Tải bản đầy đủ (.docx) (63 trang)

THỰC TRẠNG QUẢN TRỊ rủi RO tín DỤNG đối với NHÓM KHÁCH HÀNG cá NHÂN tại NGÂN HÀNG TMCP CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM – CHI NHÁNH THỪA THIÊN HUẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (329.79 KB, 63 trang )


Lời Cảm Ơn
Trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu tại trường Đại học kinh tế Huế, được
sự chỉ bảo và dìu dắt của cá thầy cô đã trang bị cho tôi một vốn kiến thức dồi dào và
sâu rộng. Tôi xin được bày tỏ sự cám ơn sâu sắc đến các đơn vị , cá nhân đã tạo điều
kiện giúp đỡ cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Trước hết , tôi xin
chân thành cám ơn đến ban lãnh đạo nhà trường, ban chủ nhiệm khoa Tài chính Ngân
hàng và cô giáo hướng dẫn TS Trần Thị Bích Ngọc đã giúp đỡ tôi trong quá trình học
tập và nghiên cứu chuyên đề thực tập này.
Tôi xin cám ơn ban lãnh đạo Ngân hàng TMCP Sài gòn Hà nội cùng toàn thể
anh chị công tác tại Ngân hàng đã nhiệt tình cung cấp những tư liệu thực tế và thông
tin cần thiết để tôi có thể hoàn thành bài này.
Do trình độ bản thân và thời gian có hạn nên bài làm không tránh khỏi những sai
sót trong bài, cách trình bày giải thích chưa rõ ràng vì vậy mong quý thầy cô nhà
trường , ban lãnh đạo ngân hàng quan tâm giúp đỡ và góp ý kiến để chuyên đề đầy đủ
và hoàn thiện hơn.
Huế, tháng 5 năm 2015
Sinh viên thực hiện:
Thepvongsa Vidou



MỤC LỤC


DANH MỤC SƠ ĐỒ


DANH MỤC BẢNG BIỂU



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
NHTM : Ngân hàng Thương mại
TMCP : Thương mại cổ phần
TSCĐ :

Tài sản cố định

SHB :

Sài gòn Hà nội Bank

SXKD : Sản xuất Kinh doanh
HĐTD : Hoạt động tín dụng


PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài

Hoạt động ngân hàng ngày nay được coi là xương sống của nền kinh tế, sự phát
triển của nó phản ánh đúng thực trạng kinh tế của mỗi quốc gia. Trong những năm gần
đây ngành ngân hàng đã đạt được những kết quả hết sức khả quan và khẳng định là một
trung gian tài chính quan trọng không thể thiếu được của nền kinh tế thị trường. Ngân
hàng là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất, đóng vai trò thủ quỹ của toàn xã hội. Với đội
ngũ cán bộ giàu kinh nghiệm, trang thiết bị hiện đại ngân hàng còn là nhà tư vấn, lập kế
hoạch tài chính giúp doanh nghiệp.
Ngân hàng cung cấp rất nhiều các dịch vụ nhưng đem lại doanh thu lớn nhất cho ngân
hàng là hoạt động tín dụng. Ngân hàng cấp tín dụng nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu về
vốn của các doanh nghiệp và cá nhân trong nền kinh tế, là hoạt động đem lại nhiều
doanh thu thì cũng đi đôi với nhiều rủi ro, bất kì khoản tín dụng nào của ngân hàng
được sử dụng không có hiệu quả thì ngân hàng cũng phải đối mặt với rủi ro tín dụng.

Nếu không thể kiểm soát được thì rủi ro này còn kéo theo nhiều loại rủi ro khác. Hoạt
động của ngân hàng chủ yếu dựa vào lòng tin của khách hàng vì vậy nếu không kiểm
soát được rủi ro, một ngân hàng sụp đổ sẽ kéo theo sự sụp đổ của toàn hệ thống ngân
hàng, lúc này nó sẽ tác động đến mọi hoạt động của nền kinh tế. Chính vì vậy việc đưa
ra các giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng ngày càng trở nên quan trọng và được các ngân
hàng đặc biệt quan tâm. Đó là lý do vì sao em lựa chọn đề tài “Thực trạng rủi ro tín
dụng tại Ngân Hàng Thương Mại Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Sài Gòn - Hà
Nội Chi Nhánh Huế “
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục tiêu chung
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là phân tích thực trạng hoạt động tín dụng, đánh
giá tình hình rủi ro tín dụng tại Ngân hàng, đồng thời tìm ra những nguyên nhân dẫn
đến rủi ro tín dụng để từ đó tìm ra những biện pháp đề phòng rủi ro, nhằm tối thiểu
hóa những thiệt hại do rủi ro tín dụng gây ra.
2.2. Mục tiêu cụ thể


- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về rủi ro tín dụng tại NHTM.
- Thực trạng tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn - Hà Nội.
- Đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng.
- Thực trạng rủi ro tín dụng tại ngân hàng Thương mại.
- Đề ra biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng.
3. Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng rủi ro tín dụng của ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn - Hà
Nội .
4. Phạm vi nghiên cứu
4.1. Không gian: Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội Chi nhánh Huế.
4.2. Thời gian: Số liệu thu thập từ năm 2012-2014.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1 Phương pháp nghiên cứu tài liệu

