Vị trí của cách mạng Việt Nam đối với qúa trình họat đông
của Quốc tế Cộng sản .
Mục lục
Mở đầu
I Vai trò của Quốc tế Cộng sản đối với cách mạng Việt Nam
1Sự thành lập và phát triển của Quốc tế Cộng sản.
2.Vai trò của Quốc tế Cộng sản đối với cách mạng Việt Nam
3.Hạn chế của quốc tế cộng sản đối với cách mạng Việt Nam.
Nội dung
II. Đóng góp của cách mạng Việt Nam đối với qúa trình họat đông của Quốc
tế Cộng sản.
1Về mặt lý luận.
2.Về mặt thực tiễn.
3.Bài học kinh nghiệm.
Kết luận
1
Mở đầu
Lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế giữa đầu thế kỷ XX đã đánh
dấu sự ra đời, phát triển và vai trò đóng góp của Quốc tế cộng sản đối với phong
trào cách mạng thế giới nói chung, phong trào giải phóng dân tộc của các dân tộc
thuộc địa nói riêng. Trong đó có cách mạng Việt Nam.
Quốc tế Cộng sản là “Bộ tham mưu” của cách mạng thế giới giữa hai cuộc đại
chiến thế giới. Thực hiện khẩu hiệu “Vô sản giai cấp và dân tộc bị áp bức trong thế
giới liên hiệp lại”, Quốc tế Cộng sản có sứ mệnh và công lao to lớn trong sự
nghiệp tổ chức và lãnh đạo phong trào cộng sản, phong trào công nhân, phong trào
giải phóng dân tộc trên thế giới, trong đó có phong trào cách mạng Việt Nam .
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ rõ “Đệ tam quốc tế chủ trương đạp đổ tư bản
làm thế giới cách mạng, giúp dân thuộc địa chống lại đế quốc chủ nghĩa, dạy
cho vô sản giai cấp trong thế giới-bất kỳ nòi giống nào, nghề nghiệp gì, tôn giáo
gì- hợp sức làm cách mệnh”.
Quốc tế Cộng sản xứng đáng là “Bộ tham mưu” của cách mạng thế giới giữa
hai cuộc đại chiến thế giới. Thực hiện khẩu hiệu “Vô sản giai cấp và dân tộc bị áp
bức trong thế giới liên hiệp lại”, Quốc tế Cộng sản có sứ mệnh và công lao to lớn
trong sự nghiệp tổ chức và lãnh đạo phong trào cộng sản, phong trào công nhân,
phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, trong đó có phong trào cách mạng Việt
Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định và nhấn mạnh “Đệ tam quốc tế là một
Đảng Cộng sản thế giới.
Các đảng các nước là như chi bộ, đều phải nghe theo kế hoạch và quy tắc
chung. Việc gì chưa có mệnh lệnh và kế hoạch Đệ tam quốc tế thì các đảng không
được làm”. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ rõ “Đệ tam quốc tế chủ trương đạp đổ tư
bản làm thế giới cách mạng, giúp dân thuộc địa chống lại đế quốc chủ nghĩa,
dạy cho vô sản giai cấp trong thế giới-bất kỳ nòi giống nào, nghề nghiệp gì, tôn
giáo gì- hợp sức làm cách mệnh”.
Cho đến nay, sau gần 80 năm ra đời và lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng
ta luôn đứng trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin để nhìn nhận, đánh giá vai
trò của Quốc tế cộng sản đối với cách mạng thế giới, đặc biệt là cách mạng Việt
Nam.
2
Nội dung
I Vai trò của Quốc tế Cộng sản đối với cách mạng Việt Nam
1 Sự thành lập và phát triển của Quốc tế Cộng sản.
Sau khi Ph.ăngghen mất năm 1895 hàng loạt đảng xã hội chủ nghĩa (thành viên
của Quốc tế II), đã bị phân hoá ngày càng ngả về phái hữu và phái giữa do
E.Bestanh và K.Causky là đại diện. Mục tiêu chủ yếu của phái này là đòi xét lại, đi
đến phủ nhận học thuyết V.I.Lênin và đảng Bôn-sê-vích Nga cùng các lực lượng
cánh tả trong phong trào cộng sản và công nhân Tây Âu đã kiên trì đấu tranh bền
bỉ, không khoan nhượng trên mặt trận tư tưởng lý luận với chủ nghĩa cơ hội và xét
lại nhằm bảo vệ, phát triể sáng tạo
học thuyết Mác, chuẩn bị tập hợp lực lượng để thành lập Quốc tế Cộng sản.
Trước tình hình đó sau thắng lợi của cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa
tháng Mười ở Nga năm 1917 và sau khi chuẩn bị kỹ về đường lối chính trị, tư
tưởng và tổ chức ngày 1/3/1919 tại Matxcơva, Lênin đã chủ trì cuộc họp để chuẩn
bị về mọi mạt cho một chương trình làm việc của Hội nghị quốc tế những người
cộng sản và công nhân trên toàn thế giới để thành lập Quốc tế Cộng sản.
Chiều ngày 2/3/1919, Hội nghị đã được tiến hành tại điện Cremlin. Dự Hội
nghị có đại biểu của các đảng cộng sản và các tổ chức cách mạng của 30 nước
tham dự. Khác với các Hội nghị thành lập Quốc tế I và Quốc tế II,
Hội nghị thành lập Quốc tế Cộng sản lần đầu tiên có mặt các đại biểu
một số nước phương Đông - đại diện cho các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa.
Hội nghị đã thảo luận và thông qua nhiều văn kiện quan trọng như Cương lĩnh
của Quốc tế Cộng sản, Luận cương và Báo cáo về dân chủ tư sản và chuyên chính
vô sản của Lênin, Tuyên ngôn của Quốc tế Cộng sản gửi những người vô sản toàn
thế giới. Ngày 4/3/1919 tất cả các đại biểu dự Hội nghị đều biểu quyết nhất trí với
đề nghị của V.I.Lênin thông qua quyết định lịch sử thành lập Quốc tế Cộng sản
Trong thời gian tồn tại của Quốc tế Cộng sản (tính từ ngày thành lập
4/3/1919 đến khi tuyên bố giải thể vào ngày 15/5/1943 Quốc tế Cộng sản đã tồn
tại 24 năm 2 tháng 11 ngày) đã trải qua 07 đại hội
Từ Đại hội I: từ 2 đến 6 tháng 3 năm 1919 đến Đại hội VII: từ 25/7 đến 20/8 năm
1935.
Điểm khác lớn nhất của Quốc tế Cộng sản (tức Quốc tế III) so với Quốc tế I và
Quốc tế II là sự tham gia của các tổ chức, các đảng cộng sản và công nhân ở các
nước thuộc địa và phụ thuộc vào công việc chung của phong trào cộng sản, công
nhân, phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới
3
Trong quá trình tồn tại Quốc tế Cộng sản đã đề ra định hướng cho các đảng
cộng sản và công nhân vận dụng học thuyết Mác - Lênin vào điều kiện thực tiễn
trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân.
Quốc tế Cộng sản đã tập hợp, liên kết phong trào cộng sản và công nhân chống
chủ nghĩa phát xít và ngăn chặn nguy cơ bùng nổ chiến tranh.
