Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Tác động của Hiệp định TPP tới việc làm, đời sống của người lao động và hoạt động công đoàn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (294.15 KB, 37 trang )

Tác động của Hiệp định TPP tới việc làm, đời sống của người lao động và hoạt động công đoàn

LỜI MỞ ĐẦU
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là chủ trương lớn trong tổng thể quá trình
đổi mới kinh tế của nước ta. Trong đó, tham gia Hiệp định Hợp tác Kinh tế Chiến
lược xuyên Thái Bình Dương là bước đi quan trọng của quá trình nhiều gian nan
thử thách đó.
Hiệp định Hợp tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TransPacific Strategic Economic Partnership Agreement - còn gọi là TPP) là một Hiệp
định thương mại tự do nhiều bên, được ký kết với mục tiêu thiết lập một mặt bằng
thương mại tự do chung cho các nước khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Vì vậy,
cùng với WTO, việc trở thành thành viên của TPP là sự khẳng định sự hội nhập
toàn diện kinh tế của Việt Nam với nền kinh tế toàn cầu và là dấu hiệu quan trọng
của một môi trường đầu tư hấp dẫn.
Ngày 13/11/2010, Việt Nam đã tuyên bố tham gia vào TPP với tư cách thành
viên đầy đủ. Từ đó đến nay, Việt Nam đã tích cực tham gia các vòng đàm phán
chính thức của TPP. Tham gia TPP tạo ra những vận hội và thách thức đối với nền
kinh tế nói chung, đối với người lao động và tổ chức công đoàn Việt Nam nói
riêng, chúng ta cần có những đối sách chủ động, tích cực, tranh thủ thời cơ, vượt
qua thách thức góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi mục tiêu
"Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Với ý nghĩa đó, chúng em
chọn đề tài "Tác động của Hiệp định Hợp tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái
Bình Dương (TPP) tới việc làm, đời sống của người lao động và hoạt động
công đoàn" làm nội dung nghiên cứu thực hiện chuyên đề 1.
Chuyên đề gồm 3 phần:
- Phần thứ nhất: Giới thiệu khái quát về TPP.
- Phần thứ hai: Tác động của TPP tới việc làm, đời sống của người lao động
và hoạt động công đoàn.
- Phần thứ ba: Những giải pháp nhằm bảo đảm việc làm, nâng cao đời sống
cho người lao động và hoạt động công đoàn.
Trong quá trình nghiên cứu, thực hiện chuyên đề, mặc dù chúng em đã có
nhiều cố gắng, song chắc chắn sẽ còn những hạn chế nhất định. Kính mong nhận


được sự góp ý của PGS.TS Nguyễn Văn Toàn và Quý Thầy Cô giáo để chuyên đề
được hoàn thiện hơn. Trân trọng cảm ơn!
Nhóm học viên thực hiện: Phan Thanh Lân; Nguyễn Văn Hùng; Lê Thuận Vũ - lớp K16B QLKT

1


Tác động của Hiệp định TPP tới việc làm, đời sống của người lao động và hoạt động công đoàn

PHẦN THỨ NHẤT
KHÁI QUÁT VỀ HIỆP ĐỊNH HỢP TÁC KINH TẾ CHIẾN LƯỢC
XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP)
I. GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ TPP
1. TPP là gì?
TPP là cụm từ viết tắt của tiếng Anh “Trans-Pacific Strategic Economic
Partnership Agreement” là Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình
Dương hay Hiệp định Thương mại xuyên Thái Bình Dương. TPP là một hiệp định
thương mại tự do nhiều bên, được coi như một hiệp định thương mại tự do thế hệ
thứ 2 với mục tiêu thiết lập một mặt bằng tự do chung cho các nước khu vực Châu
Á - Thái Bình Dương.
Đàm phán Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) giữa 12 nền
kinh tế hai bờ Thái Bình Dương, trong đó có Việt Nam, là một trong những đàm
phán thương mại tự do quan trọng nhất của Việt Nam trong thời gian này. Nếu
được ký kết, TPP sẽ mở ra một thị trường thương mại chung rộng lớn với gần 800
triệu người tiêu dùng và 40% GDP toàn cầu. Cùng với đó, các thành viên đàm
phán TPP nhất trí xây dựng một hiệp định TPP “tiêu chuẩn cao”, “thế hệ mới” với
mức độ tự do hóa sâu, ở phạm vi rộng, bao gồm cả những vấn đề truyền thống và
mới, cả các nội dung thương mại và phi thương mại.
Vì vậy, Hiệp định TPP được ký kết sẽ có tác động mạnh mẽ tới tương lai của
cả nền kinh tế cũng như của mỗi ngành kinh tế Việt Nam, trong đó các doanh

nghiệp Việt Nam sẽ là những người hưởng lợi ích nhiều nhất từ hiệp định thương
mại quốc tế này. Khi các dòng thuế giảm xuống, các doanh nghiệp Việt Nam có
thể gia tăng xuất khẩu quần áo, giày dép và nhiều mặt hàng khác vốn là thế mạnh
của mình vào các thị trường lớn. Các thị trường mà doanh nghiệp Việt Nam có thể
hướng đến là các thị trường của các nước thành viên chưa có hiệp định tự do
thương mại song phương với Việt Nam như Mỹ, Canada, Mexico, Peru trong đó
đáng lưu ý nhất là thị trường Mỹ.
2. Tầm quan trọng Hiệp định TPP
Hiệp định TPP có những điểm khác biệt so với các hiệp định thương mại Việt
Nam đã ký trước đây. Đó là, Hiệp định TPP với 12 nước tham gia đàm phán bao
phủ 40% GDP kinh tế toàn cầu và dự kiến mang lại thêm 300 tỷ USD nếu hiệp
Nhóm học viên thực hiện: Phan Thanh Lân; Nguyễn Văn Hùng; Lê Thuận Vũ - lớp K16B QLKT

2


Tác động của Hiệp định TPP tới việc làm, đời sống của người lao động và hoạt động công đoàn

định hoàn thành. TPP được đánh giá là hiệp định của thế kỷ XXI với kỳ vọng tạo
ra một tiêu chuẩn, khuôn khổ cơ bản cho quá trình hội nhập khu vực, thậm chí của
cả thế giới. So với các Hiệp định thương mại tự do khác (gọi chung là FTA), TPP
có tham vọng, toàn diện và sâu rộng hơn hẳn. Trước kia khi đàm phán WTO, Việt
Nam chỉ đàm phán 2 lĩnh vực là mở cửa thị trường hàng hóa và dịch vụ, cùng với
đàm phán đa phương, thì nay với TPP, Việt Nam phải đàm phán tới 30 chương,
trong đó có những lĩnh vực lần đầu tiên như công đoàn, lao động, doanh nghiệp
nhà nước.
Hiệp định TPP thực sự là một hiệp định với các tiêu chuẩn mới và cao về
thương mại và đầu tư tại khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, là một bước quan
trọng để tiến tới mục tiêu cao nhất. 5 đặc điểm chính làm TPP trở thành một hiệp
định mang tính bước ngoặt của thế kỷ 21, tạo ra một tiêu chuẩn mới cho thương

mại toàn cầu, đó là:
a) Tiếp cận thị trường một cách toàn diện. Hiệp định TPP cắt giảm thuế quan
và các hàng rào phi thuế về căn bản đối với tất cả thương mại hàng hóa và dịch vụ
và điều chỉnh toàn bộ các lĩnh vực về thương mại trong đó có thương mại hàng
hóa, dịch vụ và đầu tư nhằm tạo ra các cơ hội và lợi ích mới cho doanh nghiệp,
người lao động và người tiêu dùng của các nước thành viên.
b) Tiếp cận mang tính khu vực trong việc đưa ra các cam kết. Hiệp định TPP
tạo thuận lợi cho việc phát triển sản xuất và dây chuyền cung ứng, cũng như
thương mại không gián đoạn, đẩy mạnh tính hiệu quả và hỗ trợ thực hiện mục tiêu
về tạo việc làm, nâng cao mức sống, thúc đẩy các nỗ lực bảo tồn và tạo thuận lợi
cho việc hội nhập qua biên giới cũng như mở cửa thị trường trong nước.
c) Giải quyết các thách thức mới đối với thương mại. Hiệp định TPP thúc đẩy
việc đổi mới, năng suất và tính cạnh tranh thông qua việc giải quyết các vấn đề
mới, trong đó bao gồm việc phát triển nền kinh tế số và vai trò ngày càng tăng của
các doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế toàn cầu.
d) Bao hàm toàn bộ các yếu tố liên quan đến thương mại. Hiệp định TPP bao
gồm các yếu tố mới được đưa ra để đảm bảo rằng các nền kinh tế ở tất cả các cấp
độ phát triển và doanh nghiệp thuộc mọi quy mô đều có thể hưởng lợi từ thương
mại. Hiệp định bao gồm các cam kết nhằm giúp đỡ các doanh nghiệp vừa và nhỏ
hiểu rõ về Hiệp định, tận dụng được những cơ hội mà Hiệp định mang lại và nêu
lên những thách thức đáng chú ý tới chính phủ các nước thành viên. Hiệp định
Nhóm học viên thực hiện: Phan Thanh Lân; Nguyễn Văn Hùng; Lê Thuận Vũ - lớp K16B QLKT