Là phương pháp tìm hiểu những vấn đề liên quan đến đề tài bằng cách đọc, tổng
hợp, phân tích thông tin từ giáo trình, internet, sách báo, các tài liệu có liên quan đến
nghiệp vụ tại đơn vị thực tập.
5.2. Phương pháp thu thập số liệu
- Thu thập trực tiếp từ các báo cáo của ngân hàng qua 3 năm 2012, 2013, 2014.
+ Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh.
+ Bảng cân đối kế toán.
- Tổng hợp các thông tin từ tạp chí ngân hàng tham khảo sách báo, tài liệu về ngân
hàng có liên quan đến đề tài.
- Kết hợp với hướng dẫn của giáo viên và ý kiến góp ý của cán bộ tín dụng Ngân
hàng, những kinh nghiệm thực tế học hỏi được qua thời gian thực tập tại ngân hàng.
5.3. Phương pháp phân tích



Đề tài nghiên cứu theo phương pháp thống kê tổng hợp số liệu giữa các năm.
Phương pháp so sánh: Phương pháp so sánh bao gồm so sánh tuyệt đối và so

sánh tương đối.
• Phương pháp phân tích đánh giá số liệu thực tếtại chi nhánh.
• Phương pháp thống kê tổng hợp số liệu giữa các năm.
• Sử dụng một số chỉ số tài chính để đánh giá tình hình và rủi ro tín dụng.


Ngoài ra còn dùng biểu đồ minh họa để giúp cho việc phân tích được rõ ràng hơn.
6. Kết cấu chuyên đề
Chuyên đề gồm 3 chương :
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG TMCP
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG TMCP SÀI
GÒN - HÀ NỘI CHI NHÁNH HUẾ

CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM GIẢM RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN SÀI GÒN - HÀ NỘI CHI NHÁNH HUẾ


PHẦN II
NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1. Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng
1.1. Rủi ro là gì
Mọi hoạt động của từng cá nhân cũng như toàn xă hội đều hướng tới một mục
đích nào đó. Song có những trường hợp mục đích đó không đạt được do trong quá tŕnh
hoạt động gặp phải rủi ro. Có rất nhiều khái niệm về rủi ro như “rủi ro là những bất
trắc gây ra mất mát thiêt hại”; “rủi ro là sự bất trắc cụ thể liên quan đến việc xuất hiện
một biến cố không mong đợi”... Nhưng nói chung mọi ý kiến đều đi đến khẳng định
rủi ro là khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến. Rủi ro có thể gặp bất cứ lúc nào ngoài
ước muốn của con người trong mọi lĩnh vực của đời sống nhất là lĩnh vực kinh tế.
Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh tế kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ. Lĩnh
vực kinh doanh này luôn tồn tại nhiều rủi ro, do đó các hoạt động cùa ngân hàng cần
có sự kiểm soát rất chặt chẽ. Bởi vì, thông qua ngân hàng Chính Phủ thực hiện các
chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách tiền tệ. Do đó, cần nghiên cứu và hiểu một
cách cặn kẽ về loại hình tổ chức này để có thể vận hành và quản lý nó có hiệu quả.
1.2. Các loại rủi ro phổ biến trọng hoạt động kinh doanh của Ngân hàng
Cũng như bất kỳ ngành kinh doanh nào khác, ngân hàng có thể gặp rủi ro và có
thể bị mất vốn. Hơn nữa, ngân hàng là một ngành kinh tế nhạy cảm, hoạt động của
ngân hàng với bản chất của nó, chịu ảnh hưởng của rất nhiều loại rủi ro. Bản thân
người quản lý ngân hàng và người lập chính sách cần biết và hiểu những rủi ro này để
tìm mọi cách hạn chế những đổ vỡ dễ gây thiệt hại, trước hết là đến ngân hàng đó và
sau đó là toàn bộ nền kinh tế. Trên thế giới, người ta đã phân ra nhiều loại rủi ro trong
hoạt động ngân hàng.

1.2.1. Rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng phải chịu do
khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả, hoặc không trả đầy đủ vốn và lãi. Khi


thực hiện một hoạt động cho vay cụ thể, ngân hàng không dự kiến là khoản cho vay đó
sẽ bị tổn thất. Tuy nhiên những khoản cho vay đó luôn hàm chứa rủi ro. Rủi ro tín
dụng xảy ra có thể làm tê liệt khả năng thanh toán của ngân hàng, thậm chí đưa ngân
hàng đến bờ vực phá sản.
1.2.2. Rủi ro hối đoái
Rủi ro hối đoái là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng phải chịu khi tỷ
giá hối đoái thay đổi vượt quá thay đổi dự tính.
Để có thể phòng ngừa rủi ro hối đoái, ngân hàng phải làm cân xứng giữa tài sản
có và tài sản nợ đối với mỗi loại ngoại tệ trong bảng cân đối tài sản.
1.2.3. Rủi ro lãi suất
Khi huy động vốn của doanh nghiệp và dân cư, ngân hàng phải trả lãi. Khi tài
trợ, ngân hàng thu lãi. Lãi suất của các khoản cho vay, tiền gửi và chứng khoán thường
xuyên biến động, có thể làm gia tăng lợi nhuận cho ngân hàng và ngược lại gây tổn
thất cho ngân hàng. Như vậy, rủi ro lãi suất là khả năng thu nhập giảm do chênh lệch
lãi suất giảm khi lãi suất thị trường thay đổi ngoài dự kiến gắn với thay đổi nhiều nhân
tố khác như cấu trúc và kỳ hạn của tài sản và nguồn, qui mô và kỳ hạn của hợp đồng
kỳ hạn...
Ngân hàng có thể phòng ngừa rủi ro bằng cách làm cho các kỳ hạn của tài sản
có và tài sản nợ cân xứng nhau. Việc làm cho các kỳ hạn cân xứng với nhau, một mặt,
giảm được rủi ro lãi suất; mặt khác, lại làm giảm khả năng sinh lời của ngân hàng, bởi
lẽ nó làm giảm các cơ hội đầu tư vào những lĩnh vực có rủi ro song khả năng sinh lời
lớn.
1.2.4. Rủi ro thanh khoản
Rủi ro thanh khoản là tổn thất xảy ra cho ngân hàng khi nhu cầu thanh khoản
thực tế vượt quá khả năng thanh khoản dự kiến.

