, soi xét lại bản thân mình, thấy rõ ưu điểm để phát huy và hạn chế, khuyết
điểm để sửa chữa, khắc phục; đồng thời, chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế,
khuyết điểm, từ đó tự điều chỉnh nhận thức, hành vi của bản thân, của vợ (chồng), con
và người thân. Qua kiểm điểm, tự phê bình và phê bình, kết hợp với công tác kiểm tra,
giám sát của Đảng; với công tác thanh tra, kiểm toán của Nhà nước và công tác điều
tra, truy tố, xét xử của các cơ quan bảo vệ pháp luật, chỉ tính trong 3 năm (2012, 2013,

2014), toàn Đảng đã xử lý kỷ luật hơn 54.000 đảng viên ở các cấp và xóa tên, cho ra
khỏi Đảng hàng nghìn trường hợp khác, đã có tác dụng cảnh báo, cảnh tỉnh, răn đe và
phòng ngừa sai phạm; siết lại kỷ cương, kỷ luật, tăng cường sự đoàn kết, thống nhất
trong Đảng; đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi được một số biểu hiện suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng
phí, góp phần làm trong sạch nội bộ Đảng.
- Thứ ba: Đã kịp thời sửa chữa, khắc phục được một số hạn chế, khuyết điểm, yếu kém
kéo dài trên một số lĩnh vực của công tác xây dựng Đảng. Sau kiểm điểm, tự phê bình
và phê bình, từ Bộ Chính trị, Ban Bí thư đến các cấp ủy, tổ chức đảng và mỗi cán bộ,
đảng viên đều xây dựng và thực hiện kế hoạch sửa chữa, khắc phục những khuyết
điểm đã được kết luận qua tự phê bình và phê bình. Do vậy, một số hạn chế, khuyết
điểm, yếu kém về công tác tổ chức cán bộ đã từng bước được khắc phục. Nhiều vụ,
việc nổi cộm, bức xúc trong xã hội về quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên, khoáng sản;
trong quản lý xây dựng, trật tự đô thị và một số vụ tranh chấp, khiếu kiện kéo dài đã
được giải quyết. Nhiều cấp ủy đã quy định cụ thể về việc nêu gương của cán bộ, đảng
viên, nhất là người đứng đầu; quy định cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp trên phải tham dự
sinh hoạt với chi bộ ở địa bàn dân cư định kỳ tiếp xúc, đối thoại với nhân dân tại cơ
sở...
- Thứ tư: Đã tạo được một số chuyển biến mới tích cực về công tác cán bộ, nhất là ở
cấp Trung ương. Các cấp ủy, tổ chức đảng đã rà soát, đánh giá và sắp xếp, bố trí lại đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cấp, nhất là đối với những cán bộ, đảng viên có
khuyết điểm qua tự phê bình và phê bình hoặc tín nhiệm thấp. Công tác quy hoạch, đào
tạo, bồi dưỡng và luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cấp được tăng cường và
đẩy mạnh hơn. Lần đầu tiên, Ban Chấp hành Trung ương đã xây dựng quy hoạch đội
ngũ cán bộ cấp chiến lược. Bộ Chính trị đã quyết định tổ chức 02 lớp bồi dưỡng, cập
nhật kiến thức mới cho hơn 150 đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa XI; 06 lớp bồi dưỡng cán bộ dự nguồn cao cấp cho hơn 500 đồng chí; 03 lớp bồi
dưỡng nghiệp vụ theo chức danh cho hơn 170 đồng chí bí thư cấp ủy cấp huyện; điều
động, luân chuyển và sắp xếp, bố trí lại nhiều cán bộ lãnh đạo, quản lý đương chức và
trong quy hoạch ở Trung ương và các địa phương, phục vụ cho công tác chuẩn bị nhân

sự đại hội đảng bộ cấp tỉnh nhiệm kỳ 2015 - 2020 và Đại hội lần thứ XII của Đảng.
- Thứ năm: Nguyên tắc tập trung dân chủ tiếp tục được cụ thể hoá nhằm xác định rõ
hơn thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong mối quan hệ
với tập thể cấp ủy, lãnh đạo cơ quan, đơn vị và tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo


của Đảng. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành một số
văn bản quan trọng về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã
hội. Các cấp ủy, tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở đã tiến hành rà soát, bổ sung,
hoàn thiện các quy chế, quy định đã có cho phù hợp; đồng thời ban hành một số quy
chế, quy định mới nhằm phát huy dân chủ, tăng cường kỷ cương, kỷ luật của Đảng và
đề cao trách nhiệm, thẩm quyền của người đứng đầu; xác định rõ chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và mối quan hệ giữa cấp ủy, ban thường vụ và thường trực cấp ủy; thực
hiện quy định về việc lấy phiếu tín nhiệm đối với các thành viên lãnh đạo cấp ủy và
cán bộ lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể chính trị - xã hội; đã thực hiện việc chất vấn trong các kỳ họp của Ban Chấp
hành Trung ương và cấp ủy các cấp. Triển khai thực hiện Quy chế giám sát và phản
biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội; Quy
định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia
góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Nhiều cấp ủy đã coi trọng cải tiến phong
cách, lề lối làm việc, đổi mới việc ban hành và tổ chức thực hiện nghị quyết; coi trọng
việc sơ kết, tổng kết thực hiện các nghị quyết của cấp trên và của cấp mình; tích cực
cải cách thủ tục hành chính và ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác lãnh đạo,
chỉ đạo của cấp ủy.
- Thứ sáu: Quá trình thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 được kết hợp chặt chẽ với
việc đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đã đem lại một số
kết quả cụ thể, thiết thực. Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí được
tăng cường và đẩy mạnh hơn. Ban Chấp hành Trung ương đã quyết định thành lập lại
Ban Nội chính Trung ương; kiện toàn Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham
nhũng do đồng chí Tổng Bí thư làm Trưởng ban và tập trung chỉ đạo quyết liệt vấn đề

này. Do vậy, nhiều văn bản chỉ đạo về đấu tranh phòng, chống tham nhũng đã được thể
chế hóa bằng pháp luật; nhiều vụ việc tham nhũng lớn, nghiêm trọng và phức tạp kéo
dài ở Trung ương và các địa phương đã sớm được điều tra, khởi tố, truy tố và xét xử
công khai với những bản án nghiêm khắc dành cho các bị cáo, được cán bộ, đảng viên
và nhân dân đồng tình, ủng hộ, tin tưởng vào quyết tâm đấu tranh, đẩy lùi tham nhũng
của Đảng và Nhà nước ta.
Như vậy, trong bối cảnh đất nước có nhiều khó khăn, thách thức; tình hình thế giới,
khu vực có những diễn biến nhanh và phức tạp, những chuyển biến tích cực về công
tác xây dựng Đảng qua thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 đã góp phần giữ vững ổn
định chính trị - xã hội; củng cố quốc phòng, an ninh; bảo đảm an sinh xã hội và thúc
đẩy thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; góp phần
quan trọng vào sự thành công của đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2015-2020. Mặt
khác, cũng qua chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, các cấp ủy, tổ chức đảng
đã tích lũy thêm kinh nghiệm về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong tình hình
mới hiện nay.
Có được những kết quả nêu trên là do: Nghị quyết Trung ương 4 là một chủ trương
đúng đắn, kịp thời, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, phù hợp với tâm tư, nguyện vọng
của cán bộ, đảng viên và nhân dân; được dư luận xã hội đồng tình ủng hộ, tích cực
tham gia. Trong quá trình thực hiện Nghị quyết, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư và các cấp ủy đảng đã lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, bài bản, khoa
học, cụ thể với quyết tâm chính trị cao và có một số đổi mới về nội dung, cách làm so
với trước, đem lại hiệu quả cụ thể, thiết thực. Có sự tham gia tích cực của các tổ chức
trong hệ thống chính trị ở các cấp; sự gương mẫu, nghiêm túc, tự giác trong kiểm


điểm, tự phê bình, phê bình và sửa chữa khuyết điểm của tập thể, cá nhân các đồng chí
Bộ Chính trị, Ban Bí thư là tấm gương để cấp dưới và cán bộ, đảng viên học tập, noi
theo.
3. Liên hệ tại cơ quan, đơn vị
Trường Mầm non Nam Phong là đơn vị thuộc Phòng GD&ĐT Tuyên Hóa quản lý

trực tiếp, thực hiện chức năng quản lý công tác giáo dục. Trường được giao biên chế
18 người, trong đó: Biên chế: 16 đồng chí; hợp đồng: 02 đồng chí.
- Về trình độ chuyên môn:
+ Đại học : 11 Đồng chí.
+ Cao đẳng: 02 đồng chí.
+ Trung cấp 05 đồng chí.
+ Lý luân chính trị: Trung cấp 03 đồng chí.
- Về chât lựong đội ngũ:
Nhìn chung chất lựơng CBGVNV vụ cơ bản đáp ứng yêu cầu công việc, nhiệt tình
với công việc, có bản lĩnh chính trị vững vàng.
* Tình hình thực hiện nhiệm - Những kết quả đạt được
Trong năm qua bản thân tôi ngoài công việc chuyên môn giao là giảng dạy lớp lớn,
Trường Mầm non Nam Phong. Ngoài ra tôi đã bám sát các văn bản hướng dẫn thực
hiện nhiệm vụ năm học của Ngành, của Sở GD&ĐT để chủ động xây dựng kế hoạch
hoạt động, chỉ đạo chuyên môn xây dựng kế hoạch chương trình phù hợp với điều kiện
thực tế của nhà trường và triển khai thực hiện đạt hiệu quả cao, góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện cho trẻ.
Làm tốt công tác tham mưu với các tuyên truyền tới bậc phụ huynh tham gia học
tập các nghị quyết của Đảng., thực hiện tốt các quy định ở địa phương
Công tác phổ cập giáo dục Mầm non cho trẻ 5 tuổi đạt hiệu quả cao: Xã được công
nhận xã đạt chuẩn phổ cập cho trẻ 5 tuổi.
Tôi luôn hưởng ứng tích cực các cuộc vận động nhân đạo từ thiện do các ban ngành
cấp trên phát động.
- Tồn tại, hạn chế:
Bên cạnh những kết mà bản thân tôi đạt được trong năm học qua, tôi cũng có một số
mặt hạn chế: Trong sinh hoạt Đảng còn chưa mạnh dạn trong công tác phê và tự phê
- Nguyên nhân:
Do bản tính nhút nhát và trong công việc còn có chút nể nang
- Giải pháp thực hiện trong thời gian tới:
Trong văn kiện đại hội XII lần này, kế thừa quan điểm chỉ đạo của nhiệm kỳ trước,