3


Tác động của Hiệp định TPP tới việc làm, đời sống của người lao động và hoạt động công đoàn

cũng bao gồm những cam kết cụ thể đảm bảo rằng tất cả các bên đều có thể đáp
ứng được những cam kết trong Hiệp định và tận dụng được đầy đủ những lợi ích

của Hiệp định.
e) Nền tảng cho hội nhập khu vực. Hiệp định TPP được ra đời để tạo ra nền
tảng cho việc hội nhập kinh tế khu vực và được xây dựng để bao hàm cả những
nền kinh tế khác xuyên khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
3. Khái quát nội dung Hiệp định TPP
Hiệp định TPP gồm 30 chương điều chỉnh thương mại và các vấn đề liên
quan tới thương mại:
(1). Các điều khoản ban đầu và định nghĩa chung
(2). Thương mại hàng hóa: Các Bên tham gia TPP nhất trí xoá bỏ và hoặc cắt
giảm thuế quan và các rào cản phi thuế quan đối với hàng hóa công nghiệp và xóa
bỏ hoặc cắt giảm thuế quan cũng như các chính sách mang tính hạn chế khác đối
với hàng hoá nông nghiệp.
(3). Dệt may: Các Bên tham gia TPP nhất trí xoá bỏ thuế quan đối với hàng
dệt may - ngành công nghiệp đóng vai trò quan trọng vào tăng trưởng kinh tế tại
một số thị trường của các nước TPP. Hầu hết các sắc thuế sẽ được xóa bỏ ngay lập
tức, mặc dù thuế đối với một số mặt hàng nhạy cảm sẽ được xóa bỏ với lộ trình
dài hơn do các bên thống nhất.
(4). Quy tắc xuất xứ: 12 nước thành viên đã thống nhất về một bộ quy tắc
xuất xứ chung để xác định một hàng hóa cụ thể “có xuất xứ” và do đó được hưởng
thuế quan ưu đãi trong TPP.
(5). Quản lý hải quan và thuận lợi hóa thương mại
(6). Các biện pháp vệ sinh, kiểm dịch động, thực vật
(7). Hàng rào kỹ thuật đối với thương mại (TBT)
(8). Phòng vệ thương mại
(9). Đầu tư: Khi xây dựng các quy định về đầu tư, các thành viên TPP phải
đưa ra các nguyên tắc yêu cầu các chính sách và bảo hộ đầu tư công bằng và
không phân biệt đối xử nhằm đảm bảo nguyên tắc cơ bản của luật pháp,trong khi
vẫn đảm bảo khả năng của Chính phủ các thành viên để đạt được các mục tiêu
chính sách công hợp pháp.
Nhóm học viên thực hiện: Phan Thanh Lân; Nguyễn Văn Hùng; Lê Thuận Vũ - lớp K16B QLKT


4


Tác động của Hiệp định TPP tới việc làm, đời sống của người lao động và hoạt động công đoàn

(10). Thương mại dịch vụ xuyên biên giới: Trên cơ sở tầm quan trọng ngày
càng tăng của thương mại dịch vụ đối với các thành viên TPP, 12 quốc gia chia sẻ
sự quan tâm về tự do hóa thương mại trong lĩnh vực này.
(11). Dịch vụ tài chính: Chương dịch vụ tài chính của TPP cung cấp các cơ
hội mở cửa thị trường đầu tư và qua biên giới quan trọng, trong khi vẫn đảm bảo
rằng các nước TPP vẫn duy trì quyền quản lý đầy đủ đối với các tổ chức và thị
trường tài chính, thực hiện các biện pháp khẩn cấp trong trường hợp khủng hoảng.
(12). Nhập cảnh tạm thời của khách kinh doanh
(13). Viễn thông
(14). Thương mại điện tử
(15). Mua sắm chính phủ
(16). Chính sách cạnh tranh
(17). Doanh nghiệp nhà nước (SOEs)
(18). Sở hữu trí tuệ
(19). Lao động: Tất cả các thành viên TPP đều là thành viên tổ chức Lao
động quốc tế (ILO) và thừa nhận mối liên hệ giữa quyền của người lao động với
thương mại. Trong TPP, các thành viên đồng ý thông qua và duy trì trong luật và
thông lệ của mình các quyền cơ bản của người lao động như được thừa nhận trong
tuyên bố 1998 của ILO, đó là quyền tự do liên kết và quyền thương lượng tập thể;
xóa bỏ lao động cưỡng bức; xóa bỏ lao động trẻ em và cấm các hình thức lao động
trẻ em tồi tệ nhất; và loại bỏ sự phân biệt đối xử về việc làm và nghề nghiệp. Các
thành viên cũng đồng ý có luật quy định mức lương tối thiểu, số giờ làm việc, an
toàn và sức khỏe nghề nghiệp.
(20). Môi trường

(21). Hợp tác và nâng cao năng lực
(22). Cạnh tranh và Tạo thuận lợi kinh doanh: Chương này tạo nên các cơ chế
chính thức nhằm rà soát tác động của TPP lên sức cạnh tranh của các thành viên
thông qua các cuộc đối thoại giữa các chính phủ và giữa chính phủ với doanh
nghiệp và cộng đồng, tập trung tham gia sâu vào chuỗi cung ứng khu vực nhằm
đánh giá sự phát triển, tận dụng lợi thế của các cơ hội mới, và giải quyết bất cứ
thách thức nào cơ thể nổi lên khi Hiệp định TPP có hiệu lực.
Nhóm học viên thực hiện: Phan Thanh Lân; Nguyễn Văn Hùng; Lê Thuận Vũ - lớp K16B QLKT

5


Tác động của Hiệp định TPP tới việc làm, đời sống của người lao động và hoạt động công đoàn

(23). Phát triển
(24). Doanh nghiệp vừa và nhỏ: Các nước TPP chia sẻ mối quan tâm đến việc
thúc đẩy sự tham gia của các doanh nghiệp nhỏ và vừa vào thương mại và đảm
bảo các doanh nghiệp nhỏ và vừa chia sẻ các lợi ích của Hiệp định TPP.
(25). Gắn kết môi trường chính sách
(26). Minh bạch hóa và Chống tham nhũng
(27). Các điều khoản về hành chính và thể chế
(28). Giái quyết tranh chấp:
(29). Ngoại lệ
(30). Các điểu khoản cuối cùng
Trong các nội dung trên, đối với Việt Nam chương lao động là một Chương
hoàn toàn mới bởi vấn đề lao động là vấn đề phi thương mại, hầu như chưa từng
xuất hiện trong các đàm phán thương mại trước đây (bao gồm cả WTO và các
FTA thế hệ trước). Theo thông tin từ các nguồn thì đàm phán về lao động trong
TPP chú yếu tập trung xung quanh các cam kết liên quan tới các quyền lao động
cơ bản. Đây không phải là những nội dung mới (bởi hầu hết đã có trong các Công

ước của Tổ chức Lao động quốc tế ILO) nhưng lại đặt ra những thách thức lớn cho
hầu hết các nước tham gia đàm phàn TPP (bởi nhiểu nước trong số này chưa gia
nhập/chưa phải thành viên của tất cả các Công ước liên quan của ILO). Đối với
Việt Nam, một số nội dung đàm phàn về lao động trong TPP được cho là khó khăn
và cần có thời gian chuẩn bị mới có thể thực hiện được:
- Các nguyên tắc về điều kiện lao động: là một nền kinh tế đang phát triển ở
mức độ thấp, việc đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải duy trì các điều kiện
lao động ở mức cùng tiêu chuẩn tối thiểu với các nước phát triển trong TPP là điều
không dễ dàng và có thể là tác nhân làm tăng chi phí sản xuất, từ đó giảm sức cạnh
tranh của doanh nghiệp.
- Về quyền tự do nghiệp đoàn: Quyền tự do nghiệp đoàn (freedom of
association) thực chất là quyền tự do công đoàn. Trong bối cảnh Việt Nam đang
duy trì một hệ thống công đoàn thống nhất và duy nhất (Tổng Liên đoàn Lao động
Việt Nam), yêu cầu về quyền tự do nghiệp đoàn nếu được hiểu theo nghĩa rộng
(đa công đoàn) sẽ làm thay đổi hệ thống hiện tại của Công đoàn Việt Nam.
Nhóm học viên thực hiện: Phan Thanh Lân; Nguyễn Văn Hùng; Lê Thuận Vũ - lớp K16B QLKT

6


Tác động của Hiệp định TPP tới việc làm, đời sống của người lao động và hoạt động công đoàn

- Về thực thi: Theo cách tiếp cận chung trong TPP, việc chấp nhận các cam
kết về lao động không chỉ đơn thuần bao gồm việc điều chỉnh pháp luật nội địa
cho phù hợp mà còn phải đảm bảo việc thực thi nghiêm túc trong thực tế với các
biện pháp trừng phạt khi không đảm bảo thực thi. Trong khi đó, ở Việt Nam luôn
có một khoảng cách nhất định giữa pháp luật và thực tiễn, đặc biệt trong vấn đề
lao động. Mặc dù vậy, Việt Nam cũng có những lợi thế nhất định trong đàm phàn
về vấn đề này:
+ Việt Nam là thành viên ILO và đã tham gia nhiều Công ước quan trọng

của tổ chức này, trong đó có những Công ước hàm chứa các nguyên tắc trong
Chương lao động của TPP (bao gồm Công ước số 100 về công bằng trong tiền
công/tiền lương; Công ước số 111 về Phân biệt đối xử về lao động và việc làm;
Công ước 182 về các Hình thức tồi tệ nhất của lao động trẻ em; Công ước 138 về
tuổi lao động tối thiểu; Công ước 29 về Lao động cưỡng bức; Công ước 144 về Cơ
chế tham vấn ba bên). Do đó, một phần trong số những cam kết về lao động trong
TPP cũng đồng thời là nghĩa vụ của Việt Nam trong ILO;
+ Việt Nam vừa qua đã tiến hành sửa đổi tổng thể pháp luật gốc về lao
động, trong đó đáng kể là hai văn bản Bộ luật Lao động và Luật Công đoàn.
Những thảo luận, trao đổi theo xu hướng mới, kết hợp với những yếu tố tiến bộ
trong pháp luật và chính sách về lao động, thậm chí cả các định hướng trong các
đàm phán FTA liên quan tới lao động như TPP đã được đưa vào các văn bản này;
+ Đối với một số vấn đề lao động (đặc biệt là các tiêu chuẩn trong sản xuất,
sử dụng lao động trẻ em/ cưỡng bức điều kiện lao động), trên thực tế, các doanh
nghiệp Việt Nam đang sản xuất hàng xuất khẩu cho khách nước ngoài, đặc biệt
trong các lĩnh vực gia công (dệt may, giày dép...), từ lâu đã đáp ứng các điều kiện
lao động này. Nói cách khác, nếu đây là những điều kiện mới trong TPP thì doanh
nghiệp Việt Nam được suy đoán là vẫn có thể tuân thủ được;
+ Về một số vấn đề nhạy cảm trong đàm phán về lao động, ví dụ như quyền
nghiệp đoàn, theo Hiệp định Việt Nam cũng như tất cả các nước tham gia TPP
phải tôn trọng và đảm bảo quyền của người lao động trong việc thành lập và gia
nhập tổ chức của người lao động tại cơ sở. Điều này có nghĩa tổ chức của người
lao động có thể lựa chọn gia nhập Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam hoặc đăng
ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để hoạt động. Đây là một vấn đề lớn liên
quan đến tổ chức công đoàn Việt Nam bởi một khi người lao động có quyền tự do
Nhóm học viên thực hiện: Phan Thanh Lân; Nguyễn Văn Hùng; Lê Thuận Vũ - lớp K16B QLKT

7



Tác động của Hiệp định TPP tới việc làm, đời sống của người lao động và hoạt động công đoàn

liên kết thì chỉ có tổ chức nào thực sự giúp họ quyền thương lượng tập thể tổ chức
đó mới là tổ chức đại diện cho họ.
Ở góc độ này, hiện nay dang có nhiều người kể cả cán bộ công đoàn hiểu
nhầm đó là Việt Nam có đến 5 năm kể từ ngày TPP có hiệu lực thì sau đó các cam
kết về lao động mới phải thực hiện. Thật ra lộ trình 5 năm này (hay 7 năm kể từ
ngày ký TPP) chỉ áp dụng cho cam kết sửa đổi luật sao cho các tổ chức của người
lao động tại các doanh nghiệp có thể liên kết với nhau ở mức độ ngành hay vùng.
Còn việc sửa đổi luật để người lao động tự hình thành tổ chức của mình trong
doanh nghiệp thì áp dụng ngay.

