Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Vấn đề cơ bản của triết học và các trường phái triết học trong lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (69.33 KB, 15 trang )

Vấn đề cơ bản của triết học và các trường phái triết học
trong lịch sử
Bài làm
Như các nhà khoa học khác, triết học đặt ra và giải quyết
rất nhiều vấn đề,trong đó có một vấn đề gọi là cơ bản của
triết học. Vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề về mối
quan hệ giữa tư duy và tồn tại, giữa tâm và vật, giữa ý thức
và vật chất. "Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học,đặc biệt
là triết học hiện đại, là vấn đề giữa tư duy và tồn tại"
(Awngghen). Bởi vì việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết
học là cơ sở và điểm xuất phát để giải quyết các vấn đề
khác của triết học, và tiêu chuẩn để xác định lập trường
thế giới quan của các triết gia và học thuyết của họ. Vấn đề
cơ bản của riết học có hai mặt : mặt thứ nhất, giữa ý thức
và vật chất, cái nào có trước, cái nào có sau? Cái nào
quyết định cái nào? Mặt thứ hai, con người có khả năng
nhận thức được thế giới hay không? Việc giải quyết hai
mặt vấn đề cơ bản của triết học là xuất phát điểm các
trường phái triết học trong lịch sử.
* Trả lời mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học đã xuất
hiện khả tri luận và bất khả tri luận.
- Khả tri luận cho rằng con người có khả năng nhận thức
được thế giới. Khả tri luận bao gồm khả tri luận duy vật và
khả tri luận duy tâm. Tuyệt đại đa số các nhà triết học
trong lịch sử (cả các nhà duy vật và các nhà duy tâm) trả
lời một cách khẳng định rằng con người có khả năng nhận
thức được thế giới. Đó là tính đồng nhất của tư duy và tồn
tại. Song, nếu như các nhà duy vật tìm cơ sở của sự đồng
nhất đó ở vật chất, vì tư duy, ý thức con người cũng do vật



chất sinh ra thì trả lại, những nhà duy tâm lại tìm cơ sở đó
ở ý thức, tinh thần. Hêghen cho rằng có một thực thể tinh
thần được gọi là ý niệm tuyệt đối đã tồn tại trước cả giới tự
nhiên, nhiên và con người tư duy, quá trình nhận thức của
con người chẳng qua là quá trình ý niệm tuyệt đối tự nhận
thức bản thân mình mà thôi.
- Bất khả tri luận (thuyết không thể biết) cho rằng con
người không thể hiểu biết được thế giới. Đavít Hium, nhà
triết học Anh là một đại biểu bất khả tri luận( thuyết không
thể biết). Hium tiếp tục đường lối duy tâm chủ quan của
Béccli nhưng khác với Béccli, Hium đi đến chủ nghĩa hoài
nghi và thuyết không thể biết. Hium không thừa nhận bất
cứ một thực thể nào. Thực thể, theo ông chỉ là một sự trừu
tượng giả đối được hình thành trên cơ sở của thói quen
tâm lý đơn giản. Ông là người sáng lập những nguyên tắc
cơ bản của thuyết không thể biết ở châu Âu thời cận đại.
Lý luận nhận thức của Hium xây dựng trên cơ sở kết quả
cải biến chủ nghĩa duy tâm chủ quan của Béccli theo tinh
thần của thuyết không thể biết và hiện tượng luận- một học
thuyết triết học cho rằng con người chỉ nhận biết được hiện
tượng bề ngoài của sự vật mà không thể xâm nhập được
vào bản chất của chúng, tách rời hiện tượng và bản chất.
Cantơ, nhà triết học cổ điển Đức cũng là một đại biểu. Ông
cho rằng thế giới quanh ta mà ta thấy được lại không liên
quan gì đến cái gọi là thế giới tự nó, chúng chỉ là các hiện
tượng phù hợp với cái cảm giác và tri giác do lý tính của ta
tạo ra. Nhưng các cảm giác và tri giác không cung cấp cho
hiểu biết gì về thế giới tự nó. Như vậy trong lĩnh vực nhận
thức luận, Cantơ là người theo thuyết không thể biết. Vấn
đề mà những người theo thuyết không thể biết đặt ra và đã