Rủi ro thanh khoản trong trường hợp nghiêm trọng, nếu hầu hết những người gửi
tiền đều đồng loạt yêu cầu ngân hàng phải trả lại tiền gửi của họ thường dẫn đến ngân
hàng đang từ chỗ phải đối phó với rủi ro thanh khoản đến chỗ phải đối mặt với rủi ro phá
sản.
1.2.5. Rủi ro hoạt động ngoại bảng


Hoạt động ngoại bảng là các hoạt động không thuộc bảng cân đối tài sản (nội
bảng), bởi vì các hoạt động này không liên quan đến việc nắm giữ các chứng khoán
hay giấy nhận nợ sơ cấp hoặc ngân hàng phát hành các chứng khoán hay giấy nhận nợ
thứ cấp. Tuy nhiên, các hoạt động ngoại bảng có ảnh hưởng đến trạng thái tương lai
của bảng cân đối tài sản nội bảng, bởi vì các hoạt động ngoại bảng có thể tạo ra những
tài sản có và tài sản nợ bổ sung cho bảng cân đối nội bảng.
1.2.6. Rủi ro công nghệ
Rủi ro công nghệ phát sinh khi những khoản đầu tư cho phát triển công nghệ
không tạo ra được khoản tiết kiệm trong chi phí như đã dự tính khi mở rộng qui mô
hoạt động.
Rủi ro về công nghệ có thể gây nên hậu quả là khả năng cạnh tranh của ngân
hàng giảm xuống đáng kể và nguyên nhân tiềm ẩn của sự phá sản ngân hàng trong
tương lai.
1.2.7. Rủi ro quốc gia và rủi ro khác
Những rủi ro khác bao gồm: thay đổi thuế đột ngột, ảnh hưởng của chiến tranh
làm cho các điều kiện trên thị trường tài chính thay đổi đột biến không dự tính trước,
sự sụp đổ đột ngột của thị trường chứng khoán, rủi ro trộm cắp, lừa đảo...
Cuối cùng phải kể đến các rủi ro bắt nguồn từ yếu tố kinh tế vĩ mô như lạm phát
gia tăng, sự biến động vô lối của giá cả hàng hoá, thất nghiệp đều có ảnh hưởng đến sự
biến động lãi suất, bộc lộ rủi ro tín dụng và rủi ro thanh khoản.
Mỗi loại rủi ro này cần những biện pháp quản lý phù hợp với đặc điểm của
chúng và những chỉ số đo lường phản ánh đúng tình trạng hiện tại của rủi ro trong
tương lai.

1.3. Khái niệm quản lý rủi ro trong kinh doanh ngân hàng thương mại
Quản lý rủi ro là một quá trình liên tục cần được thực hiện ở mọi cấp độ của ngân
hàng. Mục đích của hoạt động quản lý rủi ro tín nhằm xác định rõ, đo lường và kiểm
soát rủi ro ở mức có thể chấp nhận được, cho phép ngân hàng đạt được sự tương quan
hợp lý giữa rủi ro ngân hàng chấp nhận và rủi ro ngân hàng muốn giảm thiểu. Bởi vì,
rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động quan trọng và có quy mô lớn nhất của ngân hàng
đó là hoạt động tín dụng.


Theo quan điểm quản lý, hoạt động quản lý rủi ro là một quy trình khép kín bao
gồm 4 giai đoạn sau:

Sơ đồ 1.1: Quy trình hoạt động quản lý rủi ro
Xác định rủi ro:


Các rủi ro mà ngân hàng sẽ gặp (bao gồm các rủi ro có khả năng xảy ra và các rủi ro
tiềm ẩn chỉ xảy ra khi co một sự kiện cụ thể nào đó liên quan dến hoạt động tín dụng
xảy ra) và nguồn gốc của các rủi ro.



Khả năng chấp nhận rủi ro của ngân hàng (được xác định dựa trên chiến lược kinh
doanh của ngân hàng trong từng thời kỳ).
Đinh lượng rủi ro:



Quy trình định lượng rủi ro phải được thiết kế chặt chẽ nhằm định lượng được tất cả
những rủi ro trọng yếu.




Quy trình định lượng rủi ro phải đáp ứng được nhu cầu của người sử dụng thông tin.
Quản lý rủi ro:



Các giới hạn của rủi ro phải thống nhất với chính sách của ngân hàng và các hạn mức
tín dụng đã được phê duyệt.



Quản lý rủi ro cũng cần đảm bảo các hoạt động kinh doanh của ngân hàng không chứa
đựng những rủi ro gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự tồn tại và khả năng cạnh tranh
của ngân hàng.
Kiểm soát rủi ro:



Các báo cáo rủi ro cần cung cấp những thông tin thích hợp, chính xác và kịp thời về
tình trạng rủi ro của ngân hàng cho Ban lãnh đạo.



