Tải bản đầy đủ (.doc) (140 trang)

Nghị luận xã hội THPT Quốc gia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (610.59 KB, 140 trang )

Nguyễn Anh Đức facebook.com/o0otienvagaidepo0o

PHẦN I: ĐỌC HIỂU
I. Kiến thức về phong cách chức năng ngôn ngữ
1. Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt:
– Khái niệm: Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt là phong cách được dùng trong giao tiếp sinh hoạt
hằng ngày, thuộc hoàn cảnh giao tiếp không mang tính nghi thức, dùng để thông tin ,trao đổi ý
nghĩ, tình cảm….đáp ứng những nhu cầu trong cuộc sống.
– Đặc trưng:
Tính cụ thế
Tính cảm xúc
Tính cá thể
– Nhận biết:
Gồm các dạng: Chuyện trò, nhật kí, thư từ.
Ngôn ngữ: Khẩu ngữ, bình dị, suồng sã, địa phương.
2. Phong cách ngôn ngữ khoa học:
– Khái niệm : Là phong cách được dùng trong giao tiếp thuộc lĩnh vực nghiên cứu, học tập và phổ
biến khoa học.
+ Là phong cách ngôn ngữ đặc trưng cho các mục đích diễn đạt chuyên môn sâu.
+ Gồm các dạng: khoa học chuyên sâu; Khoa học giáo khoa; Khoa học phổ cập.
+ Có 3 đặc trưng cơ bản: (Thể hiện ở các phương tiện ngôn ngữ như từ ngữ,câu, đọan văn,văn
bản).
a/ Tính khái quát, trừu tượng.
b/ Tính lí trí, lô gíc.
c/ Tính khách quan, phi cá thể.
3. Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật:
– Khái niệm:
+ Là loại phong cách ngôn ngữ được dùng trong các văn bản thuộc lĩnh vực văn chương (Văn xuôi
nghệ thuật, thơ, kich).
Đặc trưng:
+ Tính Hình tượng


+ Tính truyền cảm
+ tính cá thể hóa
4. Phong cách ngôn ngữ chính luận:
– Khái niệm: Là phong cách ngôn ngữ được dùng trong những văn bản trực tiếp bày tỏ tư tưởng,
lập trường, thái độ với những vấn đề thiết thực, nóng bỏng của đời sống, đặc biệt trong lĩnh vực
chính trị, xã hội.
– Mục đích: Tuyên truyền, cổ động, giáo dục, thuyết phục người đọc, người nghe để có nhận thức
và hành động đúng.
– Đặc trưng:


Nguyễn Anh Đức facebook.com/o0otienvagaidepo0o

+ Tính công khai về quan điểm chính trị: Rõ ràng, không mơ hồ, úp mở.
Tránh sử dụng từ ngữ mơ hồ chung chung, câu nhiều ý.
+ Tính chặt chẽ trong biểu đạt và suy luận: Luận điểm, luận cứ, ý lớn, ý nhỏ, câu đọan phải rõ
ràng, rành mạch.
+ Tính truyền cảm, thuyết phục: Ngôn từ lôi cuốn để thuyết phục; giọng điệu hùng hồn, tha thiết,
thể hiện nhiệt tình và sáng tạo của người viết.
5. Phong cách ngôn ngữ hành chính:
– Khái niệm: Là phong cách được dùng trong giao tiếp thuộc lĩnh vực hành chính.
– Là giao tiếp giữa nhà nước với nhân dân, giữa nhân dân với cơ quan nhà nước, giữa cơ quan với
cơ quan, giữa nước này và nước khác.
– Đặc trưng: Phong cách ngôn ngữ hành chính có 2 chức năng:
+ Chức năng thông báo: thể hiện rõ ở giấy tờ hành chính thông thường.
VD: Văn bằng, chứng chỉ các loại, giấy khai sinh, hóa đơn, hợp đồng,…
+ Chức năng sai khiến: bộc lộ rõ trong các văn bản quy phạm pháp luật, văn bản của cấp trên gửi
cho cấp dưới, của nhà nước đối với nhân dân, của tập thể với các cá nhân.
6. Phong cách ngôn ngữ báo chí:
– Khái niệm: Ngôn ngữ báo chí là ngôn ngữ dùng để thong báo tin tức thời sự trong nước và

quốc tế, phản ánh chính kiến của tờ báo và dư luận quần chúng, nhằm thúc đẩy sự tiến bộ xã hội.
+ Là phong cách được dùng trong lĩnh vực thông tin của xã hội về tất cả những vấn đề thời sự:
(thông tấn có nghĩa là thu thập và biên tập tin tức để cung cấp cho các nơi).
Một số thể loại văn bản báo chí:
+ Bản tin: Cung cấp tin tức cho người đọc theo 1 khuôn mẫu: Nguồn tin- Thời gian- Địa điểmSự kiện- Diễn biến-Kết quả.
+ Phóng sự: Cung cấp tin tức nhưng mở rộng phần tường thuật chi tiết sự kiện, miêu tả bằng
hình ảnh, giúp người đọc có 1 cái nhìn đầy đủ, sinh động, hấp dẫn.
+ Tiểu phẩm: Giọng văn thân mật, dân dã, thường mang sắc thái mỉa mai, châm biếm nhưng
hàm chứa 1 chính kiến về thời cuộc
II. Các Phương thức biểu đạt
1. Tự sự (kể chuyện, tường thuật): là kể lại, thuật lại sự việc, là phương thức trình bày 1 chuỗi các
sự việc, sự việc này đẫn đến sự việc kia, cuối cùng kết thúc thể hiện 1 ý nghĩa.
– Đặc trưng:
+ Có cốt truyện.
+ Có nhân vật tự sự, sự việc.
+ Rõ tư tưởng, chủ đề.
+ Có ngôi kể thích hợp.
2. Miêu tả: là làm cho người đọc, người nghe, người xem có thể thấy sự vật, hiện tượng, con người
(Đặc biệt là thế giới nội tâm) như đang hiện ra trước mắt qua ngôn ngữ miêu tả.
3. Biểu cảm: Là bộc lộ tình cảm, cảm xúc của mình về thế giới xung quanh.