không giải quyết được là làm thế nào để biết được rằng


những cảm giác, biểu tượng và nói chung ý thức của con
người có phù hợp với sự vật mà con người có muốn nhận
thức hay không? Thực ra đây là câu hỏi khó và có ý nghĩa
quan trọng trong việc tìm hiểu tính biện chứng của quá
trình nhận thức của con người. Nhưng các giác quan của
con người cũng như khả năng nhận biết của mỗi giác quan
đều là có hạn. Ý thức được mặt hạn chế của nhận thức và
tính tương đối của chân lý là bước phát triển của tư duy
triết học. Nhưng nếu từ đó đi tới phủ nhận khả năng nhận
thức thế giới của tư duy con người, phủ nhận chân lý khách
quan, lại là điều sai lầm và rơi vào chủ nghĩa duy tâm.
Biểu hiện ở trào lưu triết học hoài nghi luận là Pirôn-Hy
lạp cổ đại, nâng sự hoài nghi lên thành nguyên tắc trong
việc xem xét tri thức đã đạt được và cho rằng con người
không thể đạt chân lý khách quan và hoài nghi luận thời
Phục hưng lại có tác dụng quan trọng trong cuộc đấu
tranh chống hệ tư tưởng trung cổ và uy tín của Giáo hội
thời trung cổ vì nó thừa nhận sự hoài nghi đối với cả Kinh
thánh và các tín điều tôn giáo.
* Trả lời mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học đã xuất
hiện ba trường phái triết học cơ bản là nhất nguyên luận
triết học, nhị nguyên luận triết học và đa nguyên luận triết
học.
- Nhất nguyên luận triết học cho rằng chỉ một trong hai
thực thể ( vật chất hoặc ý thức) là cái có trước và quyết
định cái kia, nghĩa là cho rằng thế giới chỉ có một nguồn
gốc duy nhất. Nhất nguyên luận triết học bao gồm nhất

nguyên luận duy tâm ( chủ nghĩa duy tâm, triết học duy
tâm) và nhất nguyên luận duy vật (chủ nghĩa duy vật và
triết học duy vật).


Chủ nghĩa duy tâm là trường phái triết học xuất phát từ
quan điểm bản chất của thế giới là ý thức; ý thức là tính
thứ nhất, vật chất là tính thứ hai; ý thức có trước quyết
định vật chất. Chủ nghĩa duy tâm có nguồn gốc nhận thức
và nguồn gốc xã hội là sự xem xét phiến diện, tuyệt đối
hóa, thần thánh hóa một mặt, một đặt tính nào đó của quá
trình nhận thức, đồng thời thường gắn với lợi ích của các
giai cấp, tầng lớp áp bức, bóc lột nhân dân lao động. Mặt
khác, chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo thường có mối liên hệ
mật thiết với nhau để cùng tồn tại và phát triển. Chủ nghĩa
duy tâm có hai hình thức cơ bản là chủ nghĩa duy tâm chủ
quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan. Chủ nghĩa duy tâm
chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người,
khẳng định mọi sự vật, hiện tượng chỉ là phức tạp những
cảm giác của cá nhân. Béccli (1684-1753) là một đại biểu
điển hình của chủ nghĩa duy tâm chủ quan, nhà triết học
nổi tiếng người Anh. Điểm xuất phát của triết học Béccli là
kinh nghiệm cảm tính được giải thích theo nghĩa "những
tập hợp ý niệm", "những phức hợp cảm giác". Béccli khẳng
định rằng, ý niệm không phải là sự phản ánh sự vât, mà nó
chính là sự vật thực tế. Béccli đưa đến một công thức
chung; tồn tại tức là được tri giác. Mọi vật chỉ tồn tại trong
chừng mực người ta cảm giác được, không có chủ thể thì
không có khách thể. Triết học Béccli chống lại nhận thức
luận duy vật, thù địch với học thuyết về vật chất. Platôn