Các cá nhân thực hiện hoạt động kiểm soát rủi ro cần hoạt động độc lập với những
người thực hiện những hoạt động làm phát sinh rủi ro
1.4. Ảnh hưởng của rủi ro đến họạt động của Ngân hàng
Rủi ro gắn liền với hoạt động của ngân hàng thương mại, phản ánh các tình
huống bất thường xảy ra, có thể gây tổn thất cho ngân hàng. Khi tổn thất xảy ra, trước



hết thu nhập của ngân hàng giảm sút, dẫn đến tỷ suất lợi tức và thị giá cổ phiếu của
ngân hàng giảm. Việc cổ phiếu giảm giá, nếu không được kịp thời chấn chỉnh, sẽ có
thể kéo theo việc bán hàng loạt cổ phiếu trên thị trường, là điểm mở đầu của quá trình
mua lại, sáp nhập, hoặc thay thế ban quản trị ngân hàng. Rủi ro tín dụng và lãi suất có
thể dẫn đến rủi ro thanh khoản với việc hàng loạt người gửi tiền rút tiền ra khỏi ngân
hàng, buộc ngân hàng phải đóng cửa và tuyên bố phá sản.Tổn thất ở mức thấp, làm
giảm quĩ dự pḥòng, giảm vốn và quĩ của ngân hàng. Để đối phó với tình huống trên,
ngân hàng phải giảm tiền lương (hoặc chi phí khác), giảm lao động. Nếu rủi ro ở mức
quá cao, sẽ trở thành vấn đề nghiêm trọng, gây ra những hậu quả không lường đến
không những cho bản thân ngân đó, mà c̣òn ảnh hưởng đến cả hệ thống ngân hàng,
quyền lợi của người gửi tiền và toàn bộ nền kinh tế.
- Do ngân hàng hoạt động kinh doanh chủ yếu bằng tiền của người khác, nên
rủi ro của ngân hàng xảy ra ở mức độ cao, tức là việc quản trị rủi ro của ngân hàng c̣òn
yếu, có thể ảnh hưởng đến tính thanh toán của ngân hàng. Điều này làm giảm uy tín
của ngân hàng, khách hàng không c̣òn tin tưởng vào hiệu quả hoạt động kinh doanh
của ngân hàng, dẫn đến giảm đáng kể các quan hệ giao dịch của ngân hàng.
- Rủi ro làm tăng nguy cơ phá sản: đây là ảnh hưởng nghiêm trọng nhất của rủi
ro đối với hoạt động của ngân hàng. Nếu rủi ro ở mức độ cao không sớm được hạn chế
sẽ dẫn đến hàng loạt các ảnh hưởng xấu nêu trên, và sẽ dẫn đến đỉnh điểm là sự phá
sản của ngân hàng.
2. Rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
2.1. Tín dụng ngân hàng
2.1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng
Tín dụng xuất phát từ chữ La tinh Creditium có nghĩa là tin tưởng , tín nhiệm
,tiếng Anh gọi là Credit.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ ngân
hàng cho khách hàng trong một thời hạn nhất định với một khoản chi phí nhất định.
Tín dụng ngân hàng có thể phân chia thành ra nhiều loại khác nhau tuỳ theo những

tiêu thức phân loại khác nhau.
2.1.2. Phân loại tín dụng ngân hàng


- Dựa vào mục đích của tín dụng :theo tiêu thức này tín dụng Ngân hàng có thể phân
chia theo các loại sau :






Cho vay phục vụ sản suất kinh doanh công thương nghiệp
Cho vay tiêu dùng cá nhân
Cho vay bất động sản
Cho vay nông nghiệp
Cho vay kinh doanh xuất nhập khẩu.
- Dựa vào thời hạn tín dụng :

Cho vay ngắn hạn là loại cho vay có thời hạn dưới 1 năm

Cho vay trung hạn : là loại cho vay có thời hạn từ 1 đến 5 năm

Cho vay dài hạn : là loại cho vay có thời hạn từ 5 năm trở lên
- Dựa vào mức độ tín nhiệm khách hàng :
• Cho vay không có đảm bảo : là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc
bảo lãnh của người khác mà chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng vay vốn để


quyết định cho vay

Cho vay có đảm bảo .là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm cho tiền vay như thế

chấp, cầm cố, hoặc bảo lãnh của một bên thứ ba nào khác
- Dựa vào phương thức hoàn trả nợ vay :
• Cho vay chỉ có một kì hạn trả nợ hay còn gọi là vay trả nợ một lần khi đáo hạn.
• Cho vay có nhiều kì hạn trả nợ hay còn gọi là cho vay trả góp
• Cho vay trả nợ nhiều lần nhưng không có kỳ hạn trả nợ cụ thể mà tùy khả năng tài






chính của người đi vay có thể trả nợ bất kỳ lúc nào.
- Dựa vào phương thức cho vay :
Cho vay từng lần theo món :
Cho vay theo hạn mức tín dụng.
- Dựa vào rủi ro tín dụng :
Tín dụng lành mạnh :Các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao
Tín dụng có vấn đề : Các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh như: khách
hàng tiêu thụ chậm hàng hoá, tiến độ thực hiện kế hoạch bị chậm, khách hàng gặp
thiên tai, hoặc trì hoăn nộp báo cáo tài chính...
2.2. Rủi ro tín dụng
2.2.1. Khái niệm
Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng là khả năng xảy ra tổn thất trong
hoạt động tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện
nghĩa vụ của mình theo cam kết.
Rủi ro tín dụng được định nghĩa là khoản lỗ tiềm tàng vốn có được tạo ra khi
cấp tín dụng cho một khách hàng. Có nghĩa là khả năng khách hàng không trả được nợ



