Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Giọng điệu truyện ngắn nguyễn quang sáng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (764.82 KB, 82 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2

VƢƠNG THỊ QUỲNH VÂN

GIỌNG ĐIỆU TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN QUANG SÁNG
Chuyên ngành: Lý luận văn học
Mã số: 60 22 01 20

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Hà Công Tài

HÀ NỘI, 2015


LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn, đặc
biệt là các thầy cô giáo Phòng sau Đại học – Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
2 đã quan tâm giúp đỡ em trong quá trình học tập và thực hiện đề tài.
Em xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đối vơi PGS. TS Hà
Công Tài - người thầy đã tận tâm hướng dẫn em hoàn thành luận văn này.
Xin gửi tới người thân – gia đình, bè bạn – những người đã luôn động
viên giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu lời cảm ơn sâu
sắc.
Hà Nội, ngày….. tháng …. năm……
Người thực hiện

Vương Thị Quỳnh Vân



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này
là trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác. Tôi cũng xin cam đoan
rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các
thông tin trích dẫn trong luận văn đã được ghi rõ nguồn gốc.
Tác giả luận văn


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................ 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................. 7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................. 8
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 9
6. Đóng góp của luận văn ............................................................................. 10
7. Cấu trúc luận văn...................................................................................... 10
PHẦN NỘI DUNG ......................................................................................... 11
Chương 1. GIỚI THUYẾT CHUNG VỀ GIỌNG ĐIỆU ............................... 11
1.1. Các quan niệm về giọng điệu ................................................................ 11
1.2. Định nghĩa về giọng điệu ...................................................................... 13
1.3. Cơ sở hình thành giọng điệu ................................................................. 15
1.3.1. Đề tài và cảm hứng chủ đạo của nhà văn trong sáng tác ............... 15
1.3.2. Cái nhìn nghệ thuật của tác giả ...................................................... 18
1.3.3. Cá tính sáng tạo của nhà văn .......................................................... 19
1.4. Giọng điệu như một yếu tố tích cực thể hiện phong cách nghệ
thuật của nhà văn .......................................................................................... 21
Chương 2. GIỌNG ĐIỆU TRUYỆN NGẮN NGUYỄN QUANG SÁNG
TRƯỚC NĂM 1975 ........................................................................................ 24

2.1. Cơ sở hình thành ................................................................................... 24
2.1.1. Đề tài chiến tranh ............................................................................ 24
2.1.2. Cảm hứng chủ đạo .......................................................................... 27
2.1.2.1. Cảm hứng sử thi. ....................................................................... 27
2.1.2.2. Cảm hứng lãng mạn .................................................................. 28


2.2. Những giọng điệu chính trong truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng
trước năm 1975............................................................................................. 30
2.2.1. Giọng điệu sử thi, hào hùng ............................................................ 31
2.2.2. Giọng trữ tình, tha thiết. .................................................................. 40
2.2.3. Giọng xót thương ............................................................................. 44
2.2.4. Giọng cà kê, chậm rãi ..................................................................... 45
Chương 3. GIỌNG ĐIỆU TRUYỆN NGẮN NGUYỄN QUANG SÁNG
SAU 1975 ........................................................................................................ 49
3.1. Cơ sở hình thành ................................................................................... 49
3.1.1. Đề tài thế sự..................................................................................... 49
3.1.2. Cảm hứng chủ đạo .......................................................................... 53
3.1.2.1. Cảm hứng thế sự ........................................................................ 53
3.1.2.2. Cảm hứng đạo lí ........................................................................ 55
3.2.Giọng điệu chủ yếu trong truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng sau
năm 1975 ...................................................................................................... 58
3.2.1. Giọng cảm thông, chia sẻ ................................................................ 58
3.2.2. Giọng triết lý.................................................................................... 63
3.2.3. Giọng dí dỏm, châm biếm nhẹ nhàng.............................................. 65
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 69
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 73


1


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giọng điệu nghệ thuật là một trong những yếu tố quan trọng trong tác
phẩm văn học, đồng thời giọng điệu cũng góp phần không nhỏ trong việc tạo
nên phong cách nghệ thuật của nhà văn. Có lẽ vì thế mà từ lâu, vấn đề giọng
điệu đã trở thành vấn đề được giới nghiên cứu, phê bình văn học quan tâm.
Đã có rất nhiều bài viết, công trình coi giọng điệu như một đối tượng nghiên
cứu và với một nền văn học giàu có như văn học Việt Nam nói chung và văn
học hiện đại Việt Nam nói riêng thì tìm hiều về giọng điệu nghệ thuật vẫn là
một vấn đề quan trọng và cần thiết.
Trong số những nhà văn hiện đại Việt Nam, Nguyễn Quang Sáng (1932
- 2014) là nhà văn đã sớm xác định cho mình một giọng điệu nghệ thuật đặc
trung với một phong cách rất riêng của một "nhà văn Nam Bộ". Không chỉ
bởi tác phẩm của ông lấy bối cảnh Nam Bộ, mà ở giọng điệu Nam Bộ "không
có cái nhàn nhạt chữ nghĩa dùng cho miền nào cũng được" (Tô Hoài). Tính
cách Nam Bộ, đã yêu thích cái gì, tin tưởng cái gì thì tin yêu đến tận cùng. Tất
cả những đóng góp ấy của Nguyễn Quang Sáng được minh chứng qua hàng
chục truyện ngắn và tiểu thuyết cùng hàng chục kịch bản điện ảnh đạt nhiều
giải thưởng: 2 giải truyện ngắn "Ông Năm Hạng" của báo Thống Nhất và "Tư
Quắn" của Tạp chí Văn nghệ Quân đội (1959); Giải thưởng Hội đồng Văn
học thiếu nhi Hội nhà văn (1985) với tiểu thuyết "Dòng sông thơ ấu"; Giải
thưởng Hội nhà văn Việt Nam (1994) với truyện ngắn "Con mèo của
Foujita"; cùng các kịch bản phim: Cánh đồng hoang - Bộ phim được huy
chương vàng liên hoan phim toàn quốc 1980, Mùa gió chướng - huy chương
bạc liên hoan phim toàn quốc 1990. Đặc biệt là giải thưởng Hồ Chí Minh về
văn học nghệ thuật đợt 2 năm 2001.