(427-347 TCN) là một đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa duy
tâm khách quan. Theo platôn thì giới tự nhiên bắt nguồn từ
những thực thể tinh thàn là từ những ý niệm; vật thể cảm
tính chỉ là cái bóng của ý niệm. Ông cho rằng để thừa
nhận được chân lý, người ta phải từ bỏ mọi cái hữu hình
cảm tính; phải hồi tưởng lại những gì mà linh hồn bất tử


đã quan sát được trong thế giới ý niệm. Thuyết hồi tưởng
thần bí này dược xây dựng trên cơ sở thừa nhận tính bất
tử, tính độc lập của linh hồn với thể xác. Nếu phép biện
chứng của Đêmôcrit được sử dụng để phục vụ khoa học thì
phép biện chứng của Platôn lệ thuộc vào triết học duy tâm.
Các hiện tượng của tự nhiên bị Platôn quy thành những
quan hệ toán học. Đạo đức học của Platôn được xây dựng
trên cơ sở học thuyết về linh hồn bất tử; là một hình thức
của lí luận tôn giáo, là bộ phận quan trọng nhất của ý thức
tư tưởng của tầng lớp chủ nô quý tộc. Là kẻ thù chính trị
của chế độ dân chủ chủ nô Aten. Platôn coi chế độ quý tộc
tức là chế độ nhà nước của tầng lớp chủ nô thượng lưu là
nhà nước lý tưởng. Hêghen ( 1771-1831) nhà triết học cổ
điển Đức cũng là một đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa duy
tâm khách quan. Triết học của ông đầy mau thuẫn. Nếu
phương pháp biện chứng của ông là hạt nhân hợp lý chứa
đựng tư tưởng thiên tài về sự phát triển thì hệ tư tưởng triết
học duy tâm của ông phủ nhận tính khách quan của nhũng
nguyên nhân bên trong vốn có của sự phát triển của tự
nhiên và xã hội. Ông cho rằng khởi nguyên của thế giới
không phãi là vật chất mà là ý niệm tuyệt đối hay tinh thần
thế giới. Tính đa dạng phong phú của thế giới hiện thực là

kết quả của sự vận động và sáng tạo của ý niệm tuyệt đối.
Ý niệm tuyệt đối tồn tại vĩnh viễn. Theo nhận xét của Lênin
thì ý niệm tuyệt đối chỉ là một cách nói theo đường vòng,
một cách nói khác về thượng đế mà thôi. Cho nên triết học
của Hêghen là sự biện hộ cho tôn giáo. Hêghen đã có công
trong việc phê phán tư duy siêu hình và ông là người đầu
tiên trình bày toàn bộ thế giới tự nhiên, lịch sử và tư duy
dưới dạng một quá trình-trong sự vận động, biến đổi và
phát triển không ngừng. Đồng thời trong khuôn khổ của hệ


thống triết học duy tâm khách quan của mình, Hêghen
không chỉ trình bày các phạm trù như chất, lượng, phủ
định, mâu thuẫn mà còn nói đến cả các quy luật như chất
đổi dẩn đến lượng đổi và ngược lại, phủ định của phủ định
và quy luật mâu thuẩn. Nhưng tất cả các cái đó chỉ là quy
luật vận động và phát triển của bản thân tư duy, của ý
niệm tuyệt đối. Tự nhiên, xã hội phát triển trong sự phụ
thuộc vào sự phát triển của ý niệm tuyệt đối. Ý niệm tuyệt
đối, tinh thần thế giới là tính thứ nhất, thế giới tự nhiên là
tính thứ hai, do ý niệm tuyệt đối và tinh thần thế giới sinh
ra và quyết định, là một sự tồn tại khác của tinh thần sau
khi trải qua giai đoạn tồn tại khác ấy, ý niệm tuyệt đối hay
tinh thần thế giới mới trở lại bản thân mình và đó là giai
đoạn cao nhất, giai đoạn tột cùng, được Hêghen gọi là tinh
thần tuyệt đối.
Ngược lại, chủ nghĩa duy vật là trường phái triết học xuất
phát từ quan điểm bản chất của thế giới là vật chất; vật
chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai; vật chất có
trước và quyết định ý thức. Chủ nghĩa duy vật có nguồn