theo hợp đồng gắn liền với mỗi khoản tín dụng ngân hàng cấp cho họ. Hoặc nói một
cách cụ thể hơn, luồng thu nhập dự tính mang lại từ các tài sản có sinh lời của các
ngân hàng có thể không được hoàn trả đầy đủ xét cả về mặt số lượng và thời hạn. Các
ngân hàng sẽ không bị đe doạ bởi rủi ro tín dụng nếu luôn luôn nhận lại được cả gốc
và lãi của các khoản vay đúng thời hạn, ngược lại nếu người vay gặp khó khăn tài
chính thì cả gốc và lãi khoản vay bị đặt trong tình trạng rủi ro không thu hồi được.
Trong điều kiện bình thường, phần lớn các tài sản tài chính do các doanh nghiệp phát
hành và được đầu tư bởi các ngân hàng đều được đảm bảo với mức xác suất cao, lãi
thu được thường dưới dạng lãi suất cố định. Nhưng khi có rủi ro, mặc dù xảy ra với
xác suất thấp, mức vốn có thể mất lại không có giới hạn. Có thể lấy các trái phiếu có
phiếu lĩnh lãi cố định do các doanh nghiệp phát hành và các khoản cho vay của ngân
hàng để minh chứng cho mâu thuẫn giữa thu nhập và rủi ro tín dụng. Trong cả hai
trường hợp, nếu không có rủi ro, nguồn thu nhập của ngân hàng là có giới hạn dưới
dạng lãi suất các khoản cho vay hoặc lãi suất trái phiếu, ngược lại ngân hàng thường
mất toàn bộ phần lãi suất và có thể một phần hay toàn bộ vốn gốc, điều này c̣n phụ
thuộc vào khả năng bồi hoàn của tài sản thế chấp và kết quả của việc thanh lý tài sản
trong trường hợp người đi vay phá sản.
2.2.2. Phân loại rủi ro tín dụng
Hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng nhất, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong
cơ cấu tài sản của ngân hàng thương mại, và đem lại phần lợi nhuận lớn nhất cho ngân
hàng thương mại. Nhưng đây cũng là hoạt động luôn luôn chứa đựng nguy cơ rủi ro.
Rủi ro tín dụng là loại rủi ro gắn liền với việc không thu được nợ khi đến hạn hoặc ứ
đọng vốn, thiếu hụt vốn. Có hai loại rủi ro tín dụng chính đó là:
-

Rủi ro ứ đọng vốn, thiếu hụt vốn:
Hoạt động chính của ngân hàng là đi vay để cho vay, ngân hàng huy động vốn

với mức lãi suất thấp và cho vay với mức lãi suất cao hơn, sự chênh lệch giữa lãi suất

đầu ra với lãi suất đầu vào tạo ra thu nhập cho ngân hàng. Trên thực tế, đôi khi các
nghiệp vụ này thường không diễn ra như mong muốn bởi vì xảy ra các rủi ro như:


Rủi ro ứ đọng vốn: xảy ra khi vốn bị tồn đọng lớn không cho vay hoặc đầu tư làm cho
thu nhập của ngân hàng giảm sút. Khi huy động vốn ngân hàng phải mất chi phí huy


động do vậy nếu khi xảy ra tình trạng mất cân đối giữa việc huy động và sử dụng vốn
(lượng vốn huy động lớn hơn sử dụng), điều này sẽ làm giảm lợi nhuận của ngân hàng
do lợi nhuận đem lại từ việc cho vay có thể không đủ bù đắp chi phí hoạt động và lãi


suất huy động vốn.
Rủi ro thiếu vốn: xảy ra khi ngân hàng sử dụng vốn vượt quá mức huy động được. Để
bù đắp mức thiếu hụt này, ngân hàng phải đi vay vốn của các ngân hàng khác hoặc
ngân hàng trung ương với mức lãi suất cao hơn b́nh thường, điều này làm giảm thu
nhập của ngân hàng.
- Rủi ro nợ quá hạn
Xảy ra khi đến hạn thanh toán mà người đi vay vẫn chưa trả nợ đầy đủ thì
khoản cho vay đó chuyển sang nợ quá hạn.
Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá
hạn. Nợ quá hạn trong kinh doanh ngân hàng là hiện tượng khách hàng không có khả
năng trả nợ đúng hạn như đã cam kết trong hợp đồng tín dụng.
Tuỳ theo những tiêu thức khác nhau, người ta phân nợ quá hạn thành:
 Căn cứ vào thời gian quá hạn
-

Nợ quá hạn dưới 90 ngày.
Nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày.

Nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày.
Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày.

 Căn cứ vào khả năng thu hồi
-

Nợ quá hạn thông thường đ̣i đủ 100%.
Nợ quá hạn khó đ̣i.
Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi.
 Căn cứ theo thời hạn khoản vay

-

Nợ quá hạn của các khoản vay ngắn hạn.
Nợ quá hạn của các khoản vay trung hạn.
Nợ quá hạn của các khoản vay dài hạn.
 Căn cứ theo loại tiền
-

Nợ quá hạn theo VNĐ.
Nợ quá hạn theo ngoại tệ.

 Căn cứ theo nguyên nhân phát sinh
-

Nợ quá hạn do lỗi người vay.


-


Nợ quá hạn do lỗi của người cho vay.

 Căn cứ theo biện pháp bảo đảm tiền vay
-

Nợ quá hạn có bảo lãnh của bên thứ ba.
Nợ quá hạn của vật tư, của hàng hoá tồn kho chờ bán và có tài sản hình thành từ vốn

