Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

THỜI THƠ ẤU CỦA HỒ CHỦ TỊCH (1890 – 1911)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.87 KB, 22 trang )

THỜI THƠ ẤU CỦA HỒ CHỦ TỊCH
(1890 – 1911)
Chủ tịch Hồ Chí Minh (tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung, khi đi học lấy tên là
Nguyễn Tất Thành, trong nhiều năm hoạt động cách mạng trước đây lấy tên là Nguyễn
Ái Quốc), sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890, quê ngoại là làng Hoàng Trù; quê nội là làng
Kim Liên, nay thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
Cụ thân sinh ra Người là Nguyễn Sinh Huy, tức là Nguyễn Sinh Sắc (1863 - 1929). Cụ
đỗ phó bảng và sống bằng nghề dạy học. Sau khi đỗ phó bảng, bị bọn thống trị thúc ép
nhiều lần, cụ ra làm quan, nhưng thường tỏ thái độ không hợp tác với chúng. Cụ thường
chống đổi bọn quan trên và bọn thực dân Pháp, cho nên sau một thời gian rất ngắn, cụ
bị chúng cách chức. Cụ vào Miền Nam (Nam Bộ) làm nghề thầy thuốc, cho đến lúc từ
trần. Thân mẫu của Hồ Chủ tịch là cụ Hoàng Thị Loan (1868 - 1901), chị của Hồ Chủ
tịch là Nguyễn Thị Thanh, tức Bạch Liên (1884 – 1954) và anh của Người là Nguyễn
Sinh Khiêm, tức Nguyễn Tất Đạt (1888- 1950), đều tham gia phong trào chống thực
dân Pháp và bị tù đày.
Hồ Chủ tịch là con thứ ba trong gia đình. Người là một học trò thông minh, chăm chỉ
học tập và sớm có tinh thần yêu nước. Các phong trào đấu tranh của các sĩ phu yêu
nước như Phan Chu Chinh, Phan Bội Châu, Hoàng Hoa Thám...đã ảnh hưởng sâu sắc
đến Hồ Chủ tịch.
Người nhận thấy các phong trào yêu nước chưa có được đường lối đấu tranh đúng đắn.
Người cần phải sang các nước phương Tây học tập vì ở đó có tư tưởng tự do, dân chủ
và có khoa học, kỹ thuật hiện đại. Sau này Hồ Chủ tịch đã kể lại: "Vào trạc tuổi 13, lần
đầu tiên tôi đã được nghe những từ tiếng Pháp: tự do, bình đằng, bác ái... Thế là tôi
muốn làm quen với văn minh Pháp, tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những từ ấy".
Con đường của Hồ Chủ tịch khác hẳn với con đường của các nhà yêu nước tiền bối. Để
đi tìm con đường cứu nước, Hồ Chủ tịch đã đi khắp năm châu bốn biển, xem xét tình
hình, nghiên cứu những lý luận và kinh nghiệm cách mạng mới nhất của thời đại, hòa
mình với quần chúng công nhân và nhân dân lao động đủ các màu da.
Đầu năm 1911, Người bỏ học qua Phan Thiết và đã dạy học trong một thời gian ngắn
tại trường Dục Thanh, một trường tư do một số nhà văn thân yêu nước lập ra. Ít lâu sau,
Hồ Chủ tịch vào Sài Gòn, miền Nam (Nam kỳ) dưới chế độ thuộc địa cũng chẳng khác


gì miền Trung (Trung kỳ) dưới chế độ bảo hộ và miền Bắc (Bắc kỳ) dưới chế độ nửa
thuộc địa, nửa bảo hộ. Ở đâu nhân dân cũng bị áp bức, bóc lột đồng bào cũng bị đọa
đày khổ nhục. Điều đó càng thôi thúc Hồ Chủ tịch đi sang các nước Tây Âu để xem
nhân dân các nước ấy làm như thề nào mà trở nên độc lập hùng cường, rồi sẽ trở về
"giúp đỡ đồng bào" đánh đuổi thực dân Pháp. Ý định ấy của Người đã dẫn Người từng
bước đi tới tìm một phương hướng mới cho sự nghiệp cứu nước của nhân dân ta

HỒ CHỦ TỊCH THÀNH LẬP
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
(1911 - 1930)
Sau một thời gian ngắn ở Sài gòn, giữa năm 1911 lấy tên là Ba, Hồ Chủ tịch làm phụ bếp dưới tàu buôn Đô đốc
La Tút Sơ Tơ Rê Vi Lơ (Amiral Latouche Tréville) thuộc Hãng vận tải hợp nhất của Pháp. Từ đó Người ra đi,
trước tiên là sang Pháp. Người không chỉ dừng lại ở nước Pháp mà còn đi nhiều nước châu Âu, châu Phi và châu
Mỹ.


Người đã làm nhiều việc để kiếm sống: làm trên tàu, nấu bếp, làm vườn khi ở La Ha Vơ Rơ (Le Havre); quét
tuyết, đốt lò và phục vụ khách sạn ở Luân Đôn (Anh). Tại đây, Người tham gia Công đoàn lao động hải ngoại,
ủng hộ cuộc đấu tranh yêu nước của nhân dân Ai Len, liên hệ với một số người Việt Nam yêu nước ở Pháp. Tại
Mỹ, Hồ Chủ tịch đã đi làm thuê ở phố Bơ rút lin.
Qua nhiều nơi, Người thấy rõ những cảnh bất công, tàn bạo của xã hội tư bản và ở đâu giai cấp công nhân và nhân
dân lao động cũng bị áp bức, bóc lột rất dã man, các dân tộc thuộc địa đều có một kẻ thù là bọn đế quốc thực dân.
Do đó, Người nhận rõ giai cấp công nhân và nhân dân lao động các nước đều là bạn.
Năm 1917, giữa những ngày ác liệt của chiến tranh thế giới thứ nhất, từ Anh trở lại Pháp, Người tham gia Đảng xã hội
Pháp và lập ra Hội những người Việt Nam yêu nước để tuyên truyền và giác ngộ Việt kiều ở Pháp. Vừa hoạt động
chính trị, vừa phải tự kiếm sống một cách chật vật, khi thì làm cho một hiệu ảnh, khi thì vẽ thuê tại một xưởng "đồ cổ
mỹ nghệ Trung hoa". Người tập viết báo, phân phát truyền đơn tại các cuộc họp đề tố cáo tội ác của thực dân Pháp ở
thuộc địa.
Giữa những ngày hoạt động sôi nổi đó thì cách mạng tháng Mười Nga bùng nổ làm chấn động toàn cầu. Cách mạng
tháng mười Nga đã có một ảnh hưởng quyết định trong đời hoạt động của Hồ Chủ lịch. Người quyết tâm đi theo con

đường của Cách mạng tháng Mười Nga. Năm 1918, chiến tranh thế giới kết thúc. Năm sau, các nước đế quốc chủ
nghĩa thắng trận họp hội nghị ở Véc xây (Verseille, Pháp) nhằm chia lại thị trường thế giới. Thay mặt những người
Việt Nam yêu nước ở Pháp, Nguyễn Ái Quốc, là tên của Hồ Chủ tịch lúc đó, gửi đến Hội nghị bản yêu sách nổi tiếng
gồm 8 điểm, đòi chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam.
Sau Cách mạng tháng Mười Nga, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế phát triển mạnh mẽ. Đầu năm 1919, Lê
nin và những người theo chú nghĩa Mác họp Đại hội ở Maxcơva, thành lập Quốc tế thứ ba tức là Quốc tế cộng sản.
Đề cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lê nin, được Đại hội lần thứ hai của Quốc tế cộng sản năm 1920
thông qua, đã vạch ra đường lối cơ bản cho phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc.

Tại Đại hội lần thứ mười tám của Đảng xã hội Pháp họp ở Tua (từ ngày 25 đến ngày 30 tháng 12 năm 1920) Hồ Chủ
tịch đã đọc tham luận tố cáo những tội ác của thực dân Pháp ở Đông Dương và kêu gọi nhân dân Pháp ủng hộ cuộc
đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam và nhân dân các thuộc địa khác. Hồ Chủ tịch đã trở thành một trong
những người sáng lập Đảng cộng sản Pháp. (Còn tiếp
Năm 1921, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của Đảng cộng sản Pháp họp từ ngày 25 đến ngày 30 tháng 12,
tại thành phố Mác xây, Hồ Chủ tịch được cử vào Đoàn chủ tịch. Tại Đại hội này. Hồ Chủ tịch đã yêu cầu Đại hội
nghiên cứu và xây dựng một chính sách đối với thuộc địa theo đúng tư tưởng cộng sản chủ nghĩa. Người đề nghị
thành lập Ban nghiên cứu của Đảng về vấn đề thuộc địa. Ban này sẽ khởi thảo chính sách đối với thuộc địa và báo
cáo cho Đại hội năm sau (1922) xem xét và thông qua. Năm 1922, Hồ Chủ tịch là một ủy viên Ban nghiên cứu về
thuộc địa của Phân bộ Pháp của Quốc tế cộng sản. Đến Đại hội lần thứ hai (tháng 10-1922) của Đảng cộng sản
Pháp, trong phiên họp thứ 23, Hồ Chủ tịch lại được cử tham gia Đoàn Chủ tịch Đại hội. Hồ Chủ tịch là một trong
những đảng viên đầu tiên của Đảng cộng sản Pháp, và cũng là người cộng sản Việt Nam đầu tiên.
Năm 1921, được sự giúp đỡ của Đảng cộng sản Pháp, cùng với một số ngươi yêu nước của nhiều nước thuộc địa
Pháp, Người sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa. Là đại biểu của nhân dân Đông Dương, Người được bầu vào Ban
chấp hành trung ương hội, làm ủy viên thường trực.