Quốc tế Cộng sản đã giúp đỡ cho các dân tộc thuộc địa truyền bá chủ nghĩa
Mác - Lênin vào phong trào công nhân dẫn đến thành lập nhiều đảng cộng sản trên
toàn thế giới.
2. Vai trò của Quốc tế Cộng sản đối với cách mạng Việt Nam.
a. . Quốc tế Cộng sản định hướng cho cách mạng Việt Nam về con đường
cứu nước, giải phóng dân tộc.
Từ khi thực dân Pháp xâm luợc, nhân dân Việt Nam đều bị đàn áp.
Nhờ vào quốc tế cộng sản và luận cưong về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lê
Nin mà Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra cho Việt Nam một con đường cách mạng đúng
đắn
Việc Quốc tế Cộng sản xác định đúng đắn vấn đề dân tộc, thuộc địa, bổ sung
khẩu hiệu của C.Mác và Ph.ăngghen đề ra trong Tuyên ngôn của đảng cộng sản
"vô sản tất cả các nước liên hiệp lại" bằng khẩu hiệu "vô sản tất cả các nước và các
dân tộc bị áp bức đoàn kết lại"; thông qua Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn
đề dân tộc và vấn đề thuộc địa do Lênin khởi thảo và các "điều kiện gia nhập Quốc
tế Cộng sản"; coi cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận không thể tách rời
của cách mạng vô sản tại
Đại hội lần thứ II của Quốc tế Cộng sản có một ý nghĩa vô cùng lớn lao không chỉ
đối với phong trào cách mạng giải phóng dân tộc nói chung mà đặc biệt có ý nghĩa
thức tỉnh và định hướng đối với cách mạng Việt Nam.
Trước khi Quốc tế Cộng sản thành lập (năm 1919), phong trào cách mạng giải
phóng dân tộc Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ. Nhiều nhân sỹ, trí thức, nhiều sỹ
phu phong kiến yêu nước đã anh dũng, mưu lược trong tập hợp lực lượng ở trong
nước để đấu tranh chống Pháp và đi ra nước ngoài "cầu viện", tìm chỗ dựa. Các xu
hướng giải phóng dân tộc theo lập trường dân chủ tư sản, theo xu hướng quân chủ
lập hiến và theo con đường cách mạng vô sản đã xuất hiện.
Song cứu nước và giải phóng dân tộc theo con đường nào thì vẫn chưa
được xác định rõ ràng. Trong khi phải đối phó với một kẻ thù hùng mạnh hơn, có
kinh nghiệm xâm lược đã được tổng kết, có tiềm lực kinh tế - quân sự và có cả sự
liên kết quốc tế của các nước đế quốc thực dân thì sự thiếu liên kết, thậm chí chia
rẽ bởi những khuynh hướng khác nhau trong phong trào giải phóng dân tộc, sự
thiếu liên hệ quốc tế, thiếu định hướng tư tưởng đã dẫn đến một kết cục bi thảm là
4
nhiều phong trào yêu nước chân chính, thừa dũng cảm song vẫn thất bại, vẫn bị
dìm trong máu.
Việc Quốc tế Cộng sản coi vấn đề dân tộc, thuộc địa, vấn đề tăng cường lãnh
đạo chỉ đạo giúp đỡ toàn diện, phối hợp hành động giữa cách mạng chính quốc với
cách mạng thuộc địa là một trong những nhiệm vụ quan trọng bậc nhất, nằm ở vị
trí trung tâm chú ý của Quốc tế Cộng sản đã định hướng cho các lực lượng yêu
nước và cách mạng Việt Nam, đoàn kết họ lại với nhau để tìm ra một con đường
cứu nước giải phóng dân tộc Việt Nam, thoát khỏi tư tưởng đi tìm chỗ dựa của
những người yêu nước đương thời.
Hồ Chí Minh chú trọng nghiên cứu kỹ những văn kiện cơ bản và tư tưởng
chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản đối với cách mạng nước ta, đặc biệt đánh giá cao
những tư tưởng vĩ đại của V.I.Lênin trong Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề
thuộc địa, coi nó là "chiếc cẩm nang thần kỳ" là "con đường" giải phóng cho chúng
ta, chấm dứt tình trạng bế tắc về đường lối của phong trào đấu ranh yêu nước và
cách mạng Việt Nam.
Luậc cưong gồm 12 điểm trình bày một cách ngắn gọn những nguyên tắc đối với
việc giải quyết vấn đề dân tộc dân chủ trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, xác định
vị trí và vai trò của phong trào giải phóng dân tộc trong tiến trình cách mạng thế
giới và từ đó đề ra những nhiệm vụ chiến lược và sách lựoc của Đảng cộng sản
nhằm đưa sụ nghiệp giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa giành được thắng lợi
hòan toàn.
b. Quốc tế cộng sản giúp đỡ, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi truyền bá chủ
nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước để thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam
Tìm thấy con đường cứu nước giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng
vô sản là cực kỳ quan trọng. Nhưng để biến đường lối đó thành hiện thực phải trải
qua một công tác tổ chức thực hiện lâu dài, phải có những điều kiện và biện pháp
cụ thể. Quốc tế Cộng sản đã tạo ra môi trường hoạt động quốc tế thuận lợi giúp đỡ
Nguyễn ái Quốc và những người yêu nước Việt Nam trong việc truyền bá chủ
nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước.
Nghiên cứu khảo sát thực tế, học tập kinh nghiệm của các Đảng, các phong
trào, tạo diễn đàn đấu tranh để các đảng cộng sản ở chính quốc quan tâm đúng mức
đến việc giúp đỡ cách mạng thuộc địa.
Quốc tế Cộng sản đã giao nhiệm vụ cho các Đảng Cộng sản Pháp, Trung
Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Tiệp Khắc giúp đỡ in ấn tài liệu, chuyển tài liệu về Việt
Nam. Tổ chức nhiều lớp học ở trường Đại học phương Đông và các lớp ở Quảng
Châu để bồi dưỡng đào tạo cán bộ trong phong trào.
Chính nhờ sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản thông qua các phân bộ của mình,
phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam có một bước chuyển biến
căn bản từ tự phát sang tự giác, từ lẻ tẻ rời rạc đi đến có tổ chức để thành lập Đảng
5
Cộng sản Việt Nam vào tháng 2 năm 1930, đánh dấu một bước ngoặt lịch sử trọng
đại trong lịch sử cách mạng hiện đại Việt Nam. Thiếu sự giúp đỡ của Quốc tế
Cộng sản hoặc trực tiếp hoặc thông qua các chi bộ của mình chủ nghĩa Mác -
Lênin khó có thể được truyền bá vào phong trào cộng sản và công nhân ở Đông
Dương nói chung và Việt Nam nói riêng.
Những tác phẩm cơ bản nhất như "Cộng sản sơ giải", "Bệnh ấu trĩ tả khuynh",
"Hai sách lược của Đảng Công nhân Nga trong cách mạng dân chủ tư sản", "Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản" khó có thể vượt qua hàng rào kiểm soát của chủ nghĩa
thực dân Pháp. Nhờ có việc thâm nhập lý luận Mác - Lênin vào phong trào công
nhân và phong trào yêu nước, cách mạng Việt Nam đã có bước nhảy vọt về chất
tạo ra những tiền đề cho việc chuẩn bị thành lập đảng mác-xít lãnh đạo cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc.