II. NHỮNG LỢI ÍCH VÀ BẤT LỢI ĐỐI VỚI VIỆT NAM KHI
THAM GIA TPP
1. Những lợi ích đối với Việt Nam khi tham gia TPP
1.1. Lợi ích khai thác từ thị trường nước ngoài (các nước đối tác TPP)
Lợi ích thuế quan (đối với thương mại hàng hóa): Lợi ích này sẽ có được
khi hàng hóa Việt Nam được tiếp cận thị trường thành viên TPP với mức thuế
quan thấp hoặc bằng không. Như vậy lợi ích này chỉ thực tế nếu hàng hóa Việt
Nam đang phải chịu mức thuế quan cao ở thị trường này. Là một nền kinh tế
định hướng xuất khẩu, việc chúng ta có thể tiếp cận các thị trường lớn như Hoa
Kỳ với mức thuế suất bằng không hoặc thấp hơn như vậy sẽ mang lại một số lợi
thế cạnh tranh vô cùng lớn và triển vọng hết sức lớn cho ngành hàng của Việt
Nam, theo đó là lợi ích cho một bộ phận lớn người lao động trong các lĩnh vực
xuất khẩu. Lợi ích này không chỉ dừng lại ở những nhóm mặt hàng mà Việt
Nam đang có thế mạnh xuất khẩu (ví dụ như: dệt may, giày dép...) mà còn là
động lực để nhiều nhóm mặt hàng khác hiện chưc có kim ngạch đáng kể có
điều kiện để gia tăng sức cạnh tranh. Nói một cách khác, lợi thế này không chỉ
nhìn từ góc độ hiện tại mà còn được nhìn thấy ở cả tiềm năng trong tương lai.
Lợi ích tiếp cận thị trường: Lợi ích tiếp cận thị trường đối với thương mại

dịch vụ và đầu tư, về lý thuyết Việt Nam sẽ được tiếp cận thị trường dịch vụ của
các nước đối tác thuận lợi hơn, với ít các rào cản và điều kiện hơn. Tuy vậy trên
thực tế dịch vụ của Việt Nam hầu như chưa có đầu tư đáng kể ở nước ngoài do
năng lực cung cấp dịch vụ của các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu kém. Trong

Nhóm học viên thực hiện: Phan Thanh Lân; Nguyễn Văn Hùng; Lê Thuận Vũ - lớp K16B QLKT

8


Tác động của Hiệp định TPP tới việc làm, đời sống của người lao động và hoạt động công đoàn

tương lai, tình hình này có thể thay đổi đôi chút (với những nỗ lực trong việc xuất
khẩu phần mềm, đầu tư viễn thông hay một số lĩnh vực dịch vụ khác)

1.2. Lợi ích khai thác được tại thị trường nội địa
Lợi ích từ việc giảm thuế hàng nhập khẩu từ các nước ngoài TPP: Người tiêu
dùng và các nhà sản xuất sử dụng nguyên liệu nhập khẩu từ các nước này làm
nguyên liệu đầu vào sẽ được hưởng lợi từ hàng hóa, nguyên liệu giá rẻ, giúp giảm
chi phí sinh hoạt và sản xuất, từ đó có thể giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của
những ngành này.
Lợi ích từ những khoản đầu tư, dịch vụ đến từ Hoa Kỳ và các nước đối tác
TPP: Đó là một môi trường kinh doanh cạnh tranh hơn, mang lại dịch vụ giá rẻ
hơn chất lượng tốt hơn cho người tiêu dùng, những công nghệ và phương thức
quản lý mới cho đối tác Việt Nam và một sức ép để cải tổ và để tiến bộ hơn cho
các đơn vị dịch vụ nội địa.
Lợi ích đến từ những thay đổi thể chế hay cải cách để đáp ứng những đòi hỏi
chung của TPP: TPP dự kiến sẽ bao trùm cả những cam kết về những vấn đề
xuyên suốt như sự hài hòa giữa các quy định pháp luật, tính cạnh tranh, vấn đề hỗ
trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, chuỗi cung ứng, hỗ trợ phát triển… Đây là

những lợi ích lâu dài và xuyên suốt các khía cạnh của đời sống kinh tế - xã hội,
đặc biệt có ý nghĩa đối với nhóm doanh nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhất (doanh
nghiệp nhỏ và vừa) và do đó là rất đáng kể.
Lợi ích đến từ việc mở cửa thị trường mua sắm công: Mặc dù mức độ mở cửa
đối với thị trường mua sắm công trong khuôn khổ TPP chưa được xác định cụ thể
nhưng có thể khẳng định rằng TPP là động lực tốt để giải quyết những bất cập
trong các hợp đồng mua sắm công và hoạt động đấu thầu xuất phát từ tình trạng
thiếu minh bạch như hiện nay. Lợi ích đến từ việc thực thi các tiêu chuẩn về lao
động, môi trường, mặc dù về cơ bản những yêu cầu cao về vấn đề này có thể gây
khó khăn cho Việt Nam (đặc biệt là chi phí tổ chức thực hiện của Nhà nước và chi
phí tuân thủ của doanh nghiệp) nhưng xét một cách kỹ lưỡng một số tiêu chuẩn
trong đó (ví dụ về môi trường) sẽ là cơ hội tốt để Việt Nam làm tốt hơn vấn đề bảo
vệ môi trường (đặc biệt trong đầu tư từ các nước đối tác TPP) và bảo vệ người lao
động nội địa.
2. Những bất lợi đối với Việt Nam khi tham gia TPP
Tuy TPP mang lại nhiều lợi ích, nhưng cũng mang lại không ít những bất lợi:
Nhóm học viên thực hiện: Phan Thanh Lân; Nguyễn Văn Hùng; Lê Thuận Vũ - lớp K16B QLKT

9


Tác động của Hiệp định TPP tới việc làm, đời sống của người lao động và hoạt động công đoàn

Bất lợi từ việc giảm thuế quan đối với hàng hóa từ các nước đối tác TPP:
Giảm thuế quan có thể khiến luồng hàng nhập khẩu từ các nước TPP vào Việt
Nam gia tăng, với giá cả cạnh tranh hơn. Hệ quả tất yếu là thị phần hàng hóa liên
quan tại Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng và cạnh tranh sẽ gay gắt hơn. Đây là thực tế đã
từng xảy ra khi chúng ta thực hiện các FTA đã ký mà đặc biệt là ACFTA với
Trung Quốc. Nguy cơ này đặc biệt nguy hiểm đối với nhóm hàng nông sản, vốn
gắn liền với nhóm đối tượng dễ bị tổn thương trong hội nhập là nông dân và nông

thôn.
Bất lợi từ việc mở cửa các thị trường dịch vụ: Dịch vụ là mảng hoạt động
thương mại mà mức độ mở cửa thị trường của Việt Nam là hạn chế và dè dặt nhất.
So với cách thức đàm phán chọn - cho của WTO, phương pháp chọn - bỏ dự kiến
trong đàm phán TPP sẽ khiến cho bức tranh mở cửa dịch vụ của Việt Nam đối với
các đối tác TPP thay đổi mạnh mẽ. Đây cũng chính là điểm được suy đoán là sẽ
tạo ra bất lợi lớn cho doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia TPP. Với TPP, sự tham
gia mạnh mẽ và tự do hơn của các nhà cung cấp có tiềm lực lớn, có kinh nghiệm
lâu năm, có ưu thế về dịch vụ trên thế giới (đặc biệt là các nhà cung cấp dịch vụ
Hoa Kỳ) có thể khiến cho các đơn vị cung cấp dịch vụ của Việt Nam gặp khó khăn
nghiêm trọng.
Bất lợi từ việc thực thi các yêu cầu cao về môi trường, lao động, cạnh tranh…
và các ràng buộc mang tính thủ tục khi ban hành các quy định liên quan đến rào
cản kỹ thuật, vệ sinh dịch tễ... Các kết quả đàm phán FTA của Hoa Kỳ trong giai
đoạn gần đây cho thấy nước này nhấn mạnh việc tuân thủ các yêu cầu cao về môi
trường, lao động (tiêu chuẩn ILO) hay các ràng buộc nhiều hơn về mặt thủ tục khi
ban hành hay thực thi các quy định về cạnh tranh, phòng vệ thương mại, TBT,
SPS (theo hướng tăng cường thủ tục tham vấn trao đổi trước khi ban hành quy
định/biện pháp, quyền tiếp cận tư pháp để giải quyết vướng mắc…)… Các đối tác
phát triển như Úc, New Zealand khá quan tâm đến các vấn đề này. Vì vậy khả
năng TPP tương lai có thể bao trùm các lĩnh vực này là tương đối lớn.
Bất lợi từ việc thực thi các yêu cầu cao liên quan đến việc bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ. Hoa Kỳ là đối tác có tiếng là cứng rắn trong những vấn đề liên quan
đến bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cả trong WTO lẫn trong các FTA của nước này.
Đối với TPP, vấn đề này cũng đã được Hoa Kỳ thể hiện tương đối rõ ràng. Tuy
nhiên, đây lại là vấn đề lớn đối với Việt Nam trong hoàn cảnh thực tế vi phạm còn
lớn và các thiết chế bảo hộ còn thiếu hiệu quả. Việc bảo hộ chặt chẽ các quyền sở
Nhóm học viên thực hiện: Phan Thanh Lân; Nguyễn Văn Hùng; Lê Thuận Vũ - lớp K16B QLKT 10