Năm 1922, Hội liên hiệp thuộc địa cho xuất bản tờ báo Người cùng khổ (Le Paria). Hồ Chủ tịch là chủ nhiệm
kiêm chủ bút và quản lý tờ báo ấy. Báo Người cùng khổ vạch trần chính sách đàn áp, bóc lột dã man của chủ
nghĩa đế quốc nói chung và của đế quốc Pháp nói riêng, thức tỉnh các dân tộc bị áp bức nổi dậy đấu tranh cách
mạng. Nó được sự đồng tình và ủng hộ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Pháp. Báo Người cùng khổ

được bí mật chuyền về nước cho nhân dân ta. Nhờ tờ báo ấy, nhiều người Việt Nam yêu nước thấy rõ hơn những
tội ác của thực dân Pháp và bước đầu hiểu được Cách mạng tháng Mười Nga và Lê nin. Ngoài báo Người cùng
khổ, Hồ Chủ tịch còn sáng lập báo Việt Nam hồn, viết bằng tiếng Việt, là cơ quan tuyên truyền, giác ngộ lòng yêu
nước, ý thức dân tộc cho công nhân, nhân dân lao động nước ta và những Việt kiều lúc ấy đang sống ở Pháp.
HỒ CHỦ TỊCH THÀNH LẬP
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
(1911 - 1930)
Hồ Chủ tịch là người đầu tiên trong lịch sử cách mạng nước ta nhận rõ và tin tưởng tuyệt đối vào lực lượng cách
mạng vô địch của quần chúng nhân dân sẽ lật đổ ách thống trị của thực dân Pháp và bọn phong kiến tay sai.
Muốn giải phóng dân tộc, Người chủ trương trở về nước, đi vào quần chúng, tổ chức, huấn luyện, đoàn kết và
lãnh đạo họ đấu tranh, giành độc lập, tự do.
Hồ Chủ tịch về Quảng Châu (Trung Quốc) vào giữa tháng 12 năm 1924. Ở đây, Người lấy tên là Lý Thụy. Người
đi bán báo, bán thuốc lá để có tiền sinh sống và hoạt động cách mạng. Tiếp xúc với các nhà cách mạng Việt Nam,
Người xúc tiến việc chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức để thành lập một đảng kiểu mới của giai cấp công
nhân Việt Nam. Đồng thời, với danh nghĩa công khai, Hồ Chủ tịch công tác trong phái đoàn Bô Rô Đin, cố vấn
của Liên Xô, bên cạnh chính phủ Quốc Dân Đảng Trung Quốc.
Hồ Chủ tịch chọn một số thanh niên yêu nước mở các lớp huấn luyện chính trị đề đào tạo họ thành những cán bộ
cách mạng, rồi cho về nước truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê nin trong giai cấp công nhân và nhân dân ta. Người
sáng lập Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội, một tổ chức tiền thân của Đảng; xuất bản tờ tuần báo
Thanh niên, cơ quan của Tổng bộ thanh niên. Hồ Chủ tịch đã tham gia sáng lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp
bức ở Á Đông, trong đó có chi hội Việt Nam, để thống nhất hành động phòng kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc.
Những bài giảng của Hồ Chủ tịch tại các lớp huấn luyện ở Quảng châu được tập hợp lại, in thành cuốn sách với
tên là Đường cách mạng, do Bộ tuyên truyền của Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông xuất bản.
Tháng 4 năm 1927, sau vụ phản biến của bọn Tưởng Giới Thạch ở Quảng Châu, Hồ Chủ tịch đi Liên Xô, rồi đi
dự Hội nghị chống chiến tranh đế quốc họp ở Bơ Rúc Xen (Brucxelle, Bỉ); sau đó, Người qua các nước Đức,
Thụy sĩ, Ý, Thái Lan.
Từ mùa thu năm 1928, Người hoạt động ở Thái Lan, đào tạo cán bộ, tuyên truyền, giáo dục, tổ chức Việt kiều,
cho xuất bản tờ báo Thân ái, dùng làm cơ quan tuyên truyền cách mạng trong kiều bào và gửi về nước. Ngoài
những công việc nói trên, Hồ Chủ tịch còn học tiếng Thái Lan, dịch sách và nhất là tham gia với kiều bào trong
hội Hợp



Đồng thời, Người cũng viết nhiều bài cho các báo Nhân đạo, cơ quan trung ương của Đảng cộng sản Pháp, Đời
sống công nhân, cơ quan trung ương của Tổng liên đoàn lao động Pháp v.v..., và viết cuốn sách nổi tiếng Bản án
chế độ thực dân Pháp. Bản án chế độ thực dân Pháp là một đòn tiến công quyết liệt vào chủ nghĩa đế quốc và
bước đầu vạch ra con đường đấu tranh cách mạng đúng đắn cho nhân dân ta và các dân tộc bị áp bức khác. Vào
nửa sau của năm 1923, Hồ Chủ tịch từ Pháp đi Liên Xô. Với tư cách là đại biểu của nông dân các nước thuộc địa,
Người dự hội nghị Quốc tế nông dân họp từ ngày 12 đến ngày 15 tháng 10 năm 1923 và được bầu vào Ban chấp
hành Quốc tế nông dân. Ngày 21 tháng 1 năm 1924, Lê nin mất, Hồ Chú tịch đi viếng Lê nin và viết bài Lê nin và
các dân tộc thuộc địa.(Còn tiếp)
HỒ CHỦ TỊCH THÀNH LẬP
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
(1911 - 1930)
Hồ Chủ tịch ở lại Liên Xô một thời gian, làm việc ở Quốc tế cộng sản và viết nhiều bài cho báo Sự thật của Đảng
cộng sản Liên Xô, tạp chí Thư tín quốc tế của Quốc tế cộng sản để tiếp tục trình bày những ý kiến của mình về
cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Là đại biểu chính thức của Đảng cộng sản Pháp, Hồ Chủ tịch
dự Đại hội lần thứ năm của Quốc tế cộng sản (từ ngày 17 tháng 6 đến ngày 8 tháng 7 năm 1924 tại Maxcơva). Tại
Đại hội lần thứ năm của Quốc tế cộng sản, Người đọc một bản tham luận quan trọng, trình bày đầy đủ lập trường,
quan điểm của mình, thẳng thắn và thân ái phê bình một số đảng cộng sản lúc ấy chưa quan tâm đúng mức đến
cách mạng thuộc địa, đề ra những biện pháp tích cực đề đầy mạnh phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và
đặc biệt nhấn mạnh vấn đề giải phóng nông dân ở các nước đó.
Năm 1924, Hồ Chủ tịch nói: "Vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới phụ thuộc phần lớn vào các thuộc địa, nơi
cung cấp lương thực và binh lính cho các nước lớn đế quốc chủ nghĩa. Nếu chúng ta muốn đánh bại các nước này,
thì chúng ta trước hết phải tước hết thuộc địa của chúng đi".
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam đã chứng minh quan điểm cách mạng của Hồ Chủ
tịch là hoàn toàn đúng. Người khẩn thiết đề nghị Quốc tế cộng sản đến phong trào giải phóng dân tộc, cần tuyển
lựa đảng viên và đào tạo cán bộ cách mạng là người thuộc địa, bằng cách gửi họ sang học ở trường Đại học
phương Đông tại Maxcơva, tăng cường công tác tuyên truyền cách mạng ở các nước thuộc địa v.v…
Từ năm 1920, Hồ Chủ tịch đã thấy rõ cách mạng giải phóng dân tộc muốn giành được thắng lợi thì phải đi theo
con đường cách mạng vô sản. Người vạch rõ kẻ thù chủ yếu của nhân dân các nước thuộc địa là chủ nghĩa đế

quốc và bọn phong kiến tay sai.
Khi tên vua Khải Định sang Pháp dự triển lãm thuộc địa (1922), Người viết vở kịch Con rồng tre và nhiều bài báo
đả kích tên vua bù nhìn ấy. Hồ Chủ tịch sớm nhận rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân quốc tế là giai cấp
duy nhất có đủ khả năng lãnh đạo công cuộc giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng loài người
thoát khỏi ách thống trị của chủ nghĩa tư bản.
Năm 1921, Người đã nêu rõ: "Ở các nước thuộc địa, vấn đề giải phóng dân tộc, thực chất là giải phóng nông dân,
đánh đổ chủ nghĩa đế quốc giành độc lập dân tộc phải đi đôi với đánh đổ giai cấp địa chủ phong kiến, mang lại ruộng


đất cho nông dân". Hồ Chủ tịch đã sớm nhận rõ vai trò và sức mạnh của giai cấp nông dân trong cách mạng giải
phóng dân tộc.
Người đề nghị với những người cộng sản ở các nước nửa thuộc địa tiến hành mạnh mẽ một cuộc vận động khẩn
trương đề giáo dục quần chúng, làm cho quần chúng thấy thật rõ sức mạnh của mình, quyền lợi của mình và có đủ khả
năng thực hiện được khẩu hiệu "Tất cả ruộng đất về tay nông dân". (Còn t

HỒ CHỦ TỊCH THÀNH LẬP
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
(1911 - 1930)
Với kinh nghiệm của mình, Người đã áp dụng chủ nghĩa Mác - Lê nin một cách sáng tạo vào điều kiện cụ thể của
Việt Nam, đề ra đường lối cách mạng đúng đắn và tuyên truyền rộng rãi đường lối ấy bằng cuốn Đường cách
mạng và báo Thanh Niên
Từ cuối năm 1929, phong trào công nhân Việt Nam đã có tính chất độc lập rõ rệt, trở thành lực lượng nòng cốt
của phong trào giải phóng dân tộc ở nước ta. Phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân ta đang
đòi hỏi sự lãnh đạo của một đảng của giai cấp công nhân. Do đó Đông Dương Công sản Đảng ở Bắc Bộ và An
nam Cộng sản Đảng ở Nam Bộ ra đời. Trong tình hình ấy, Tân việt Cách mạng Đảng đã được cải tổ thành Đông
Dương Cộng sản Liên đoàn.
Tuy nhiên cả ba tổ chức trên đã không đoàn kết trong việc tuyên truyền vận động quần chúng. Mùa thu năm 1929, Hồ
Chủ tịch đã từ Thái Lan về Hương Cảng (Hồng Kông), triệu tập Hội nghị thành lập Đảng họp vào ngày 3 tháng 2 năm
1930 ở Cửu Long, gần Hương Cảng (Trung Quốc). Dưới sự chủ tọa của Người, Hội nghị quyết định thống nhất ba tổ
chức cộng sản ở Việt Nam thành một đảng lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Chính cương vắn tắt, Sách

lược vắn tắt và điều lệ đảng do Hồ Chủ tịch thảo ra
HỒ CHỦ TỊCH VÀ BẢN TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP
KHAI SINH NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
(1940 – 1945)
Từ năm 1924 Hồ Chủ tịch đã nhận định Đông Dương và Thái Bình Dương sẽ là một lò lửa của chiến tranh thế
giới mới. Khi Đảng ta thành lập, Người phân tích những mâu thuẫn của chủ nghĩa đế quốc và dự đoán là cuộc
chiến tranh thế giới thứ hai sẽ bùng nỗ. Tháng 9 năm 1939, chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra. Đảng ta đã kịp thời
rút vào hoạt động bí mật, chuyển trọng tâm công tác về nông thôn.
Tháng 11 năm 1939, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ sáu do đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Tổng bí thư của Đảng
chủ trì, quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, tập trung lực lượng vào nhiệm vụ giải phóng dân tộc và
thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương. Trong thời gian ấy, Hồ Chủ tịch (lấy tên là Hồ
Quang) đã về tới Hoa Nam (Trung Quốc) để bắt liên lạc với Trung ương Đảng và chuẩn bị điều kiện về nước hoạt
động. Đồng thời, Người chủ trương giữ vững liên lạc với quốc tế, củng cố các tổ chức cách mạng của ta ở ngoài
nước và chuẩn bị ứng phó với tình hình sẽ xảy ra khi "Hoa quân nhập Việt".