Nhờ vào sự giúp đỡ tích cục của Đảng cộng sản Phápvà các Đảng anh em dưới sự
lãnh đạo của Quốc tế Cộng sản mà nhiều sách báo macxit đuợc in và chuyển về
Việt Nam Nhờ đó người Việt Nam đã biết đến chủ nghĩa Mác Lênin, đường lối
dân tộc và thuộc địa của Quốc tế Cộng sản đối với cách mạng thuộc địa . Từ đó
người Việt Nam có suy nghĩ mới, đi theo con đường mới tiến tới giải phóng dân
tộc .
c. Quốc tế Cộng sản đã tạo môi trường, điều kiện cho Nguyễn ái Quốc học tập,
nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, khảo sát thực tế để xây dựng và hoàn thiện
lý luận về con đường cách mạng Việt Nam
Nhờ hoạt động thực tiễn trong phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và
trong Quốc tế Cộng sản, nhờ tiếp thu tận gốc chủ nghĩa Mác - Lênin, Nguyễn ái
Quốc đã có một bước chuyển biến căn bản từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa
Mác - Lênin vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trong quá trình
lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Nhờ hoạt động trong Quốc tế Cộng sản với tư cách là uỷ viên đoàn Chủ tịch
Hội đồng Nông dân quốc tế phụ trách nông dân các thuộc địa, phụ trách Cục
phương Nam Bộ phương Đông của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn ái Quốc đã đi
nghiên cứu thực tế ở 28 nước của 4 châu lục, điều mà ngay cả C.Mác, Ph.ăngghen
và V.I.Lênin sinh thời cũng chưa thực hiện được.
Chính từ tiếp thu lý luận và có thực tiễn nghiên cứu phong trào cách mạng các
nước để so sánh, để kiểm chứng mà Nguyễn ái Quốc đã có những vượt trội hơn
tầm nhìn của nhiều chính khách đường thời trong đánh giá, sắp xếp lực lượng các
giai cấp trong cách mạng giải phóng dân tộc, trong sách lược mặt trận, trong đánh
giá xu thế vận động của lịch sử tiến hoà mà thực tiễn lịch sử hiện đại thế giới và
Việt Nam đã minh chứng tính đúng đắn của nó.
6
Chắc chắn nếu không tiếp thu tận gốc học thuyết Mác - Lênin, nếu không có
những cuộc khảo sát phong trào công nhân và nông dân khắp 4 châu lục, Nguyễn
ái Quốc không thể có những chủ trương chiến lược và sách lược rất sớm, hết sức
đúng đắn khác với Quốc tế Cộng sản đề ra ở Đại hội VI năm 1928.
d. Quốc tế cộng sản đã đào tạo cho Việt Nam nhiều cán bộ xuất sắc nắm giữ các
trọng trách cao trong Đảng và quốc tế
Quốc tế Cộng sản đã đào tạo và bồi dưỡng cho cách mạng Việt Nam nhiều cán
bộ ưu tú trở thành những lãnh tụ chân chính của cách mạng Việt Nam. Thông qua
việc phân công và đào tạo trong công tác thực tiễn và qua các trường lớp của Quốc
tế Cộng sản (Trường Quốc tế Lênin, Trường Lao động cộng sản Phương Đông)
nhiều chiến sỹ cộng sản Việt Nam đã trưởng thành trở thành các lãnh tụ chính trị
xuất sắc của Đảng ta: Hồ Chí Minh, Trần Phú, Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong,
Nguyễn Thị Minh Khai, v.v
Nhờ được đào tạo cơ bản và có hệ thống mà Đảng ta có bước trưởng thành vững
chắc về lý luận. Một số chiến sỹ cộng sản Việt Nam đã trở thành những "giáo sư
đỏ" tham gia vào việc đào tạo cán bộ cho Quốc tế Cộng sản.
Trong 10 năm đầu thành lập Đảng, các chức vụ chủ chốt trong Đảng như Tổng
Bí thư, Bí thư các xứ uỷ, Tỉnh uỷ hầu hết là do cán bộ được đào luyện từ Quốc tế
Cộng sản đảm đương. Chính vì vậy các chủ trương của Quốc tế Cộng sản được
thực hiện có hiệu quả ở Đông Dương. Nhờ đó cho dù lịch sử có những biến động,
những thay đổi ở mỗi giai đoạn cụ thể khác nhau tác động đến sự cần thiết phải có
sự điều chỉnh về sách lược mà Đảng ta đề ra ngay từ thời kỳ xây dựng Đảng là
đúng đắn và chính xác.
Điều đó có được chỉ có thể cắt nghĩa do sự trưởng thành của cán bộ đảng viên
Việt Nam được đào tạo trong Quốc tế Cộng sản. Nhiều đồng chí đã được giao các
trọng trách cao trong Quốc tế Cộng sản. Nhiều đồng chí trở thành cán bộ giảng dạy
lý luận của Quốc tế Cộng sản. Theo số liệu mới nhất, chỉ trong thời gian 10 năm
tồn tại của Trường Lao động cộng sản Phương Đông (1921-1931), Quốc tế Cộng
sản đã đào tạo cho Đảng ta gần 100 cán bộ mà đại đa số các đồng chí này khi về
nước nắm giữ các cương vị lãnh đạo chủ chốt của Đảng, lãnh đạo phong trào cách
mạng từ cấp Trung ương đến các Xứ uỷ, Thành uỷ, Tỉnh uỷ.
e. Quốc tế cộng sản đã chỉ đạo, uốn nắn và biểu dương kịp thời đối với Đảng ta
trong quá trình lãnh đạo cách mạng
Trong thời kỳ tồn tại của mình, Quốc tế Cộng sản thường xuyên chỉ đạo,
uốn nắn kịp thời những vấn đề thuộc về đường lối, những vấn đề chiến lược và chỉ
đạo chiến lược dễ dẫn đến "tả " hoặc hữu khuynh trong thực hiện - một điều khó
tránh khỏi với một Đảng còn non trẻ.
Quốc tế Cộng sản đã đúng đắn khi phê bình sự công kích lẫn nhau của các tổ
chức cộng sản và có chỉ thị cho Đảng về sự cần thiết phải hợp nhất Đảng theo đúng
nguyên tắc của Quốc tế Cộng sản. Quốc tế Cộng sản cũng phê bình những biểu
7
hiện "tả" khuynh trong Xô viết Nghệ An và Xô viết Hà Tĩnh cùng với một vài biểu
hiện hữu khuynh, cầu an, dao động sau thất bại của phong trào. Với thái độ Bôn-
sê-vích và tính nhân đạo cộng sản, thái độ phê bình và chỉ trích của Quốc tế Cộng
sản là có tình có lý. Quốc tế Cộng sản vẫn biểu dương mặt tốt và thấy rõ cả những
sai lầm khó tránh khỏi của một đảng còn trẻ tuổi. Thái độ này giúp cho những
người cộng sản Việt Nam đứng vững và vượt qua khó khăn trong những năm
khủng bố trắng của thực dân Pháp.