-

vay.
Nợ quá hạn có tín chấp.
Nợ quá hạn có xác nhận của cấp chủ quyền
2.2.3. Khái niệm về nợ xấu và nợ quá hạn
Bản chất của Nợ xấu :
Nợ xấu hay nợ khó đòi là các khoản nợ dưới chuẩn, có thể quá hạn và bị nghi
ngờ về khả năng trả nợ lẫn khả năng thu hồi vốn của chủ nợ, điều này thường xảy ra
khi các con nợ đã tuyên bố phá sản hoặc đã tẩu tán tài sản. Nợ xấu gồm các khoản nợ
quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên thường quá ba tháng căn cứ vào khả năng trả nợ của
khách hàng để hạch toán các khoản vay vào các nhóm thích hợp.
Tính chất :
Nợ xấu là một số tiền được viết bởi các doanh nghiệp như là một tổn thất cho
doanh nghiệp và được phân loại như là một khoản chi phí vì nợ cho doanh nghiệp là
không thể được thu thập, và tất cả những nỗ lực hợp lý đã được tận dụng để thu thập
các số tiền nợ. Điều này thường xảy ra khi các con nợ đã tuyên bố phá sản hoặc chi phí
của việc theo đuổi hành động hơn nữa trong một nỗ lực để thu thập các khoản nợ vượt
quá các khoản nợ của chính nó.
Nợ được ngay lập tức bằng văn bản của tín dụng con nợ tài khoản và do đó loại
bỏ bất kỳ số dư còn lại trong tài khoản đó. Nợ xấu đại diện cho tiền bị mất do một
doanh nghiệp là lý do tại sao nó được coi là một khoản chi phí.

Khái niệm Nợ quá hạn :
Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá hạn
Nợ quá hạn là khoản vay hết hạn khi hợp đồng đã kết thúc giữa 2 bên: ngân
hàng và người đi vay, mà trong đó khoản vay tất toán hợp đồng bị trể hạn từ 10 ngày
trở lên. Tuy nhiên, vẫn chưa gọi là nợ quá hạn bị xấu ( nhóm 2), nợ quá hạn được coi
là xấu khi trễ hạn thanh lý hợp đồng từ 1 tháng trở lên ( nhóm 3 ) đến 3 tháng.
Nguyên nhân dẫn đến nợ quá hạn:


Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến nợ quá hạn, thông thường những khoản vay 1 năm
(vay đáo hạn ) sẽ rơi vào nợ quá hạn vì ngân hàng không cho vay lại ( trả lãi chậm ),
muốn vay thêm tiền nhưng không được, không vay được ngân hàng khác, buôn bán
không thu hồi được vốn, quy hoạch, hết hạn sử dụng đất,…
2.2.4. Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là vấn đề cấp thiết hiện nay mà các NHTM đang dồn toàn tâm
toàn lực để giải quyết. Để hạn chế tối đa rủi ro tín dụng ở các NHTM hiện nay cần
thiết phải tìm ra nguyên nhân phát sinh để có biện pháp giải quyết. Các nguyên nhân
chính gây ra rủi ro tín dụng là:
-

Những nguyên nhân bất khả kháng

Những nguyên nhân bất khả kháng tác động tới người vay, làm họ mất khả
năng thanh toán cho ngân hàng. Ví dụ: thiên tai, chiến tranh, hoặc những thay đổi tầm
vĩ mô (thay đổi của Chính phủ, chính sách kinh tế, hàng rào thuế quan...) vượt quá tầm
kiểm soát của người vay lẫn người cho vay.
Những thay đổi này thường xuyên xảy ra, tác động liên tục tới người vay, tạo
thuận lợi hoặc khó khăn cho người vay. Nhiều người vay, với bản lĩnh của mình có khả
năng dự báo, thích ứng, hoặc khắc phục những khó khăn.Trong những trường hợp
khác, người vay có thể bị tổn thất song vẫn có khả năng trả nợ cho ngân hàng đúng

hạn, đủ gốc và lãi. Tuy nhiên, khi tác động của những nguyên nhân bất khả kháng đối
với người vay là nặng nề, khả năng trả nợ của họ bị suy giảm.
-

Nguyên nhân từ phía khách hàng

 Khách hàng sử dụng vốn sai mục đích
Khách hàng sử dụng vốn vay ngân hàng không đúng với mục đích đã đưa ra
trong đơn xin vay vốn. Khách hàng có thể sử dụng vốn vào kinh doanh không đúng
đối tượng, sử dụng vốn ngắn hạn để đầu tư trung và dài hạn, vào tài sản cố định, hay
sử dụng tiền vào hoạt động kinh doanh khác và gặp phải rủi ro.
 Khả năng quản lý kinh doanh của khách hàng kém
Do trình độ tổ chức, quản lý của giám đốc còn yếu kém, thiếu kinh nghiệm kinh
doanh nên có những tính toán không hợp lý khi lập dự án. Trình độ của người quản lý
có hạn nên không nhanh nhạy trước những biến động và xu hướng phát triển của thị


trường do đó không nắm bắt được thời cơ và luôn bị rơi vào thế bị động. Kết quả là
doanh nghiệp không phát triển được, dự án thất bại và mất khả năng thanh toán cho
ngân hàng.
 Khả năng kém thích nghi với môi trường cạnh tranh
Để tồn tại trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải không ngừng
cạnh tranh.Nếu doanh nghiệp nào thắng trong cạnh tranh thì tồn tại, còn không doanh
nghiệp sẽ bị thua lỗ và phá sản. Nếu doanh nghiệp không có khả năng thích nghi với
sự thường xuyên thay đổi của môi trường thì sẽ bị đào thải ra khỏi cuộc cạnh tranh và
khi đó khả năng trả đầy đủ vốn vay cho ngân hàng của doanh nghiệp là rất thấp.
 Khách hàng cố tình lừa đảo tiền của ngân hàng
Khách hàng cung cấp những thông tin sai lệch cho ngân hàng, lừa đảo để được
vay vốn. Sau khi được vay vốn thì sử dụng sai mục đích dẫn đến thua lỗ không có khả
năng hoàn trả ngân hàng.