Tháng 6 năm 1940, phát xít Đức tiến công nước Pháp, Chính phủ tư sản Pháp đầu hàng, bọn thực dân Pháp ở
Đông Dương hoang mang. Hồ Chủ tịch nhận định đó là thời cơ bắt đầu có lợi cho cách mạng Việt Nam. Lúc bấy
giờ, đang công tác ở Quế Lâm (Trung Quốc), Người đã tính đến việc xây dựng căn cứ địa ở Cao Bằng. Người chỉ
thị cho một số cán bộ của Đảng đang hoạt động ở Trung Quốc phải gấp rút về nước chuẩn bị lực lượng, đón thời
cơ, giành chính quyền.
Từ năm 1939, Hồ Chủ tịch và Trung ương Đảng đã nhận định đế quốc Nhật sẽ xâm lược nước ta. Đúng như vậy,
tháng 9 năm 1940, phát xít Nhật xâm chiếm Đông Dương. Thực dân Pháp quỳ gối dâng Đông Dương cho Nhật.
Tháng 11 năm 1940, Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ bảy, xác định hai kẻ thù trước mắt là đế quốc phát
xít Nhật - Pháp và đề ra nhiệm vụ chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Hội nghị quyết định duy trì đội
du kích Bắc Sơn và xây dựng căn cứ địa cách mạng.
Cuối tháng 12 năm 1940, sau 30 năm xa cách, Hồ Chủ tịch trở về nước. Tại một làng ở biên giới Việt - Trung,
Người mở lớp huấn luyện đào tạo cán bộ theo tài liệu do Người biên soạn, sau gọi là Con đường giải phóng. Ngày
8 tháng 2 năm 1941 về đến Pác bó (Cao-bằng), lấy tên là già Thu, Người triệu tập Hội nghị lần thứ tám của Trung
ương, đào tạo cán bộ và trực tiếp chỉ đạo công tác thí điểm xây dựng các hội cứu quốc ở Cao Bằng. Người còn

lược dịch Lịch sử Đảng cộng sản Liên Xô và cho xuất bản báo Việt Nam độc lập (gọi tắt là Vìệt Lập). Mặc dù sống
và hoạt động trong những điều kiện vô cùng gian khổ, Người vẫn ung dung, thanh thản:
" Sớm ra bờ suối , tối vào hang,
Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng,
Bàn đá chông trênh dịch sử Đảng,
Cuộc đời cách mạng thật là sang"
(Tức cảnh Pác bó)
Dưới ngọn cờ trăm trận trăm thắng của chủ nghĩa Mác – Lê nin, Hồ Chủ tịch nêu cao khí phách hào hùng, tinh
thần tự lập, tự cường của một dân tộc bất khuất, đã có mấy nghìn năm lịch sử chiến đấu và chiến tháng:
" Non xa xa, nước xa xa,
Nào phải thênh thang mới gọi là,
Đây xuối Lê nin, kia núi Mác,
Hai tay xây dựng một sơn hà."
(Pác bó hùng vĩ)
Tháng 5 năm 1941, thay mặt Quốc tế cộng sản, Hồ Chủ tịch chủ trì Hội nghị lần thứ tám của Trung ương Đảng. Trên
cơ sở phân tích tình hình thế giới và trong nước một cách khoa học. Hội nghị xác định nhiệm vụ giải phóng dân tộc là
nhiệm vụ bức thiết nhất của cách mạng Đông Dương.(Còn tiếp
HỒ CHỦ TỊCH VÀ BẢN TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP
KHAI SINH NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
(1940 – 1945)


Hội nghị quyết định thành lập Việt Nam độc lập đồng minh hội, gọi tắt là Việt Minh. Để nhấn mạnh khẩu hiệu
giải phóng dân tộc, tên các hội quần chúng đều thống nhất là "Hội cứu quốc".
Hội nghị thay khấu hiệu "Thành lập chính phủ liên bang cộng hòa dân chủ Đông Dương" bằng khẩu hiệu "Thành
lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa". Hội nghị còn quyết định thành lập, phát triển và tăng cường lãnh đạo các
tổ chức vũ trang và nửa vũ trang.
Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Hồ Chú tịch, Hội nghị đã bầu Ban chấp hành trung ương mới và cử đồng chí Trường
Chinh làm Tổng bí thư của Đảng. Sau Hội nghị một ngày, Hồ Chủ tịch ra lời kêu gọi toàn dân đoàn kết đánh đuổi
phát xít Nhật Pháp

Để chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền, từ năm 1941, Hồ Chủ tịch chỉ thị tổ chức đội tự vệ vũ trang ở
Cao Bằng và tự tay biên soạn một số tài liệu quan trọng về chiến thuật du kích: Cách đánh du kích và Kinh
nghiệm Trung Quốc. Ngoài ra, Người còn biên dịch Phép dùng binh của Tôn Tử và sách dạy làm tướng của
Khổng Minh mà Người đặt dưới một đầu đề hoàn toàn mới là Cách huấn luyện cán bộ quân sự.
Sau Hội nghị lần thứ tám của Trung ương Đảng, theo chỉ thị của Hồ Chủ tịch, vấn đề "Nam tiến" được đặt ra và
tiến hành một cách khẩn trương. Người phân công một số cán bộ phụ trách đánh thông hai con đường Cao Bằng Lạng Sơn và Cao Bằng - Bắc Kạn – Thái Nguyên, để giữ vững liên lạc với Thường vụ Trung ương Đảng và tạo
điều kiện phát triển cơ sở chính trị và lực lượng vũ trang cách mạng.
Tháng 8 năm 1942 lấy tên là Hồ Chí Minh, Người sang Trung Quốc để liên lạc với các lực lượng cách mạng
chống Nhật của người Việt Nam ở đó. Nhưng vừa qua biên giới thì bị chính quyền địa phương của Tưởng Giới
Thạch bắt giam hơn một năm. Trong thời gian ấy, Người viết tập thơ Nhật ký trong tù. Bị giải tới, giải lui khắp 13
huyện và khoảng 30 nhà lao tỉnh Quảng Tây, Hồ Chủ tịch đã sống "cuộc sống khác với loài người". Nhưng không
gì có thể lay chuyển được ý chí sắt đá của Người:
"Kiên trì và nhẫn nại,
Không chịu lùi một phân,
Vật chất tuy đau khổ,
Không nao núng tinh thần".
(Bốn tháng rồi)
Người nói lên quyết tâm, tinh thần lạc quan và tin tưởng vào thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc:
"Thà chết chẳng cam nô lệ mãi,
Tung bay cờ nghĩa khắp trăm miền.
Xót mình giam hãm trong tù ngục,
Chưa được xông ra giữa trận tiền".
(Ở Việt Nam có biến động)
"Người thoát khỏi tù ra dựng nước,
Qua cơn hoạn nạn rõ lòng ngay;
người biết lo âu, ưu điểm lớn,


Nhà lao mở cửa ắt rồng bay".
(Đoán chữ)

Tháng 9 năm 1943, sau khi được trả lại tự do, Người tiếp xúc với các tổ chức chống Nhật, chống Pháp của người Việt
Nam ở Liễu Châu, đồng thời, nối lại liên lạc với Đảng để trở về nước tiếp tục lãnh đạo phong trào. (Còn tiếp
HỒ CHỦ TỊCH VÀ BẢN TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP
KHAI SINH NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
(1940 – 1945)
Cuối năm 1941 đầu năm 1942, chiến tranh du kích diễn ra 8 tháng liền ở Vũ Nhai (Thái Nguyên). Năm 1944,
phong trào cách mạng phát triền khá mạnh. Từ khu căn cứ Bắc Sơn, Vũ Nhai và Cao Bằng, phong trào lên cao,
chuyển sang đấu tranh du kích. Tháng 7 năm 1944, liên tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng họp nhận định tình hình và cho
rằng điều kiện đã chín muồi để phát động chiến tranh du kích trong liên tỉnh. Sau đó, liên tỉnh ủy sắp tổ chức một
cuộc họp cuối cùng để giải quyết những vấn đề còn lại và quyết định ngày giờ khởi nghĩa, thì Hồ Chủ tịch vừa trở
về đến Pác-bó (Cao-bằng). Sau khi nghe báo cáo về tình hình và nghị quyết của liên tỉnh ủy Hồ Chủ tịch quyết
định hoãn cuộc khởi nghĩa, vì nghị quyết ấy mới căn cứ vào tình hình Cao - Bắc - Lạng, chưa căn cứ vào tình hình
toàn quốc, tức là chỉ thấy bộ phận mà không thấy toàn thể. Người nhận định: bây giờ thời kỳ cách mạng hòa bình
phát triển đã qua, nhưng thời kỳ tổng khởi nghĩa toàn dân chưa đến.
Trên cơ sở các lực lượng vũ trang nhân dân đang hình thành, thực hiện chỉ thị của Hồ Chủ tịch, ngày 22 tháng 12
năm 1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy.
Người nâng cao vai trò tuyên truyền, giác ngộ cách mạng, vì cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến của
toàn dân, cần phải động viên toàn dần, vũ trang toàn dân,
Để tiến hành đấu tranh vũ trang, Người nhấn mạnh: phải hành động kiên quyết và nhanh chóng, trận đầu nhất định
phải giành được thắng lợi. Trong hoạt động, phải huấn luyện, trau dồi kinh nghiệm cho các đội vũ trang địa phương,
phối hợp tác chiến, giữ vững liên lạc với cơ quan lãnh đạo. Về chiến thuật tác chiến, Người căn dặn phải vận dụng lối
đánh du kích, bí mật, tích cực, nhanh chóng; tránh chủ quan, khinh địch; khi đi địch không biết, khi đến địch không
hay.
Người gửi thư cho đồng bào toàn quốc khẳng định thời cơ giải phóng dân tộc sắp đến gần và kêu gọi các đảng phái,
các đoàn thể ra sức chuẩn bị để họp toàn quốc đại biểu đại hội.
Từ Hội nghị lần thứ tám của Trung ương Đảng và nhất là từ tháng 9 năm 1944, Hồ Chủ tịch và Trung ương Đảng đã
nhận định rằng phát xít Nhật và thực dân Pháp nhất định sẽ loại trừ nhau: Đúng như vậy, ngày 9 tháng 3 năm 1945,
Nhật làm đảo chính, hất cẳng thực dân Pháp, độc chiếm Đông Dương. Từ ngày 9 đến ngày 12 tháng 3 năm 1945, Ban
thường vụ Trung ương Đảng họp hội nghị mở rộng ở Đình Bảng (Bắc Ninh) nhận định tình hình và ra bản chỉ thị rất
quan trọng Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta.