gốc từ sự phát triển của khoa học và thực tiễn, thường gắn
với lợi ích của giai cấp và lực lượng tiến bộ trong lịch sử.
Nó là kết quả của quá trình đúc kết khái quát kinh nghiệm
để vừa phản ánh những thành tựu mà con người đã đạt
trong từng giai đoạn lịch sử, vừa định hướng cho các lực
lượng xã hội tiến bộ hoạt động trên nền tảng của những
thành tựu ấy. Chủ nghĩa duy vật có các hình thức cơ bản
của chủ nghĩa duy vật chất phác, ngây thơ thời cổ đại, chủ
nghĩa duy vật máy móc siêu hình thế kỉ 17-18, chủ nghĩa
duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật tầm thường và chủ
nghĩa duy vật kinh tế. Chủ nghĩa duy vật chất phác ngây
thơ thời cổ đại xuất hiện ở nhiều dân tộc trên thế giới, nhất


là ở các nước Ấn Độ, Trung Quốc và Hy Lạp. Quan điểm
của chủ nghĩa duy vật thời kỳ này nói chung là đúng đắn
nhưng mang tính chất ngay thơ, chất phác, vì chủ yếu dựa
vào cách quan sát trực tiếp, chưa dựa vào thành tựu của
các bộ môn khoa học chuyên ngành, vì các bộ môn chuyên
ngành lúc đó chưa phát triển. Chủ nghĩa duy vật chất phác,
ngây thơ là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy vật
thời cổ đại. Chủ nghỉa duy vật thời kỳ này trong khi thừa
nhận tính thứ nhất của vật chất đã đồng nhất vật chất với
một hay một số chất cụ thể và những kết luận của nó mang
nặng tính trực quan nên ngây thơ chất phác. Tuy còn rất
nhiều hạn chế nhưng chủ nghĩa duy vật chất phác thời cổ
đại về cơ bản là đúng vì nó lấy giới tự nhiên để giải thích
về giới tự nhiên, không biện đến thần linh hay thượng đế
(một đấng sáng tạo nào) để giải thích thế giới. Đêmôcrit
(460-370 TCN) là một đại biểu xuất sắc nhất của chủ nghĩa

duy vật cổ đại với học thuyết nguyên tử luận. Nguyên tử có
vô vàn hình dạng. Các sự vật là do các nguyên tử liên kết
lại với nhau tạo nên. Tính đa dạng vủa nguyên tử làm nên
tính đa dạng của thế giới các sự vật. Nguyên tử tự thân,
không vận động, nhưng khi kết hợp với nhau thành vật thể
thì làm cho vật thể và thế giới vận động không ngừng. Khái
niệm linh hồn được hiểu như là hoạt động tâm lý. Linh hồn
là tiêu chuẩn cơ bản để phân biệt thế giới hữu sinh và thế
giới vô sinh. Linh hồn cũng là một dạng vật chất được cấu
tạo từ những nguyên tử đặc biệt có hình cầu lung linh như
ngọn lửa, có vận tốc lớn, luôn luôn động và sinh ra nhiệt
làm cho cơ thể hưng phấn và vận động. Do đó linh hồn có
một chức năng quan trọng là đem lại cho cơ thể sự khởi
đầu vận động. Chủ nghĩa máy móc siêu hình thế kỷ 17-18
xuất hiện vào thời ký phát triển rực rỡ của cơ học cổ điển


khiến cho quan điểm xem xét thế giới theo kiểu máy móc
chiếm địa vị thống trị và tác động mạnh mẽ đến các nhà
duy vật. Các nhà duy vật máy móc xem xét thế giới tự nhiên
và con người chỉ như hệ thống máy móc phức tạp khác
nhau mà thôi. Chủ nghĩa duy vật này còn là siêu hình vì họ
chỉ thấy sự vật trong trạng thái biệt lập, ngưng đọng,
không vận động, không phát triển. Phoiơbắc (1804-1872)
là một đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa máy móc siêu hình
thế kỷ XVII-XVIII, là một trong những nhà duy vật lớn nhất
của triết học cổ điển Đức và cả triết học thời kỳ trước Mác.
Công lao vĩ đại của ông đã khôi phục lại địa vị xứng đáng
của triết học duy vật và đã giáng một đòn rất nặng vào
triết học duy tâm khách quan của Hêghen và vào chủ nghĩa