2


Sự nghiệp sáng tác văn học của Nguyễn Quang Sáng đạt nhiều thành
tựu phong phú, ở cả hai giai đoạn trước và sau 1975. Sáng tác của ông dù ở
thể loại nào cũng mang tính nhân dân sâu sắc, mang đậm hơi thở của kháng
chiến, của người Nam Bộ. Ông xứng đáng là một trong những nhà văn nam
bộ tiêu biểu, có đóng góp xuất sắc cho nền văn học Việt Nam hiện đại.
Giờ đây sau khi hưởng trọn cái tết lần thứ 82 của mình,ông đã chọn
đêm trước hôm rằm – Rằm tháng giêng Giáp Ngọ để nhẹ bước êm ru vào
miền tịch diệt. Ông đã để lại "Một gánh sách cho đời" (Ngô Thảo) "Gánh
sách" của nhà văn Nam Bộ, mang hơi thở giọng điệu phong cách khẩu khí
riêng của người dân Nam Bộ. Do vậy khi chọn đề tài "Giọng điệu truyện ngắn
Nguyễn Quang Sáng" chúng tôi mong muốn giúp bạn đọc nắm bắt được, cảm
nhận được chất giọng riêng của nhà văn trong sáng tác. Từ đó chúng ta có
được chìa khóa để đi sâu vào thế giới nghệ thuật của Nguyễn Quang Sáng,
đồng thời có thêm cơ sở để hiểu một cách khái quát về phong cách độc đáo
cũng như những đóng góp có giá trị của nhà văn đối với nền văn học hiện đại
Việt Nam.
2. Lịch sử vấn đề
Nguyễn Quang Sáng bắt đầu cầm bút từ 1952 hồi ở U Minh, thời đánh
Pháp. Kể từ đó đến khi ngừng thở ở tuổi 82, Nguyễn Quang Sáng vẫn giữ
được sức sáng tạo dồi dào và luôn không ngừng đổi mới. Sáng tác của ông
bởi thế, cũng thu hút được sự chú ý của không ít nhà phê bình, nghiên cứu.
Các bài viết thường được triển khai theo hai hướng: hoặc khái quát đặc trưng
truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng qua tổng kết hàng loạt các tác phẩm, hoặc đi
sâu vào tìm hiểu một truyện ngắn tiêu biểu của ông. Ở hướng tiếp cận nào thì
các công trình đi trước đều đưa ra những gợi ý thú vị cho người thực hiện
luận văn này.


3


Năm 1969, tác giả Nguyễn Nghiệp đã có bài viết “Đất nước và con
người miền Nam trong Chiếc lược ngà của Nguyến Sáng” đăng trên Tạp chí
văn học số 1. Bài viết với những nhận xét khái quát nhất về tập truyện ngắn
Chiếc lược ngà. Nguyễn Nghiệp chủ yếu thiên về tóm tắt nội dung các câu
chuyện và bước đầu đưa ra một số phát hiện về đặc điểm truyện ngắn Nguyễn
Quang Sáng: “lối kể chuyện tưởng chừng như rất thoải mái, tùy hứng , nhưng
thực ra đã thông qua bàn tay rất chủ động của tác giả (…) Qúa khứ với hiện
tại xen lẫn nhau, gắn bó với nhau theo logic bên trong của tính cách(…)
Những chi tiết đều là chọn lọc và đã được khai thác đúng mức, hành động
bên ngoài nói lên được tâm trạng bên trong” [68;tr.26]. Bài viết này có ý

nghĩa như là một trong những bài phê bình đầu tiên về truyện ngắn
Nguyễn Quang Sáng.
Năm 1975, trên Tạp chí Văn học số 2, tác giả Vân Thanh đã có một bản
tổng kết “dày dặn” và toàn diện hơn về Truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng.
Nhìn lại chặng đường sáng tác của Nguyễn Quang Sáng từ 1958-1975, Vân
Thanh đã chỉ ra những đặc điểm nổi bật làm nên phong cách truyện ngắn của
ông: “Nói được một cái gì thật kì diệu trong những điều tưởng chừng rất bình
thường cuả cuộc sống, đó là đóng góp đáng chú ý của Nguyễn Sáng (...)
Nhưng làm quen với Nguyễn Sáng, người đọc được tiếp xúc nhiều hơn với
những câu chuyện được xây dựng trên những tình tiết ngẫu nhiên, bất ngờ,
lắm khi gay cấn, căng thẳng đầy tính kịch” [75; tr.17]. Vân Thanh còn đưa ra
nhiều nhận định sắc sảo, chính xác về chi tiết, nhân vật, tính kịch trong truyện
ngắn Nguyễn Quang Sáng như: “Truyện Nguyễn Sáng giàu chi tiết sống.
Nhưng chi tiết đối với anh không phải là một thứ trang sức để phô bày. Chi
tiết được anh dùng trước hết là nhằm khắc họa nhân vật ... Cùng miêu tả lớp
trẻ, nhưng Nguyễn miêu tả mỗi người một nét khác nhau ... Cùng miêu tả cô
giao liên nhưng qua ngòi bút Nguyễn Sáng mỗi người vẫn có một vẻ riêng”.



4

“Nhân vật trong truyện Nguyễn Sáng là những con người vươn lên trong ánh
sáng cách mạng. Những nét u buồn không đọng lâu trong con người họ. Khó
khăn, mất mát, chết chóc là điều khó tránh khỏi trong chiến đấu ác liệt này,
nhưng điều đó không làm giảm lòng tin của họ vào chiến thắng ngày mai”.
Hay “lắm tình huống bất ngờ, truyện Nguyễn Sáng thường mang nhiều chất
kịch. Đó là phong cách của anh. Truyện của anh bao giờ cũng đột ngột,
người đọc khó đoán được” [75; tr.24]. Có thể nói bài viết của Vân Thanh đã
bước đầu đem đến cho bạn đọc một phong cách truyện ngắn Nguyễn Quang
Sáng: chứa đựng những yếu tố kì diệu, giàu chi tiết sống, lắm tình huống bất
ngờ, đậm tính kịch những vẫn mang nhiều chất trữ tình.
Những năm sau đó giới phê bình cũng rải rác có một số bài viết về
Nguyễn Quang Sáng và truyện ngắn của ông. Có thể kể đến bài viết của Trần
Hữu Tá về chân dung nhà văn trên Từ điển văn học với những nhận định ngắn
gọn mà khái quát: “Nguyễn Quang Sáng có một phong cách viết truyện ngắn
độc đáo. Truyện thường lắm tình huống bất ngờ, ngẫu nhiên nhưng tự nhiên,
giàu chi tiết sống động và kì diệu nhưng hợp lý…,” [68; tr.114].
Đáng kể hơn nữa là các Lời giới thiệu Tuyển tập Nguyễn Quang Sáng
của Bùi Việt Thắng và Phan Đắc Lập. Với những cảm nhận tinh tế của ngòi
bút chuyên phê bình truyện ngắn, tác giả Bùi Việt Thắng đã “lẩy” ra một số
đặc điểm quan trọng trong phong cách Nguyễn Quang Sáng: cốt truyện tiêu
biểu hấp dẫn, chi tiết chọn lọc, tình huống đặc sắc và kịch tính cao, chất Nam
Bộ đậm nét trong lời văn, lối kể chuyện rất “hoạt”. Đồng thời, Bùi Việt Thắng
cũng bước đầu phác vẽ nên chân dung một con người nhạy cảm “dựa hẳn vào
tình cảm để viết” nhưng cũng không kém phần hài hước, dí dỏm; lại có bản
lĩnh, “thấu thị nhiều điều trong cuộc sống”. So với các bài viết trước đó thì
nghiên cứu của Bùi Việt Thắng có tầm bao quát rộng hơn; khái quát lại được
cả hai chặng đường truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng (trước và sau 1975),