Tác động của Hiệp định TPP tới việc làm, đời sống của người lao động và hoạt động công đoàn

hữu trí tuệ cũng sẽ dẫn tới những khó khăn trước mắt cho nhiều doanh nghiệp Việt
Nam khi phải bỏ vốn nhiều hơn cho những sản phẩm thuộc loại này và người tiêu
dùng khi phải trả giá đắt hơn cho sản phẩm.
Bất lợi từ việc mở cửa thị trường mua sắm công: Mua sắm công là một vấn
đề phức tạp và hiện vẫn đang là lĩnh vực tương đối đóng đối với tự do thương mại.
Đối với Việt Nam, việc mở cửa thị trường mua sắm công được suy đoán là sẽ gây
ra những tác động bất lợi với những lo ngại như sức cạnh tranh của doanh nghiệp
nội địa không thể cạnh tranh nổi với các nước TPP trong các vụ đấu thầu lớn, khả
năng Việt Nam tiếp cận được với thị trường mua sắm công của các đối tác TPP là
hầu như không có (do hạn chế về năng lực cạnh tranh)…
Từ những lợi ích và cả những bất lợi từ TPP, cần chủ động phát huy những
lợi ích và có những biện pháp ứng phó để giảm thiểu những bất lợi. Để giảm thiểu
những tác động tiêu cực đó, cần phải hết sức nỗ lực, biến thách thức thành cơ hội
để đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế. Cần có các các biện
pháp trợ giúp để chủ động xử lý kịp thời các tác động tiêu cực có thể xảy ra…

PHẦN THỨ HAI
TÁC ĐỘNG CỦA TPP TỚI VIỆC LÀM, ĐỜI SỐNG
CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG VÀ HOẠT ĐỘNG CÔNG ĐOÀN
I. MỘT SỐ THÀNH TỰU CỦA QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ
Thực hiện chủ trương, chính sách nhất quán của Đảng về hội nhập kinh tế
quốc tế, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã đạt được những kết
quả vững chắc. Việt Nam đã gia nhập ASEAN vào tháng 7-1995, ký kết Hiệp định
Thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ (BTA) vào năm 2000, gia nhập
WTO vào tháng 01-2007 và tham gia 08 Hiệp định Thương mại tự do (FTA) khu
vực và song phương. Cụ thể, ta đã cùng với các nước ASEAN ký các Hiệp định
thương mại tự do giữa khối ASEAN với các đối tác như Trung Quốc vào năm

2004, với Hàn Quốc vào năm 2006, với Nhật Bản năm 2008, với Australia và
New Zealand vào năm 2009, với Ấn Độ năm 2009. Ngoài ra, ta đã ký 2 FTA song

Nhóm học viên thực hiện: Phan Thanh Lân; Nguyễn Văn Hùng; Lê Thuận Vũ - lớp K16B QLKT 11


Tác động của Hiệp định TPP tới việc làm, đời sống của người lao động và hoạt động công đoàn

phương là FTA Việt Nam - Nhật Bản năm 2008 và FTA Việt Nam - Chile năm
2011.
Việt Nam cũng đã tích cực tham gia đàm phán 6 FTA khác, gồm Hiệp định
Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), FTA với Liên minh châu Âu (EU), với
Liên minh thuế quan Nga - Belarus - Kazakhstan, với Khối thương mại tự do châu
Âu (EFTA) gồm các nước Thụy Sỹ, Nauy, Lích-tân-xten và Ai-xơ-len, FTA với
Hàn Quốc và FTA giữa khối ASEAN với Hồng Công (Trung Quốc). Ngoài ra, ta
cũng tích cực chủ động tham gia sâu vào diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái
Bình Dương (APEC), đã đăng cai năm APEC 2006 và tiến tới sẽ đăng cai APEC
năm 2017 với hàng trăm cuộc họp từ cấp chuyên viên đến cấp cao.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng của Việt Nam đã mang lại nhiều
thành tựu lớn trong phát triển kinh tế - xã hội, trong đó:
- Việt Nam đã mở rộng quan hệ kinh tế thương mại với các nước, các tổ chức
quốc tế, qua đó Việt Nam đã ngày càng tham gia sâu rộng vào các hoạt động hội
nhập kinh tế quốc tế, ngày càng có tiếng nói quan trọng với ý thức trách nhiệm cao
trong các diễn đàn khu vực và thế giới, do đó đã góp phần mở rộng thị trường, thu
hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, tạo điều kiện cho mô hình kinh tế
hướng về xuất khẩu của ta, mở rộng thị trường hàng nhập khẩu, góp phần phục vụ
chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời từng bước khẳng định được
hình ảnh và vị thế của một quốc gia thành công trong quá trình đổi mới.
- Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nếu như tăng trưởng GDP bình quân thời kỳ
1986 - 1990 chỉ đạt 4,4%/năm thì bình quân thời kỳ 1991 - 2011 đạt 7,34%/năm.

Đặc biệt, sau khi gia nhập WTO, Việt Nam đã duy trì tốc độ tăng trưởng cao,
trong năm 2007, tốc độ tăng trưởng GDP đạt 8,46% (là mức cao nhất trong vòng
11 năm trước đó). Ngoài ra, có thể nói thành tựu về tăng trưởng kinh tế được nhìn
nhận một cách rõ ràng nhất là đưa nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội
và ra khỏi danh sách các nước kém phát triển sau 30 năm đổi mới. Đối với hoạt
động xuất, nhập khẩu, từ năm 1986 đến nay, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam
tăng đều qua các năm. So với năm 1986 (kim ngạch xuất khẩu đạt 789,1 triệu
USD) thì kim ngạch xuất khẩu năm 2013 tăng gấp khoảng 167 lần (132,2 tỷ
USD). Hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đã có mặt trên thị trường 220 nước và
vùng lãnh thổ, hầu hết các châu lục. Nước ta có vị thế ngày càng lớn trong xuất
khẩu hàng hóa toàn cầu và được xếp vào nhóm 30 nền kinh tế xuất khẩu hàng hóa
hàng đầu thế giới. Từ chỗ thường xuyên nhập siêu, Việt Nam đã chuyển sang cân
Nhóm học viên thực hiện: Phan Thanh Lân; Nguyễn Văn Hùng; Lê Thuận Vũ - lớp K16B QLKT 12


Tác động của Hiệp định TPP tới việc làm, đời sống của người lao động và hoạt động công đoàn

bằng xuất, nhập khẩu, thậm chí là có xuất siêu. Năm 2012, Việt Nam đã xuất siêu
287 triệu USD, năm 2013 xuất siêu 9 triệu USD và 10 tháng đầu năm 2014 xuất
siêu 2 tỷ USD, 9 tháng đầu năm 2015, xuất khẩu đạt 120,22 tỷ USD; Thúc đẩy và
thu hút vốn đầu tư nước ngoài, giai đoạn 1991 - 1997 đã diễn ra làn sóng FDI vào
Việt Nam lần thứ nhất với 2.230 dự án và vốn đăng ký là 16,244 tỷ USD. Việc
thực hiện các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là cam kết gia nhập WTO
đã giúp hoàn thiện và làm minh bạch hệ thống pháp luật, nâng cao sức hấp dẫn
của Việt Nam đối với nhà đầu tư nước ngoài. Trong năm 2014, tổng vốn đầu tư
FDI vào Việt Nam đã đạt gần 22 tỷ USD, năm 2015 tăng 17,4% so với năm 2014.
Khu vực doanh nghiệp FDI đã giải quyết việc làm cho khoảng hơn 2 triệu lao
động trực tiếp, và hàng chục triệu lao động gián tiếp, chiếm hơn 60% tổng kim
ngạch xuất khẩu của cả nước, góp phần tăng vốn đầu tư phát triển xã hội, tăng kim
ngạch xuất khẩu, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và giải quyết các vấn

đề xã hội.
- Góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế, cải thiện tích cực môi trường trong
nước. Hệ thống luật pháp trong nước cũng không ngừng được sửa đổi theo hướng
phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm tạo ra môi trường kinh doanh thông thoáng,
minh bạch hơn, bảo đảm sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, giữa doanh
nghiệp trong nước và nước ngoài.

II. TÁC ĐỘNG CỦA TPP TỚI VIỆC LÀM, ĐỜI SỐNG CỦA
NGƯỜI LAO ĐỘNG VÀ HOẠT ĐỘNG CÔNG ĐOÀN
1. Tác động TPP tới lao động
Cùng với quá trình toàn cầu hóa, nội dung và phạm vi các Hiệp định
thương mại tự do ngày càng được mở rộng. Hiện nay, Hiệp định TPP được cho
là FTA thế hệ mới, là khuôn mẫu của thế kỷ 21, có phạm vị vừa sâu về nội
dung cam kết, vừa rộng về phạm vi và lĩnh vực cam kết, đồng thời cũng là Hiệp
định có các điều khoản về lao động chặt chẽ nhất so với các FTA trong lịch sử.
Thực trạng về lao động Việt Nam hiện nay cho thấy: T rong xu thế hội nhập
sâu vào nền kinh tế thế giới, đòi hỏi thị trường lao động ở Việt Nam phát triển linh
hoạt để hỗ trợ tăng trưởng, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Thế nhưng,
do mới hình thành và phát triển chưa đồng bộ, nên thị trường lao động Việt Nam
đang bộc lộ nhiều yếu điểm lẫn mâu thuẫn, trong đó nghiêm trọng nhất là mất cân
bằng giữa cung và cầu, năng suất lao động thấp. Trong khi chúng ta dư thừa sức
Nhóm học viên thực hiện: Phan Thanh Lân; Nguyễn Văn Hùng; Lê Thuận Vũ - lớp K16B QLKT 13