Tháng 5 năm 1945, Hồ Chủ tịch từ Cao Bằng về Tân Trào (Sơn Dương, Tuyên Quang) để trực tiếp chỉ đạo phong trào
cách mạng trong cả nước. Sau khi nghe báo cáo kỹ tình hình, Hồ Chủ tịch nhất trí với nội dung chỉ thị của Thường vụ
Trung ương và nội dung nghị quyết của Hội nghị quân sự cách mạng Bắc kỳ (tháng 4 năm 1945), đồng thời Người


còn bổ sung một số vấn đề quan trọng, như việc thành lập khu giải phóng ở Việt Bắc và thống nhất các lực lượng vũ
trang thành quân giải phóng (ngày 4 tháng 6 năm 1945). Liền sau đó, Hồ Chủ tịch đã kịp thời đề ra 10 chính sách cho
khu giải phóng: đánh đuổi phát xít Nhật và bè lũ tay sai; tịch thu tài sản của bọn cướp nước và bọn việt gian bán nước
chia cho dân nghèo; thực hiện quyền phổ thông tuyển cử và các quyền tự do dân chủ khác; vũ trang quần chúng, động
viên quần chủng nhân dân ủng hộ du kích và tham gia Quân giải phóng; tổ chức khai hoang, khuyến khích sản xuất,
thực hiện kinh tế tự túc ở Khu giải phóng; thi hành luật bảo hiềm xã hội, cứu tế nạn dân; chia lại ruộng công, giảm tô,
giảm tức và hoãn nợ, bỏ thuế khóa và phu dịch; thống nạn mù chữ và huấn luyện quân sự và chính trị cho nhân dân;
thực hiện dân tộc bình đấng, gái trai ngang quyền.
Chiến tranh thế giới đã bước vào giai đoạn kết thúc. Phát xít Đức, Ý đã đầu hàng Liên Xô và các nước Đồng minh;
phát xít Nhật ở Đông Dương hoang mang, dao động. Nắm vững thời cơ có một không hai đó, Hồ Chủ tịch cùng với
Trung ương Đảng kiên quyết phát động toàn dân nổi dậy tổng khởi nghĩa, giành chính quyền trong cả nước. Người
nhấn mạnh: "Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên
quyết giành cho được độc lập" (1). (Còn tiếp
HỒ CHỦ TỊCH VÀ BẢN TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP
KHAI SINH NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
(1940 – 1945)
Do đề nghị của Hồ Chủ tịch, Hội nghị toàn quốc của Đảng và Quốc dân đại hội được chuẩn bị từ trước đã liên
tiếp họp ở Tân Trào giữa lúc Quân đội Xô Viết vừa mới tiêu diệt được đội quân chủ lực của phát xít Nhật ở Đông
Bắc Trung Quốc. Hội nghị toàn quốc của Đảng họp từ ngày 13 đến ngày 15 tháng 8 năm 1945 quyết định tổng
khởi nghĩa và nêu ra mục tiêu đấu tranh là "phản đối xâm lược!" "hoàn toàn độc lập ! ", "chính quyền nhân dân !"
và ba nguyên tắc: tập trung, thống nhất và kịp thời đề chỉ đạo khởi nghĩa; đánh chiếm ngay những nơi chắc thắng,
không kể thành phố hay là nông thôn; phải phối hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, làm tan rã tinh thần
quân địch trước khi đánh.
Tiếp theo Hội nghị toàn quốc của Đảng, Quốc dân đại hội họp ngày 16 tháng 8 năm 1945, dưới quyền chủ tọa của
Hồ Chủ tịch. Quốc dân đại hội đã nhiệt liệt tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng ta và của Tổng bộ Việt

Minh. Đại hội cử ra Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam tức là Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Đồng thời, Đại hội còn quy định quốc kỳ và quốc ca của nước
Việt Nam mới. Cả nước vang lên lời kêu gọi tổng khởi nghĩa của Hồ Chủ tịch:
"Hỡi đồng bào yêu quý!
Hiện nay quân đội Nhật đã tan rã, phong trào cứu quốc lan tràn khắp nước...
Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng
cho ta. Nhiều dân tộc bị áp bức trên thế giới đang dua nhau tiến bước giành quyền độc lập. Chúng ta không thể
chậm trễ.
Ngày 25 tháng 8 năm 1945, Hồ Chú tịch từ Tân Trào (Tuyên Quang) trở về Hà Nội, để cùng Trung ương Đảng
trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Hồ Chủ tịch chủ tọa các phiên họp Thường vụ Trung ương Đảng tại Hà Nội, quyết


định những vấn đề quan trọng về đối nội và đối ngoại trong tình hình mới. Trước hết, phải sớm ra bản Tuyên
ngôn độc lập, công bố danh sách Chính phủ lâm thời và tổ chức lễ ra mắt của Chính phủ. Những việc này cần làm
ngay trước khi quân đội của Tưởng Giới Thạch vào Đông Dương tước vũ khí quân đội Nhật. Ngày 28 tháng 8,
danh sách Chính phủ lâm thời được công bố trên các báo chí tại Hà Nội. Theo đề nghị của Hồ Chủ tịch, thành
phần Chính phủ lâm thời được mở rộng.
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập lịch sử do Người thảo ra, tuyên bố nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa ra đời, thủ tiêu hoàn toàn chính quyền thực dân và phong kiến, khẳng định quyền tự do, độc lập của dân tộc
Việt Nam trước nhân dân ta và nhân dân thế giới : "Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm
nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phía Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do!
Dân tộc đó phải được độc lập! Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự
do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững
quyền tự do và độc lập ấy ". Tuyên ngôn độc lập là kết tinh những tác phẩm trước đây của Hồ Chủ tịch, những
văn kiện của Đảng và những bản tuyên ngôn của các anh hùng dân tộc và các vị cách mạng tiền bối. Tuyên ngôn
độc lập là một trang vẻ vang bậc nhất trong lịch sử đấu tranh kiên cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam ta từ
trước đến nay. Thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và có tính chất thời đại của Cách mạng tháng Tám đã mở ra một kỷ
nguyên mới trong lịch. sử dân tộc Vìệt Nam, vì nó đã khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Nhà nước
dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á.

"Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một đảng mới 15
tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc".
HỒ CHỦ TỊCH LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN
CHỐNG THỰC DÂN PHÁP
(1945 – 1954)
Mới giành được chính quyền, chưa có thời gian để tổ chức và củng cố lực lượng của mình nhân dân ta đã phải đối
phó với tình hình cực kỳ khó khăn, phức tạp. Nạn đói khủng khiếp do thực dân Pháp và phát xít Nhật gây ra vẫn
còn đe dọa nhân dân ta. Kinh tế, tài chính nước ta kiệt quệ. Trong khi đó ở miền Bắc, 20 vạn quân Tưởng thừa
lệnh đế quốc Mỹ kéo sang Việt Nam mượn cớ tước vũ khí quân Nhật, kỳ thật là nhằm thực hiện âm mưu tiêu diệt
Đảng ta, phá tan Việt Minh, giúp bọn phản động nước ta lật đổ chính quyền nhân dân, lập một chính phủ phản
động làm tay sai cho Mỹ, Tưởng. Bọn phản cách mạng như Việt Nam quốc dân đảng, Phục quốc, Việt Nam cách
mạng đồng minh hội, v.v... đòi thay đổi thành phần Chính phủ, thay đổi Quốc kỳ và đòi Hồ Chủ tịch phải từ chức
v.v...
Ở miền Nam, nấp sau lưng quân đội Anh, thực dân Pháp đã quay trở lại đánh chiếm nước ta một lần nữa. Bọn
phản động cũng nổi dậy làm tay sai cho thực dân Pháp, tìm mọi cách chống lại cuộc kháng chiến của đồng bào ta
ở miền Nam.
Trong lúc vận mệnh của Nhà nước ta như "ngàn cân treo sợi tóc" Hồ Chủ tịch kêu gọi nhân dân tăng cường đoàn
kết chống giặc đói, chống giặc dốt, chống giặc ngoại xâm và đề ra khẩu hiệu kháng chiến đi đôi với kiến quốc. Để
thực hiện nhiệm vụ chủ yếu lúc này là giữ vững chính quyền cách mạng, Hồ Chủ tịch đặt vấn đề phải tổ chức


càng sớm càng tốt cuộc tổng tuyển cử, bầu Quốc hội, thành lập Chính phủ chính thức và ban hành Hiến pháp dân
chủ, làm cho nhân dân tin tưởng vào chế độ mới. Trước thế giới, chính quyền do dân bầu ra sẽ có một giá trị pháp
lý không thể phủ nhận được.Ngày 6 tháng 1 năm 1946, cuộc tổng tuyển cử tiến hành thắng lợi trong cả nước.
Toàn dân ta tỏ rõ sự tín nhiệm đặc biệt đối với Hồ Chủ tịch. Ngày 2 tháng 3 năm 1946, trong kỳ họp đầu tiên của
Quốc hội, Người được bầu làm Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Uỷ ban dự thảo hiến pháp được thành
lập do Hồ Chủ tịch trực tiếp chỉ đạo.
Ngày 9 tháng 11 năm 1946, Quốc hội thông qua Hiến Pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, xác nhận
quyền làm chủ đất nước và các quyền tự do dân chủ của nhân dân ta. Để mang lại quyền lợi cấp bách và thiết thực cho
nhân dân, trước hết là cho công nông, Hồ Chủ tịch đề nghị với Chính phủ bãi bỏ chế độ thuế khóa của thực dân Pháp;

ban hành luật lao động, bảo vệ quyền lợi của công nhân; quy định giảm tô cho nông dân, lấy ruộng đất chia cho nông
dân. Người phát động chiến dịch tăng gia sản xuất, Tuần lễ vàng, thanh toán nạn mù chữ. Trong thư gửi học sinh
nhân dịp khai trường và thư gửi thiếu nhi nhân dịp tết Trung thu, Người căn dặn thiếu niên và nhi đồng phải cố gắng
học tập để mai sau xây dựng nước nhà.
Theo sáng kiến của Hồ Chủ tịch, tháng 5 năm 1946, Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Liên Việt) được thành
lập để mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, bắt tay với các đảng phái chính trị và các nhân sĩ dân chủ và thân sĩ yêu
nước mới gia nhập Mặt trận dân tộc thống nhất. ..(Còn tiếp)
HỒ CHỦ TỊCH LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN
CHỐNG THỰC DÂN PHÁP
(1945 – 1954)
Nhận rõ kẻ thù trước mắt là thực dân Pháp, Người tạm thời hoà hoãn với quân Tưởng, nhân nhượng cho chúng
một số quyền lợi về chính trị và kinh tế để giữ vững chính quyền, rảnh tay đối phó với quân Pháp ở miền Nam.
Từ cuối tháng 2 năm 1946, theo lệnh của đế quốc Mỹ, quân Tưởng đã thỏa thuận cho quân Pháp kéo ra miền Bắc
thay thế chúng.
Để không phải bước ngay vào cuộc chiến đẩu trên phạm vi cả nước chống nhiều kẻ thù cùng một lúc trong khi
chưa được chuẩn bị, Hồ Chủ tịch đã cùng với Trung ương Đảng chuyển sang chủ trương tạm thời hoà hoãn với
quân Pháp bằng Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946. Nhờ đó, chúng ta đã tống cổ quân Tưởng ra khỏi
miền Bắc, quét sạch bọn tay sai của chúng, đồng thời cũng phá được âm mưu của đế quốc Mỹ.
Ngày 31 tháng 5 năm 1946, Hồ Chủ tịch lên đường thăm nước Pháp với tư cách là thượng khách của chính phủ
Pháp. Trong thời gian ở nước Pháp, Hồ Chủ tịch đã tranh thủ tuyên truyền cho mọi tầng lớp nhân dân Pháp hiểu
rõ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta, tranh thủ được sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân Pháp và nâng
cao uy tín của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa trên trường quốc tế. Người tỏ rõ thiện chí hòa bình của nhân dân
ta trên nguyên tắc bảo vệ chủ quyền và thống nhất của dân tộc ta: "Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam.
Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi.