5

đồng thời tìm ra được mối tương quan phát triển giữa hai chặng đường này:
“Khi nghiên cứu bước đường sáng tác của một nhà văn ta thường thấy có
hiện tượng: ở thời điểm nào đó vơi những ảnh hưởng và biến đổi nào đó, nhà
văn viết khác trước, và cái sự khác này tạo ra một bước ngoặt . Nhưng có nhà
văn, dù cố tình “rẽ ngoặt” thì vẫn không được, anh ta trở lại chính mình thì
mới được công nhận. Nguyễn Quang Sáng ở vào trường hợp thứ hai”. Theo
Bùi Việt Thắng, truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng viết trước 1975 “ròng ròng
sự sống, một sự sống đa dạng cung bậc, màu sắc, có tiếng khóc và tiếng cười,
có khổ đau và hi vọng” nhưng sau 1975 “khi ông cố đổi giọng cho có vẻ hợp
thời thì người đọc thấy chán - đó là khi đọc Tôi thích làm vua, Thế võ, Nhân
vật ấy không được chết…” [79. tr.3]. Chỉ đến khi loạt truyện Con mèo của
Foujita, người đàn bà đức hạnh, Người dì tên Đợi…thì Nguyễn Quang Sáng
mới “phát sáng trở lại”. Nhận định này cũng đáng để chúng ta suy nghĩ.
Tuy khiêm tốn tự nhận “những dòng tôi viết chỉ là những cảm nhận sơ
lược của một độc giả viết cho một nhà văn nổi tiếng” nhưng Phan Đắc Lập
cũng đã góp phần không nhỏ vào việc định hình rõ hơn phong cách Nguyễn
Quang Sáng. Một mặt, tác giả vẫn đồng tình với đa số các nhà phê bình khác
khi thừa nhận lối kể chuyện có duyên, giọng văn dí dỏm, hồn cốt Nam Bộ,
sức hấp dẫn của kịch tính và chi tiết đã tạo nên “chất văn” Nguyễn Sáng. Mặt
khác, Phan Đắc Lập như muốn “bàn luận” với các ý kiến cho rằng các tác
phẩm sau 1975 của Nguyễn Quang Sáng khiến cho ông bớt “phát sáng” (như
ý kiến của Bùi Việt Thắng). Ông viết : “Có người đã cho hàng loạt các tác
phẩm này của anh là những thử nghiệm bất thành, vì nó là những chuyện
luận đề, giống như văn của Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn đầu thế kỉ hai
mươi. Một số bạn bè độc giả, trong đó có tôi lại nghĩ khác. Chúng tôi rất
thích Tôi thích làm vua, Thế võ, Con khướu sổ lồng... Tôi cho rằng, cùng với

truyện ngắn xuất sắc của ông thời kháng chiến như Chị xã đội trưởng, Chiếc


6

lược ngà..., một số truyện ngắn có thể xếp vào hàng những truyện ngắn hay
nhất của văn học Việt Nam từ 1945 trở lại đây” [82; tr.106]. Bằng những dẫn
chứng, phân tích sinh động cả về khoa học lẫn thực tế đời sống, Phan Đắc Lập
cho thấy nhận xét trên không hoàn toàn là cảm tính. Bởi lẽ, dù trong những tác
phẩm viết về chiến tranh hay những trang viết sau 1975, thì Nguyễn Quang
Sáng vẫn giữ được giọng văn uy - mua, các chi tiết đắt giá cùng những tình
huống giàu kịch tính (Bài học tuổi thơ, Người bạn lính, ...).Chính những đặc
trưng ấy đã giúp tác phẩm của ông “có khả năng chịu đựng sự thử thách khắc
nghiệt của thời gian để còn gây được xúc cảm thẩm mĩ cho thế hệ mai sau”.
Trong bài viêt tổng hợp về truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng, đáng chú
ý nhất là bài nghiên cứu trong cuốn Truyện ngắn Việt Nam hiện đại – lịch sử Thi pháp – Chân dung (Phan Cự Đệ chủ biên). Với dung lượng gần chục
trang sách, tác giả Lý Hoài Thu đã triển khai súc tích hai nội dung quan trọng:
- Nguyễn Quang Sáng và những bước đi của truyện ngắn: tóm tắt lại
đặc điểm hai chặng đường sáng tác truyện ngắn của ông (từ 1956 - 1975, từ
1975 – 2014)
- Vài nét về phong cách truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng: một nhà văn
ưa “chơi bố cục” và tình huống, nhà văn của những chi tiết “biết nói và ám
ảnh”, ngôn ngữ và văn phong mang đậm chất Nam Bộ.
Không dừng ở tính chất “đọc sách, điểm sách”, tác giả đưa ra cái nhìn
toàn diện và tổng quát hơn cả về truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng. Thấu suốt
cả chặng đường dài sáng tác của nhà văn; chừng mực nhưng không kém phần
chính xác, tinh tế khi đưa ra nhận định là nét nổi bật của bài phê bình. Công
trình cũng cho chúng ta thấy một văn phong phê bình mới khi bước đầu có
hướng tiếp cận truyện ngắn từ góc độ thi pháp. Có thể nói, đây chính là gợi ý
rất quý báu cả về nội dung và phương pháp cho luận văn của tôi.