Nguyễn Anh Đức facebook.com/o0otienvagaidepo0o

4. Nghị luận: Là phương thức chủ yếu được dùng để bàn bạc phải, trái, đúng sai nhằm bộc lộ rõ
chủ kiến, thái độ của người nói, người viết.
5.Thuyết minh: Được sử dụng khi cần cung cấp, giới thiệu, giảng giải những tri thức về 1 sự vật,
hiện tượng nào đó cho người đọc , người nghe.
6. Phép liên kết: Thế – Lặp – Nối- Liên tưởng – Tương phản – Tỉnh lược
III. Các biện pháp tu từ từ vựng và các biện pháp nghệ thuật khác:

Nhận diện những biện pháp nghệ thuật trong văn bản và tác dụng của những biện pháp nghệ thuật
đó với việc thể hiện nội dung văn bản:
- So sánh là đối chiếu 2 hay nhiều sự vật, sự việc mà giữa chúng có những nét tương đồng để làm
tăng sức gợi hình, gợi cảm cho lời văn.
- Nhân hóa là biện pháp tu từ sử dụng những từ ngữ chỉ hoạt động, tính cách, suy nghĩ, tên gọi ...
vốn chỉ dành cho con người để miêu tả đồ vật, sự vật, con vật, cây cối khiến cho chúng trở nên sinh
động, gần gũi, có hồn hơn.
- Ẩn dụ là biện pháp tu từ gọi tên sự vật, hiện tượng này bằng tên sự vật, hiện tượng khác có nét
tương đồng với nó nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt.
- Hoán dụ là biện pháp tu từ gọi tên sự vật, hiện tượng, khái niệm này bằng tên của một sự vật,
hiện tượng khác có quan hệ gần gũi với nó nhằm làm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt.
- Nói quá là phép tu từ phóng đại mức độ, quy mô, tính chất của sự vật, hiện tượng được miêu tả
để nhấn mạnh, gây ấn tượng, tăng sức biểu cảm.
- Nói giảm nói tránh là một biện pháp tu từ dùng cách diễn đạt tế nhị, uyển chuyển, nhằm tránh
gây cảm giác quá đau buồn, ghê sợ, nặng nề; tránh thô tục, thiếu lịch sự.
- Điệp từ, điệp ngữ nhắc đi nhắc lại nhiều lần một từ, cụm từ có dụng ý làm tăng cường hiệu quả
diễn đạt: nhấm mạnh, tạo ấn tượng, gợi liên tưởng, cảm xúc… và tạo nhịp điệu cho câu/ đoạn văn
bản.
– Chơi chữ là biện pháp tu từ lợi dụng đặc sắc về âm, về nghĩa của từ ngữ để tạo sắc thái dí dỏm,
hài hước,…. làm câu văn hấp dẫn và thú vị.
- Liệt kê là sắp xếp nối tiếp hàng loạt từ hay cụm từ cùng loại để diễn tả đầy đủ, sâu sắc hơn những
khía cạnh khác nhau của thực tế hay tư tưởng, tình cảm.
- Tương phản là cách sử dụng từ ngữ đối lập, trái ngược nhau để tăng hiệu quả diễn đạt.
IV. Các hình thức lập luận của đọan văn:
Diễn dịch: là phương pháp trình bày ý từ luận điểm suy ra các luận cứ (Từ ý tổng quát suy ra ý cụ
thể).
Song hành: là cách lập luận trình bày ý giữa các câu ngang nhau (Các câu đều là luận cứ). Luận
điểm được rút ra từ việc tổng hợp các ý của luận cứ (Đoạn song hành có câu chủ đề ẩn).
Qui nạp: là phương pháp trình bày ý từ các luận cứ rút ra những nhận định tổng quát, rút ra luận
điểm (Từ các ý cụ thể rút ra nhận định chung).

Đoạn tổng- phân- hợp: là đoạn nghị luận có cách triển khai ý từ luận điểm suy ra các luận cứ, rồi từ
các luận cứ khẳng định lại luận điểm. Qua mỗi bước vấn đề được nâng cao hơn.


Nguyễn Anh Đức facebook.com/o0otienvagaidepo0o

VII. Các thể thơ: Đặc trưng của các thể loại thơ: Lục bát; Song thất lục bát; Thất ngôn; Thơ tự do;
Thơ ngũ ngôn, Thơ 8 chữ.