Tác động của Hiệp định TPP tới việc làm, đời sống của người lao động và hoạt động công đoàn

lao động ở nông thôn thì ở lĩnh vực phát triển công nghiệp, các ngành dịch vụ
trung cao cấp lại thiếu hụt lao động trầm trọng.
Nguồn nhân lực ở Việt Nam rất dồi dào nhưng lại thiếu trầm trọng về chất
lượng. Lao động Việt Nam được đánh giá là khéo léo, thông minh, sáng tạo, tiếp

thu nhanh kỹ thuật và công nghệ hiện đại được chuyển giao từ bên ngoài nhưng
còn thiếu tính chuyên nghiệp. Trên thị trường lao động hiện tại, nguồn nhân lực
cao cấp và công nhân tay nghề cao vẫn đang là mối quan tâm của nhà tuyển dụng.
Thị trường đang rất cần các chuyên gia về quản trị kinh doanh, lập trình viên, kỹ
thuật viên, các nhà quản lý trung gian hiểu biết về tài chính và tiếp thị với yêu cầu
cơ bản về tiếng Anh, các công nhân có tay nghề cao, ham học hỏi… Tuy nhiên,
nguồn cung ứng lao động có chất lượng trên thị trường còn hạn chế. Bên cạnh đó,
kỹ năng làm việc nhóm, khả năng hợp tác để hoàn thành công việc của người lao
động Việt Nam còn yếu kém. Chính điều này đã khiến nhiều doanh nghiệp không
thể thành công dù họ đã tập hợp được đội ngũ nhân công có đẳng cấp cao.
Theo Tổng cục Thống kê, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước
tính đến thời điểm 01/01/2016 là 54.61 triệu người, tăng 185 ngàn người so với
cùng thời điểm năm 2014, trong đó lao động nam chiếm 51.7%; lao động nữ
chiếm 48.3%. Đến thời điểm trên, lực lượng lao động trong độ tuổi lao động ước
tính 48.19 triệu người, tăng 506.1 ngàn người so với cùng thời điểm năm trước,
trong đó lao động nam chiếm 54%; lao động nữ chiếm 46%.
Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong các ngành kinh tế năm 2015
ước tính 52.9 triệu người, tăng 142 ngàn người so với năm 2014. Trong tổng số
lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc năm 2015, khu vực nông, lâm nghiệp và
thủy sản chiếm 44.3% (năm 2014 là 46.3%); khu vực công nghiệp và xây dựng
chiếm 22.9% (năm 2014 là 21.5%); khu vực dịch vụ chiếm 32.8% (năm 2014 là
32.2%). Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc năm 2015 khu vực thành thị
chiếm 31.2%; khu vực nông thôn chiếm 68.8%. Tỷ lệ lao động trong độ tuổi đã
qua đào tạo năm 2015 ước tính đạt 21.9%, cao hơn mức 19.6% của năm trước.
Bức tranh lao động Việt Nam còn nhiều điểm mờ, đó là lao động chưa qua
đào tạo tập trung phần lớn trong các ngành nông nghiệp kém sức cạnh tranh, dệt
may, da giầy và khu vực phi chính thức phi nông nghiệp, chủ yếu là dịch vụ và lao
động tại gia khác…Sự yếu kém về trình độ ngoại ngữ, những kỹ năng làm việc
nhóm và cả hạn chế về hiểu biết văn hóa các nước khu vực và thế giới cũng còn
đậm trong LLLĐ này.

Nhóm học viên thực hiện: Phan Thanh Lân; Nguyễn Văn Hùng; Lê Thuận Vũ - lớp K16B QLKT 14


Tác động của Hiệp định TPP tới việc làm, đời sống của người lao động và hoạt động công đoàn

Hơn nữa, mặc dù nước ta đang trong thời kỳ dân số vàng, có tỷ lệ tham gia
lực lượng lao động lớn và tỷ lệ thất nghiệp thấp, nhưng lao động có việc làm phi
chính thức phi hộ nông nghiệplại khá cao. Năm 2015, tỷ lệ lao động có việc làm
phi chính thức phi hộ nông nghiệp của cả nước chiếm 56,4% tổng số lao động có
việc làm khu vực phi hộ nông nghiệp, trong đó tỷ lệ lao động có việc làm phi
chính thức phi hộ nông nghiệp khu vực thành thị là 47,1%; khu vực nông thôn là
64,5%. Ngoài ra, thu nhập của người lao động nhìn chung còn thấp; lương tối
thiểu mới chỉ đáp ứng khoảng 70% nhu cầu tối thiểu và khoảng 80% lao động Việt
Nam không có tích lũy hoặc chỉ có mức tích lũy dưới 2 triệu đồng/người/tháng.
Tính chung 9 tháng năm 2015, cả nước có 227,8 nghìn lượt hộ thiếu đói, giảm
25% so với cùng kỳ năm trước, tương ứng với 938,7 nghìn lượt nhân khẩu thiếu
đói, giảm 27,3%.
Chất lượng và cơ cấu lao động vẫn còn nhiều bất cập so với yêu cầu phát
triển và hội nhập. Khoảng 45% lao động trong lĩnh vực nông nghiệp hầu như chưa
qua đào tạo; chất lượng nguồn nhân lực nước ta đang còn thấp là một trong những
"điểm nghẽn" cán trở sự phát triển. Báo cáo đánh giá của Ngân hàng thế giới
(WB) năm 2014 cho thấy, Việt Nam đang rất thiếu lao động có trình độ tay nghề,
công nhân kỹ thuật bậc cao. Phần lớn người sử dụng lao động cho biết, tuyển dụng
lao động là công việc khó khăn vì các ứng viên không có kỹ năng phù hợp, hoặc
khan hiếm lao động trong một số ngành nghề cụ thể. Về chất lượng nguồn nhân
lực, tính theo thang điểm 10, Việt Nam chỉ đạt 3,79 điểm, xếp thứ 11/12 nước
châu Á tham gia xếp hạng của WB; trong khi Hàn Quốc đạt 6,91 điểm, Ấn Độ là
5,76 điểm, Ma-lai-xi-a là 5,59 điểm, Thái-lan là 4,94 điểm…Bên cạnh chất lượng
nguồn nhân lực thấp, cơ cấu trình độ nhân lực lao động của Việt Nam cũng đang
thể hiện sự bất cập, khi tỷ lệ lao động gián tiếp (tốt nghiệp đại học trở lên) lại cao

hơn nhiều so với những người lao động trực tiếp (trình độ sơ cấp, trung cấp). Theo
thống kê của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Tổng cục Thống kê, cơ cấu
trình độ nhân lực lao động Việt Nam năm 2015: tỷ lệ tốt nghiệp đại học trở lên
chiếm 41,51%; cao đẳng là 14,99%; trung cấp là 27,11% và sơ cấp 16,39%. Tỷ lệ
lao động qua đào tạo thấp là nguyên nhân quan trọng dẫn đến năng suất lao động
của Việt Nam nằm trong nhóm thấp của khu vực châu Á - Thái Bình Dương và
ASEAN. Các chuyên gia cho rằng, năng suất lao động thấp, thiếu lao động tay
nghề, trình độ ngoại ngữ và các kỹ năng mềm khác đang khiến lao động của Việt
Nam yếu thế trong cuộc cạnh tranh khốc liệt trên thị trường lao động khi tham gia
TPP.
Nhóm học viên thực hiện: Phan Thanh Lân; Nguyễn Văn Hùng; Lê Thuận Vũ - lớp K16B QLKT 15


Tác động của Hiệp định TPP tới việc làm, đời sống của người lao động và hoạt động công đoàn

Từ những đánh giá trên, có thể thấy nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay có
những đặc điểm sau:
- Nguồn nhân lực khá dồi dào nhwng chưa được sự quan tâm đúng mức; chưa
được quy hoạch, khai thác; chưa được nâng cấp; chưa được đào tạo đến nơi đến
chốn.
- Chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, dẫn đến tình trạng mâu thuẫn giữa
lượng và chất.
- Sự kết hợp bổ dung đan giữa nguồn nhân lực từ nông dân, công nhân, trí
thức,... chưa tốt, còn chia cắt, thiếu sự cộng lực để cùng phối hợp thực hiện sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nguyên nhân chủ yếu của hiện trạng nguồn nhân lực thấp là do công tác đào
tạo hiện nay chưa phù hợp, chất lượng đào tạo còn hạn chế, chưa thực sự đáp ứng
yêu cầu sử dụng nguồn nhân lực, chưa theo kịp sự chuyển biến của đất nước trong
thời kỳ CNH,HĐH đất nước và hội nhập quốc tế. Mặt khác, hệ thống thông tin thị
trường lao động Việt Nam hiện nay còn nhiều yếu kém và hạn chế, còn bị chia cắt

giữa các vùng, miền; khả năng bao quát thu thập và cung ứng thông tin chưa đáp
ứng các nhu cầu đối tác trên thị trường lao động. Hệ thống chỉ tiêu về thị trường
lao động tuy đã ban hành nhưng chưa hoàn thiện, chưa đầy đủ, thiếu thống nhất và
khó so sánh quốc tế. Do vậy chưa đánh giá được hiện trạng cung - cầu lao động.
Những vấn đề này cũng chính là những thách thức lớn đối với lao động Việt Nam,
đồng thời cũng đặt ra nhiệm vụ nặng nề trong việc nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển của kinh tế đất nước trong quá trình tham gia
TPP và thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

2. Tác động TPP tới việc làm của lao động Việt Nam
2.1. Tác động tích cực của TPP
Việt Nam đang tận dụng mọi cơ hội để trở thành một nền kinh tế tăng trưởng
nhanh, đi kèm chất lượng cuộc sống tăng cao. Điều này hoàn toàn có cơ sở khi
Việt Nam có lực lượng lao động trẻ, dồi dào và các công ty đa quốc gia đang đổ
dồn về đây cũng như mối quan hệ với Mỹ đang dần được cải thiện.
Nước ta trở thành thành viên của TPP tạo ra những ảnh hưởng mạnh mẽ tới
đời sống kinh tế - xã hội, tạo ra những cơ hội lớn về tăng trưởng GDP và phúc lợi
xã hội. Một số ngành kinh tế có thể phát triển nhanh nhờ vào mức tăng trưởng
Nhóm học viên thực hiện: Phan Thanh Lân; Nguyễn Văn Hùng; Lê Thuận Vũ - lớp K16B QLKT 16