Bên cạnh những công trình nghiên cứu tổng quát về các chặng đường
truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng, chúng tôi còn bắt gặp những bài viết tập


7

trung tìm hiểu sâu một truyện ngắn tiêu biểu của nhà văn Nam Bộ này. Có thể
kể đến lời nhận xét của Tô Hoài khi đọc Vểnh râu, của Trần Đăng Khoa khi
đọc Một chuyện vui hay của Vũ Tú Nam khi biểu dương Con mèo của
Foujita… Hay các bài viết về truyện Chiếc lược ngà của Nguyễn Lộc, Phạm
Văn Nam; về Quán rượu người câm của Trọng Khanh; về Bông cẩm thạch
của Liên Phương… Có thể nói, những bài viết trên đã đưa lại cho chúng ta cái
nhìn cụ thể nhưng không kém phần đa dạng về đặc trưng truyện ngắn Nguyễn
Quang Sáng.
Cuối cùng không thể không nhắc đến một số luận văn, khóa luận
nghiên cứu truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng như: luận văn thạc sĩ của
Nguyễn Thị Thu Hiền với đề tài “Đặc điểm thi pháp truyên ngắn Nguyễn
Quang Sáng” 2010, Nguyễn Văn Lịch với đề tài “Xung đột nghệ thuật trong
truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng” 2008,… cùng một số khóa luận, bài viết
trên những trang báo mạng uy tín …
Dựa vào những công trình nghiên cứu trên, có thể thấy giới phê bình,
nghiên cứu tiếp cận truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng chủ yếu đi sâu vào xung
đột nghệ thuật, thế giới nhân vật, đặc điểm thi pháp…Riêng giọng điệu nghệ
thuật trong truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng cũng được chú ý đến nhưng chỉ
dừng lại ở việc nêu ý kiến, đánh giá mà chưa có một công trình chuyên biệt
nào đi sâu, tập trung nghiên cứu về giọng điệu trong truyện ngắn Nguyễn
Quang Sáng với cái nhìn khách quan, khoa học, hệ thống, đầy đủ hơn, nhằm
góp phần làm sáng tỏ thêm những giá trị, những đóng góp riêng của nhà văn
đậm chất Nam Bộ này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
Vận dụng lý thuyết về giọng điệu để tiếp cận truyện ngắn của Nguyễn
Quang Sáng nhằm nắm bắt được những giọng điệu chủ đạo của nhà văn. Trên


8

cơ sở đó, góp phần khẳng định những đóng góp của nhà văn cho nền văn học
nước nhà.
Thông qua việc tìm hiểu giọng điệu trong truyện ngắn Nguyễn Quang
Sáng, luận văn góp phần chỉ rõ khác biệt về giọng điệu của văn học đương đại
so với văn học những giai đoạn trước.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn trình bày những vấn đề lý thuyết về giọng điệu.
Chỉ ra những đặc sắc trong giọng điệu của truyện ngắn Nguyễn Quang
Sáng nhằm làm nổi bật phong cách của ông.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Luận văn hướng trọng tâm nghiên cứu và tìm hiểu giọng điệu truyện
ngắn Nguyễn Quang Sáng qua những phương diện sau: Các yếu tố chi phối sự
hình thành giọng điệu Nguyễn Quang Sáng; Các giọng điệu chủ đạo trong
truyện ngắn của ông. Từ đó xác định phong cách sáng tác, vị trí và đóng góp
của nhà văn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn khảo sát toàn bộ truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng đã
được in trong các tập:
 Tuyển tập Nguyễn Quang Sáng, tập 1(1996), Nhà xuất bản Văn học.
 Tuyển tập Nguyễn Quang Sáng, tập 2 (1996), Nhà xuất bản Văn học.
 Con ma da - Chiếc lược ngà (2005) Nhà xuất bản Hội nhà văn.
 Nó và Tôi - Quán rượu người câm (2005) Nhà xuất bản Hội nhà văn.

 Dân Chơi - Tôi thích làm vua (2005) Nhà xuất bản Hội nhà văn.
 Cánh đồng hoang và các truyện chuyển thể qua phim (2005) Nhà

xuất bản Hội nhà văn.


9

Nhiệm vụ của luận văn là tìm hiểu giọng điệu trong truyện ngắn
Nguyễn Quang Sáng, vì vậy những lý thuyết về giọng điệu cũng được chúng
tôi quan tâm, khai thác.
Ngoài ra chúng tôi còn khảo sát thêm một vài tác phẩm của những nhà
văn cùng thời để so sánh và đối chiếu như: Anh Đức, Sơn Nam...
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Căn cứ vào đối tượng nghiên cứu đã được xác định, đề tài sử dụng các
phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:
5.1. Phƣơng pháp nghiên cứu tác phẩm văn học
Tác phẩm văn học là một cấu trúc hoàn chỉnh, trong đó các yếu tố tạo
nên cấu trúc có quan hệ hữu cơ, biện chứng. Luận văn đặt yếu tố giọng điệu
trong mối quan hệ biện chứng để xem xét sự hình thành và những đặc điểm
đặc thù của giọng điệu truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng. Đặc biệt trong sự
thống nhất biện chứng giữa nội dung và hình thức của tác phẩm văn học.
Giọng điệu là yếu tố hình thức mang tính nội dung, thể hiện nội dung và tư
tưởng của tác phẩm văn học.
5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu hệ thống
Phương pháp nghiên cứu hệ thống cho phép xem xét giọng điệu trong
hệ thống các yếu tố không chỉ của tác phẩm, mà rộng hơn trong sự chi phối
của các yếu tố khác thuộc quá trình sáng tạo và môi trường văn hóa – lịch sử.
Điều đó giúp cho việc cắt nghĩa các vấn đề giọng điệu truyện ngắn Nguyễn
Quang Sáng được đầy đủ hơn và thấu đáo hơn. Nhất là khi nghiên cứu giọng

điệu truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng trong giai đoạn sáng tác của thời kì
chiến tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước trước 1975 và thời kì kinh
tế thị trường với những biến đổi phức tạp của con người và xã hội sau 1975.
5.3. Phƣơng pháp so sánh – lịch sử
Phương pháp so sánh - lịch sử cho phép tìm hiểu sự tiến triển của các
yếu tố thi pháp. Phương pháp này giúp chỉ ra sự chuyển giọng điệu trong