Nhờ có Quốc tế Cộng sản những người cộng sản Việt Nam có điều kiện
tập hợp và kiểm điểm, đánh giá lại phong trào thời gian qua, xây dựng Chương
trình hành động năm 1932, Quốc tế Cộng sản chủ trương và chỉ đạo mở nhiều cuộc
thảo luận về các vấn đề cách mạng Đông Dương trong Quốc tế Cộng sản những
năm từ 1931-1934 để chuẩn bị cho các văn kiện chính trị và hồi phục Đảng ở Đại
hội I. Nhờ có Quốc tế Cộng sản, Đảng ta kịp thời chuyển hướng sang thời kỳ Mặt
trận dân chủ và sáng tạo ra một hình thức Mặt trận thích hợp ở Đông Dương - Mặt
trận dân chủ Đông Dương mà không sa vào hình thức mặt trận nhân dân chống đế
quốc nói chung.
Sự tiếp thu đường lối mặt trận của Đảng ta trong và sau Đại hội VII của Quốc tế
Cộng sản năm 1935 đã đánh dấu sự vượt qua tư tưởng giai cấp chống giai cấp để
chuyển sang sự kết hợp giai cấp – dân tộc trong cách mạng Việt Nam.
Quốc tế Cộng sản đánh giá cao và biểu dương kịp thời cách mạng Đông
Dương
trên toàn thế giới, giúp cho các đảng cộng sản và công nhân trên thế giới có thể học
tập từ kinh nghiệm của phong trào cách mạng Việt Nam. Cao trào 1930-1931 được
Quốc tế Cộng sản xem như là "những hình thức chủ yếu" của phong trào cách
mạng dân tộc, đã "giáng một đòn trực diện" vào hệ thống đế quốc chủ nghĩa, coi
Xô viết Nghệ Tĩnh là "thành tích đặc biệt to lớn".
Quốc tế Cộng sản lưu ý các đảng cộng sản đặc biệt là Đảng Cộng sản pháp trong
lĩnh vực công tác thuộc địa cần phải học tập nhiều ở các đồng chí Đông Dương.
Chính vì vậy từ một phân bộ dự bị trực thuộc Đảng Cộng sản Pháp, tháng 4/1931
Quốc tế Cộng sản đã quyết định công nhận Đảng Cộng sản Đông Dương là một bộ
phận dự trị trực thuộc Quốc tế Cộng sản. Hàng chục bài báo được đăng trên Tạp
chí Quốc tế Cộng sản đưa tin về tình hình và diễn tiến của phong trào cách mạng
Đông Dương nhằm biểu dương phong trào, đúc rút kinh nghiệm hoạt động và kêu
gọi sự đồng tình giúp đỡ của cộng đồng cộng sản quốc tế với Việt Nam. Quốc tế
Cộng sản chỉ rõ "phải triệt để tìm mọi phương kế thực hiện việc giúp đỡ những
người cộng sản Đông Dương chăm lo việc gây dựng lại cơ sở cho Đảng Cộng sản
Đông Dương", chỉ cho những người cộng sản Đông Dương hiểu rõ đường lối của
Quốc tế Cộng sản cùng những phương pháp hoạt động khôn khéo để tập hợp lại
thợ thuyền làm đội tiền phong cho cách mạng Đông Dương. Sự hy sinh của Tổng
Bí thư Trần Phú được Quốc tế Cộng sản đánh giá là một tổn thất to lớn không gì
8
bù đắp được của giai cấp vô sản Đông Dương mà còn là một tổn thất nặng nề của
phong trào cộng sản quốc tế.
Chính sự ủng hộ mạnh mẽ, sự đồng tình biểu dương Đảng Cộng sản Đông
Dương của Quốc tế Cộng sản mà nhiều đảng, nhiều phong trào trên thế giới biết
đến Đông Dương, Việt Nam, kính trọng hoạt động của Đảng ta và Nguyễn ái
Quốc. Quốc tế Cộng sản đã công nhận Đảng Cộng sản Đông Dương trở thành đội
tiền phong của giai cấp vô sản Đông Dương đi theo đường lối của Quốc tế Cộng
sản, trực tiếp lãnh đạo thợ thuyền, dân cày và lao động nghèo khổ xứ Đông Dương,
kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc. Đó là biểu hiện của Đảng Bôn-sê-
vích. Quốc tế Cộng sản công nhận Đảng Cộng sản Đông Dương là một bộ phận
chính thức của Quốc tế Cộng sản tại Đại hội VII và bầu đồng chí Lê Hồng Phong
là uỷ viên chính thức va là một trong hai uỷ viên Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản
là người các nước thuộc địa.
3.Hạn chế của Quốc tế Cộng sản đối với cách mạng Việt Nam.
Trong hơn 24 năm tồn tại của mình, Quốc tế Cộng sản cũng có một số ảnh
hưởng
chưa thật tốt đối với cách mạng Việt Nam. Đó là biểu hiện giáo điều trong đánh giá
về giai cấp tư sản nói chung và giai cấp tư sản dân tộc ở các nước thuộc địa nói
riêng của Quốc tế Cộng sản ở Đại hội lần thứ VI năm 1928. Đây thực chất là
đường lối giai cấp chống giai cấp, tuyệt đối hoá đấu tranh giai cấp đang tồn trại
trong tư duy chính trị của Quốc tế Cộng sản lúc đó.
Xuất phát từ nhận định về sự phản bội của giai cấp tư sản trên phạm vi
toàn thếgiới, đặc biệt là giai cấp tư sản dân tộc ở các nước thuộc địa và nửa thuộc
địa vốn trước đây còn được xem là có thể có tinh thần chống đế quốc thì hiện tại
nó đã phản bội lại công nông như ấn Độ và Trung Quốc, Quốc tế Cộng sản chỉ ra
rằng giai cấp tư sản nói chung là đối tượng phải đánh đổ. Chủ nghĩa phát xít và
nguy cơ của chiến tranh đang đến gần lại càng làm cho nhận định này được khẳng
định.
Nhận định "tả" khuynh này lúc đó chi phối hành động của các đảng. ở Đông
Dương và Việt Nam, thuộc địa lớn nhất của Pháp, đặc điểm của sự ra đời và phân
hoá trong giai cấp tư sản khác rất nhiều nước vì vậy thực hiện chủ trương này của
Quốc tế Cộng sản đã dẫn đến những biểu hiện "tả" khuynh trong tập hợp lực lượng
ở Đông Dương.
Khẩu hiệu "trí, phú, địa, hào đào tận gốc chốc tận rễ" là biểu hiện của tinh thần
này. Bài học về sự vận dụng máy móc một chủ trương, một kinh nghiệm, thiếu
điều tra nghiên cứu để vận dụng thích hợp được thấy ngay từ buổi đầu lập đảng.