Tác động của Hiệp định TPP tới việc làm, đời sống của người lao động và hoạt động công đoàn

kinh tế đạt được thông qua quá trình tự do hóa thương mại như các ngành: Dệt
may, Da giầy, thủ công nghiệp, thủy sản, điện tử, đồ gỗ và nội thất vv… Những
tác động tích cực đến sự tăng trưởng kinh tế ở khu vực này sẽ mang lại nhiều cơ
hội về việc làm, thu nhập cho một bộ phận lớn người lao động.
Trong các hoạt động thương mại quốc tế, tăng xuất khẩu có những ảnh hưởng
tích cực trong việc tạo ra việc làm gián tiếp cho một bộ phận lao động qua việc
cung ứng nguyên vật liệu, sơ chế sản phẩm phục vụ cho các cơ sở làm hàng xuất

khẩu. Bên cạnh đó, tự do hóa thương mại và đầu tư cũng luôn dẫn đến tăng nhu
cầu lao động. Mặt khác, mức linh hoạt của thị trường lao động sẽ tăng lên và từ đó
dẫn đến việc nâng cao hiệu quả phân bổ nguồn lực lao động.
Sức ép cạnh tranh giữa các ngành, lĩnh vực, các doanh nghiệp trong và ngoài
nước cũng gópphần tạo điều kiện để thị trường lao động phát triển. Thông qua đó,
góp phần tạo động lực thúc đẩy mọi người lao động phải phấn đấu nâng cao trình
độ, kỹ năng và ý thức lao động đáp ứng yêu cầu thị trường lao động. Ngoài ra,
TPP làm tăng cơ hội để người lao động tiếp cận trực tiếp với nền sản xuất hiện đại
, với trình độ và kinh nghiệm quản lý, điều hành sản xuất, kinh doanh tiên tiến của
thế giới. qua đó góp phần nâng cao trình độ, kỹ năng, tác phong lao động, kiến
thức tổ chức, quản lý của người lao động.
Vài năm gần đây, vốn đầu tư vào Việt Nam đã tăng cao do nhiều yếu tố. Một
trong những yếu tố quan trọng nhất là chi phí lao động thấp. Chi phí nhân công
tăng tại tại Trung Quốc đang khiến nhiều hãng sản xuất đa quốc gia hướng sự chú
ý vào Việt Nam. Bên cạnh đó, sức mua của người tiêu dùng ngày càng tăng, lạm
phát được kiềm chế và nhiều biện pháp nới lỏng quy định nhằm thúc đẩy tăng
trưởng cũng là lý do vốn đầu tư liên tục đổ vào đây.
Báo cáo khảo sát về tình hình hoạt động của doanh nghiệp Mỹ tại các nước
thuộc ASEAN vừa được Phòng Thương mại Mỹ tại Singapore (AmCham
Singapore) công bố cho thấy các nhà đầu tư vẫn lạc quan về triển vọng kinh doanh
tại đây. Cuộc khảo sát này cho thấy ASEAN là một khu vực năng động và có tiềm
năng tăng trưởng lớn, với dân số trẻ và triển vọng hội nhập sâu. Trong đó Việt
Nam được coi là điểm hấp dẫn thứ hai trong khu vực để các doanh nghiệp Mỹ mở
rộng kinh doanh, sau Indonesia. Nhà đầu tư nước ngoài đánh giá Việt Nam có thế
mạnh trong mối quan hệ tốt đẹp với Mỹ, thị trường lao động dồi dào với chi phí
thấp và môi trường vĩ mô ổn định.
Nhóm học viên thực hiện: Phan Thanh Lân; Nguyễn Văn Hùng; Lê Thuận Vũ - lớp K16B QLKT 17


Tác động của Hiệp định TPP tới việc làm, đời sống của người lao động và hoạt động công đoàn


Việt Nam là điểm đến hấp dẫn thứ hai trong khu vực ASEAN để mở rộng đầu tư.
Nguồn: AmCham Singapore

Các yếu tố trên sẽ là cơ sở tạo đà cho việc đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu nền
kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, tạo môi trường thuận lợi cho việc
phát triển các doanh nghiệp. Đây chính là chuyển biến tích cực tạo thêm nhiều cơ
hội việc làm, làm giảm thất nghiệp và tăng thu nhập cho người lao động.
2.2. Tác động tiêu cực của TPP
Bên cạnh những tác động tích cực đối với việc làm thì vấn đề tự do hóa
thương mại của TPP cũng sẽ làm cho một bộ phận lao động mất việc do các doanh
nghiệp của ta không có khả năng cạnh tranh dẫn đến phải thu hẹp sản xuất thậm
chí giải thể, phá sản. Trong khi đó, tình trạng thất nghiệp hiện nay theo báo cáo
của Tổng Cục Thống kê năm 2015 tỷ lệ thất nghiệp lao động trong độ tuổi của cả
nước là 2,31% (năm 2013 là 2,18%; năm 2014 là 2,10%). Trong đó, tỷ lệ thất
nghiệp ở khu vực thành thị là 3,29% (năm 2013 là 3,59%; năm 2014 là 3,40%);
khu vực nông thôn là 1,83% (năm 2013 là 1,54%; năm 2014 là 1,49%). Tỷ lệ thất
nghiệp của thanh niên (từ 15-24 tuổi) năm 2015 là 6,85% (năm 2013 là 6,17%;
năm 2014 là 6,26%), trong đó khu vực thành thị là 11,20% (năm 2013 là 11,12%;
năm 2014 là 11,06%); khu vực nông thôn là 5,20% (Năm 2013 là 4,62%; năm
2014 là 4,63%). Tỷ lệ thất nghiệp của lao động từ 25 tuổi trở lên năm 2015 là
1,27% (năm 2013 là 1,21%; năm 2014 là 1,15%), trong đó khu vực thành thị là
1,83% (năm 2013 là 2,29%; năm 2014 là 2,08%); khu vực nông thôn là 0,99%
(năm 2013 là 0,72%; năm 2014 là 0,71%). Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong
độ tuổi lao động năm 2015 là 1,82% (năm 2013 là 2,75%; năm 2014 là 2,40%),
trong đó khu vực thành thị là 0,82% (năm 2013 là 1,48%; năm 2014 là 1,20%);
khu vực nông thôn là 2,32% (năm 2013 là 3,31%; năm 2014 là 2,96%).
Vì vậy, khi tham gia TPP, lao động Việt Nam có thể phải chịu những bất lợi
như:
Nhóm học viên thực hiện: Phan Thanh Lân; Nguyễn Văn Hùng; Lê Thuận Vũ - lớp K16B QLKT 18



Tác động của Hiệp định TPP tới việc làm, đời sống của người lao động và hoạt động công đoàn

- Một số doanh nghiệp, ngành sản xuất phải thực hiện tái cơ cấu, sắp xếp lại
sản xuất, kinh doanh và giảm bớt lao động dẫn đến một bộ phận lao động bị mất
việc làm, phải tìm công việc mới.
- Cùng với mở cửa thị trường, hàng hóa của các nước đặc biệt là hàng tiêu
dùng sẽ nhập khẩu vào Việt Nam với số lượng ngày càng lớn và đa dạng. Hàng
hóa nhập khẩu với nhiều ưu thế về chất lượng, giá cả và tâm lý thích dùng hàng
ngoại của người Việt nên hàng nhập khẩu rất dễ chiếm lĩnh thị trường. Tình trạng
này khiến doanh nghiệp trong nước gặp nhiều khó khăn phải thu hẹp sản xuất
hoặc phá sản dẫn đến lao động trong các doanh nghiệp đó bị mất việc làm.
- Cùng với quá trình CNH,HĐH đất nước, tham gia TPP sẽ góp phần thúc
đẩy tốc độ di chuyển lao động từ nông thôn tới thành phố và các khu công nghiệp.
Sức ép về việc làm ở các khu đô thi sẽ tăng lên. Vấn đề mất cân bằng giữa cung và
cầu lao động có nguy cơ trở nên trầm trọng hơn dẫn đến tỷ lệ thất nghiệp có nguy
cơ tăng cao.
Tuy nhiên, đánh giá tổng quát, về lâu dài, tham gia TPP sẽ mang lại nhiều
ảnh hưởng tích cực hơn là tiêu cực đối với lao động nước ta về việc làm và thu
nhập.

3. Tác động tới đời sống người lao động
3.1. Tác động tới tiền lương
a. Thực trạng tiền lương của người lao động Việt Nam
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã nhiều lần cải cách chính sách tiền
lương để phù hợp với nền kinh tế hội nhập. Dù đã đạt được những thành công nhất
định, song vẫn còn rất nhiều hạn chế, nhất là cơ chế tạo nguồn chưa được tháo gỡ
dẫn đến việc cải cách tiền lương bị rơi vao vòng luẩn quẩn và còn nhiều vấn đề bất
hợp lý giữa tiền lương và thu nhập của người lao động ở các thành phần kinh tế

khác nhau.
Một điều dễ thấy là mức tiền lương nhìn chung vẫn còn thấp. Chế độ tiền
lương hiện đang áp dụng cho người lao động không phản ánh đúng giá trị sức lao
động và không phù hợp với những biến đổi của giá cả trên thị trường, còn mang
tính bình quân cao, chưa thực hiện đồng bộ với các chính sách kinh tế - xã hội như
bảo hiểm xã hội, giáo dục và đào tạo ... Theo kết quả khảo sát của Viện Công nhân
và Công đoàn công bố cho thấy năm 2015, lương tối thiểu (LTT) chỉ mới bảo đảm
từ 78% đến 83% mức sống tối thiểu của người lao động.. Trên thực tế nhiều doanh
nghiệp FDI trả lương theo thời gian, chỉ trả lương cho NLĐ theo hợp đồng cao
Nhóm học viên thực hiện: Phan Thanh Lân; Nguyễn Văn Hùng; Lê Thuận Vũ - lớp K16B QLKT 19