10

truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng ở những thời điểm khác nhau cùng với
những cung bậc khác nhau của cảm hứng chủ đạo trong sáng tác của nhà văn.
Trong những điều kiện có thể, phương pháp so sánh - lịch sử cũng giúp cho
việc tìm hiểu sự độc đáo trong giọng điệu Nguyễn Quang Sáng so với các nhà
văn khác.
6. Đóng góp của luận văn
6.1. Có được những kết luận khoa học về giọng điệu trong sáng tác của
Nguyễn Quang Sáng, tiếp tục mở rộng con đường đi vào thế giới nghệ thuật
của tác giả.
6.2. Đóng góp một tài liệu học tập, nghiên cứu về Nguyễn Quang Sáng
và giọng điệu nghệ thuật trong văn học Việt Nam hiện đại.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, cấu trúc của luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1. Giới thuyết chung về giọng điệu
Chương 2. Giọng điệu truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng trước 1975.
Chương 3. Giọng điệu truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng sau 1975


11


PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1
GIỚI THUYẾT CHUNG VỀ GIỌNG ĐIỆU
1.1. Các quan niệm về giọng điệu
Từ trước tới nay trong văn học, chúng ta thường bắt gặp khái niệm “hơi
văn”, “khí văn” hay “tone”. Đó đều là những cách gọi khác nhau của giọng
điệu. Với tư cách là một phạm trù thẩm mĩ của tác phẩm văn học, giọng điệu
đã thu hút hút được sự quan tâm của giới phê bình nghiên cứu. Các nhà
nghiên cứu, phê bình văn học đã nhận ra vai trò quan trọng của của giọng
điệu nghệ thuật trong việc khẳng đinh tài năng, phong cách của người nghệ sĩ.
Trong “Những vấn đề thi pháp học hiện đại” Giáo sư Trần Đình Sử khẳng
định “Phân tích tác phẩm văn học mà bỏ qua giọng điệu tức là tước đi cái
phần quan trọng tạo nên bản sắc độc đáo của nhà văn”. Nhà nghiên cứu văn
học Hoàng Ngọc Hiến thì cho rằng: “Câu văn có hồn là câu văn có giọng,
ngữ điệu, bởi vì từ ngữ của bài văn được chọn có thông báo nhiều điều quan
trọng nhưng bài văn không có giọng đọc nên vẫn nhạt nhẽo vô vị. Sự phong
phú, tính đa nghĩa, ý vị đậm đà của bài văn trước hết là ở giọng. Năng khiếu
văn ở phần tinh tế nhất là năng lực bắt được trúng cái giọng của văn bản
mình đọc và tạo ra được giọng đích đáng cho tác phẩm mình viết” [2].
Tuy nhiên, cho đến nay, mặc dù đã xuất hiện trong không ít các công
trình nghiên cứu, nhưng giọng điệu vẫn là một khái niệm cần tìm hiểu để
được lập luận một cách chặt chẽ hơn. Nói một cách khác, khái niệm này
dường như đang trong quá trình hoàn thiện. Vì vậy, chúng ta vẫn thấy một sự
thật, đó là giữa các nhà nghiên cứu vẫn chưa có sự thống nhất cao về khái
niệm này.
Theo nhà nghiên cứu Lê Huy Bắc trong bách khoa toàn thư Mĩ định
nghĩa: “Tone là âm thanh được xét trong sự can thiệp của trường độ, cường



12

độ, âm sắc và âm lượng của nó”. Đây chính là cách quan niệm về giọng điệu
trên lập trường của ngôn ngữ học. Nhà phê bình văn học K. Danziger và
S.Jonh trong cuốn “Nhập môn phê bình văn học” năm 1961 đã đưa ra nhận
định về “tone” – “Là phạm trù có liên quan đến tất cả các yếu tố tạo nên văn
phong (style) (…) bao gồm: cách diễn đạt, hình tượng, cú pháp, âm thanh và
nhịp điệu (…) là một biểu hiện của một thái độ về phía đối tượng (object)
được nêu rõ hay ngụ ý. Đến năm 1971, trong cuốn “Từ điển thuật ngữ văn
học”, M.H. Abrams đã nêu một cách cụ thể hơn. Theo ông, “tone” có nghĩa
“là thái độ của người phát ngôn văn học đối với người nghe (auditor) của anh
ta”. Cùng hướng với các tác giả trên, năm 1989, Katie Wales trong “Từ điển
phong cách học” quan niệm, “tone” “được dùng với nghĩa một phẩm chất âm
thanh đặc biệt nào đó có liên quan đến những xúc cảm hoặc tình cảm đặc biệt
nào đó” [2].
Khrapchenko trong “Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của
văn học”, khi bàn về giọng điệu nghệ thuật lại cắt nghĩa theo một phạm vi rất
rộng: “Giọng điệu, hiểu theo nghĩa rộng cuả từ đó không phải chỉ là màu sắc
xúc cảm của thiên truyện hay của hành động kịch mà là một cái gì hơn thế”.
Giáo sư Trần Đình Sử trong cuốn “Thi pháp truyện Kiều” đã cho rằng:
“Giọng điệu trong văn học là một hiện tượng nghệ thuật toát ra từ bản thân
tác phẩm và một nội hàm tư tưởng thẩm mĩ …Giọng điệu văn học là hiện
tượng “siêu ngôn ngữ học”, phụ thuộc vào cấu trúc nghệ thuật của tác phẩm,
khuynh hướng nghệ thuật của tác giả và của thời đại. Giọng điệu là biểu hiện
của thái độ, cảm xúc của chủ thể đối với đời sống”. Hay trong một công trình
khác, ông khẳng định “Giọng điệu là một yếu tố của hình tượng tác giả…
Giọng điệu ở đây không đơn giản là một tín hiệu âm thanh có âm sắc đặc thù
để nhận ra người nói mà là một giọng điệu mang nội dung tình cảm, thái độ
ứng xử trước các hiện tượng đời sống” [54,tr.142]. Có thể thấy, trong quan