Bài học này còn kéo dài khi hiểu và vận dụng không đúng sự phân chia của Quốc
tế Cộng sản đối với giai cấp tư sản ở thuộc địa thành hai phái dân tộc và mại bản,
có lúc đồng nhất tư sản dân tộc cải lương là mại bản làm yếu mặt trận đoàn kết dân
tộc chống đế quốc. ở Việt Nam tư sản dân tộc có hai khuynh hướng cách mạng và
9
cải lương. Cả hai khuynh hướng này đều có tinh thần chống Pháp ở những mức độ
khác nhau mà người lãnh đạo cách mạng cần tập hợp được.
Hơn nữa chính từ sự nhận định "tả" khuynh này dẫn đến nhận định về nhiệm vụ
chính của cách mạng giải phóng dân tộc là chống phong kiến là hoàn toàn không
đúng.
Cốt lõi của cách mạng giải phóng dân tộc là chống đế quốc như Nguyễn ái Quốc -
Hồ Chí Minh nêu ra trong Chính cương và Sách lược vắn tắt. Kinh nghiệm lịch sử
cách mạng Việt Nam đã chỉ ra rằng đánh giá đúng các giai cấp, các tầng lớp để có
chủ trương lập mặt trận rộng rãi là một thành công.
Việc đánh giá mang tính "tả" khuynh của Quốc tế Cộng sản đối với giai cấp tư sản
đã in dấu đậm và khá dài trong lịch sử cách mạng Việt Nam đến tận thời kỳ chống
Mỹ cứu nước. Cũng chính từ điểm này mà những người cộng sản Đông Dương học
ở Quốc tế Cộng sản về và Quốc tế Cộng sản phê phán Nguyễn ái Quốc là "dân
tộc", "quốc gia cải lương" và Người chủ trương nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân
tộc và lập mặt trận có cả tư sản dân tộc, trung tiêu địa chủ tham gia trong cuộc kịch
chiến với đế quốc Pháp trong những văn kiện đầu tiên do Người khởi thảo.
Quốc tế Cộng sản tuy có nêu trong Cương lĩnh của mình và trong chương
trình nghị sự có đặt vấn đề cách mạng thuộc địa, coi đó là một trọng tâm nhưng
trên thực tế chưa coi trọng đúng mức mạt công tác này. Các Cương lĩnh, các
chương trình còn nằm trên giấy trong khi các phân bộ thuộc các nước chính quốc ít
quan tâm giúp đỡ thuộc địa.
Một trong nhiều nguyên nhân là Quốc tế Cộng sản cho rằng cách mạng vô sản
chính quốc thắng lợi trước mới giúp cho cách mạng thuộc địa thắng lợi. Quốc tế
Cộng sản mới chỉ thấy mối liên hệ một chiều, sự chi phối của cách mạng vô sản
chính quốc đến cách mạng thuộc địa mà chưa thấy mối quan hệ biện chứng, chiều
ngược lại mà Nguyễn ái Quốc đã dự báo và vận dụng thành công.
Tư tưởng này đã làm cho không ít đảng cộng sản, công nhân ở các nước thụ động,
ỷ lại, trông chờ vào Quốc tế Cộng sản.
Do áp dụng cơ chế tập trung dân chủ một cách máy móc, trong khi phong trào
cộng sản, công nhân quốc tế có những diễn biến không giống nhau, việc nắm thông
tin, hiểu biết thực tiễn còn có nơi, có lúc bất cập nên không tránh khỏi có lúc cứng
nhắc, chưa sát thực tế. Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam và phong trào cách mạng
Việt Nam cũng có những biểu hiện khó tránh khỏi này. Việc Quốc tế Cộng sản chỉ
thị đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương, việc
quyết định cử một số cán bộ vào các chức vụ lãnh đạo trong cơ quan lãnh đạo của
Đảng và việc phê phánNguyễn ái Quốc thời gian từ 1931-1938 có thể xem như là
những hạn chế ảnh hưởng nhất định đến phong trào cách mạng Đông Dương
Tuy còn nhiều hạn chế nhưng Quốc tế Cộng san đóng vai trò quan trọng trọng
quá trình hình thành và phát triển của cách mạng Việt Nam.
10
II. Đóng góp của cách mạng Việt Nam đối với qúa trình họat đông của Quốc
tế Cộng sản.
Quốc tế cộng sản có vai trò quan trọng và những đóng góp to lớn cho cách mạng
Việt Nam .Cách mạng Việt Nam không chỉ đơn thuần tiếp nhận sự chỉ đạo và giúp
đỡ của Quốc tế Cộng sản mà cách mạng Việt Nam cũng đóng góp cho Quốc tế
cộng sản về lý luận và thực tiễn
1Về mặt lý luận.
a.Nguyễn Ái Quốc phát tiển và bổ sung lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề
dân tộc và thuộc địa
C.Mac, Ph.Angghen, Lenin đều cho răng cách mạng giải phóng dân tộc và thuộc
địa và cách mạng vô sản ở chính quốc liên quan chặc chẽ với nhau và cách mạng ở
chính quốc trước và sau đó giúp đỡ cách mạng thuộc địa giành thắng lợi.
Như vậy thắng lợi của cách mạng ở thuộc địa phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở
chính quốc. Quốc tế Cộng sản cung có quan điển đó trong một thời gian dài ( từ
Đại hội I đến Đại hội VI).Như vậy quốc tế cộng sản chỉ mới thấy mối quan hệ một
chiều, sự chi phối của cách mạng vô sản ở chính quốc đến cách mạng thuộc địa .Tư
tưởng này đã làm giảm tính năng động cách mạng trông chờ, ỉ lại, thụ động của
nhiều Đảng ở các nước thuộc địa trong những lúc hoàn cảnh đã thay đổi
Thông qua quá trình hoạt động và lý luận thực tiễn đấu tranh cách mạng Nguyễn
Ái Quốc đã góp phần phát triển chủ nghĩa Mác-Lenin, góp phần quan trọng vào
việc hoàn chỉnh đường lối cách mạng giải phóng dân tộc
Quan điểm của Nguyễn Ái Quốc về cách mạng giải phóng dân tộc ỏ thuộc địa có
thể nổ ra thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc và giúp đõ cách mạng ở
chính quốc trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản.
Người nhận thức được rằng cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận khăng
khít của cách mạng vô sản trong phạm vi toàn thế giới và thuộc địa là một khâu
yếu trong hệ thống đế quốc chủ nghĩa
11
Cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản chính quốc quan hệ chặt chẽ
với nhau .Bởi vì vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt của giai cấp vô
sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức
ở các nước thuộc địa .
Cách mạng giải phóng dân tộc không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ỏ chính
quốc mà có thể phải tiến hành trước, bởi vì các nước thuộc địa cung cấp gnuyeen
liệu cho các nhà máy; các thuoọc địa cung cấp binh lính cho quân đội của chủ
nghĩa đế quốc.Các thuộc địa trở thành nền tảng của lực lượng phản cách mạng.
Sau này người khẳng định: cuộc đấu tranh cách mạng của các dân tộc thuộc địa
và nửa thuộc địa lại trực tiếp giúp đỡ giai cấp vô sản các nước tư bản trong cuộc
đấu tranh chống các giai cấp thống trị để tự giải phóng khỏi ách nô lệ của chủ
nghĩa tư bản. Vì vậy cách mạnh phương Tây muốn thắng lợi thì phải lien hệ chặt
chẽ với phong trào giải phóng chống chủ nghĩa đế quốc ở các nước thuộc địa và
các nước bị nô dịch.