PHẦN II: NGHỊ LUẬN XÃ HỘI.
Nghị luận xã hội được chia ra làm 2 loại:
ͼ Nghị luận về một tư tưởng đạo lí.
ͼ Nghị luận về một hiện tượng đời sống.
I, Nghị luận về một tư tưởng đạo lí.
Khái niệm: Nghị luận về một tư tưởng đạo lí là bàn về lĩnh vực tư tưởng đạo đức, đạo đức, quan
điểm nhân sinh (các vấn đề về nhận thức; tâm hồn nhân cách; quan hệ gia đình-xã hội, cách ứng
xử; lối sống của con người trong xã hội;..).
- Khi làm các dạng đề này chúng ta cần:
+ Mở bài: dẫn dắt sau đó khái quát tư tưởng đạo lí cần nghị luận. Nêu ý chính hoặc câu nói về tư
tưởng đạo lí mà đề đưa ra.


Nguyễn Anh Đức facebook.com/o0otienvagaidepo0o

+ Thân bài: có nhiều luận điểm cần đưa ra:
ͼ Luận điểm 1: cần giải thích rõ nội dung tư tưởng đạo lí, giải thích các từ ngữ, thuật ngữ, khái
niệm, nghĩa đen, nghĩa bóng (nếu có); rút ra ý nghĩa chung của tư tưởng, đạo lí; quan điểm của tác
giả được thể hiện qua các câu nói ( thường được thể hiện gián tiếp qua các tục ngữ, danh ngôn,
ngạn ngữ,..,).
ͼ Luận điểm 2: phân tích các mặt đúng của tư tưởng, đạo lí (thường được trả lời cho câu hỏi tại sao

nói như thế? Dùng dẫn chứng cuộc sống xã hội để chứng minh. Từ đó chỉ ra tầm quan trọng, tác
dụng của tư tưởng đạo lí với đời sống xã hội).
ͼ Luận điểm 3: bàn luận vấn đề; bác bỏ những biểu hiện sai lệch có liên quan đến tư tưởng, đạo lí
được nói đến, vì có những tư tưởng chỉ đúng trong thời đại này nhưng còn hạn chế trong thời đại
khác; đúng trong hoàn cảnh này nhưng lại chưa phù hợp trong hoàn cảnh khác ( dẫn chứng minh
hoạ ).
+ Kết bài: nêu khái quát đánh giá ý nghĩa tư tưởng đạo lí đã nghị luận. Từ đó rút ra bài học nhận
thức và hành động cho bản thân. Đây là vấn đề cơ bản của một bài nghị luận bởi mục đích của nghị
luận là rút ra những kết luận đúng để thuyết phục người đọc và áp dụng vào thực tiễn đời sống.
CẤU TRÚC LÀM BÀI
* TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN
* TƯ TƯỞNG PHẢN NHÂN VĂN
I, Mở Bài: Nêu vấn đề
I, Mở Bài: Nêu vấn đề
II, Thân Bài:
II, Thân Bài:
1, Giải thích: nếu là câu nói, ý kiến
1, Giải thích: nếu là câu nói, ý kiến
có hai vế thì giải thích hai vế rồi giải có hai vế thì giải thích hai vế rồi giải
thích cả câu.
thích cả câu.
2, Bàn luận
2, Bàn luận
A, Tác dụng, ý nghĩa của tư tưởng
A, Tác hại của tư tưởng ( chứng
( chứng minh, đối chiếu, so sánh,
minh, đối chiếu, so sánh, phân tích,
phân tích,… để chỉ ra chỗ đúng).
… để chỉ ra chỗ sai).
B, Phê phán, bác bỏ tư tưởng trái

B, Biểu dương, ca ngợi mặt đúng.
ngược.
3, Bài học nhân thức và hành động:
3, Bài học nhân thức và hành động:
- Về nhận thức: đúng hay sai.
- Về nhận thức: đúng hay sai.
- Về hành động: cần làm gì?
- Về hành động: cần làm gì?
III, Kết bài: Đánh giá chung về vấn
III, Kết bài: Đánh giá chung về vấn
đề.
đề.
II, Nghị luận về một hiện tượng đời sống.
- Khái niệm: nghị luận về một hiện tượng đời sống là bàn về một hiện tượng đang diễn ra trong
thực tế đời sống xã hội mang tính chất thời sự, thu hút sự quan tâm của nhiều người (như ô nhiễm
môi trường, nếp sống văn minh đô thị, tai nạn giao thông, bạo hành gia đình, bạo lực học đường,
lối sống thờ ơ vô cảm,…) đó có thể là một hiện tượng xấu hoặc tốt, đáng khen hoặc đáng chê.