Do thái độ ngoan cố và hiếu chiến của thực dân Pháp, cuộc đàm phán chính thức giữa đoàn đại biểu Chính phủ ta


do đồng chí Phạm Văn Đồng dẫn đầu với đoàn đại biểu Chính phủ Pháp tại Phông Ten Nơ Bơ Lô (Fontaine
Bleau) không thành công. Hồ Chủ tịch ký Tạm ước ngày 14 tháng 9 năm 1946 với Chính phủ Pháp để tranh thủ

thời gian tiếp tục xây dựng lực lượng, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến toàn quốc, điều mà Người biết chắc chắn sẽ
xảy ra.
Trước những hành động xâm lược trắng trợn của thực dân Pháp, đêm 19 tháng 12 năm 1946, cuộc kháng chiến từ
cục bộ đã lan ra khắp nước.
Ngày 20 tháng 12 năm 1946, Hồ Chủ tịch ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến:
"Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta đã nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn
tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa". "Không Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất
nước, nhất định không chịu làm nô lệ.

Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên!
"Bất kỳ dàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ không chia tôn giáo đảng phái, dân tộc, hễ là người Việt Nam thì
phải đứng lên đánh thực dân Pháp, cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì
dùng cuốc, thuổng, gậy gộc, ai cũng phải ra sức chống thực dân cứu nước
HỒ CHỦ TỊCH LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN
CHỐNG THỰC DÂN PHÁP
(1945 – 1954)
Để động viên mọi lực lượng kháng chiến, tháng 6 năm 1948, Hồ Chủ tịch ra Lời kêu gọi thi đua yêu nước: thi đua
diệt giặc đói, diệt giặc dốt và diệt giặc ngoại xâm; thi đua thực hiện toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến,
tiền tuyến thi đua giết giặc, hậu phương thi đua sản xuất và tiết kiệm.
Hồ Chủ tịch luôn luôn chăm lo củng cố và phát triển Đảng. Hồ Chủ tịch chỉ rõ Đảng cần phải mạnh mẽ, trong
sạch, kiểu mẫu, toàn Đảng phải nhất trí về tư tưởng, thống nhất về tổ chức và hành động. Cán bộ, đảng viên phải
kiên quyết chấp hành đúng mọi chính sách của Đảng và Chính phủ; phải liên hệ mật thiết với quần chúng, đi
đường lối quần chúng; phải thực hiện tự phê bình và phê bình. Đảng viên phải toàn tâm toàn ý phục vụ Đảng,
phục vụ nhân dân, phải có nhiệt tình cách mạng và phẩm chất, đạo đức tốt.
Tháng 3 năm 1947, Người viết Thư gửi các đồng chí Bắc Bộ và tiếp đấy viết thư gửi Các đồng chí Trung Bộ, kêu
gọi cán bộ đảng viên hãy đem tất cả tinh thần và lực lượng để lãnh đạo toàn thể nhân dân ta nhằm vào một mục
đích: đánh đuổi thực dân Pháp, làm cho nước nhà thống nhất và độc lập. Người phê phán những khuyết điểm của
cán bộ, đảng viên như: địa phương chủ nghĩa, óc bè phái, quân phiệt, quan liêu, hẹp hòi, ham chuộng hình thức,
làm việc lối bàn giấy, vô kỷ luật, ích kỷ, hủ hóa. Tháng 10 năm 1947, Người viết cuốn Sửa đổi lối làm việc làm tài
liệu tu dưỡng tư tưởng, đạo đức và tác phong cho cán bộ và đảng viên. Người nêu lên 12 điều xây dựng Đảng và 5

điểm về đạo đức cách mạng: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm.

Để tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, Hồ Chủ tịch và Trung ương Đảng chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang


nhân dân với ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích. Người thường nhắc nhở: quân
đội từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, "quân với dân như cá với nước" cho nên phải bảo vệ tính mạng
và tài sản của nhân dân, không được động đến một cái kim, sợi chỉ của dân; đóng quân ở đâu phải giúp đỡ nhân
dân ở đó tăng gia sản xuất.
Hồ Chủ tịch khẳng định rằng chính quyền phải thật sự là của nhân dân, do dân cử ra để phục vụ nhân dân. Cán bộ
và nhân viên chính quyến phải là "đầy tớ trung thành của nhân dân", gương mẫu trong việc thực hiện các chính
sách của Chính phủ....
Ngày 14 tháng 1 năm 1950, Hồ Chủ tịch tuyên bố sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với các nước tôn trọng quyền
bình đẳng và chủ quyền của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Liền sau đó Liên Xô, Trung Quốc và các nước dân
chủ nhân dân khác lần lượt công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với nước ta.
Tháng 9 năm 1950, Hồ Chủ tịch và Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch biên giới. Lần đầu tiên quân ta mở
một chiến dịch lớn như thế. Hồ Chủ tịch đích thân ra mặt trận, trực tiếp tham gia chỉ đạo tác chiến
Tháng 2 năm 1951, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thú hai của Đảng họp tại căn cứ địa Việt Bắc. Trong Báo cáo
chính trị đọc trước Đại hội, Hồ Chủ tịch tổng kết kinh nghiệm hoạt động trong 21 năm qua, khẳng định đường lối lãnh
đạo đúng đắn của Đảng ta, vạch rõ ưu khuyết điểm của cán bộ đảng viên. Bản báo cáo vạch trần âm mưu của đế quốc
Mỹ can thiệp sâu vào Đông dương, nêu lên khẩu hiệu chính của ta là: "Tiêu diệt thực dân Pháp và đánh bại bọn can
thiệp Mỹ, giành thống nhất độc lập hoàn toàn, bảo vệ hoà bình thế giới". Hồ Chủ tịch nhấn mạnh cần phải chú trọng,
tăng cường đoàn kết toàn dân, phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc. Hồ Chủ tịch còn nêu lên sự cần thiết của
tình đoàn kết giữa các nước anh em Lào, Cam Pu Chia tiến đến thành lập Mặt trận các dân tộc Việt Nam - Khơ me Lào.
Chính cương Đảng lao động Việt Nam là sự tổng hợp những ý kiến lớn trong Báo cáo chính trị của Hồ Chủ tịch
và báo cáo Bàn về cách mạng Việt Nam của đồng chí Trường Chinh. Nó đã khẳng định đường lối cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và soi sáng đường lối kháng chiến để đi
đến thắng lợi hoàn toàn. Về Đảng lao động Việt Nam, Hồ Chủ tịch đã nhấn mạnh lập trường quan điểm của Đảng
và tư cách đảng viên: Đảng viên Đảng lao động Việt Nam là những người mà:


-

Giầu sang không thể quyến rũ

-

Nghèo khó không thể chuyển lay

-

Uy lực không thể khuất phục" (1)

Đại hội đã bầu ra Ban chấp hành trung ương mới và nhất trí bầu Hồ Chủ tịch làm Chủ tịch Đảng và đồng chí
Trường Chinh được bầu lại làm Tổng bí thư của Đảng.
Thực hiện chủ trương mở rộng và tăng cường khối đoàn kết dân tộc, ngày 3 tháng 3 năm 1951, Việt Minh và Liên
Việt mở Đại hội quyết định hợp nhất thành một Mặt trận. Người nhấn mạnh Mặt trận cần phải đoàn kết chặt chẽ
và lâu dài, thực hiện phê bình và tự phê bình, thân ái giúp đỡ nhau để cùng tiến bộ.


Tổng kết những kinh nghiệm trong quá trình thực hiện chính sách đại đoàn kểt dân tộc, Hồ Chủ tịch nêu lên một
khẩu hiệu nỗi tiếng:
"Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,
Thành công, thành công, đại thành công"
Năm 1952, Hồ Chủ tịch và Trung ương Đảng chủ trương mở cuộc vận động chỉnh Đảng, chỉnh quân và chỉnh đốn
công tác quần chúng nhằm nâng cao trình độ chính trị và tư tưởng cho cán bộ, đảng viên, cho quân đội và các đoàn
thể quần chúng, chú trọng bồi dưỡng sức dân, chủ yếu là nông dân, vì: Nông dân là một lực lượng rất to lớn của dân
tộc, một đồng minh của giai cấp công nhân
HỒ CHỦ TỊCH LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN
CHỐNG THỰC DÂN PHÁP
(1945 – 1954)

Tháng 12 năm 1953, dưới sự chủ tọa của Hồ Chủ tịch, Quốc hội thông qua Luật cải cách ruộng đất. Đông xuân
1953 -1954, trên đà thắng lợi, quân và dân ta đã tập trung lực lượng tiến công địch ở hầu khắp các chiến trường,
từ đồng bằng Bắc Bộ đến Bình Trị Thiên, Liên khu V và Nam Bộ, phá tan kế hoạch giành lại quyền chủ động của
địch.
Để đập tan cố gắng cuối cùng của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, tháng 12 năm 1953, Hồ Chủ tịch chủ tọa Hội nghị
Bộ chính trị Trung ương Đảng, quyết định tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Thắng lợi của quân và dân ta
trên chiến trường buộc Chính phủ Pháp ngồi vào bàn đàm phán với Chính phủ ta ở Hội nghị Giơ ne vơ (Genève).
Ngày 7 tháng 5 năm 1954, quân và dân ta giành chiến thắng vĩ đại ở Điện Biên Phủ. Tháng 7 năm 1954, Trung ương
Đảng họp Hội nghị lần thứ sáu để chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta
đi vào bước ngoặt mới của cách mạng. Tại Hội nghị, Hồ Chủ tịch chỉ rõ đế quốc Mỹ đang trở thành kẻ thù chính và
trực tiếp của nhân dân ta. Để phù hợp với tình hình mới, Hội nghị quyết định thay khẩu hiệu kháng chiến đến cùng
bằng khẩu hiệu hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ.

Ngày 20 tháng 7 năm 1954, Hội nghị Giơ ne vơ về Đông Dương kết thúc. Chính phủ Pháp phải ký kết đình chiến
trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào và Cam pu chia. Mặc
dù có tình phá hoại hội nghị, đế quốc Mỹ cũng phải cam kết tôn trọng Hiệp nghị Giơ ne vơ về Đông Dương.
Ngày 22 tháng 7 năm 1954, Hồ Chủ tịch ra lời kêu gọi đồng bào cả nước ra sức phấn đấu đề củng cố hòa bình
thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ trong cả nước.
Chiến thắng Điện Biên Phủ đã thể hiện đường lối kháng chiến đúng đắn và sáng tạo: Lần đầu tiên trong lịch sử,
một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh, góp phần thúc đẩy quá trình sụp đổ
nhanh chóng của hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc. Đó là thắng lợi vẻ vang của nhân dân ta, đồng thời
cũng là thắng lợi của các lực lượng hào binh, hân chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế giới".
Việt Nam - Điện Biên Phủ - Hồ Chí Minh, trở thành khẩu hiệu chiến đấu của các dân tộc bị áp bức, được nhân
dân thế giới nhắc đến với niềm tự hào và cảm phục.