13

niệm của Trần Đình Sử, giọng điệu là một hiện tượng đã vượt ngoài “tầm
kiểm soát” của ngôn ngữ, và được tạo nên bởi mối quan hệ giữa thái độ, cảm
xúc của nhà văn với hiện thực cuộc sống. Như vậy, quan niệm này không chỉ
chú ý tới thái độ cảm xúc, lập trường tư tưởng, tình cảm của tác giả, mà còn
chú ý tới tính chi phối của phạm vi hiện thực (đề tài) tới giọng điệu.
Theo cách khác, Lê Huy Bắc trong bài viết “Giọng và giọng điệu
trong văn xuôi hiện đại”lại không thể hiện một cách trực tiếp quan niệm của
mình, mà thông qua việc phân biệt giọng và giọng điệu để giới hạn nội hàm
của khái niệm. Theo ông: “Giọng điệu là âm thanh xét ở góc độ tâm lí, biểu
hiện cái thái độ: buồn, vui, hờ hững…”. Với cách giới hạn này, có thể nói Lê
Huy Bắc đã phát hiện ra bản chất của giọng điệu. Tuy nhiên nó chưa là một
khái niệm đầy đủ.
Trong chuyên luận “Giọng điệu trong thơ trữ tình”, tác giả Nguyễn
Đăng Điệp đã có sự nghiên cứu khá kĩ càng về giọng điệu trong văn học. Tác
giả đã bày tỏ khá rõ nét quan niệm về vấn đề này. Nguyễn Đăng Điệp cho
rằng: “Giọng điệu biểu thị thái độ, cảm xúc, tư thế của chủ thể phát ngôn qua
lời văn nghệ thuật. Không thể có giọng điệu nếu không có những rung động
sâu sắc, những nỗi đau, những xót xa trước thân phận con người, không sẻ
chia với họ niềm vui và tình yêu cuộc sống”.
Như vậy, tuy chưa hoàn toàn thống nhất với nhau, nhưng các nhà phê
bình, nghiên cứu đều ít nhiều có sự gặp gỡ nhau ở khía cạnh này hay khía
cạnh khác trong quan niệm về giọng điệu. Từ các quan niệm, nhận thấy giọng
điệu đã được nhìn nhận chủ yếu theo khuynh hướng: Giọng điệu là biểu hiện
của lập trường, tư tưởng, thái độ của nhà văn với hiện thực cuộc sống.
1.2. Định nghĩa về giọng điệu
Từ điển thuật ngữ văn học, mục từ "Giọng điệu": " Thái độ, tình
cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với đối tượng được miêu



14

tả thể hiện trong lời văn qui định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình
cảm, cách cảm thụ xa gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay
châm biếm (...) giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ tình cảm và thị
hiếu thẩm mỹ của tác giả, có vai trò rất lớn trong việc tạo nên phong cách
nhà văn và tác dụng truyền cảm cho người đọc. Thiếu một giọng điệu nhất
định, nhà văn chưa thể viết ra một tác phẩm, mặc dù đã có đủ tài liệu và sắp
xếp trong hệ thống nhân vật. Không nên lẫn lộn giữa giọng điệu và ngữ điệu
là phương tiện biểu hiện của lời nói, thể hiện qua cách lên giọng, xuống
giọng, nhấn mạnh, nhịp điệu... Giọng điệu là một phạm trù thẩm mỹ của tác
phẩm văn học. Nó đòi hỏi người trần thuật, kể chuyện hay nhà thơ trữ tình
phải có khẩu khí, có giọng điệu. Giọng điệu trong tác phẩm gắn với cái giọng
điệu " Trời phú" của một tác giả, nhưng mang nội dung khái quát nghệ thuật,
phù hợp với đối tượng thể hiện. Giọng điệu trong tác phẩm thường đa dạng
có nhiều sắc thái trên cơ sở một giọng điệu cơ bản, chủ đạo, chứ không đơn
điệu [25, tr.134].
Như vậy, xét về mọi phương diện thì khái niệm trên đây là tương đối
hoàn chỉnh, có thể bao quát mọi khía cạnh của giọng điệu. Chúng tôi chấp
nhận khái niệm này như một lý thuyết công cụ để soi sáng cho sự nghiên cứu
của mình.
Tuy nhiên, để tránh có thể có cách hiểu lệch lạc về giọng điệu, chúng tôi
thấy cần có sự phân biệt khái niệm này với một số khái niệm gần gũi với nó.
Trước hết cần thấy rằng, giọng điệu khác với giọng. Giọng là âm thanh,
là “chất giọng” mang tính vật lý, là cái mà mỗi người đều được thừa hưởng
một cách bẩm sinh. Giọng mang đầy đủ những đặc tính của âm thanh như có
cường độ, trường độ, cách phối âm… còn giọng điệu cũng có bản chất là âm
thanh, nhưng được nhìn nhận từ góc độ tâm lý và thể hiện thái độ, tình cảm

của con người.


15

Giọng điệu cũng khác với ngữ điệu. Tuy cả hai khái niệm này cũng có
cùng một phương diện biểu hiện là âm thanh, nhưng chúng lại thuộc hai lĩnh
vực khác nhau. Ngữ điệu thuộc phạm vi của ngôn ngữ học, là hiện tượng của
cơ và nó có các chức năng biểu cảm. Còn giọng điệu lại là hiện tượng “siêu
ngôn ngữ”, thuộc phạm vi của lý luận văn học, nó phụ thuộc vào cấu trúc nghệ
thuật của tác phẩm, khuynh hướng nghệ thuật của tác giả và của thời đại.
1.3. Cơ sở hình thành giọng điệu
Tìm hiểu giọng điệu trong văn chương, có một vấn đề khiến chúng ta
không thể không quan tâm, đó chính là cơ sở tạo nên giọng điệu. Đây chính là
những cơ sở chủ quan và khách quan tác động đến sự sáng tạo của nhà văn
khi hình thành giọng điệu
1.3.1. Đề tài và cảm hứng chủ đạo của nhà văn trong sáng tác
“Đề tài là một trong những phương diện của nội dung tác phẩm, nó chỉ
phạm vi hiện thực cụ thể đã được nhà văn nhận thức, lựa chọn và phản ánh
trong tác phẩm” [11, tr.116], hay nói như G.N. Pospelov: “Đề tài là cơ sở của
sự nhận thức, nói cách khác là đối tượng của sự nhận thức” [53, tr.98].
Mỗi tác phẩm văn học bao giờ cũng có ít nhất một đề tài, thậm chí có
những tác phẩm chứa nhiều đề tài. Đề tài là một khái niệm về loại của hiện
tượng đời sống được miêu tả. Có bao nhiêu loại hiện tượng đời sống, có bấy
nhiêu đề tài trong văn học. Đề tài mang tính khách quan nhưng cũng thể
hiện dấu ấn chủ quan của người cầm bút. Việc nhà văn lựa chọn đề tài này,
chứ không phải đề tài khác đã cho thấy khuynh hướng lập trường tư tưởng
của nhà văn.
Mỗi nền văn học, thậm chí mỗi giai đoạn văn học đều có những đề tài
trung tâm. Đó chính là mảng hiện thực tập hợp những sự kiện, những hiện

tượng, những diễn biến quan trọng nhất của đời sống xã hội.