Những khẳng định trên củaNguyễn Ái Quốc không chỉ vạch rõ sai lầm của quan
điểm hữu khuynh cho rằng cách mạng vô sản quyết định cách mang thuộc địa, mà
òn chống cả quan điểm tả khuynh , bè phái trong phong trào công nhân , cho rằng
cách mạng Châu Âu phụ thuộc cách mạng ỏ phương Đông
Nguyễn Ái Quốc đánh giá đúng vai trò của các giai cấp đặc biệt là giai
cấp tư sản Tại Đại hội VI của Quốc tế Cộng sản đã khẳng định :chỉ khi nào giai
cấp tư sản bị gạt ra ngoài cương vị lãnh đạo phong trào thì cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc mới có thể thắng lợi.
Nhận định tả khuynh này đã chi phối hành động của các Đảng , vì vậy dẫn đến
những biểu hiện tả khuynh trong tập hợp lực lượng cách mạng
Sauk hi nhận được chỉ thị tháng 4-1931 Xứ ủy trung kì đã ra chỉ thị thanh đảng với
nội dung đứ ra khỏi đảng những ai có xuất thân là trí thức , giàu có hoặc con em
những quan lại lớn, nhỏ . Với khẩu hiệu “thanh trừ trí phú địa hào đào tận gốc chốc
tận rễ”
Khi nhận được thông tin đó, ban chấp hành đã nghiêm khắc phê bình chủ trương
sai lầm trên và vạch ra phương hướng đúng đắn về công tác đảng.
12
Đảng , chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá đúng vai trò của các giai cấp đặc biệt là
giai cấp tu sản dân tộc, từ đó xây dựng được khối đại đoàn kết dân ttojc phát huy
vai trò của tùng giai cấp trong xã hội.
b.Nguyễn Ái Quốc lên án chủ nghĩa thực dân , giác ngộ chính trị cho quần chúng
bị áp bức và đưa hộ vào chiến tranh cách mạng.
Sau cách mạng tháng mười Nga , không phải tất cả những người cách mạng yêu
nước đều hiểu được đầy đủ khẩu hiệu chiến lược của Quốc tế Cộng sản nên cách
mạng ở chính quốc thờ ơ hoặc bị lãng quên .
Nguyễn Ái Quốc đã phê phán tình trạng này.trong nhiều bài báo Người đã tố cáo
mạnh nhất chế độ thực dân Pháp trên lãnh thổ hải ngoại rộng lớn .Ngoài ra, ngòi
bút của người còn lên án đế quốc Anh, một cường quốc tư bản có nhiều thuộc địa
nhất thời đó , cả đế quốc Đức, Nhật Bản trong âm mưu thôn tính và nô dịc Trung
Quốc .Không chỉ các dân tộc bị áp bức , bị buộc làm thuộc địa mà cả đối với
những người da đen sống trên đất Mỹ đều bị mất tự do . Ách áp bức của đế quốc
thực dân không từ một chủng tộc nào .
Với chính sách kẻ cướp của thực dân Anh, Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ “chủ nghĩa tư
bản Anh, tuy them muốn của cải vô tận của Trung Quốc …Ngày nay, đối với họ
như thế không đủ nữa . Họ muốn làm hơn thế nữa kia, họ muốn chiếm cả Trung
Quốc làm thuộc địa .”
Với chế độ phân biệt chủng tộc của đế quốc Mỹ, người vạch rõg “Ai cũng biết
giống người da đen là giống người bị áp bức và bóc lột nặng nề nhất trong loài
người . Ai cũng biết sự bành trướng của chủ nghĩa tư bản và việc tìm ra tân thế giới
đã mang lại hậu quả trực tiếp là làm sống lại chế độ nô lệ …Điều mà mọi người có
lẽ không biết là người da đen châu Mỹ , tiếng rằng đã được giải phóng 65 năm
nay , nhưng vẫn còn phải chụi nhiều nỗi thống khổ gê gớm về tinh thần và vật chất
, mà tàn ác nhất và gê tởm nhất là tục hành trình kiểu Lin sơ.
Người đã vạch rõ bản chất của chủ nghĩa thực dân đế quốc để tất cả những người
dân ở các nước thuộc địa mà đặc biệt là người dân Việt Nam. Từ đó họ được giác
ngộ chính trị và tin vào sự lãnh đạo của cách mạng và tham gia tích cực vào phong
trào giải phóng dân tộc .
13
c. Nguyễn Ái Quốc và Đảng cộng sản Đông Dương làm phong phú thêm vấn đề
mặt trận ở các nước thuộc địa.
Trước nguy cơ xâm lược của chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa thực dân .Đại
hội VII Quốc tế Cộng sản đã đề ra việc thành lập mặt trận thống nhất đế quốc ở các
nước thuộc địa và nửa thuộc địa .Nhưng Quốc tế Cộng sản vẫn chưa đưa ra được
vấn đề cụ thể như hình thức nội dung phương pháp hoạt động của mặt trận.
Nguyễn Ái Quốc và Đảng ta đã có sự đóng góp làm phong phú thêm vần đề mặt
trận
Tư tưởng bao trùm nhất của Nguyễn Ái Quốc bao trùm toàn bộ tiến trình cách
mạng Việt Nam .Đặc biệt là tư tưởng về tư tưởng tổ chức lực lượng trong cách
mạng giải phóng dân tộc là phải huy động sự tham gia của tuyệt đại bộ phận các
thành phần trong cộng đồng dân tộc. Nguyễn Ái Quốc còn đánh giá đúng khả
năng cách mạng của từng giai cấp , tầng lớp. Đối với giai cấp nông dân Người
đánh giá họ là bạn đồng minh tự nhiên , đồng minh rất chắc chắn của giai cấp công
nhân trong sự nghiệp cách mạng.
Đối với tiểu tư sản , trí thức các nha lý luận chủ nghĩa Mác Lenin coi họ và tầng
lớp trung gian cho cách mạng vô sản . Còn Nguyễn Ái Quốc xếp họ vào hang ngũ
lực lượng cách mạng và là đồng mjnh gần gũi của công nhân và nông dân . “Đảng
phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông…để kéo họ đi vào phe vô
sản giai cấp” .
Để tranh thủ triệt để các lực lượng cách mạng Nguyễn Ái Quốc còn chú ý đến cả
lực lượng địa chủ phong kiến. Người chỉ loại trừ các phần tử ra mặt chống cách
mạng , còn những bộ phận còn lại vẫn được người chủ trương tranh thủ.
Vì coi trọng vấn đề dân tộc và trên cơ sở giải quyết tốt mối quan hệ giữa vấn đề
giai cấp và vấn đề dân tộc , nên Nguyễn Ái Quốc và Đảng ta đã đánh giá đúng đắn
thái độ chính trị của các giai cấp , các tầng lớp và thành lập được mặt trận tập hợp
tất cả các lực lượng trong xã hội dựa trên cơ sở của liên minh công- nông dưới sự
lãnh đạo của Đảng đấu tranh vì độc lập dân tộc với những hình thức phong phú .