HỒ CHÍ MINH LÃNH ĐẠO CÁCH MẠNG XHCN VÀ CUỘC ĐẤU TRANH CỦA TOÀN DÂN NHẰM
THỰC HIỆN HOÀ BÌNH THỐNG NHẤT NƯỚC NHÀ
(1954 -1965)
Chiến thắng Điện Biên Phủ và thắng lợi của Hội nghị Giơnevơ (Genève) năm 1954 về Đông Dương mở ra một

thời kỳ mới trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Hòa bình được lập lại ở Đông Dương; miền Bắc Việt Nam được
giải phóng khỏi ách đế quốc.
Ngày 1 tháng 1 năm 1955, trên Quảng trường Ba Đình lịch sử, nhân dân ta vui mừng đón chào Hồ Chủ tịch,
Trung ương Đảng và Chính phủ trở về Thủ đô sau những năm kháng chiến gian khổ và anh dũng.
Từ năm 1955, ở miền Nam nước ta, đế quốc Mỹ ra sức hất cẳng thực dân Pháp, âm mưu biến một nửa nước ta
thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ, chuẩn bị gây lại chiến tranh. Trước tình hình mới, Hồ Chủ
tịch và Trung ương Đảng nêu lên hai nhiệm vụ chiến lược phải đồng thời tiến hành: Xây dựng miền Bắc, đưa
miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà, tiếp tục hoàn thành cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.
Hồ Chủ tịch và Trung ương Đảng nêu lên nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân ta là phải nhanh chóng xây dựng
miền Bắc thành căn cứ địa vững mạnh cho cách mạng cả nước.
Người kêu gọi toàn thể nhân dân ta thi đua tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, mọi công việc đều phải làm
nhiều, nhanh, tốt, rẻ, để hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch Nhà nước. Người đã đến thăm hầu khắp
các tỉnh miền Bắc, từ vùng mỏ Quảng Ninh đến các khu tự trị Việt Bắc và Tây Bắc, từ các thành phố đến các
vùng nông thôn đồng bằng. Người thăm hỏi công nhân trên các công trường xây dựng nhà máy mới, đi thăm các
công trình thủy lợi đang xây dựng, cùng bà con nông dân tát nước chống hạn, tham gia Tết trồng cây v.v...
Nhằm ổn định kinh tế và cải thiện đời sống của nhân dân, Hồ Chủ tịch và Trung ương Đảng nêu lên nhiệm vụ cần
kíp lúc đó là phải tiếp tục hoàn thành cải cách ruộng đất. Đến giữa năm 1956, công cuộc cải cách ruộng đất đã căn
bản hoàn thành trên miền Bắc nước ta.
Khơi dậy khối đại đoàn kết toàn dân, Hồ Chủ tịch và Trung ương Đảng chủ trương cải tổ Mặt trận Liên - Việt
thành Mặt trận thống nhất dân tộc.
Từ ngày 5 đến ngày 10 tháng 9 năm 1955, Đại hội Mặt trận dân tộc thống nhất toàn quốc đã họp ở Hà Nội, quyết
định mở rộng và củng cố Mặt trận, thành lập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đại hội đã thông qua một bản cương
lĩnh mới nhằm mục đích đấu tranh cho hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ trong cả nước. Tháng 1 năm 1957,
Quốc hội quyết định thành lập Ban sửa đổi Hiến pháp do Hồ Chủ tịch làm trưởng ban. Sau ba năm chuẩn bị và
nghiên cứu, tháng 12 năm 1959, Hồ Chủ tịch đã trình bày trước Quốc hội bản dự thảo Hiến pháp sửa đổi và được
Quốc hội nhất trí thông qua. Đó là bản Hiến pháp xã hội chủ nghĩa, đáp ứng đúng nguyện vọng tha thiết của nhân
dân ta và chỉ rõ con đường vẻ vang mà nhân dân ta đang noi theo. Công cuộc khôi phục kinh tế ở miền Bắc đã
hoàn thành thắng lợi, Hồ Chủ tịch và Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân ta bước vào thới kỳ cải tạo xa hội chủ
nghĩa, bước đầu phát triển kinh tế và văn hóa (1958 -1960).

Ngày 3 tháng 8 năm 1959, Người viết thư kêu gọi nông dân ra sức phát triển và củng cố các tổ đổi công và hợp
tác xã, đồng thời phải thi đua cải tiến kỹ thuật, đó là hai chân của nông nghiệp, đưa nông nghiệp phát triển nhanh.


Đến cuối năm 1960, việc cải tạo nông nghiệp theo hình thức hợp tác xã bậc thấp đã căn bản hoàn thành. Cuộc vận
động cải tạo công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa tư doanh và thủ công nghiệp theo chủ nghĩa xã hội cũng tiến
hành có kết quả tốt. Với những thắng lợi đó, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đã được xác lập trên miền Bắc
nước ta. Trong công cuộc xây dựng đất nước, Hồ Chủ tịch kêu gọi nhân dân ta phải dựa vào sức mình là chính,
đồng thời coi trọng sự ủng hộ và giúp đỡ của các nước anh em.
HỒ CHÍ MINH LÃNH ĐẠO CÁCH MẠNG XHCN VÀ CUỘC ĐẤU TRANH CỦA TOÀN DÂN NHẰM
THỰC HIỆN HOÀ BÌNH THỐNG NHẤT NƯỚC NHÀ
(1954 -1965)
Để củng cố mối đoàn kết quốc tế trong tinh thần quốc tế vô sản, tháng 6 năm 1955, Hồ Chủ tịch đi thăm Liên Xô,
Trung Quốc, Mông Cổ và một số nước xã hội chủ nghĩa (năm 1957), tiếp đến là các nước Ấn Độ (tháng 2 năm
1958), In-đô-nêxia (tháng 2 năm 1959). Đi đến đâu Hồ Chủ tịch và đoàn đại biểu Việt Nam cũng nhận được sự
ủng hộ nhiệt tình đối với sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa Xã hội của nhân dân ta.
Trong hai cuộc Hội nghị quốc tế các đảng cộng sản và công nhân họp tại Maxcơva (tháng 11 năm 1957 và tháng
11 năm 1960), Đoàn đại biểu Đảng ta do Hồ Chủ tịch dẫn đầu đã đóng góp tích cực vào việc tổng kết những vấn
đề chiến lược và sách lược của cách mạng thế giới, đề ra những quy luật phổ biến của sự nghiệp cách mạng xã hội
chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đầu năm 1960, chào mừng Đảng ta 30 tuổi và đón chào Đại hội lần thứ ba của Đảng sắp họp, Hồ Chủ tịch viết bài
Ba mươi năm hoạt động của Đảng tổng kết lịch sử Đảng ta qua 30 năm đấu tranh oanh liệt và chiến thắng vẻ
vang.
Tháng 9 năm 1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ ba của Đảng họp tại Thủ đô Hà Nội. Đại hội thông qua
Điều lệ mới của Đảng, bầu ra Ban chấp hành trung ương mới của Đảng ta. Hồ Chủ tịch được bầu lại làm Chủ tịch
Ban chấp hành Trung ương Đảng và đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương
Đảng.
Ngày 27 tháng 3 năm 1964 Hồ Chủ tịch triệu tập Hội nghị chính trị đặc biệt. Báo cáo trước Hội nghị, Hồ Chủ tịch
nêu cao tinh thần phấn đấu dũng cảm của nhân dân lao động miền Bắc trong 10 năm xây dựng đất nước, chỉ rõ
chế độ xã hội chủ nghĩa là rất tốt đẹp và đang cổ vũ mạnh mẽ cuộc đấu tranh yêu nước của đồng bào miền Nam.

Người biểu dương tinh thần đấu tranh kiên cường, bất khuất và hoan nghênh những thắng lợi của quân và dân
miền Nam, dưới sự lãnh đạo của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, đang giáng cho đế quốc Mỹ và
bè lũ tay sai những đòn quyết liệt, xứng đáng với danh hiệu "Thành đồng Tổ quốc". Để góp phần trong cuộc đấu
tranh của nhân dân miền Nam tiến tới một nước Việt Nam độc lập, Người ra lời kêu gọi " Mỗi người chúng ta
phải làm việc bằng hai".
Những cuộc đồng khởi nổ ra từ đầu năm 1960, đánh dấu một bước nhảy vọt quan trọng, dẫn đến sự thành lập Mặt
trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ngày 20 tháng 2 năm 1960.
Hoảng sợ trước cuộc đấu tranh mạnh mẽ và dồn dập của quân và dân miền Nam, từ giữa năng 1961, đế quốc Mỹ
gây ra "cuộc chiến tranh đặc biệt".
Trong những năm miền Nam chiến đấu quyết liệt chống đế quốc Mỹ xâm lược, Hồ Chủ tịch đã có ý định vào
miền Nam để thăm đồng bào, đồng chí. Người nêu vấn đề này một cách kiên quyết. Trong những năm cuối của


đời mình, tuy yếu, nhưng Hồ Chủ tịch vẫn tập đi bộ, tập leo dốc, và nhiều khi leo những dốc khá cao: Người
muốn xem sức mình hiện nay thế nào và vẫn quyết tâm rèn luyện để thực hiện ý định vào miền Nam thăm đồng
bào, đồng chí.
Từ năm 1968 trở đi thấy sức khỏe của mình đã sút kém nhiều hơn, Hồ Chủ tịch yêu cầu: hễ có đồng chí miền
Nam ra thì phải cho Người biết và đưa vào gặp Người. Vì vậy, rất nhiều cán bộ, chiến sĩ miền Nam ra Bắc đã
được vào thăm Người. Mỗi lần gặp, Hồ Chủ tịch đều hỏi thăm tình hình miền Nam rất tỉ mỉ và Người rất vu
HỒ CHÍ MINH LÃNH ĐẠO
CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ
(1965 – 1969)
Trước nguy cơ thất bại trong chiến tranh xâm lược ở miền Nam Việt Nam, đế quốc Mỹ điên cuồng gây chiến
tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc, đồng thời liều lĩnh chuyển "chiến tranh đặc biệt"
của chúng ở miền Nam ra chiến tranh cục bộ.
Trước tình hình nghiêm trọng do âm mưu và hành động chiến tranh mới của đế quốc Mỹ gây ra, Hồ Chủ tịch và
Trung ương Đảng nêu cao quyết tâm động viên lực lượng của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân kiên quyết đánh bại
cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất cứ tình huống nào, nhằm bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền
Nam, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thực hiện hòa bình thống
nhất Tổ quốc. Hồ Chủ tịch và Trung ương Đảng nêu rõ nhiệm vụ cấp bách của cách mạng miền Bắc là phải kịp