Tác động của Hiệp định TPP tới việc làm, đời sống của người lao động và hoạt động công đoàn

hơn khoảng 10 – 12% mức TLTT vùng. Tuy nhiên, thực tế đang diễn ra tại nhiều
doanh nghiệp cho thấy công nhân đang sống dưới mức tối thiểu. Nhiều doanh
nghiệp, công nhân phải thường xuyên tăng ca, làm việc từ 10 đến 12 giờ mỗi ngày
để có mức thu nhập tạm đủ để tồn tại. VV vậy, tiền lương thực tế của người công
nhân chưa góp phần nâng cao chất lượng nguồn lực công nghiệp. Điều này lư giải
vV sao đV nh công vẫn là một hiện tượng thường xuyên diễn ra ở các khu công
nghiệp.
Lương thấp khó đảm bảo tái tạo sức lao động, đồng thời chưa kích thích
công nhân có những tVm ṭi, sáng tạo, nhiệt tVnh; thậm chí c cn tạo ra tâm lư đối phó,
tính ỳ trong lao động của họ. Nhất là công nhân trong khu vực doanh nghiệp tư
nhân chịu nhiều thiệt tḥi và rủi ro do quy mô sản xuất nhỏ, tVnh trạng sản xuất
không ổn định, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, quan hệ lao động chưa được
thiết lập đầy đủ, nên tiền công của công nhân thường không theo qui định của nhà
nước,họ c cn không được hưởng các chế độ bảo hiểm bắt buộc mà nhà nước quy
định.
Những tồn tại trên của hệ thống tiền lương là do Nhà nước và các ngành chức

năng chưa nhận thức đúng bản chất tiền lương, chưa xem tiền lương là yếu tố cơ
bản của quá trình sản xuất và do đó tiền lương chưa theo đúng giá trị sức lao động.
Chính sách tiền lương chưa gắn với chính sách tài chình và phù hợp với tình hình
phát triển kinh tế từng thời kỳ. Trong khi chuyển từ cơ chế quản lý cũ sang cơ chế
quản lý mới, nhiều ngành đã đổi mới hoạt động cho phù hợp với cơ chế thị trường
nhưng hệ thống tiền lương lại chậm được thay đổi, tiền lương vẫn còn nửa bao
cấp, nhiều khoản chưa được tiền tệ hóa, điều đó đã tác động tiêu cực đến sản xuất
và đời sống xã hội. Thêm vào đó nhiều hiện tượng tiêu cực như tham nhũng đặc
quyền, đặc lợi ... gắn với những sơ hở trong quản lý kinh tế cũng tác động xấu đến
tiền lương và thu nhập làm cho vấn đề cải thiện, nâng cao đời sống cho người lao
động không được là bao.
Những bất cập của chính sách tiền lương đã dẫn đến lương bình quân của
Việt Nam thuộc nhóm thấp nhất ASEAN (ở mức 3,8 triệu đồng/ tháng tương
đương với 181 USD), chỉ cao hơn Lào, Campuchia nhưng vẫn thấp hơn nhiều so
với các nước còn lại trong ASEAN. Một khảo sát mới đây của Công ty dịch vụ
đầu tư quốc tế Dezan Shira & Associates cho thấy, tiền lương trung bình tháng của
Việt Nam chỉ bằng ¼ so với Malaysia và bằng ½ tiền lương ở Thái Lan và Trung
Quốc. Mức lương này chỉ cao hơn Lào (119 USD), Campuchia (121 USD) và thấp
Nhóm học viên thực hiện: Phan Thanh Lân; Nguyễn Văn Hùng; Lê Thuận Vũ - lớp K16B QLKT 20


Tác động của Hiệp định TPP tới việc làm, đời sống của người lao động và hoạt động công đoàn

hơn so với nhiều nước trong khu vực ASEAN như Philippines (206 USD), Thái
Lan (357 USD), Malaysia (609 USD), Singapore (3.547 USD).
b. Tác động tích cực tới vấn đề tiền lương
Đối với người lao động, tiền lương luôn là mối quan tâm đặc biệt bởi tiền
lương là nguồn thu nhập chủ yếu của người lao động; tiền lương là bộ phận chủ
yếu đáp ứng yêu cầu tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng sức lao động
trên các phương diện: thể lực, trí lực, văn hóa tinh thần và chi phí đào tạo cho cả

người lao động lẫn gia đình họ. Ngoài ra tiền lương thể hiện sự đánh giá của xã
hội đối với tài năng, trí tuệ, năng lực, kết quả lao động và cống hiến của mỗi
người. Ở mức độ nhất định, tiền lương có thể được xem là bằng chứng thể hiện giá
trị, địa vị, uy tín của người lao động trong xã hội. Vì vậy, tiền lương và thu nhập
phải thể hiện được sự công bằng trong phân phối theo kết quả lao động và hiệu
suất công tác của mỗi người. Đối với toàn bộ nền kinh tế, tiền lương là một trong
những chính sách kinh tế - xã hội vĩ mô quan trọng của Nhà nước nhằm phân
phối, điều tiết thu nhập. Một chính sách tiền lương hợp lý sẽ góp phần kích thích,
tạo động lực trong sản xuất kinh doanh; thúc đẩy phát triển thị trường lao động;
khuyến khích người lao động rèn luyện nghiệp vụ, nâng cao tay nghề, góp phần
phát triển và phân bố hiệu quả nguồn nhân lực; đồng thời, nâng cao hiệu quả sử
dụng lực lượng lao động, góp phần làm tăng thu nhập, nâng cao đời sống người
lao động; xây dựng quan hệ lao động hài hòa, đồng thuận ... Chính vì vậy, tiền
lương có thể sử dụng như một công cụ kích cầu trực tiếp, có hiệu lực nhanh nhất,
nhạy cảm nhất. Chính sách tiền lương sẽ tác động tích cực đến cải thiện đời sống
không chỉ của người lao động mà của toàn xã hội, từ đó kích thích sản xuất, dịch
vụ xã hội phát triển, tăng thu ngân sách.
Trong quá trình thực hiện TPP, sẽ làm cân bằng giá cả các yếu tố sản xuất
trong đó có yếu tố tiền công - tiền lương giữa các nước, các khu vực. Khoảng cách
về thu nhập của người lao động tại các nước, các vùng phát triển và chậm phát
triển hơn sẽ dần được thu hẹp lại do kết quả của việc tăng trao đổi thương mại và
luân chuyển vốn đầu tư sẽ có sự tăng mức lương trung bình giữa các nước khác
nhau nhờ quá trình tự do hóa thương mại và đầu tư. Với người lao động Việt Nam,
TPP sẽ có tác động tích cực tới tiền lương. Sự ảnh hưởng tích cực này được thực
hiện thông qua mối quan hệ trực tiếp giữa tiền lương vơi năng suất lao động, giữa
tiền lương với giá cả sức lao động.
TPP sẽ góp phần thúc đẩy mạnh mẽ sự tự do hóa thương mại đồng thời đẩy
nhanh quá trình CNH - HĐH đất nước, tiền lương của người lao động nước ta có
Nhóm học viên thực hiện: Phan Thanh Lân; Nguyễn Văn Hùng; Lê Thuận Vũ - lớp K16B QLKT 21



Tác động của Hiệp định TPP tới việc làm, đời sống của người lao động và hoạt động công đoàn

thể sẽ tiếp tục tăng lên hàng năm. Dự báo về triển vọng tiền lương khu vực châu Á
năm 2015 của Công ty tư vấn nhân sự Towers Watson cho hay, nếu tính cả yếu tố
lạm phát, tiền lương của Trung Quốc vẫn tiếp tục dẫn đầu năm 2015 với mức tăng
5,2%. Việt Nam theo sát Trung Quốc với 4,1%; Ấn Độ 3,5%; Indonesia 3,3%;
Malaysia và Singapore 2,2%.
Mức dự báo này phù hợp với xu hướng gần đây của khu vực châu Á - Thái
Bình Dương. Trong năm 2015, Chính phủ Việt Nam đã thực hiện tăng lương tối
thiểu vùng với mức tăng phụ thuộc vào từng vùng từ 250.000 - 400.000 VNĐ.
Đây là lần tăng lương thứ 4 của Việt Nam trong vòng 5 năm.
c. Tác động tiêu cực tới vấn đề tiền lương
Khi TPP được thực hiện, có thể dẫn tới nguy cơ tăng khoảng cách thu nhập,
đời sống không chỉ trong các bộ phận dân cư mà ngay cả trong đội ngũ công nhân,
lao động nước ta. Bởi các yếu tố của TPP không trực tiếp gây nên sự nghèo đói
nhưng lại làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo, đẩy nhanh tốc độ phân cực giữa
các nhóm lao động với nhau.
Do yêu cầu lao động, các nhóm lao động có trình độ cao sẽ được trả công cao
hơn gấp nhiều lần, thậm chí gấp hàng chục lần và được hưởng các đãi ngộ lớn hơn
hẳn các nhóm lao động khác. Đặc biệt, từ bất bình đẳng về thu nhập sẽ dẫn đến bất
vình đẳng về cơ hội, quyền lợi và địa vị xã hội giữa những người lao động như:
- Bất bình đẳng trong tiếp cận hệ thống giáo dục, dạy nghề.
- Bất bình đẳng trong cơ hội tạo việc làm, tìm kiếm và thay đổi việc làm
- Bất bình đẳng trong tiếp cận hệ thống chăm sóc, bảo vệ sức khỏe.
- Bất bình đẳng trong tiếp cận hệ thống BHXH.
- Bất bình đẳng về địa vị xã hội.
- Bất bình đẳng về cơ hội giao lưu xã hội, giao lưu quốc tế.
- Bất bình đẳng trong hưởng thụ đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần...
Ngoài ra, để đương đầu với những áp lực từ phía thị trường, nhiều doanh

nghiệp sẽ cắt giảm lao đông, giảm tiền lương và trợ cấp phúc lợi. Việc vi phạm
các quy định về điều kiện an toàn vệ sinh lao động, thời giờ làm việc, thời giờ
nghỉ ngơi và các điều kiện làm việc khác sẽ xảy ra thường xuyên hơn. Trong khi
hệ thống chính sách về bảo hiểm thất nghiệp, hưu trí, chăm sóc y tế, tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp chưa thực sự hoàn thiện để đáp ứng nhu cầu của nền kinh
tế thị trường hội nhập kinh tế quốc tế. Những yếu tố tiêu cực trên sẽ tác động làm
chi quan hệ lao động trở nên phức tạp hơn, dẫn đến những tranh chấp lao động lớn
hơn về quy mô, số lượng và phức tạp hơn về tính chất nếu như chúng ta không
khẩn trương có những giải pháp đồng bộ để giải quyết.
3.2. Tác động tới sự dịch chuyển lao động
Nhóm học viên thực hiện: Phan Thanh Lân; Nguyễn Văn Hùng; Lê Thuận Vũ - lớp K16B QLKT 22