Đó là một đóng góp to lớn của Nguyễn Ái Quốc và Đảng ta cho sách lược mặt trận
nhân dân của Quốc tế Cộng sản.
14
2.Về mặt thục tiễn.
a. Sản sinh ra chiến sĩ ưu tú , góp phần phát triển cách mạng Việt Nam và phát
triển cách mạng thế giới.
Đảng ta trong qúa trình hoạt động đã đóng góp cho Quốc tế Cộng sản nhiều cán bộ
mẫu mực,cống hiến trọn đời cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam và
cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.Hồ Chí Minh là người tiêu
biểu.Người không chỉ là vị anh hùng,nhà văn hóa lớn của độc lập dân tộc Việt
Nam,mà còn là lãnh tụ xuất xắc của phong trào giải phóng dân tộc,chiến sĩ lỗi lạc
của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.Người đã tham gia sang lập Đảng
cộng sản pháp.Ngay từ năm 1920,Người đã tích cực đấu tranh cho quyền lợi của
nhân dân thuộc địa trên thế giới,đặc biệt là Việt Nam.
Năm 1921 người đã tham gia sang lập hội liên hiệp thuộc địa và gia tờ báo Người
cùng khổ.Báo người cùng khổ đã thực hiện sứ mệnh lịch sử,là tố cáo những thủ
đoạn áp bức, bóc lột tàn bạo của chủ nghĩa thực dân các nước thuộc địa, góp phần
tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lenin, thức tỉnh các dân tộc bị áp bức vùng lên đấu
tranh theo con đường của cách mạng vô sản để xóa bỏ chế độ thuộc địa.
Những năm sau này với cương vị là ủy viên ban Phương Đông của Quốc tế Cộng
sản và ủy viên chủ tịch Ban chấp hành Quốc tế Nông dân phụ trách phong trào
nông dân ở nhiều nước châu Á. Người đã áp dụng một cách sang tạo chủ nghĩa
Mác-Lenin và đường lối của Quốc tế Cộng sản vào ddiiefu kiện cụ thể của từng
khu vực này nói chung và của mỗi nước nói riêng. Góp phầ xây dựng các chính
đảng của cách mạng của giai cấp công nhân ở các nước này.
Cùng với việc đào tạo đội ngũ cán bộ đầu tiên của cách mạng Đông Dương .
Người còn tham gia đào tạo đội ngũ cán bộ cho một số nước ở Đông Nam Á.
Người xây dựng và củng cố hệ thống giao thong liên lạc quốc tế phục vụ đắc lực
nhiệm vụ lãnh đạo phong trào cách mạng của khu vực này.
Ngoài Hố Chí Minh , Đảng ta còn nhiều chiến sĩ đã cống hiến trọn đời cho sự
nghiệp vinh quang giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và lý tưởng cộng
sản.Đồng chí Lê Hồng Phong là bí thư ban chỉ huy ở ngoài của Đảng ta ,là ủy viên
ban chấp hànhng Quốc tế Cộng sản. Lê Hồng Phong còn là chiến sĩ lỗi lạc của
Đảng ta , là một chiến sĩ quốc tế chân chính . Đồng chí là người cộng sản Việt
15
Nam đã tham gia vào hang ngũ của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đảng Cộng sản
Nga.Đồng chí rất xứng đáng à đại biểu cho những người cộng sản Việt Nam tham
gia ban chấp hành Quốc tế Cộng sản .
Đảng ta còn có các chiến sĩ đống góp cho Quốc tế Cộng sản. Nguyễn Khánh Toàn
là giáo sư đổ của Quốc tế Cộng sản.Nguyễn Văn Tạo là Đảng viên của Đảng Cộng
sản Pháp, đã hoạt động tịc cực cho phong trào cách mạng Pháp, làm cho Đảng
Cộng sản ở chính quốc quan tâm hơn đến phong trào cách mạng ở thuộc địa.
Những người con ưu tú đã hi sinh trọn đời cho sự nghiệp cách mạng của Việt Nam
và của ba nước Đông Dương như: Trần Phú, Hà Huy Tập, Nguyễn Thị Minh Khai,
Hoàng Văn Thụ…
b. Việt Nam đã giáng một đòn chí tử vào chủ nghĩa đế quốc, mở đầu quá trình
tan rã của chủ nghĩa thực dân .
Trải qua một chặng đường dài đấu tranh Đảng ta luôn luôn là bộ phận vững mạnh
của Quốc tế Cộng sản, đi đúng đường lối của chủ nghixa Mác-Lenin,chấp hành
nghiêm chỉnh các nghị quyết, chỉ thị của Quốc tế Cộng sản và chủ động sang tạo
trong việc đề ra đường lối và phương pháp cách mạng cho sát với thực tế Việt
Nam.
Ngay từ khi mới ra đời Đảng ta đã lãnh đạo cao trào cách mạng 1930- 1931 và Xô
Viết Ngệ -Tĩnh. Tuy thất bại nhưng đây là phong trào cách mạng công- nông đầu
tiên trong hệ thống thuộc địa thế giới , đã giáng một đòn trực tiếp vào hệ thống đế
quốc chủ nghĩa và góp phần ảnh hưởng của cộng sản trong các nước thuộc địa,
nhất là các nước Phương Đông.
Quốc tế Công sản đã xem cao trào 1930-1931 và Xô viết Nghệ Tĩnh như là những
hình thức chủ yếu của phong trào cách mạng thuộc địa.
Thời kì 1936-1939 và tiếp theo những thắng lợi đó là thắng lợi cuộc cách mạng
tháng 8-1945 đã để lại những kinh nghiệm lịch sử góp phần làm phong phú kho
tang lý luận về cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân là:Trong thời đại ngày
nay,một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở một nước thuộc địa do tòa dân nổi dậy
dưới sự lãnh đạo của Đảng Mác-Lê nin… Cuộc cách mạng ấy có thể thành công
trước khi giai cấp công nhân ở chính quốc giành được chính quyền. Đó là tư tưởng
16
đứng đắn của Nguyễn Ái Quốc về khả năng cách mạng giải phóng dân tộc có thể
giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc .
Bằng cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, Đảng ta đã đóng góp về mặt thực tiễn ,
kinh nghiệm cho phong trào công sản và công nhân quốc tế. Đảng ta đã lãnh đạo
nhân dân nêu một mẫu mực về tổ chức và tinh thần quật khởi của một dân tộc anh
hùng. Trong quá trình cách mạng Đảng đã giải quyết thành công mối quan hệ dân
tộc và giai cấp. Hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến phải song song
với nhau. Đảng ta đã nhạy bén nhận thức được điều đó , ngay từ khi thành lập
Đảng xác định muốn thắng lợi thì phải dung đạo đức cách mạng chứ không phải
chỉ đấu tranh bằng nghị trường . Bạo lực cách mạng ở đây được hiểu là kết hợp
đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị.
3.Bài học kinh nghiệm.