Nguyễn Anh Đức facebook.com/o0otienvagaidepo0o

- Để làm tốt kiểu bài này, người viết cần hiểu hiện tượng đời sống được đưa ra có ý nghĩa tích cực
hay tiêu cực, có hiện tượng vùa có ý nghĩa tích cực và tiêu cực,… Do vậy cần nắm vững yêu cầu
cụ thể của đề đề gia giảm liều lượng cho thích hợp, tránh làm bài chung chung không phân tích
được mặt tích cực hay tiêu cực.
+ Phần mở bài cần dẫn dắt và giới thiệu hiện tượng đời sống cần nghị luận.
+Thân bài có:
ͼ Luận điểm 1cần giải thích sơ lược hiện tượng đời sống, làm rõ những hình ảnh, từ ngữ, khái
niệm trong đề bài (tuy nhiên, đây không phải thao tác bắt buộc).
ͼ Luận điểm 2 cần nêu rõ thực trạng các biểu hiện và ảnh hưởng của hiện tượng đời sống; thực tế

vấn đề đang diễn ra như thế nào? Có ảnh hưởng ra sao với đời sống? Thái độ của xã hội với vấn
đề. Chú ý cần liên hệ thực tế với địa phương để đưa ra những dẫn chứng sắc bén, thuyết phục, từ
đó làm nổi bật tính cấp thiết phải giải quyết vấn đề.
ͼ Luận điểm 3 cần lí giải nguyên nhân dẫn tới hiện tượng đời sống, đưa ra các nguyên nhân nảy
sinh vấn đề, các nguyên nhân từ chủ quan, khách quan, do tự nhiên, do con người.
ͼ Luận điểm 4 cần đề xuất giải pháp để giải quyết hiện tượng đời sống (từ nguyên nhân nảy sinh
vấn đề để đề xuất phương hướng giải quyết trước mắt, lâu dài. Chú ý cần chỉ rõ việc làm, cách thức
tiến hành, đòi hỏi cần phối hợp với lực lượng nào?).
+ Kết bài cần khái quát vấn đề đang nghị luận, bày tỏ thái độ của bản thân về hiện tượng đời sống
đang nghị luận.
• CẤU TRÚC LÀM BÀI:
* HIỆN TƯỢNG XẤU
- MB: dẫn dắt, nêu vấn đề
- TB:
1, Giải thích hiện tượng
2, Bàn luận:
- Phân tích tác hại.
- Chỉ ra nguyên nhân.
- Biện pháp khắc phục.
3, Bài học cho bản thân.
- KB: Đánh giá chung về hiện
tượng.

* HIỆN TƯỢNG TỐT
- MB: dẫn dắt, nêu vấn đề
- TB:
1, Giải thích hiện tượng
2, Bàn luận:
- Tác dụng, ý nghĩa của hiện tượng.
- Biện pháp nhân rộng hiện tượng.

- Phê phán hiện tượng trái ngược
3, Bài học cho bản thân.
- KB: Đánh giá chung về hiện tượng.


Nguyễn Anh Đức facebook.com/o0otienvagaidepo0o

PHẦN III: NGHỊ LUẬN VĂN HỌC.
A, Cấu trúc dạng đề so sánh:
1, Khái niệm so sánh văn học được hiểu theo ba lớp nghĩa khác nhau:
Thứ nhất, sao sánh văn học là một “biện pháp tu từ để tạo hình ảnh cho câu văn”.
Thứ hai, nó được xem như một thao tác lập luận cạnh các thao tác lập luận như: phân tích, bác bỏ,
bình luận được đưa vào sách giáo khoa Ngữ văn 11.
Thứ ba, nó được xem như là một “phương pháp, một cách thức trình bày khi viết văn nghị luận”
tức là kiểu bài nghị luận cạnh các kiểu bài nghị luận về một đoạn trích, tác phẩm thơ; nghị luận về
một đoạn trích, tác phẩm văn xuôi…ở sách giáo khoa Ngữ văn 12. Tuy nhiên, so sánh văn học như
một kiểu bài nghị luận văn học lại chưa được cụ thể bằng một bài học độc lập. Vì vậy, từ việc xác
định nội hàm khái niệm kiểu bài, mục đích, yêu cầu đến cách thức làm bài cho kiểu bài này thực sự
rất cần thiết.
2, Kiểu bài so sánh văn học yêu cầu thực hiện cách thức so sánh trên nhiều bình diện: đề tài, nhân
vật, tình huống, cốt truyện, cái tôi trữ tình, chi tiết nghệ thuật, nghệ thuật trần thuật,…Quá trình so
sánh có thể diễn ra ở các tác phẩm cùng một tác giả, nhưng cũng có thể diễn ra ở các tác phẩm của
các tác giả cùng hoặc không cùng thời đại, giữa các tác phẩm của những trào lưu, trường phái khác
nhau của một nền văn học. Mục đích cuối cùng của kiểu bài này là yêu cầu người viết chỉ ra chỗ
giống và khác nhau giữa hai tác phẩm, hai tác giả, từ đó thấy được những mặt kế thừa, những điểm
cách tân của từng tác giả, từng tác phẩm; từ đó thấy được vẻ đẹp của từng tác phẩm, sự đa dạng
muôn màu của phong các các nhà văn. Không dừng lại ở đó, kiểu bài này còn góp phần hình thành
kĩ năng lí giải nguyên nhân của sự khác nhau giữa các hiện tượng văn học – một năng lực rất cần
thiết góp phần tránh đi khuynh hướng “bình tản”, khuôn sáo trong bài viết của các học sinh hiện
nay. Lẽ hiển nhiên, đối với học sinh trung học phổ thông, các yêu cầu về năng lực lí giải cần phải

phù hợp và vừa sức. Nghĩa là các tiêu chí so sánh cần có mức độ vừa và khó. Khả năng lí giải sự