thời chuyển hướng tư tưởng và tổ chức, chuyển hướng xây dựng kinh tế và tăng cường lực lượng quốc phòng, để
miền Bắc có đủ sức mạnh kịp thời đáp ứng yêu cầu bảo vệ miền Bắc, chi viện cho cách mạng miền Nam, đồng
thời nên tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
Lời kêu gọi Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược của Hồ Chủ tịch lại vang lên như tiếng kêu xung trận:
Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí
nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ ! Không có gì quý hơn độc lập tự do.
Người nhắc nhở cán bộ phải chú ý từ việc đào hầm trú ẩn đến việc sơ tán người già và trẻ em. Người thăm hỏi
đồng bào những nơi bị địch bắn phá, chăm lo việc ổn định đời sống của nhân dân. Người đi thăm nhiều đơn vị
thuộc các lực lượng vũ trang nhân dân, gửi hoa chúc Tết các chiến sĩ đang trực tiếp chiến đấu trên trận địa. Lá cờ
Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược của Hồ chủ tịch đặt ra làm giải thưởng luân lưu từ tháng 3 năm 1965 đã
động viên toàn quân và toàn dân ta sôi nổi thi đua lập công.
Từ năm 1959, Hồ Chủ tịch đã thưởng hàng nghìn huy hiệu của người để biểu dương những người tốt, việc tốt của
các ngành, các giới ở các địa phương trên toàn miền Bắc. Để nâng cao tác dụng giáo dục hơn nữa, giữa năm1968,
Người đề ra việc bồi dưỡng và nêu gương "người tốt, việc tốt", lấy đó làm biện pháp cơ bản xây dựng con người
mới, con người xã hội chủ nghĩa đang chiến thắng bọn Mỹ xâm lược và chiến thắng tự nhiênĐầu năm 1969,
Người viết một bài quan trọng nhan đề là Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Người chỉ
thị cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta phải kết hợp học tập với việc kiểm điểm tư tưởng và việc làm trong
những năm qua, phát huy những ưu điểm và thắng lợi đã giành được, khắc phục những khuyết điểm trong tư
tưởng, đạo đức và tác phong, phấn đấu đưa sự nghiệp cách mạng đến thắng lợi to lớn hơn


HỒ CHÍ MINH LÃNH ĐẠO
CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ
(1965 – 1969)
Cuối tháng 4 năm 1969, Quốc hội đã thông qua và quyết định thi hành Điều lệ hợp tác xã sản xuất nông nghiệp
bậc cao nhằm đảm bảo thật sự quyền làm chủ tập thể của nông dân xã viên.
Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 50 cuộc Cách mạng xã bội chủ nghĩa tháng Mười Nga, Hồ Chủ tịch viết bài Cách mạng
tháng Mười vĩ đại và con đường giải phóng cho các dân tộc (tháng 10 năm 1967).
Trong khi tăng cường và mở rộng chiến tranh xâm lược Việt Nam, đế quốc Mỹ luôn mồm rêu rao "thiện chí hòa
bình" sẵn sàng thương lượng không điều kiện v.v... hòng lừa bịp dư luận thế giới và dư luận nhân dân Mỹ, Hồ

Chủ tịch kiên quyết vạch trần những thủ đoạn gian dối của nhà cầm quyển Mỹ, tố cáo chính sách thương lượng
trên thế mạnh của chúng hòng buộc nhân dân ta phải hạ vũ khí và từ bỏ những nguyện vọng chính đáng của mình.
Trong thư gửi các vị đứng đầu các nước xã hội chủ nghĩa và một số nước khác ngây 24 tháng 1 năm 1966 , và thư
gửi nhân dân Mỹ ngày 23 tháng 12 năm 1966, Hồ Chủ tịch nêu rõ sự xâm lược của Mỹ là nguồn gốc duy nhất, là
nguyên nhân trực tiếp gây nên tình hình nghiêm trọng ở Việt Nam và Đông Nam Á. Cuộc kháng chiến của nhân
dân ta ngày càng tranh thủ được sự ủng hộ tích cực của dư luận tiến bộ toàn thế giới. Ngay trên đất Mỹ, bọn cầm
đầu hiếu chiến Mỹ cũng ngày càng bị cô lập.
Thay mặt nhân dân Việt Nam, Hồ Chủ tịch nhiều lần cảm ơn sự ủng hộ đầy nhiệt tình đó. Một mặt trận thống nhất
của nhân dân thế giới ủng hộ nhân dân Việt Nam chống Mỹ đã được hình thành. Việt Nam đã trở thành vấn đề
lương tâm của thời đại.
Bị thua đau ở cả hai miền nước ta, ngày 1 tháng 1 năm 1968, Chính phủ Mỹ buộc phải chấm dứt không điều kiện
việc ném bom và bắn phá trên toàn bộ lãnh thổ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và phải nói chuyện với đại diện
của Chính phủ ta và đại diện Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tại Hội nghị bốn bên ở Pa ri. Sau
bốn năm chiến đấu vô cùng anh dũng, quân và dân ta đã giành được thắng lợi vẻ vang: đánh thắng cuộc chiến
tranh phá hoại của đế quốc Mỹ trên miền Bắc nước ta.
Hồ Chủ tịch kêu gọi quân và dân cả ở hai miền phải nâng cao cảnh giác, tăng cường lực lượng liên tục tiến công,
giành lấy thắng lợi hoàn toàn: "Hễ còn một tên xâm lược nào trên đất nước ta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu,
quét sạch nó đi". "Dù Mỹ đưa thêm mấy chục vạn binh sĩ Mỹ và cố lôi kéo thêm quân đội các nước chư hầu vào
cuộc chiến tranh tội ác này, thì quân và dân ta cũng quyết đánh thắng chúng".
Tháng 8 năm 1967, Đại hội bất thường của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam họp đã thông qua
Cương lĩnh chính trị nhằm mở rộng hơn nữa Mặt trận dân tộc thống nhất chống Mỹ, đưa sự nghiệp cách mạng
của nhân dân miền Nam đến toàn thắng
HỒ CHÍ MINH LÃNH ĐẠO
CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ
(1965 – 1969)


Toàn bộ quá trình phát triển của cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta qua các giai đoạn đã dẫn tới cuộc tổng tiến
công và nổi dậy long trời chuyển đất đầu xuân Mậu thân 1968
Đúng như lời chúc mừng xuân năm đó của Hồ Chủ tịch: "Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua", quân và dân miền

Nam đã giành được những thắng lợi to lớn và toàn diện chưa từng có, đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc kháng
chiến vĩ đại của nhân dân ta. Giữa cao trào tổng tiến công và nổi dậy đều khắp của quân và dân ta, Liên minh các
lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình Việt Nam ra đời. Hồ Chủ tịch coi đấy là một thắng lợi to lớn của chính sách
đoàn kết toàn dân chống Mỹ, cứu nước, làm cho bọn Mỹ, ngụy càng lộ rõ bộ mặt cướp nước và bán nước của
chúng và càng bị cô lập. Phát huy thắng lợi đã giành được, quân và dân miền Nam liên tục mở những đợt tiến
công mới, làm đảo lộn thế bố trí chiến lược của địch, đẩy quân địch lún sâu vào phòng ngự bị động, bị bao vây và
bị tiến công trên khắp các chiến trường. Để đáp ứng yêu cầu to lớn của cuộc chiến đấu và nguyện vọng của toàn
dân, ngày 6 tháng 6 năm 1969, các lực lượng yêu nước đã họp Đại hội đại biểu quốc dân miền Nam, nhất trí bầu
ra Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam và Hội đồng cố vấn bên cạnh Chính phủ.
Cuộc chiến đấu của nhân dân ta còn phải trải qua nhiều khó khăn, gian khổ. Đế quốc Mỹ rất hiếu chiến, ngoan cố
và xảo quyệt. Toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta phải tăng cường đoàn kết, nâng cao cảnh giác cách mạng, bồi
dưỡng chí khí chiến đấu, kiên trì kháng chiến, đạt cho kỳ được mục tiêu của cách mạng như lời thơ chúc Tết năm
1969 của Hồ Chủ tịch:
"Vì độc lập, vì tự do,
Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào.
Tiến lên ! Chiến sĩ, đồng bào!
Bắc Nam sum họp, xuân nào vui hơn."
Quyết tâm cách mạng đó lại một lần nữa được Hồ Chủ tịch nhắc lại trong lời kêu gọi của Người nhân ngày 20 tháng 7
năm 1969:
"Đế quốc Mỹ thất bại đã rõ ràng nhưng chúng chưa chịu từ bỏ dã tâm bám lấy miền Nam nước ta. Quân và dân cả
nước ta, triệu người như một, nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, không sợ hy sinh, không sợ gian khổ, quyết
kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến, quyết chiến quyết thắng, đánh cho quân Mỹ phải rút hết sạch, đánh cho ngụy
quân và ngụy quyền sụp đổ hết, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới hòa bình thống nhất nước nhà

HỒ CHỦ TỊCH VỚI NHÂN DÂN VIỆT NAM
VÀ NHÂN DÂN THẾ GIỚI
Giữa lúc nhân dân ta ở cả hai miền Nam Bắc đang giành được những thắng lợi to lớn trong sự nghiệp kháng chiến
chống Mỹ thì một tin buồn đưa đến: Hồ Chủ tịch lâm bệnh
Mặc dù tuổi cao, sức yếu, Hồ Chủ tịch vẫn rất sáng suốt và vẫn tham gia lănh đạo Đảng và Nhà nước. Nhưng sang
năm 1969, sức khỏe của Người sút kém nhanh chóng. Từ lúc Người lâm bệnh, Trung ương Đảng đã tập trung mọi khả

năng và phương tiện để săn sóc sức khỏe của Người, các giáo sư và bác sĩ y khoa ngày đêm săn sóc, chữa chạy cho
Người. Trong lúc cán bộ và nhân dân ta cùng bạn bè trên thế giới đang mong Hồ Chủ tịch chóng qua khỏi thì sáng


ngày 4 tháng 9 năm 1969 Bản thông cáo đặc biệt của Hội nghị liên tịch giữa Ban chấp hành trung ương Đảng, Uỷ ban
thường vụ Quốc hội, Hội đồng Chính phủ và Đoàn chủ tịch ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được
truyền đi báo tin đau đớn: Hồ Chủ tịch đã qua đời lúc 9 giờ 47 phút ngày 3 tháng 9 năm 1969, sau một cơn đau tim rất
nặng, thọ 79 tuổi.
Trước cái tang lớn của dân tộc ta, Ban chấp hành trung ương Đảng ra Lời kêu gọi toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta
hãy nén đau thương, biến đau thương thành hành động cách mạng, dũng cảm tiến lên hoàn thành nhiệm vụ để thiết
thực tỏ lòng tưởng nhớ và biết ơn Hồ Chủ tịch. Lời kêu gọi và điếu văn của Ban chấp hành Trung ương là những văn
kiện giúp cho ai nấy đều thấy rõ công lao trời biển của Hồ Chủ tịch và phương hướng phấn đấu để tiếp tục sự nghiệp
vĩ đại của Người, thực hiện lý tưởng và hoài bão của Người.
Uỷ ban lễ tang Nhà nước được thành lập do đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất ban chấp hành trung ương Đảng, làm
trưởng ban. Trung ương Đảng và Chính phủ quyết định cả nước để tang Hồ Chủ tịch trong 7 ngày (từ ngày 4 đến ngày
10 tháng 9 năm 1969) và tổ chức lễ tang Người theo nghi thức cao nhất của nước ta.
"Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch, người anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính
Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta.".
Hồ Chủ tịch đã làm sống lại những giá trị tinh thần của dân tộc Việt Nam. Sự nghiệp cứu nước của Người đă xoá bỏ
tất cả những tủi nhục của gần một thể kỷ nô lệ đè nặng trên đầu dân tộc ta. Người là ngọn cờ tiên phong trong sự
nghiệp giải phóng nhân dân lao động nước ta. Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, nhân dân một nửa nước ta đă xóa
bỏ được mọi hình thức áp bức, bóc lột và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Sự nghiệp cách mạng vĩ đại và đạo
đức phẩm chất cao quý đã thống nhất làm một ở Người.
Lễ viếng Hồ Chủ tịch được cử hành trọng thể từ sáng ngày 6 tháng 9 năm 1969 tại Hội trường Ba Đình. Yên nghỉ
trong quan tài bằng kính, Người vẫn mặc bộ quần áo ka ki bạc màu, giản dị. Đôi dép cao su nay trở thành một vật kỷ
niệm thiêng liêng, được đặt trong hòm kính để dưới chân Người. Từng đoàn người vô tận, xếp hàng nối tiếp nhau suốt
ngày đêm tiến vào Hội trường. (C