16

Đề tài là một trong những cơ sở quan trọng để hình thành nên giọng
điệu của nhà văn trong tác phẩm. Trước mỗi phạm vi hiện thực khác nhau,
nhà văn cần có những giọng điệu tương ứng. Khi tái hiện hiện thực, nhà văn
phải căn cứ vào hiện thực đó để có những giọng điệu phù hợp. Theo Nguyễn
Đăng Điệp: “Cảnh mùa thu khác cảnh mùa xuân, người Nông dân các người
Tri thức... Miêu tả và tái hiện hiện thực nào, giọng điệu phải phù hợp với đối
tượng ấy” [12,tr.57]
“Cảm hứng vốn là lớp nội dung đặc thù của tác phẩm văn học”
[46, tr.268]. Trong tác phẩm văn học, cảm hứng là sự say mê khẳng định
những chân lý, lý tưởng, là thái độ phủ định những gì xấu xa, giả dối, những
cái tiêu cực, là thái độ ngợi ca, đồng tình với nhân vật chính diện, là sự phê
phán những thế lực đen tối, các hiện tượng tầm thường. Theo G.N Poxpelop
trong Dẫn luận nghiên cứu văn học: “Cảm hứng để chỉ trọng thái phấn hứng
cao độ của nhà văn do việc chiếm lĩnh bản chất cuộc sống mà họ miêu tả. Sự
chiếm lĩnh ấy bao giờ cũng bắt nguồn từ lý tưởng xã hội của nhà văn nhằm
phát triển và cải tạo thực tại.”Cảm hứng không phải là những phút ngẫu
hứng nhất thời có tính bột phát mà nó là cả một trạng thái, một quá trình của
sự phát triển tình cảm, cảm xúc của nhà văn. Và tình cảm, cảm xúc ấy phải
gắn với một lý tưởng nhất định.
Như thế, cảm hứng không phải là những tình cảm, cảm xúc, những lý
tưởng tầm thường mà là những tình cảm mạnh mẽ mang tư tưởng, là một ham
muốn tích cực đưa đến hành động. Đó có thể là những tình cảm xã hội mang
tính thời đại.
Mỗi tác giả, thậm chí là mỗi tác phẩm lại có những cảm hứng chủ đạo
riêng. Từ điển thuật ngữ văn học quan niệm, cảm hứng chủ đạo là: “Trạng

thái tình cảm mãnh liệt, say đắm, xuyên suốt tác phẩm nghệ thuật, gắn liền
với một tư tưởng xác định, một sự đánh giá nhất định, gây tác động đến cảm


17

xúc của người tiếp nhận tác phẩm”[25, tr.44]. Trong dòng chảy tình cảm đa
dạng, phong phú có tính chất phức hợp của tác phẩm, cảm hứng chủ đạo như
một chủ âm. Cũng có khi, có cả một hệ thống những cảm hứng xuyên thấm,
đan xen, nhưng bao giờ cũng có một cảm hứng giữ vai trò chủ đạo như “sợi
chỉ đỏ” xuyên suốt từ đầu đến cuối tác phẩm.
Cảm hứng trong tác phẩm văn học được biểu hiện rất tinh vi. Nó chủ
yếu khơi gợi, gợi mở chứ không phải biểu hiện thẳng tuột, một chiều. Nó
quyện hòa, nhuần nhuyễn trong từng yếu tố của tác phẩm. Nó toát ra từ lời
văn nghệ thuật, từ tình huống, từ nhân vật… và cảm hứng phải thật sự mãnh
liệt mới có đủ sức để chinh phục người đọc, mới trở thành một thứ “năng
lượng” tinh thần được dồn nén chỉ chực bùng phát trước người đọc.
Như trên đã nói, cảm hứng được thể hiện rất tinh vi trong từng tác phẩm,
trong đó có giọng điệu. Vì vậy, có thể khẳng định, cảm hứng và giọng điệu có
một mối liên hệ mật thiết, mang tính chất biện chứng. Mối liên hệ này đã được
Khrapchenko khẳng định: “Những đặc tính cơ bản của giọng điệu trong tác
phẩm nghệ thuật của nhà văn, sự ưu tiên của phong cách cũng có liên quan
mật thiết với cảm hứng chủ đạo trong sáng tác của nhà văn” [26, tr.172].
Mối liên hệ giữa cảm hứng chủ đạo và giọng điệu có thể hiểu như là sự
tương ứng giữa chúng. Nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến đã phát biểu trong
bài viết Giọng điệu văn chƣơng: “Cảm hứng nào, giọng điệu ấy nhưng cũng
có thể ngược lại, giọng điệu định hướng hình thành cảm hứng”. Vậy có thể
hiểu, cảm hứng chính là nguồn gốc, là nguyên do sinh ra giọng điệu. Với cảm
hứng này, tất có giọng điệu này, với cảm hứng kia, tất có giọng điệu kia. Nói
một cách khác, cảm hứng chủ đạo thường có tính quy định giọng điệu của tác

phẩm. Ví như cảm hứng yêu nước thường đi với giọng điệu ngợi ca, tự hào;
cảm hứng hiện thực phê phán thường đi với giọng điệu châm biếm, trào lộng,
đả kích; cảm hứng lãng mạn thường có giọng điệu trữ tình. Cảm hứng cao cả


18

thì giọng điệu cao cả, theo đó nhà văn sẽ có cách sử dụng từ ngữ cho phù hợp.
Như thế giọng điệu chính là sự cụ thể hóa của cảm hứng. giọng điệu mờ nhạt,
rời rạc sẽ không thể hiện rõ tính chất cảm hứng của nhà văn. Nếu nhà văn biết
kết hợp hài hòa hai yếu tố này, có nghĩa là ông ta bước đầu tạo nên dấu ấn cho
phong cách của mình.
Giọng điệu vốn được coi là yếu tố khó nắm bắt. Song với sự phân tích
trên đây chúng tôi cho rằng sẽ không quá khó khăn nếu chúng ta căn cứ vào
cảm hứng chủ đạo trong sáng tác của nhà văn hay của tác phẩm để “bắt trúng”
giọng điệu.
1.3.2. Cái nhìn nghệ thuật của tác giả
Theo Giáo sư Trần Đình Sử: “Cái nhìn nghệ thuật là một năng lực tinh
thần đặc biệt của con người, nó có thể thâm nhập vào sự vật, bảo lưu sự toàn
vẹn thẩm mỹ của sự vật. Do đó cái nhìn được vận dụng muôn vẻ trong nghệ
thuật” [54, tr.139]. Mỗi nhà văn luôn có cái nhìn nghệ thuật độc đáo với hiện
thực cuộc sống. Cái nhìn được thực hiện thông qua những tri giác, cảm giác
và sự quan sát của tác giả. Đó có thể là cái nhìn bao quát hay bộ phận. Nó
luôn xuất phát từ một tác giả cụ thể mang đạm dấu ấn cá nhân, thị hiếu thẩm
mỹ và thái độ của tác giả ấy. Do vậy cái nhìn nghệ thuật luôn cho thấy chiều
sâu tư tưởng và sự sáng tạo của người nghệ sỹ.
Cái nhìn nghệ thuật có hai phương diện, một là điểm nhìn của người
trần thuật và nhân vật, hai là cái nhìn trong khách thể. Nó được thể hiện trong
chi tiết nghệ thuật của tác phẩm. Tìm hiểu chi tiết nghệ thuật của tác phẩm ta
đã tiếp cận với cái nhìn nghệ thuật của nhà văn, tức là đã bước vào phạm vi ý