Ngoài ra, một số khách hàng vay vốn của ngân hàng khi đến hạn mặc dù có khả
năng thanh toán nhưng lại không muốn và không chịu trả nợ cho ngân hàng. Đây là
hành động cố tình lừa đảo tiền của ngân hàng. Rủi ro này phát sinh do tư cách đạo đức
của người vay.
 Ngoài ra c̣òn một số nguyên nhân khác như: người vay không thực hiện
được nghĩa vụ trả nợ vì chết, mất tích, hoặc các tài sản đảm bảo bị mất, giảm giá...
-

Nguyên nhân từ phía ngân hàng thương mại

 Ngân hàng có thể đưa ra quyết định cho vay sai lầm do không nắm được
đầy đủ hoặc chuẩn xác các thông tin về khách hàng như: khả năng tài chính, quản trị,
kết quả hoạt động kinh doanh, hiệu quả của dự án, giá trị tài sản đảm bảo... Điều này
đã gây ra rủi ro và dẫn đến tổn thất cho ngân hàng.
 Chính sách tín dụng không hợp lý cũng là nguyên nhân dẫn đến rủi ro. Nếu
chính sách tín dụng không rõ ràng, đầy đủ và thống nhất thì dễ dẫn đến việc cấp những
khoản tín dụng chất lượng thấp, thiếu hiệu quả do người vay đã lợi dụng những khe hở
trong chính sách.


 Mở rộng khối lượng tín dụng nhưng chưa quan tâm đến chất lượng tín dụng.
Trên thực tế, trong quá trình cho vay các ngân hàng do quá chú trọng tới số lượng cho
vay mà lơ là chất lượng khoản cho vay nên dễ gây ra rủi ro tín dụng.
 Trình độ năng lực của cán bộ thẩm định dự án c̣n thấp dẫn đến những nhận
định sai lầm và cho vay không hiệu quả. Cán bộ tín dụng không am hiểu lắm về lĩnh
vực kinh doanh của khách hàng nên xác định sai hiệu quả của dự án và khả năng trả nợ
của khách hàng. Việc thiếu hiểu biết về luật cũng gây ra thiệt hại cho khách hàng khi
xảy ra tranh chấp trước pháp luật.
 Trình độ và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ tín dụng không đảm bảo. Một
số cán bộ có phẩm chất yếu kém đã lợi dụng vị trí của mình để tham ô, trục lợi, họ đã

tiếp tay cho khách hàng rút vốn ngân hàng.
NHTM chưa xây dựng và phát triển được mạng lưới thông tin đầy đủ trong
cả lĩnh vực ngân hàng và phi ngân hàng.
 Ngân hàng thiếu một cơ cấu theo dõi, quản lý rủi ro, chưa có hệ thống đo
lường, phân tán rủi ro theo từng loại khách hàng. Hệ thống kiểm soát chưa phát huy
hết tác dụng, chưa có sự giám sát chặt chẽ đối với các khoản đã cho vay, không kịp
thời chấn chỉnh những sai sót trong hoạt động cấp tín dụng.
d. Các nguyên nhân khác
 Thông tin không cân xứng
Trên thị trường tài chính, khi có một giao dịch mà trong đó một bên không biết
rơ đầy đủ những thông tin mà họ cần biết về bên kia th́ được gọi là thông tin không
cân xứng. Việc thiếu thông tin cũng là nguyên nhân gây ra sự lựa chọn đối nghịch
trước khi cuộc giao dịch diễn ra và rủi ro đạo đức sau cuộc giao dịch đó.
+ Chọn lựa đối nghịch xảy ra khi người đi vay có khả năng không trả được nợ,
gây rủi ro cho ngân hàng lại là người tích cực tìm vay nhất bằng mọi cách nên có
nhiều khả năng được chọn nhất. Điều này dẫn đến khoản vay sẽ được cấp cho trường
hợp có rủi ro.
+ Rủi ro do các thông tin không cân xứng tạo ra sau khi diễn ra các giao dịch là
loại rủi ro người cho vay phải gánh chịu khi người đi vay không muốn trả nợ. Rủi ro
này được gọi là rủi ro đạo đức.


 Môi trường kinh tế, các chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ.
- Hệ thống hành lang pháp lí của Nhà nước chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, không
rõ ràng sẽ tạo kẽ hở để người vay lợi dụng chiếm vốn và gây thiệt hại tới ngân hàng.
- Hoạt động của doanh nghiệp và ngân hàng đều chịu ảnh hưởng của chính sách
kinh tế vĩ mô của Chính phủ. Vì vậy, bất cứ một sự thay đổi nhỏ nào trong chính sách
(ví dụ như: chính sách tài chính- tiền tệ, chính sách thuế...) đều có thể gây ảnh hưởng
tích cực hoặc tiêu cực tới việc kinh doanh của ngân hàng.
2.2.5. Các chỉ tiêu phản ánh về rủi ro tín dụng

Tuy rủi ro tín dụng là khách quan, song ngân hàng phải quản lí rủi ro tín dụng
nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các tổn thất có thể xảy ra. Từ những nguyên nhân
nảy sinh rủi ro tín dụng, ngân hàng cụ thể hoá thành những dấu hiệu phát sinh trong
hoạt động tín dụng, phản ánh rủi ro tín dụng:
-