HỒ CHỦ TỊCH VỚI NHÂN DÂN VIỆT NAM
VÀ NHÂN DÂN THẾ GIỚI

Đó là những đại biểu các cấp, các ngành, các giới từ khắp các miền của đất nước về Thủ đô kính viếng Người. Đó là
các đoàn đại biểu từ tiền tuyến lớn anh hùng. Đó là các đại biểu của hàng chục dân tộc cùng sống trên dải đất Việt
Nam. Việt kiều từ các nơi xa xôi cũng cử đại biểu về nước chịu tang Người. Trong 7 ngày đã có hơn 20 vạn người đến
kính viếng Hồ Chủ tịch. Hơn 40 đoàn đại biểu nước ngoài thay mặt Trung ương các đảng cộng sản và công nhân, thay
mặt nhân dân và Chính phủ các nước xă bội chủ nghĩa anh em và các nước bạn đă đến dự lễ tang Hồ Chủ tịch, chia
buồn với Đảng ta và nhân dân ta.
Lễ truy điệu Hồ Chủ tịch được tổ chức trọng thể ở Hà Nội và trên khắp các địa phương toàn miền Bắc. Mỗi cơ quan,
mỗi gia đình đều dành nơi trang nghiêm nhất để treo ảnh Người.
Trong khói lửa chiến tranh, đồng bào miền Nam làm lễ truy điệu Người với nhiều hình thức. Sáng ngày 8 tháng 9 năm
1969, Uỷ ban trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Uỷ ban liên minh các lực lượng dân tộc,
dân chủ và hoà bình Việt Nam, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, Hội đồng cố vấn
Chính phủ đã tổ chức lễ truy điệu trọng thể Hồ Chủ tịch ở căn cử địa kháng chiến.


Khắp năm châu đă có hơn 22.000 bức điện và thư từ 121 nước gửi đến Hà Nội chia buồn với Đảng, Quốc hội, Chính
phủ, Mặt trận Tổ quốc Việt nam và nhân dân ta. Đó là điện và thư của các vị nguyên thủ các nước xã hội chủ nghĩa và
nhiều nước khác, của cơ quan lănh đạo các đảng cộng sản và công nhân, các đoàn thể quần chúng trong từng nước và
các tổ chức dân chủ quốc tế, của các nhân sĩ dân chủ và tiến bộ.
Các nước xă hội chủ nghĩa và 10 nước dân tộc chủ nghĩa đã tổ chức để tang hoặc lễ quốc tang Hồ Chủ tịch. Để tưởng
nhớ Người, chính phủ nhiều nước đã quyết định lấy tên Hồ Chí Minh đặt cho các công trình và các nơi công cộng như
trường học, nhà máy, đường phố, quảng trường v.v... Mặt trận dân chủ nhân dân giải phóng Pa-lét-xtin đã mở cuộc
tiến công quân sự ngày 6 tháng 9 năm 1969 lấy tên là cuộc "Hành quân Hồ Chí Minh" để tiêu diệt quân I-xra-en xâm
lược. Một số đoàn thể quần chúng ở các nước lấy tên Hồ Chí Minh đặt cho tổ chức của mình. Một số Đảng cộng sản
và công nhân tổ chức kết nạp đảng viên lớp Hồ Chí Minh, tổ chức học tập Di chúc của Người, giới thiệu rộng rãi đời
hoạt động và các tác phẩm của Người.
Nhân dân thế giới thuộc nhiều dân tộc và xu hướng chính trị khác nhau đã đến viếng Hồ Chủ tịch ở các đại sứ quán
hoặc cơ quan đại diện nước ta, ghi lời chia buồn và ký tên vào sổ tang. Nhân dân nhiều nước đã tổ chức mít tinh, làm
lễ truy điệu hoặc rước ảnh Người. Ở Mỹ và một số nước Tây Âu, quần chúng đã biến lễ truy điệu Hồ Chủ tịch thành
những cuộc tuần hành chống chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ ở Việt Nam. Đó là biểu hiện của tất cá những tình
cảm tốt đẹp, sâu sắc và chân thành của nhân dân các nước đối với Hồ Chủ tịch. Đó là sự biểu hiện của mối tình hữu

nghị cao cả của nhân dân thế giới đối với nhân dân ta và sự ủng hộ quý báu về chính trị của cả loài người tiến bộ đối
với cuộc đấu tranh chính nghĩa của dân tộc ta chống đế quốc Mỹ xâm lược. (Còn tiếp)
HỒ CHỦ TỊCH VỚI NHÂN DÂN VIỆT NAM
VÀ NHÂN DÂN THẾ GIỚI
Lễ truy điệu Hồ Chủ tịch được tổ chức với những nghi thức trọng thể nhất tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội,
sáng ngày 9 tháng 9 năm 1969 với hơn 10 vạn người tham dự. Đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban chấp hành
trung ương Đảng đã đọc điếu văn của Trung ương Đảng và Di chúc của Hồ Chủ tịch. Vĩnh biệt chúng ta, Hồ Chủ
tịch để lại một bản Di chúc lịch sử. Đó là những lời căn dặn cuối cùng của Người, những tình cảm thắm thiết và
niềm tin vững chắc đối với Đảng ta, nhân dân ta và các thế hệ mai sau.
Hồ Chú tịch từ giã cuộc đời, nhưng còn để lại cho chúng ta những tình cảm rộng lớn, bao la, đó là "muôn vàn tình
thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng".
Điếu văn của Trung ương Đảng, mở đầu bằng những lời nghẹn ngào đau xót :
"Hồ Chủ tịch kính yêu của chúng ta không còn nữa ! Tổn thất này vô cùng lớn lao! Đau thương này thật là vô
hạn!" Trước anh linh của Hồ Chủ tịch, thay mặt toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, đồng chí Lê Duẩn đọc lên Năm
lời thề son sắc:
1. "Giương cao mãi ngọn cờ độc lập dân tộc, quyết thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền
Bắc, thống nhất đất nước để thỏa lòng mong ước của người".
2. "Đem hết sức mình tiếp tục phấn đấu thực hiện tư tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa cao đẹp mà
người đã vạch ra cho giai cấp công nhân và nhân dân ta, đem lại phồn vinh cho đất nước, hạnh phúc cho đồng
bào".
3. "Hết lòng hết sức giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình, tăng cường sức
chiến đấu của Đảng, làm hạt nhân cho khối đoàn kết toàn dân, bảo đảm cho sự nghiệp cách mạng của giai cấp


công nhân và dân tộc Việt Nam hoàn toàn thắng lợi".
4. "Luôn luôn phát huy tình cảm quốc tế trong sáng của Hồ Chủ tịch, hết lòng góp sức vào việc khôi phục và tăng
cường sự đoàn kết nhất trí trong phe xã hội chủ nghĩa và giữa các đảng anh em trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lê nin
và chủ nghĩa quốc tế vô sản; thắt chặt tình đoàn kết hữu nghị giữa các dân tộc Đông Dương; ra sức ủng hộ phong
trào cách mạng của nhân dân các nước, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội".

5."Suốt đời học tập đạo đức, tác phong của Người bồi dưỡng phẩm chất cách mạng, không sợ gian khổ, không sợ
hy sinh, rèn luyện mình thành những chiến sĩ trung thành với Đảng, với dân, xứng đáng là đồng chí, là học trò của
Hồ Chủ tịch. Noi gương Người, toàn thể nhân dân ta, thanh niên ta nguyện ra sức trau dồi mình thành những con
người mới, làm chủ đất nước, làm chủ xã hội, mang lá cờ bách chiến bách thắng của Hồ Chủ tịch tới đích cuối
cùng".(Còn tiếp)
HỒ CHỦ TỊCH VỚI NHÂN DÂN VIỆT NAM
VÀ NHÂN DÂN THẾ GIỚI
Cả Quảng trường Ba Đình, khắp phố phường Hà Nội vang lên những tiếng hô "Xin thề!" đanh thép. Người qua đời,
nhưng đã để lại cho chúng ta những nhân tố bảo đảm thắng lợi hoàn toàn cho cách mạng Việt Nam. Người đã để lại
cho chúng ta một tập thể lãnh đạo mà Người đã xây dựng và bồi dưỡng, tập thể những người bạn chiến đấu thân thiết
và học trò xuất sắc của Người. Người để lại cho chúng tạ một kho tàng lý luận và tư tưởng rất quý báu, những tác
phẩm tổng kết những kinh nghiệm phong phú của cách mạng Việt Nam trong nửa thế kỷ qua. Hồ Chủ tịch sống măi
trong lòng nhân dân ta và nhân dân thế giới! Người sống mãi trong sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta và nhân dân
thế giới!.
Sau khi Hồ Chủ tịch qua đời, Bộ chính trị Trung ương Đảng quyết định mở đợt sinh hoạt chính trị học tập và làm
theo Di chúc của Hồ Chủ tịch nhằm làm cho mọi người thấy rõ hơn công lao và sự nghiệp vĩ đại của Hồ Chủ tịch,
thấy rõ hơn đạo đức cách mạng cao đẹp và trong sáng của Người.
Ngày 6 tháng 3 năm 1970, Bộ chính trị Trung ương Đảng quyết định mở cuộc Vận động nâng cao chất lượng đảng
viên và kết nạp đảng viên lớp Hồ Chí Minh. Theo nghị quyết của Trung ương Đảng, các tổ chức của thanh niên, thiếu
niên và nhi đồng nước ta được vinh dự mang tên Bác Hồ vĩ đại (1).
Vô cùng thương tiếc Hồ Chủ tịch, chúng ta quyết thực hiện bằng được điều mong muốn cuối cùng của Người: "Toàn
Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu
mạnh và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới. (1)



×