thức của họ. “Cái nhìn của nhà văn càng tinh bao nhiêu thì anh ta càng thâm
nhập sâu vào thực chất của sự vật, những khái quát sự vật của anh ta, những
khám phá sáng tạo của anh ta càng lớn” [26, tr.89]. Mỗi nhà văn có sự tập
trung chú ý vào một khách thể khác nhau. Có trường hợp, một khách thể có


19

thể thu hút được sự chú ý của nhiều nhà văn, như cái nhìn của các nhà văn
không bao giờ trùng lặp. Ở cùng một khách thể ấy, mỗi người trong số họ lại
chú ý đến một khía cạnh riêng biệt.
Cái nhìn nghệ thuật và giọng điệu có mối liên hệ mật thiết bởi cùng là
sự thể hiện của hình tượng tác giả. Hình tượng tác giả được bộc lộ ở ba
phương diện: cái nhìn nghệ thuật; giọng điệu và sự tự thể hiện của tác giả
thành hình tượng. Ba yếu tố này không tách rời mà luôn hòa quyện nhuần
nhuyễn trong tác phẩm văn học.
Hiện thực cuộc sống phong phú đa dạng, “nhà văn là người thư ký
trung thành của mọi thời đại” (H.Banzac). Nhưng không phải hiện thực nào
khi đi vào tác phẩm cũng được tái hiện giống nhau. Theo Nguyễn Đăng Điệp:
“Ngay cả khi đứng trước một đề tài, nếu cái nhìn, thái độ của chủ thể khác
nhau thì giọng điệu cũng khác nhau” [12, tr.50]. Điều này giúp chúng ta lý
giải hiện tượng, trên cùng một phạm vi hiện thực, với mỗi tác giả khác nhau
lại có những tác phẩm khác nhau với những giọng điệu khác nhau, như vậy có
thể kết luận, cái nhìn nghệ thuật nhiều chiều với cùng một phạm vi đề tài sẽ
cho chúng ta những giọng điệu khác nhau.
1.3.3. Cá tính sáng tạo của nhà văn
Một nền văn học, có thể ví như bầu trời sao. Trên đó những ngôi sao lấp
lánh có sức sống vượt thời gian chính là những nhà văn có cá tính sáng tạo.
Theo Khrapchenko: “nhà văn là một cá tính sáng tạo độc lập và đi vào
quá trình văn học với đặc tính quyết định đó của mình” cũng theo ông “sự

phát triểu của nghệ thuật, nhất là nghệ thuật hiện thực xã hội chủ nghĩa
không tách khỏi sự thể hiện rõ nét của những cá tính sáng tạo” [26, tr.88].
Vậy thế nào là cá tính sáng tạo? Từ điển thuật ngữ văn học định
nghĩa: cá tính sáng tạo là “các đặc điểm phẩm chất toàn vẹn của một nghệ sỹ
bao gồm các mặt triết học, mỹ học, tâm lý xã hội, thị hiếu, phong cách ngôn
ngữ nghệ thuật” [25, tr.25].


20

Một nhà văn vĩ đại phải là người có tài năng, có những nét riêng độc
đáo. Cái riêng đó càng nổi bật bao nhiêu thì cá tính sáng tạo của người nghệ
sỹ càng mạnh mẽ bấy nhiêu, và theo đó đóng góp của họ càng có giá trị bấy
nhiêu. Tuy nhiên, độc đáo không phải chỉ là sự khác biệt so với cách thể hiện
của những cá tính khác trong văn học, mà quan trọng hơn, nhà văn ấy phải
góp phần làm phong phú thêm thế giới tinh thần của con người và nền văn
hóa chung của nhân loại. Khrapchenko nhấn mạnh: “vai trò của cá tính sáng
tạo không chỉ được xác định bởi tính đặc thù xét trong thực chất nội tại, nó
còn được xác định bởi tính đặc thù được thể hiện trong việc tạo ra những giá
trị nghệ thuật có ý nghĩa chung” [26, tr.91].
Chúng ta cần loại trừ cách hiểu cho rằng, lặp lại cái tôi của nhà văn
nhiều lần là sẽ có được cá tính sáng tạo. Điều đó chỉ có thể tạo nên một cá
tính giả tạo, chứ không thể là một cá tính chân chính. T.Sekhop cho rằng: “sự
độc đáo của tác giả không chỉ thể hiện trong phong cách, nó còn được thể
hiện trong tư duy, trong quan niệm...” [26, tr.92]
Đề cao cá tính sáng tạo, không có nghĩa là chúng ta cực đoan hóa nó,
biến nó trở thành chủ nghĩa cá nhân như ở một số nhà văn, họ coi sáng tác
chẳng qua là sự “khám phá ra bản thân mình, và chỉ bản thân mình mà thôi.
Cái quan trọng và đáng chú ý không phải là thế giới hiện thực trong đó có
con người đang sống, đáng chú ý là cái thế giới riêng biệt được tạo ra bởi

người nghệ sỹ vốn không hề biết bất kỳ sự hạn chế nào trong sự du hý tụ do
của trí tuệ và trí tưởng tượng” [26, tr.92]. Việc nhà văn quá đề cao cái tôi,
chú trọng những tâm trạng và tình cảm cá nhân sẽ khiến họ đánh mất đi
những mối liên hệ với thế giới bên ngoài. Và như vậy nhà văn đã tự hủy hoại
tài năng của mình.
Cá tính sáng tạo không phải là một khái niệm trừu tượng biểu hiện một
cách chung chung vô hình và ngược lại nó hết sức cụ thể. Cá tính sáng tạo


×