duy tâm nói chung. Phoiơbắc chứng minh rằng thế giới là
vật chất; giới tự nhiên không do ai sáng tạo ra, nó tồn tại
độc lập với ý thức và không phụ thuộc vào bất cứ triết học
nào. Do đó cơ sở tồn tại của giới tự nhiên nằm ngay trong
lòng giới tự nhiên, chống lại hệ thống duy tâm của triết học
Hêghen coi giới tự nhiên là sự tồn tại khác của tinh thần,
Phoiơbắc chỉ ra rằng triết học mới này phải có tính chất
nhân bản, phải kết hợp với khoa học tự nhiên. Nguyên lý
nhân bản của triết học Phoiơbắc xóa bỏ sự tách rời giữa
tinh thần và thể xác do triết học duy tâm và triết học nhị
nguyên luận tạo ra. Mặc tích cực trong triết học nhân bản
của Phoiơbắc còn thể hiện ở chổ ông đấu tranh chống các
quan niệm tôn giáo chính thống của đạo thiên chúa,, đặc
biệt quan niệm về thượng đế. Chủ nghĩa duy vật biện
chứng do Mác và Ăngghen xây dựng sau đó được Lênin
phát triển. Ngay từ khi mới ra đời chủ nghĩa duy vật biện
chứng đã khắc phục được hạn chế của chủ nghĩa duy vật
chất phác thời cổ đại, chủ nghĩa duy vật siêu hình thế kỷ


XVII-XVIII, thể hiện là đỉnh cao trong sự phát triển của
chủ nghĩa duy vật. Mác là một đại biểu xuất sắc của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, sinh ngày 5-5-1818 và mất ngày
14-3-1883 ở tỉnh Ranh của nước Đức là một đại biểu,
tháng 4-1841 nhận bằng tiến sĩ triết học. Theo Mác, gắn bó
với cuộc đấu tranh cách mạng, lý luận tiên phong có ý
nghĩa cách mạng to lớn và trở thành một sức mạnh vật
chất. Mác chỉ rõ "giống như triết học thấy giai cấp vô sản
là vũ khí vật chất của mình, giai cấp vô sản cũng thấy triết
học là vũ khí tinh thần của mình". Tư tưởng về vai trò lịch

sử toàn thế giới của giai cấp vô sản là điểm xuất phát của
chủ nghĩa cộng sản khoa học. Như vậy quá trình hình
thành và phát triển tư tưởng triết học duy vật biện chứng
và triết học duy vật lịch sử cũng đồng thời là quá trình
hình thành chủ nghĩa cộng sản khoa học, thế giới vô sản
cách mạng. Mác xem sự tha hóa của lao đọng như một tất
yếu lịch sử: "sự tha hóa" của lao động. Sự tồn tại và phát
triển của "lao động bị tha hóa" gắn liền với sở hửu tư
nhân. Mác đã cho rằng sở hữu tư nhân được sinh ra do
"lao động bị tha hóa", nhưng sau đó lại trở thành nguyên
nhân của sự tha hóa của lao động và sự tha hóa của con
người. Sự tha hóa đó phát triển cao độ trong chủ nghĩa tư
bản, thể hiện ở sức lao động bị biến thành hàng hóa cũng
như ở quá trình hoạt động sản xuất và sản phẩm của lao
động; từ đó dẩn tới "sự tha hóa của con người khỏi con
người". Bởi vậy việc khắc phục sự tha hóa ấy chính là sự
xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân. Việc giải phóng người công
nhân khỏi lao động bị tha hóa" dưới chủ nghĩa tư bản cũng
là khắc phục lao động bị tha hóa nói chung, là sự giải
phóng con người nói chung. Nhận thức về mặt xã hội của
bản chất con người, Mác viết: "Trong tính hiện thực của


nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội".
Ăngghen cũng là một đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa duy
vật biện chứng, sinh ngày 28-11-1820 và mất ngày 5-81895 ở tỉnh Ranh của nước Đức là một đại biểu. Ăngghen
đã phát triển triết học Mác thông qua việc khái quát các
thành tựu khoa học và phê phán các lý thuyết triết học duy
tâm, siêu hình và cã những quan niệm duy vật tầm thường
ở những người tự nhận là người mácxít nhưng lại không

hiểu đúng thực chất của học thuyết Mác. Ăngghen đã trình
bày học thuyết Mác nói chung, triết học Mác nói riêng
dưới dạng một hệ thống lý luận. Lênin cũng là một đại biểu
xuất sắc của chủ nghĩa duy vật biện chứng, sinh năm 1870
và mất năm 1924 đã vận dụng sáng tạo học thuyết của Mác
để giải quyết những vấn đề của cách mạng vô sản trong
thời đại chủ nghĩa đế quốc và bước đầu xây dựng chủ
nghĩa xã hội.. Ông đã có đóng góp to lớn vào sự phát triển
lý luận của chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói
riêng, nhất là lý luận về hình thái kinh tế- xã hội của Mác.
Chính vì vậy mà một giai đoạn mới trong sự phát triển của
chủ nghĩa Mác-Lênin nói riêng, chủ nghĩa Mác-Lênin nói
chung. Chủ nghĩa duy vật tầm thường không thấy sự khác
biệt giữa vật chất và ý thức, xem ý thức cũng chỉ là một
dạng vật chất, coi tư tưởng đối với óc gần giống như mặt
đối với gan hay là nước tiểu đối với thận. Chủ nghĩa duy
vật kinh tế xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX, coi kinh tế là cái
quyết định duy nhất sự phát triển của xã hội, trong khi đó
thực ra kinh tế chỉ quyết định sự phát triển của xã hội khi
xét đến cùng và cũng không phải là nhân tố quyết định duy
nhất. Ta biết rằng, ngoài kinh tế các yếu tố khác nhau như
các tiền đề và điều kiện chính trị, các lý luận pháp lý, triết
học, tôn giáo cũng đều có vai trò rất lớn trong sự phát


triển của lịch sử và xã hội.
* Nhị nguyên luận triết học cho rằng vật chất và ý thức là
hai nguyên thể song song tồn tại, không cái nào có trước
cái nào, chúng là hai nguồn gốc tạo nên thế giới. Triết học
nhị nguyên luận biểu hiện tính không triệt để khi giải quyết

mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học,vì vậy nó thường
sa vào chủ nghĩa duy tâm. Đêcáctơ là một đại biểu xuất
sắc của triết học nhị nguyên luận. Ông cho rằng có hai
thực thể là vật chất và tinh thần tồn tại độc lập với nhau.
Nhị nguyên luận của Đêcáctơ biểu hiện tính chất thỏa hiệp
của hệ tư tưởng tư sản. Đêcáctơ coi triết học là con người,
do con người và vì con người. Đêcáctơ đã thừa nhận một
cách sai lầm rằng nguyên tắc cơ bản của lôgíc và toán học
là những cái bẩm sinh, không phụ thuộc vào kinh nghiệm.
Can-tơ (1724-1804) nhà triết học cổ điển Đức là một đại
biểu của triết học nhị nguyên luận. Thế giới quan của ông
phát triển qua hai thời kỳ chính. Thời kỳ tiền phê phán, lúc
đầu chịu ảnh hưởng lớn của các quan niệm duy tâm và
thần học của Lépnit và Vônphơ, về sau ông cũng đứng về
phía các quan niệm duy vật máy móc của Niutơn và
Đêcáctơ rồi đi đến xây dựng thế giới quan độc lập của
mình. Do sự phát triển thấp của sinh vật học thời đó, ông
đã đi đến tư tưởng bất khả tri phủ nhận khả năng nhận
thức của con người về bản chất của sự sống, nhiều khi hoài
nghi khả năng nhận thức thế giới của con người. Thời kỳ
phê phán, ông đã xác định lại một cách có phê phán về khả
năng nhận thức của con người. "Vào thời Can-tơ như
Ăngghen nhận xét, sự hiểu biết của chúng ta về những sự
vật tự nhiên hãy còn khá vạn vật đến nỗi ở đằng sau mỗi sự
vật ấy người còn có thê cho rằng còn có một vật tự nó bí
ẩn đặc biệt nữa". Bên cạnh nhiều mặt hạn chế như Can-tơ