Tác động của Hiệp định TPP tới việc làm, đời sống của người lao động và hoạt động công đoàn

Sự di chuyển lao động tự do phần lớn mang tính tự phát tới các vùng đô thị.
TPP được thực hiện, với làn sóng đầu tư mạnh mẽ vào Việt Nam, sự di chuyển lao
động diễn ra mạnh hơn, kéo theo nhiều tác động với mức độ lớn hơn. Sự di
chuyển này có tác động hai mặt tích cực lẫn tiêu cực.
a. Tác động tích cực
Cùng với đầu tư nước ngoài, kinh tế tư nhân cũng sẽ phát triển mạnh mẽ, điều
đó góp phần tạo nên nhiều chỗ làm việc mới và dẫn đến số lượng người lao động
chuyển đến khu vực đầu tư nước ngoài, khu vực kinh tế tư nhân ngày càng tăng
làm cho cơ cấu đội ngũ lao động theo thành phần kinh tế cũng có sự dịch chuyển
mạnh. Cùng với đó, phần lớn lao động và dân cư nước ta hiện nay vẫn ở khu vực
nông thôn, TPP sẽ góp phần đẩy nhanh hơn quá trình CNH - HĐH nông nghiệp,
nông thôn, quá trình đô thị hóa nông thôn sẽ tăng lên. Sẽ có một lượng lớn lao
động nông nghiệp, thanh niên nông thôn gia nhập đội ngũ công nhân lao động
trong các doanh nghiệp.
Ngoài ra TPP còn có những tác động kích thích di chuyển lao động ở cả tầm

quốc tế. Bên cạnh việc di chuyển lao động truyền thống còn dẫn đến sự dịch
chuyển lao động giữa các ngành nghề, các khu vực kinh tế, thu hút cả lao động
phổ thông, lao động có tay nghề ở những trình độ đào tạo khác nhau. Như vậy,
việc di chuyển lao động tự do góp phần quan trọng giải quyết việc làm cho bộ
phận lao động dư thừa đang có xu hướng tăng lên ở nông thôn. Nó cũng góp phần
dịch chuyển cơ cấu kinh tế trong cả nước, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh
tế và đáp ứng nhu cầu lao động cho nhiều ngành nghề mới.
b. Tác động tiêu cực
Trong quá trình thực hiện tự do hóa thương mại việc dịch chuyển cơ cấu
kinh tế sẽ làm cho lao động khu vực nông nghiệp có nhu cầu tìm việc làm mới
tăng cao khiến cho số lượng việc làm được tạo ra trong ngành kinh tế không thể
thu hút hết số lao động đang tìm việc làm hoặc thay đổi chỗ làm việc mới. Việc
gia tăng nhanh lao động trong khu vực doanh nghiệp bên cạnh việc tác động tích
cực tới việc làm - đời sống người lao động cũng như đặt ra hàng loạt vấn đề về
quản lý nhà nước về lao động. Bởi trên phương diện đời sống, những lao động tìm
việc làm hoặc thay đổi chỗ làm mới sẽ bỡ ngỡ và gặp khó khăn với môi trường
sinh hoạt đô thị và các khu công nghiệp. Họ không chỉ gặp khó khăn về chỗ ở và
việc làm mà còn gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận và hưởng các dịch vụ y tế,
giáo dục. Họ cũng không có điều kiện hưởng các chương trình trợ giúp của nhà
nước. Nhiều quyền, lợi ích chính đáng của lao động nhập cư không được đảm bảo
thực hiện.
Nhóm học viên thực hiện: Phan Thanh Lân; Nguyễn Văn Hùng; Lê Thuận Vũ - lớp K16B QLKT 23


Tác động của Hiệp định TPP tới việc làm, đời sống của người lao động và hoạt động công đoàn

Cùng với đó, lao động nhập cư với số lượng lớn sẽ làm cho đời sống dân cư ở
nhiều địa phương gặp khó khăn, làm tăng thêm gánh nặng đầu tư xây dựng cơ sở
hạ tầng, tăng nhanh về nhu cầu nhà ở, điện, nước, giao thông, làm tăng các tệ nạn
xã hội. Vì vậy, vấn đề di chuyển lao động vào các khu công nghiệp, các đô thị cần

được các cơ quan chức năng của Nhà nước nhìn nhận đúng để có chuyến lược lâu
dài. Tổ chức công đoàn cũng cần hết sức quan tâm để bảo vệ người lao động nhập
cư trong quá trình dịch chuyển lao động.

4. Tác động đến hoạt động công đoàn
Tham gia TPP sẽ tạo ra những thay đổi mạnh mẽ về hoạt động công đoàn, sự
biến động về đội ngũ công nhân, lao động và cán bộ, đoàn viên công đoàn, về
pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động công đoàn. Những yếu tố đó tạo ra
tác động tích cực và tiêu cực đan xen đối với tổ chức và hoạt động công đoàn.
4.1. Tác động tích cực tới tổ chức và hoạt động công đoàn
Tham gia TPP đưa đến sự tăng nhanh số lượng lao động và đơn vị doanh
nghiệp. Đây là nguồn phát triển đoàn viên và thành lập công đoàn cơ sở dồi dào
cho tổ chức công đoàn. Do áp lực về việc làm người lao động thường chấp nhận
những thiệt thòi về phía mình vì vậy trong quá trình tham gia quan hệ lao động
không tránh khỏi phát sinh mâu thuẫn giữa người lao động với chủ sử dụng lao
động. Người lao động sẽ có nhu cầu được tổ chức công đoàn quan tâm đến đời
sống, việc làm, đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng. Đây là điều
kiện thuận lợi để công đoàn tập hợp, vận động người lao động tham gia tổ chức
của mình.
Tham gia TPP đòi hỏi hệ thống pháp luật nước ta phải hoàn thiện, phù hợp
với thông lệ và pháp luật quốc tế. Trong đó, những quy định về quyền và nghĩa vụ
của không chỉ người lao động mà còn của các doanh nghiệp, các cơ quan quản lý
Nhà nước về lao động phải minh bạch và bảo đảm thực hiện nghiêm túc, hiệu quả
sẽ giúp cho công đoàn hoạt động được thuận lợi hơn, phát huy được vai trò và
thực hiện chức năng, nhiệm vụ tốt hơn. Cùng với đó, sự phát triển mạnh mẽ các
quan hệ thương mại sẽ góp phần tạo cơ hội gia tăng quan hệ hợp tác quốc tế trong
lĩnh vực lao động và công đoàn. Điều này tạo cơ hội thuận lợi để Công đoàn Việt
Nam đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động đối ngoại góp phần tăng cường hợp tác,
trao đổi kinh nghiệm hoạt động và tranh thủ sự hỗ trợ mọi mặt của công đoàn các
nước trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương.

Nhóm học viên thực hiện: Phan Thanh Lân; Nguyễn Văn Hùng; Lê Thuận Vũ - lớp K16B QLKT 24


Tác động của Hiệp định TPP tới việc làm, đời sống của người lao động và hoạt động công đoàn

4.2. Tác động tiêu cực tới tổ chức và hoạt động công đoàn
Kinh tế Việt Nam được dự báo sẽ tăng nhanh sau khi TPP chính thức được ký
kết dẫn đến tình trạng lao động tăng nhanh về số lượng, đa dạng về cơ cấu và quan
hệ lao động sẽ phức tạp hơn. Vì vậy, trong những năm đầu tham gia TPP sẽ có
những thách thức lớn đối với tổ chức và hoạt động công đoàn. Những thách thức
đó là: Giữ vững và phát triển đoàn viên, bảo vệ có hiệu quả quyền và lợi ích của
người lao động trong khi điều kiện về tổ chức bộ máy, về năng lực cán bộ chưa
được chuẩn bị một cách chu đáo.
Tự do hóa thương mại và cạnh tranh làm cho nhiều doanh nghiệp phải thu
hẹp sản xuất, giải thể, phá sản dẫn đến một bộ phận người lao động bị mất hoặc
thiếu việc làm, cuộc sống bị xáo trộn ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động công đoàn
cơ sở, tới ổn định tổ chức đoàn viên và sự gắn bó của người lao động, đoàn viên
với tổ chức công đoàn. Những vấn đề liên quan đến lao động và công đoàn (quyền
tự do lập hội, quyền thương lượng tập thể) cũng như những chính sách, quy định
pháp luật nói chung, những chính sách, quy định pháp luật lao động và công đoàn
nói riêng sẽ có sự thay đổi phù hợp với những công ước quốc tế mà Việt Nam
tham gia cũng sẽ có tác động tới môi trường lao động và tổ chức Công đoàn Việt
Nam.
Khi Hiệp định TPP có hiệu lực sẽ đặt ra những thách thức rất lớn cho tổ chức
và hoạt động của tổ chức công đoàn, nếu công đoàn hoạt động thật sự có hiệu quả
và mạnh dạn đấu tranh nói lên được tiếng nói bức xúc của người lao động, các tổ
chức của người lao động mới ra đời sẽ gia nhập vào tổ chức Công đoàn Việt Nam,
tạo thêm sức mạnh cho tổ chức công đoàn Việt Nam. Ngược lại, nếu công đoàn
hoạt động hời hợt, không hiệu quả và không đấu tranh cho quyền lợi của người lao
động, các tổ chức của người lao động mới ra đời sẽ không gia nhập vào Công

đoàn Việt Nam, mà họ tự liên kết lại để bảo vệ quyền lợi của người lao động có
hiệu quả hơn tổ chức công đoàn hiện tại và chắc chắn tổ chức công đoàn hiện tại
chỉ là hình thức, không có sức mạnh thực sự và đây là một thử thách vô cùng to
lớn đối với tổ chức công đoàn Việt Nam.
Hiệp định TPP đặt ra những thách thức không nhỏ cho Công đoàn Việt Nam,
nhưng thời cơ đi kèm trong những thách thức đó cũng chính là hứa hẹn cho sự
phát triển vững mạnh của Công đoàn Việt Nam khi Công đoàn Việt Nam có sự
chuẩn bị về chiến lược và đối sách hiệu quả nhằm hạn chế những tiêu cực, phát
Nhóm học viên thực hiện: Phan Thanh Lân; Nguyễn Văn Hùng; Lê Thuận Vũ - lớp K16B QLKT 25


×