Nguyễn Anh Đức facebook.com/o0otienvagaidepo0o

giống và khác nhau cũng cần phải tính toán hợp lí với năng lực học sinh. Chuẩn kiến thức, chuẩn kĩ
năng trong từng bài, từng cấp sẽ là căn cứ để kiểm định những vấn đề này.
3, Vì là một bài nghị luận nên bố cục một bài văn so sánh văn học cũng có 3 phần: mở bài, thân
bài, kết bài. Tuy nhiên chức năng cụ thể của từng phần lại có những điểm khác biệt so với kiểu bài
nghị luận về một tác phẩm, đoạn thơ hay nghị luận về một đoạn trích, tác phẩm văn xuôi. Dàn ý
khái quát của kiểu bài này như sau:
Cấu trúc
Nội dung
Điểm
I, Mở Bài
Nêu vấn đề (thường tìm điểm chung nhất)
II, Thân Bài 1, Nêu tác giả/ tác phẩm/ xuất xứ (cả 2 tác giả).
0,5đ
2, Làm rõ từng đối tượng.
1,5đ
A, Cảm nhận về đối tượng thứ nhất.
- Nội dung.
- Nghệ thuật.
B, Cảm nhận về đối tượng thứ hai.
1,5đ
- Nội dung.
- Nghệ thuật.
3, So sánh sự tương đồng và khác biệt.
0,5đ
- Sự tương đồng.

- Sự khác biệt.
III, Kết bài
Đánh giá chung về nội dung và nghệ thuật.
* CÁC DẠNG ĐỀ SO SÁNH THƯỜNG GẶP:
• So sánh hai chi tiết nghệ thuật.
• Cảm nhận hai nhân vật.
• So sánh hai đoạn thơ, hai đoạn văn.
• So sánh, cảm nhận về hai câu nói, hai ý kiến.
*DẠNG ĐỀ CHỨNG MINH NHẬN ĐỊNH:
Một nhận định, phê bình ý kiến đánh giá văn học được đưa ra. Có thể mang tính tổng hợp, có thể
nhận định một tác phẩm cụ thể. Và học sinh dùng kiến thức một hay nhiều tác phẩm văn học để
chứng minh.
Những năm gần đây, đề thi thường cho hai nhận định trong đề, hoặc tương đồng (đều đúng) hoặc
đối lập (một đúng và một sai). Từ đó người viết dùng thao tác phân tích, chứng minh, bình luận,
bác bỏ…để làm bài.
* CẤU TRÚC DẠNG ĐỀ NÀY PHẢI TUÂN THỦ THEO CÁC BƯỚC SAU:
Cấu trúc Nội dung
Điểm
Mở bài
Nêu vấn đề, dẫn ý kiến vào
Thân bài 1, Vài nét về tác giả, tác phẩm.
0,5đ
2, Giải thích ý kiến: (nếu có hai ý kiến thì giải thích lần
0,5đ


Nguyễn Anh Đức facebook.com/o0otienvagaidepo0o

lượt từng ý kiến một).
3, Bàn luận:

2,5đ
- Bàn luận về vấn đề được đặt ra.
4, Bình luận ý kiến:
0,5đ
- Khẳng định ý kiến đúng hay sai. Vì sao?
Kết bài
Đánh giá chung về vấn đề.
Lưu ý: Đây là dạng đề khó, đòi hỏi lập luận chặt ché, logic, có tính lí luận
cao. Vì vậy, người viết cần nắm vững kiến thức và tập viết nhiều về dạng đề
này.


Nguyễn Anh Đức facebook.com/o0otienvagaidepo0o

PHẦN IV: CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC LỚP 12.

Tây Tiến
-Quang DũngI. TRỌNG TÂM KIẾN THỨC VÀ PHẠM VI RA ĐỀ:
1. Đoàn quân Tây Tiến và hoàn cảnh sáng tác bài thơ Tây tiến.
2. Vẻ đẹp của hình tượng người lính Tây Tiến trong bài thơ. (Có thể so sánh với Đồng chí của
Chính Hữu).
3. Vẻ đẹp của thiên nhiên miền Tây Tổ quốc trong bài thơ.
4. Phân tích, cảm nhận được bài thơ và các đoạn tiêu biểu.
5. Nỗi nhớ và tình cảm thiết tha của Quang Dũng với đồng đội, với thiên nhiên núi rừng Tây Bắc,
với một thời gian khổ. (Có thể so sánh với Việt Bắc của Tố Hữu, Tiếng hát con tàu của Chế Lan
Viên).
II. TÀI LIỆU BÀI GIẢNG:
A. Vài nét về tác giả và tác phẩm
a. Tác giả
Quang Dũng (1921 - 1988), tên khai sinh: Bùi Đình Diệm, (tức Dậu).