đặt giới hạn nhận thức con người trước vật tự nó, duy trì
lập trường nhị nguyên luận trong quan niệm về thế giới mà

Hêghen cũng như các nhà kinh điển Mác-Lênin nhiều lần
phê phán, thì quan niệm vật tự nó của Can-tơ vẫn chứa
đựng nhiều ý nghĩa tích cực nhất điịnh. Một mặt nó khẳng
định tồn tại các sự vật khách quan bên ngoài chúng ta.
Trên góc độ này, theo nhận xét của Lênin, Can-tơ thể hiện
như một nhà duy vật. Mặt khác nó khẳng định tính phức
tạp đầy nghịch lý của quá trình con người nhận thức thế
giới cũng như mối quan hệ "con người-thế giới" nói chung.
Triết học Can-tơ là triết học nhị nguyên luận. Ông thừa
nhận sự tồn tại của thế giới các vật tự nó ở bên ngoài con
người, thế giới đó có thể tác động tới các giác quan của
chúng ta. Ở điểm này Can-tơ là nhà duy vật. Mặt khác ông
lại cho rằng thế giới các vật thể quanh ta mà ta chưa thấy
được lại không liên quan gì đến cái gọi là thế giới vật tự
nó, chúng chỉ là các hiện tượng phù hợp với cái cảm giác
và tri thức do lý tính của ta tạo ra. Nhưng các cảm giác và
tri thức không cung cấp cho hiểu biết về thế giới vật tự nó.
Như vậy trong lĩnh vực nhận thức luận Can-tơ là người
theo thuyết không thể biết.
* Đa nguyên luận triết học cho rằng vạn vật là do vô số
nguyên thể độc lập cấu thành. Đa nguyên luận triết học là
một thuyết triết học duy tâm. Lépnít (1646-1716) là nhà
triết học, nhà toán học,vật lý học lỗi lạc người Đức là một
đại biểu của Đa nguyên luận triết học. Ông là người đầu
tiên dùng thuật ngữ "chủ nghĩa duy vật" và " chủ nghĩa duy
tâm" để ám chỉ hai khuynh hướng triết học cơ bản: khunh
hướng thứ nhất coi vật chất là bản chất của thế giới, tiêu
biểu như Đêmôcrit, Êpiquya, Hốpxơ. Khuynh hướng thứ
hai coi bản chất của thế giới là tinh thần, ý niệm như



Platôn, Pitago, Lépnít nhận thấy mặt tích cực cũng như
hạn chế của chúng. Chẳng hạn khuynh hướng duy vật có
ưu điểm là bài trừ kinh viện, ủng hộ khoa học nhưng lại
không nhận thấy được sứ mệnh vô biên của thượng đế; còn
mặt tích cực của chủ nghĩa duy tâm là đề cao sức mạnh
của tinh thần nhưng lại không đánh giá đúng mức vai trò
của vật chất. Theo ông thì xây dựng một hệ thống triết học
mới nên cơ sở tiếp thu những mặt tích cực của triết học
trước đây, đồng thời khắc phục những hạn chế của nó dựa
trên các nguyên lý phương pháp luận cơ bản. Phương pháp
luận của Lépnít gồm 11 nguyên lý:
1. Nguyên lý khác nhau phổ biến. Nó khẳng định"mặc dù
tồn tại nhiều sự vật cùng một loại, tuy nhiên không
bao giờ có thể tồn tại những sự vật hoàn toàn khác
nhau". Vì vậy đây là một nguyên lý đơn nhất hóa thế
giới, thể hiện tính đa dạng của nó. Mỗi vật chỉ tồn tại
một lần duy nhất mà thôi. Các sự vật khác nhau thực
sự chứ không phải bề ngoài. Trong nhận thức luận,
nguyên lý này đòi hỏi chúng ta phải tuân theo tính đa
dạng của sự vật mới hiểu được bản chất của chúng.
Lépnít đưa ra khái niệm "chân lý thực sự" ám chỉ tri
thức đúng đắn của con người về một vật cụ thể nào
đó. Khoa học hiện đại xác nhận tính hợp lý của
nguyên lý trên.
2. Nguyên lý đồng nhất của các sự vật không khác nhau:
khẳng định nếu hai vật , trong đó mọi tính chất của
vật này cũng là tất cả các tính chất của vật kia và
ngược lại, thì chúng đồng nhất với nhau, tức là cùng
một sự vật. Nguyên lý này bổ sung cho nguyên lý 1.