Nợ có vấn đề

Khi cấp tín dụng các NHTM đều mong muốn khoản tín dụng được hoàn trả đầy
đủ và đúng hạn như đã thoả thuận. Để đảm bảo an toàn, sau khi cấp tín dụng cho
khách hàng, ngân hàng phải thường xuyên giám sát khoản tín dụng đã cấp để theo dõi
việc khách hàng có sử dụng vốn vay đúng mục đích không, hiệu quả hoạt động và sử
dụng vốn vay ra sao. Tuỳ thuộc vào tính lành mạnh của khoản vay mà ngân hàng có
mức độ giám sát thường xuyên, liên tục hay định kì. Hoạt động giám sát giúp ngân
hàng nhận biết và phát hiện được các khoản vay có vấn đề để có những hành động và
biện pháp cần thiết, kịp thời để ngăn ngừa hoặc xử lí.
Nợ có vấn đề là những khoản vay mà trong đó thoả thuận hoàn trả có khả năng
bị đổ vỡ, dù hiện tại những khoản vay đó chưa đến kỳ hạn trả nợ gốc và lãi.
Trong thực tế, có nhiều dấu hiệu biểu hiện khoản vay sẽ gặp khó khăn. Khó
khăn có thể xảy ra ngay khi bắt đầu cho vay, hoặc xuất hiện chậm hơn hoặc đột ngột
phát sinh mà không có dấu hiệu báo trước.Rất khó có thể kết luận một khoản vay có
vấn đề vì các biến cố xảy ra là bất ngờ, không dự doán trước được. Tuy nhiên, có một
số dấu hiệu cảnh báo rủi ro tín dụng trong hoạt động của ngân hàng:
Nhóm 1: Nhóm các dấu hiệu liên quan đến mối quan hệ với ngân hàng
Khách hàng có biểu hiện:


+ Các khoản nợ gốc và lãi khách hàng không thanh toán đầy đủ hoặc chậm
thanh toán.
+ Xin ngân hàng cho kéo dài thời hạn trả nợ, xin gia hạn nợ

+ Có biểu hiện giảm vốn điều lệ
+ Chậm trễ trong thanh toán lương cho nhân viên
+ Vốn vay bị sử dụng với mục đích khác so với thoả thuận trong hợp đồng
+ Chu kỳ vay thường xuyên gia tăng
Nhóm 2: Nhóm các dấu hiệu liên quan đến phương pháp quản lí và tổ chức
khách hàng
+ Không có sự thống nhất trong hội đồng quản trị hay ban điều hành về quan
điểm, mục đích, cách thức quản lí...
+ Quản lí nhân sự yếu kém, cơ cấu không hợp lí dẫn đến việc dùng người
không hiệu quả và có hiện tượng những người có năng lực rời khỏi công ty
+ Nội bộ không đoàn kết, có sự mâu thuẫn và tranh giành quyền lực.
+ Phát sinh nhiều khoản chi phí không hợp lí
Nhóm 3: Nhóm các dấu hiệu về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp
+ Giá trị sản lượng hoặc doanh thu của doanh nghiệp suy giảm
+ Thu nhập không ổn định và thiếu tính thường xuyên
+ Hệ số quay ṿng vốn lưu động thấp, khả năng thanh toán giảm
+ Các khoản nợ thương mại gia tăng một cách bất thường
Nhóm 4: Nhóm dấu hiệu thuộc về xử lý thông tin tài chính, kế toán
+ Chậm chễ hay tŕ hoăn nộp báo cáo tài chính, các số liệu trong báo cáo tài
chính không hợp lý và thiếu chuẩn xác
+ Tăng doanh số bán hàng nhưng lãi giảm hoặc lỗ
+ Tiền mặt giảm, vốn lưu động giảm
+ Sản xuất và bán hàng không đạt chỉ tiêu như kế hoạch
Nhóm 5: Nhóm các dấu hiệu thuộc về thương mại
+ Doanh nghiệp chuyển lĩnh vực kinh doanh, kinh doanh những ngành nghề mà
không thuộc chuyên môn của ḿnh, lĩnh vực có độ rủi ro cao


+ Yếu tố đầu vào không thuận lợi như: giá cả nguyên vật liệu đầu vào tăng,

không nhập được những nguyên liệu đặc chủng...
+ Cơ cấu vốn của doanh nghiệp không hợp lí, sử dụng vốn sai mục đích ví dụ
như: dùng vốn vay ngắn hạn để mua sắm, tài trợ cho TSCĐ, nhà xuởng...
+ Chi phí của doanh nghiệp không hợp lí
Nhóm 6: Nhóm các dấu hiệu về mặt pháp luật
+ Có những thay đổi về chính sách liên quan đến ngành nghề kinh doanh của
doanh nghiệp theo chiều hướng bất lợi
+ Doanh nghiệp có biểu hiện vi phạm pháp luật
2.2.6. Đo lường rủi ro tín dụng
a) Tỷ lệ nợ quá hạn :

Nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn

=

Tổng dư nợ tín dụng

Nợ quá hạn phản ánh chất lượng tín dụng nó đo độ an toàn và đánh giá rủi ro
tín dụng của Ngân hàng. Ở Việt Nam,tỷ lệ nợ quá hạn dưới 5% là chấp nhận được .
d) Tỷ lệ lãi treo
Lãi treo phát sinh
Tỷ lệ lãi treo

=

Tổng thu nhập từ hợp đồng tín dụng

Lãi treo là tiền lãi của khoản cho vay mà Ngân hàng chưa thu hồi được. Chỉ tiêu
bày phản ánh mức độ thiệt hại trong thu nhập dự tính của Ngân hàng do rủi ro tín

dụng.
g) Tỷ lệ nợ khó đòi :

=

Tỷ lệ nợ khó đòi

Nợ khó đòi
Tổng doanh số cho vay

Nợ khó đòi là nợ quá hạn không hoặc có rất ít khả năng thu hồi. Tỷ lệ này phản
ánh tổn thấy trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng.
d) Tỷ lệ nợ khoanh, xóa nợ :
Tỷ lệ nợ
khoanh

Nợ khoanh ,xóa nợ
=


×