Quê: Đan Phượng, Hà Tây.
Là nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc...
Năm 2001, được tặng giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật.
Tác phẩm chính:
Mây đầu ô (thơ - 1986), Mùa hoa gạo, Tuyển thơ văn Quang Dũng (1988)
b. Tác phẩm:
Đoàn quân Tây Tiến
Thành lập đầu năm 1947. Quang Dũng là đại đội trưởng.
Thành phần: đa số là thanh niên Hà Nội, trong đó có sinh viên và học sinh.
Nhiệm vụ: phối hợp với bộ đội Lào, đánh tiêu hao lực lượng Pháp ở Thượng Lào, miền Tây Bắc bộ
Việt
Nam, góp phần bảo vệ biên giới Lào - Việt.
Địa bàn hoạt động: khá rộng, gồm Sơn La, Hòa Bình, Sầm Nứa (Lào) vòng về miền tây Thanh
Hóa.
Điều kiện chiến đấu gian khổ: núi cao, vực thẳm, rừng dày, thú dữ, sốt rét hoành hành.
Hoàn cảnh ra đời bài thơ:
1948, đơn vị Tây Tiến giải thể, thành lập trung đoàn 52.
Cuối 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Bài thơ được sáng tác tại Phù Lưu Chanh sau
khi rời xa đơn vị cũ chưa bao lâu. Lúc đầu có tên Nhớ Tây Tiến, sau khi in lại trong tập Mây đầu ô,
tác giả đổi tên thành Tây Tiến.
B. Phân tích bài thơ Tây Tiến.
Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng.


Nguyễn Anh Đức facebook.com/o0otienvagaidepo0o

Cảm hứng lãng mạn là niềm lạc quan, yêu đời, đạp bằng tất cả những gian khổ, hi sinh mất mát,
hướng về tương lai hi vọng, trông chờ.
Cảm hứng bi tráng (bi hùng): bi là đau thương, hùng là hào hùng, nghĩa là vừa bi thương lại vừa
hào hùng.

1. Đoạn 1 (Sông Mã ... nếp xôi)
Bài thơ mở đầu bằng hai câu thơ gợi nhớ gợi thương:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
+ Vần "ơi", kết hợp từ láy "chơi vơi" là vần bằng tạo âm hưởng của tiếng gọi đồng vọng miên man
không dứt, câu thơ sâu lắng, bồi hồi, ngân dài, từ lòng người vọng vào thời gian năm tháng, lan
rộng lan xa trong không gian. Nỗi nhớ như có hình dáng của núi non, của hồn cây, vách đá, con
sông.
+ Tác giả gọi tên con Sông Mã đầu tiên trong nỗi nhớ của mình. Vì con sông Mã là người bạn, là
nhân chứng đã theo suốt bước chân quân hành, chứng kiến biết bao buồn vui, bao mất mát, hi sinh,
vất vả của người lính Tây Tiến. Gọi tên Tây Tiến là gọi tên đồng đội, gợi nhớ bạn bè.
+ Điệp từ "nhớ" được nhắc lại hai lần góp phần tô đậm cảm xúc nhớ nhung dâng trào của tác giả.
Dẫn chứng minh họa thêm: Thơ ca VN khi nói về nỗi nhớ có nhiều cách diễn tả:
Ca dao có câu:
Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than
Diễn tả tình cảm cách mạng, Tố Hữu có câu:
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhưng đến Quang Dũng thì nỗi nhớ sáng tạo hơn cả - nhớ chơi vơi. Chơi vơi là trạng thái trơ trọi
giữa khoảng không rộng, không thể bấu víu vào đâu cả. Nhớ chơi vơi có thể hiểu là một mình giữa
thế giới hoài niệm mênh mông, bề bộn, không đầu, không cuối, không thứ tự thời gian, không gian.
Đó là nỗi nhớ da diết, miên man, bồi hồi làm cho con người có cảm giác đứng ngồi không yên. Và
nỗi nhớ ấy, tiếng gọi ấy đang đưa nhà thơ về với những kỉ niệm không quên của một thời gian khổ.
+ Đó là nỗi nhớ về cuộc hành quân giữa núi rừng miền Tây vừa hùng vĩ lại vừa thơ mộng trữ tình
được cảm nhận bằng cảm hứng lãng mạn và tâm hồn lãng mạn hào hoa.
Nhớ cuộc hành quân giữa núi rừng miền Tây hùng vĩ:
+ Tác giả gợi nhắc nhiều địa danh xa lạ: Sài Khao, Mường lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai
Châu... gợi bao cảm xúc mới lạ, tác giả như đưa người đọc lạc vào những địa hạt heo hút, hoang
dại để từ đó dõi theo bước chân quân hành của người lính.

+ 6 câu thơ tiếp theo "Sài khao....xa khơi" diễn tả thật đắc địa sự hùng vĩ của núi rừng miền Tây. 6
câu thơ
này là bằng chứng đặc sắc của "thi trung hữu họa" (trong thơ có họa):
Cụ thể:
Con đường hành quân thật gian nan, vất vả, nguy hiểm với dốc cao, vực thẳm:
Sài Khao sương......