Đảng ta đã đưa ra đường lối đổi mới căn bản toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển
nguồn nhân lực, xác định đây là một kế sách, quốc sách hàng đầu, tiêu điểm của sự
phát triển, mang tính đột phá, khai mở nguồn nhân lực Việt Nam trong thế kỷ XXI,
khẳng định triết lý nhân sinh mới của nền giáo dục nước nhà “Dạy người, dạy chữ, dạy
nghề”.
4. Đề xuất, kiến nghị một số giải pháp để tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội
XII của Đảng trong thời gian tới
4.1. Tiếp tục tuyên truyền sâu rộng Nghị quyết đến toàn thể cán bộ, giáo viên, nhân
viên, đảng viên và quần chúng nhân dân bằng nhiều hình thức, nhằm nâng cao nhận
thức sâu sắc của đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân trong việc thực hiện nghị quyết
của Đảng.


Sau khi được học tập, quán triệt Nghị quyết của Đảng, cần phải nghiên cứu về các
chính sách phát triển kinh tế - xã hội; Đổi mới căn bản toàn diện giáo dục, đào tạo, đã
được nêu trong Nghị quyết; trên cơ sở điều kiện thực tế của địa phương, xây dựng các
chương trình hành động, kế hoạch cụ thể, sát đúng để triển khai thực hiện đạt hiệu quả
cao.
4.2. Lựa chọn đúng các vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay để ra kế hoạch
triển khai thực hiện phù hợp với yêu cầu thực tiễn, đáp ứng tâm tư, nguyện vọng của
cán bộ, đảng viên và nhân dân. Khi có kế hoạch, chương trình hành động, Thường vụ
Đảng uỷ và cấp ủy, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, sâu sát, cụ thể, với quyết tâm
chính trị cao. Các đồng chí lãnh đạo và cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, các ban
ngành, nhất là người đứng đầu phải gương mẫu, tự giác thực hiện, có tác dụng làm
gương cho cấp dưới và đảng viên học tập, noi theo.
4.3. Việc chỉ đạo thực hiện Nghị quyết được tiến hành bài bản, khoa học, chặt chẽ,
thận trọng; các nhóm giải pháp nêu trong Nghị quyết đã được thể chế hóa, cụ thể hóa
bằng các quy định, quyết định, hướng dẫn của Thường vụ Đảng uỷ, UBND xã, và triển
khai thực hiện đồng bộ ở các cấp ủy, chi bộ, tập thể lãnh đạo các cơ quan, đơn vị đều
xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện nghiêm túc, có sự phân công nhiệm vụ cụ

thể, rõ ràng, phù hợp với tình hình thực tế của địa phương, cơ quan, đơn vị.
4.4. Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết TW 4 khoá XI, phát huy tinh thần tự
phê bình và phê bình. Nêu cao vai trò gương mẫu của người đứng đầu; sau kiểm điểm
có kết luận ưu, khuyết điểm của tập thể, cá nhân và các tập thể, cá nhân phải xây dựng
kế hoạch sửa chữa, khắc phục khuyết điểm.
4.5. Chương trình về phát triển kinh tế - xã hội, Quốc phòng - an ninh của Đảng ủy,
UBND xã phải được tiến hành khẩn trương, đồng bộ, chu đáo, đảm bảo chất lượng và
kịp thời bổ sung, điều chỉnh, hoàn thiện những chủ trương đã ban hành nhưng chưa
phù hợp với thực tiễn. Trong quá trình triển khai, thực hiện, các ban ngành được phân
công phụ trách nhất là người đứng đầu phải thường xuyên chỉ đạo, theo dõi, kiểm tra
việc thực hiện; định kỳ đánh giá và rút kinh nghiệm kịp thời./.
NGƯỜI VIẾT BÀI THU HOẠCH

Ngô Thị Ngọc Huế



×