Trong mối quan hệ khăng khít giữa cách mạng Việt Nam và Quốc tế Cộng sản có
mối quan hệ hai chiều. Quốc tế Cộng sản đóng vai trò quan trọng đối với cách
mạng Việt Nam và ngược lại nhờ quá trình hoạt động thưc tiễn nhờ lý luận sáng
tạo mà cách mạng Việt Nam có những những đóng góp to lớn đối với Quốc tế
Cộng sản. Từ mối quan hệ đó có thể rút ra những bài học như sau:
a.Phải vận dụng một cách sang tạo chủ nghĩa Mác-Lê nin vào điều kiện cụ thể của
Việt Nam.
Thực tiễn cách mạng nước ta chỉ ra rằng nếu áp dụng lý luận cách mạng một cách
máy móc, giáo điều thì sẽ gặp nhiều khó khăn và dẫn đến sai lầm , hoặc có thể bị
thất bại.
Sau khi thành lập Đảng, do áp dụng một cách giáo điều quan điểm "tả" khuynh
của Quốc tế Cộng sản về đánh giá các giai cấp , đặc biệt là giai cấp tư sản. Luận
cương chính trị năm 1930 không đánh giá đúng khả năng cách mạng của giai cấp
tư sản và khả năng liên minh có điều kiện với giai cấp tư sản dân tộc, không thấy
được khả năng phân hóa và lôi kéo một bộ phận giai cấp địa chủ trong cách mạng
giải phóng dân tộc.
17
Sau cao trào cách mạng 1930 - 1931, xứ ủy Trung Kỳ và Đảng bộ Nghệ - Tĩnh
chủ trương đưa hết các Đảng viên thuộc thành phần "trí, phú,địa, hào" ra khỏi
Đảng. Chủ trương thanh Đảng này là một sai lầm trong việc nhìn nhận đánh giá
cán bộ, đảng viên.
Thực tiễn cũng chứng minh rằng nếu áp dụng học thuyết cách mạng một cách
sáng tạo, phù hợp với điều kiện của nước ta, cụ thể là xác định và giải quyết nhiệm
vụ cách mạng đúng lúc thì sẽ thành công.
Nguyễn Ái Quốc đã sáng tạo trong cách mạng tư sản nhân quyền. Người đã đặt
nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, mục tiêu độc lập dân tộc phải được thực
hiện từng bước. Tư tưởng quan trọng này đã đặt cơ sở cho việc xây dựng khối
đoàn kết toàn dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, lấy công - nông làm nòng cốt.
Như vậy, trong cách mnagj dân tộc dân chủ nhân dân, Đảng ta phải thực hiện hai
nhiệm vụ chiến lược phản đế và phản phong đúng thời điểm.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945 là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí
Minh về cách mạng giải phóng dân tộc mà trước hết là xác định đúng vị trí quan
trọng của vấn đề dân tộc.
Ngày nay trong trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, khi công cuộc xây dựng đất
nước trong điều kiện hội nhập quốc tế, chúng ta phải xác định đúng nhiệm vụ, mục
tiêu ưu tiên hàng đầu, áp dụng những quan điểm xây dựng nhà nước, xây dựng
nền kinh tế, nền dân chủ, pháp lí xã hội chủ nghĩa cho dù phù hợp với tình hình
quốc tế hiện nay có nhiều thay đổi
b. Sự cần thiết phải có mối giao lưu, quan hệ quôc tế trong quá trình cách mạng.
Bởi vì giao lưu quan hệ quốc tế sẽ tạo ra những điều kiện khách quan thuận lợi, có
tác động trực tiếp đến thành quả cách mạng. Vì vậy, trong cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân và trong cách mạng xã hội chủ nghĩa cũng vậy, chúng ta khôg thể
thực hiện cách mạng thành công nếu không có quan hệ quốc tế.
Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Đảng ta đã có mối quan hệ chặt chẽ
với cách mạng thế giới. Khi chưa có Đảng, ảnh hưởng của cách mạng Tháng Mười
của Quốc tế Cộng sản đã tác động trực tiếp đến những người yêu nước Việt Nam.
Từ khi Đảng ta ra đời đén năm 1943, Đảng ta là một bộ phận của Quốc tế Cộng
sản, chịu sự lãnh đạo trực tiếp, cũng như sự ủng hộ, giúp đỡ của tổ chức cách mạng
18
quốc tế này. Thời kỳ cao trào cách mạng 1930 - 1931, cách mạng nước ta tạm thời
thoái trào. Nếu không có sự giúp đỡ trực tiếp của Quốc tế Cộng sản, của các đảng
cộng sản anh em về mọi phương diện thì cách mạng nước ta khó có thể khôi phục
nhanh chóng như vậy được.
Cách mạng Tháng Tám thành công còn có một nguyên nhân khách quan vô
cùng quan trong là chiến thắng của Liên Xô và phe dân chủ đối với bọn phát xít và
quân phiệt. Hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ của nhân dân ta giành
thắng lợi một phần vì được ủng hộ tinh thần, vật chất vô cùng lớn lao của quốc tế.
Ngày nay mục tiêu cách mạng của nước ta đặt ra là phải xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội thì cách mnagj nước ta cần có mối quan hệ quốc tế rộng rãi.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hôi, chúng ta cần có mối quan hệ đa
phương hóa, đa dạng hóa. Trong mối quan hệ đó, chúng ta có điều kiện học tập
kinh nghiệm của các nước, có điều kiện sử duungj điều kiện sử dụng các thnahf
quả của cách mnagj khoa học - kĩ thuật vào công cuộc xây dựng đất nước
c. Công tác đào tạo, giáo dục đội ngũ cán bộ là một nhiệm vụ quan trọng.
Quốc tế Cộng sản đã đào tạo cho Việt Nam một đội ngũ cán bộ nắm được
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và biết vận dụng vào điều kiện cụ thể
của Việt Nam. Đội ngũ cán bộ đó lại được tôi luyện trong cuộc đấu tranh vô cùng
gian khổ, có phẩm chất đạo đực cách mạng, sẵn sàng hy sinh vì độc lập tự do của
dân tộc.
Ngày nay khi Đảng ta đang lãnh đạo thục hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước thì vấn đề đào tạo, giáo dục cán bộ ngày càng quan trọng. Những
cán bộ có trình độ thấp kém, không hiểu biết cũng làm thất thoát tài sản của Nhà
nước. Vì vậy, vấn đề đào tạo để có được đội ngũ cán bộ vừa có đạo đức phẩm chất
tốt, vừa có trình độ hiểu biết, trung thành với lý tưởng cách mạng là vấn đề chiến
lược của Đảng.
Kết Luận
Cách mạng Việt Nam và Quốc tế Cộng sản có mối quan hệ khăng khít với nhau
bổ sung để cùng phát triển phù hợp với hoàn cảnh của từn nước. Nhờ những đóng
19
góp của Quốc tế Cộng sản mà cách mạng Việt Nam đã đi đứng hướng có phương
pháp phù họp với từng giai đoạn cách mạng.
Nhờ những đóng góp của Việt Nam đã hoàn chỉnh hơn đường lối cách mạng của
Quốc tế Cộng sản . Từ đó nâng cao vai trò và vị trí của Quốc tế Cộng sản trong
phong trào yêu nước trên thế giới
20