3. Nguyên lý liên tục: trực tiếp đối lập với 2 nguyên lý
trên. Theo nó thì trong quá trình phát triển luôn luôn


có sự kế thừa. Lépnít khẳng định "cái hiện tại là kết
quả của quá khứ đồng thời lại là tiền đề của tương lai
và mọi trạng thái hiện tại chỉ có thể được giải thích
thông qua trạng thái trực tiếp trước nó".
4. Nguyên lý gián đoạn: đối lập trực tiếp với nguyên lý 3.
Nguyên lý này khẳng định tính gián đoạn trong sự
phát triển của tất thảy mọi vật, bởi chỉ có vậy thì
chúng ta mới phân biệt được vật này với vật khác.
Đây còn gọi là nguyên lý đơn tử, là kết quả phát triển
của nguyên lý thứ nhất. Nó khẳng định thế giới là một
hệ thống mở, thừa nhận giới hạn tương đối trong sự
phân chia của các suwj vật. Cùng với các nguyên lý
trên, nguyên lý này tạo thành một bức tranh về thế
giới vừa thống nhất vừa đa dạng với sự phát triển đầy
nghịch lý.
5. Nguyên lý đầy đủ: khẳng định thế giới chúng ta chứa
đựng trong mình có một cách trọn vẹn và đầy đủ mọi
sự vật với tất cả các tính chất của chúng.
6. Nguyên lý hoàn thiện: khẳng định mọi sự vật cung như
bản thân giới tự nhiên đều đang không ngừng vận
động hướng tới ngày càng hoàn thiện.
7. Nguyên lý thứ 7 chỉ ra mối liên hệ giữa thế giới của
các khả nặng xét về phương diện lôgíc với thế giới
hiện thực của nó, tức là thế giới của các vật thể.
8. Nguyên lý thứ 8 đề cập đến quan niệm của Lépnít đối
với lôgíc hình thức trước đó. Lépnít quy tụ cả 3 quy

luật của lôgíc trước đó- quy luật đồng nhất, quy luật
cấm mâu thuẩn, quy luật loại trừ cái thứ 3-thành
nguyên lý thứ 8 của ông.
9. Nguyên lý thứ 9 chính là quy luật cơ sở đầy đủ. Nguyên
lý này khẳng định mọi luận đề, quan niệm, tư tưởng


của chúng ta đều phải được lý giải chứng minh một
cách chặt chẽ trên một cơ sở và nền tảng đủ thể hiện
sự đúng đắn và hợp lý của chúng, khẳng định mọi sự
vật trong thế giới chúng ta đều có cơ sở đầy đủ chỉ ra
mối lên hệ nhân quả trong các sự vật hiện tượng của
thế giới chúng ta.
10. Nguyên lý thứ 10 khẳng định mối liên hệ phổ biến
giửa các sự vật cũng như giữa các tư tưởng, ý niệm,
cho phép các khoa học liên hệ hữu cơ với nhau để
cùng khám phá ra chân lý. Mọi lĩnh vực nhận thức
của con người đều không tách rời nhau.
11. Nguyên lý cuối cùng là nguyên lý cực đại và cực tiểu.
Nói cho rằng cực tiểu của bản chất sinh sản ra cực
địa của tồn tại. Trong nhận thức nó thể hiện dưới
dạng thu được nhiều nhất mà lại đỡ tốn công sức
nhất. Phuong pháp luận của Lépnít chứa đựng nhiều
tư tưởng biện chứng sâu sắc.



×