Nguyễn Anh Đức facebook.com/o0otienvagaidepo0o

Mường Lát......
+ Trên đỉnh Sài Khao, sương dày đến độ lấp cả đoàn quân. Đoàn quân hành quân trong sương lạnh
giữa núi rừng trùng điệp mệt mỏi rã rời. Tuy vậy họ vẫn thấy con đường hành quân thật đẹp và thơ
mộng: đi trong sương, trong hoa đêm hơi.
Dốc lên......
Heo hút...
Ngàn thước...
Nhà ai...
+ Đường đi toàn dốc cao được diễn tả với nhiều từ láy tạo hình "khúc khuỷu" (quanh co khó đi),
"thăm thẳm"(diễn tả độ cao, độ sâu), "heo hút" (xa cách cuộc sống con người). Câu thơ sử dụng
nhiều thanh trắc đi liền nhau "dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm" (bảy chữ mà đã có tới 5 chữ là
thanh trắc) khiến khi đọc lên ta có cảm giác trúc trắc, mệt mỏi như đang cùng hành quân với đoàn
binh vậy.
+ Đỉnh núi mù sương cao vút. Núi cao tận mây, mây nổi thành cồn, mũi súng chạm trời. Mũi súng
của người chiến binh được nhân hóa tạo nên một hình ảnh: "súng ngửi trời" giàu chất thơ, mang vẻ
đẹp cảm hứng lãng mạn, cho ta nhiều thi vị. Nó khẳng định chí khí và quyết tâm của người chiến sĩ
chiếm lĩnh mọi tầm cao mà đi tới "Khó khăn nào cũng vượt qua - Kẻ thù nào cũng đánh thắng!".
Chính vì chất lính trẻ trung ấy mà trước thiên nhiên dữ dội người lính Tây Tiến không bị mờ đi mà
nổi lên đầy thách thức.
+ Thiên nhiên núi đèo xuất hiện như để thử thách lòng người: "ngàn thước lên cao, ngàn thước

xuống". Hết lên lại xuống, xuống thấp lại lên cao, đèo nối đèo, dốc tiếp dốc, không dứt. Câu thơ
được tạo thành hai vế tiểu đối: "Ngàn thước lên cao // ngàn thước xuống", làm câu thơ như bẻ đôi,
diễn tả con dốc với chiều cao, sâu rợn ngợp: nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm.
Hình tượng thơ cân xứng hài hòa, cảnh tượng núi rừng hùng vĩ được đặc tả, thể hiện một ngòi bút
đầy chất hào khí của nhà thơ - chiến sĩ.
+ Có cảnh đoàn quân đi trong mưa: "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi". Câu thơ được dệt bằng
những thanh bằng liên tiếp, gợi tả, sự êm dịu, tươi mát của tâm hồn những người lính trẻ, trong
gian khổ vẫn lạc quan yêu đời. Trong màn mưa rừng, tầm nhìn của người chiến binh Tây Tiến vẫn
hướng về những bản mường, những mái nhà dân hiền lành và yêu thương, nơi mà các anh sẽ đến,
đem xương máu và lòng dũng cảm để bảo vệ và giữ gìn.
+ Sự dữ dội của núi rừng cũng vắt kiệt sức người: "Anh bạn dãi dầu không bước nữa/ Gục lên súng
mũ bỏ quên đời". Cái chết đậm chất bi hùng: Chết trong tư thế đẹp, ôm chắc cây súng trong tay sẵn
sàng chiến đấu, không quên nhiệm vụ của người lính. Hiện thực chiến tranh xưa nay vốn như thế!
Sự hy sinh của người chiến sĩ là tất yếu. Xương máu đổ xuống để xây đài tự do. Vần thơ nói đến
cái mất mát, hy sinh nhưng không chút bi luỵ, thảm thương.
+ Ta trở lại đoạn thơ trên, gian khổ không chỉ là núi cao dốc thẳm, không chỉ là mưa lũ thác ngàn
mà còn có tiếng gầm của cọp beo nơi rừng thiêng nước độc, nơi đại ngàn hoang vu:
"Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người"


Nguyễn Anh Đức facebook.com/o0otienvagaidepo0o

"Chiều chiều..." rồi "đêm đêm" nhưng âm thanh ấy, "thác gầm thét", "cọp trêu người", luôn khẳng
định cái bí mật, cái uy lực khủng khiếp ngàn đời của chốn rừng thiêng. Chất hào sảng trong thơ
Quang Dũng là lấy ngoại cảnh núi rừng miền Tây hiểm nguy để tô đậm và khắc họa chí khí anh
hùng của đoàn quân Tây Tiến.
Mỗi vần thơ đã để lại trong tâm trí người đọc một ấn tượng: gian nan tột bậc mà cũng can trường
tột bậc!
Đoàn quân vẫn tiến bước, người nối người, băng lên phía trước. Uy lực thiên nhiên như bị giảm

xuống và giá trị con người như được nâng cao hẳn
Hai câu cuối đoạn thơ, cảm xúc bồi hồi tha thiết. Như lời nhắn gửi của một khúc tâm tình. Như
tiếng hát của một bài ca hoài niệm, vừa bâng khuâng, vừa tự hào:
"Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi"
"Nhớ ôi!" tình cảm dạt dào, đó là tiếng lòng của các chiến sĩ Tây Tiến "đoàn binh không mọc tóc".
Câu thơ đậm đà tình quân dân. Hương vị bản mường với "cơm lên khói", với "mùa em thơm nếp
xôi" có bao giờ quên? Hai tiếng "mùa em" là một sáng tạo độc đáo về ngôn ngữ thi ca, nó hàm
chứa bao tình thương nỗi nhớ, điệu thơ trở nên uyển chuyển, mềm mại, tình thơ trở nên ấm áp.
"Nhớ mùi hương", nhớ "cơm lên khói", nhớ "thơm nếp xôi" là nhớ hương vị núi rừng Tây Bắc, nhớ
tình nghĩa, nhớ tấm lòng cao cả của đồng bào Tây Bắc thân yêu. Mười bốn câu thơ trên đây là phần
đầu bài "Tây Tiến", một trong những bài thơ hay nhất viết về người lính trong 9 năm kháng chiến
chống Pháp. Bức tranh thiên nhiên hoành tráng, trên đó nổi bâṭ lên hình ảnh chiến sĩ can trường và
lạc quan, đang dấn thân vào máu lửa với niềm kiêu hãnh.
Đoạn thơ để lại một dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà sự thành công là kết hợp p hoà hướng
sử thi và cảm hứng lañg mạn.
"Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh...".
Nửa thế hệ đã trôi qua, bài thơ " Tây Tiến của Quang Dũng ngày một thêm sáng giá.
2. Đoạn 2 (Doanh trại...đong đưa)
Bốn câu đầu: đêm liên hoan văn nghệ đậm tình quân dân.
+ Từ "Bừng lên" gợi cảm giác ấm áp, gợi niềm vui lan tỏa. Đêm rừng núi thành đêm hội, ngọn
đuốc nứa, đuốc lau thành "đuốc hoa" ("Đuốc hoa" là hoa chúc - cây nến đốt lên trong phòng cưới,
đêm tân hôn) gợi không khí ấm cúng. "Bừng" chỉ ánh sáng của đuốc hoa, của lửa trại sáng bừng
lên; cũng còn có nghĩa là tiếng khèn, tiếng hát, tiếng cười tưng bừng rộn rã.
+ Từ "kìa em" thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của cô gái vùng cao trong trang
phục "xiêm áo" lộng lẫy cùng dáng vẻ "e ấp" rất thiếu nữ. Những thiếu nữ Mường, những thiếu nữ
Thái, những cô gái Lào xinh đẹp, duyên dáng "e ấp", xuất hiện trong bộ xiêm áo rực rỡ, cùng với
tiếng khèn "man điệu" đã "xây hồn thơ" trong lòng các chàng lính trẻ.Cũng có thể hiểu người lính
đang đóng giả con gái trong những trang phục dân tộc rất độc đáo, tạo tiếng cười vui cho đêm văn
nghệ. Họ càng yêu đời hơn, yêu đất

bạn hơn "Nhạc về..."
+ Không chỉ thế người lính còn mải mê, say trong tiếng nhạc, điệu khèn của vùng đất lạ.
4 câu sau: Cảnh sông nước Tây Bắc vừa thực vừa mộng: hoang vắng, tĩnh lặng, buồn thi vị.


Nguyễn Anh Đức facebook.com/o0otienvagaidepo0o

Thời gian: chiều sương ấy, gợi màu sắc bảng lảng, sương khói vừa có nỗi buồn man mác.
Sông nước hoang dại, bên bờ lau lách, hoa rừng đong đưa. Hình ảnh "hoa đong đưa" là một nét vẽ
lãng mạn gợi tả cái "dáng người trên độc mộc" trôi theo thời gian và dòng hoài niệm. Đoạn thơ gợi
lên một vẻ đẹp mơ hồ, thấp thoáng, gần xa, hư ảo trên cái nền "chiều sương ấy". Cảnh và người
được thấy và nhớ mang nhiều man mác bâng khuâng. Bút pháp, thi pháp của chủ nghĩa lãng mạn
để lại dấu ấn tài hoa qua đoạn thơ này.
+ Dáng người mềm mại của cô gái Thái, Mèo trên chiếc thuyền độc mộc hay dáng người hùng
dũng, hiên ngang của người lính đang đưa con thuyền tiến về phía trước càng làm cho bức tranh
thêm phần thơ mộng.
"Có nhớ", "có thấy" luyến láy, khắc họa thêm nỗi nhớ: lưu luyến, bồi hồi.
Nghệ thuật: ngôn ngữ thơ mộc mạc, giản dị, hồn thơ mang đậm chất lãng mạn, hào hoa.
3. Đoạn 3: ( Tây Tiến đoàn binh….khúc độc hành)
Hình tượng người lính Tây Tiến bi thương, hào hùng, lãng mạn.
Giữa nền thiên nhiên khắc nghiệt, hình ảnh người lính hiện lên thật kì dị: Quang Dũng đã dùng
những hình ảnh rất hiện thực để tô đậm cái phi thường của người lính.
Bi thương: Ngoại hình ốm yếu, tiều tụy, đầu trọc, da dẻ xanh như màu lá. Đoàn quân trông thật kì
dị:
" Tây Tiến đoàn binh...oai hùm".
Đó là hậu quả của những ngày hành quân vất vả vì đói và khát, của những trận sốt rét ác tính làm
tóc rụng không mọc lại được, da dẻ héo úa như tàu lá.
Dẫn chứng minh họa thêm:
“Giọt giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ

Anh vệ quốc quân ơi
Sao mà yêu đến thế”
(Tố Hữu)
“Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”.
(Chính Hữu)
Hào hùng: thủ pháp nghệ thuật đối lập, giữa ngoại hình ốm yếu và tâm hồn mạnh mẽ: Đoàn binh
không mọc tóc", "Quân xanh màu lá", tương phản với "dữ oai hùm". Cả ba nét vẻ đều sắc, góc
cạnh hình ảnh những " Vệ túm", "Vệ trọc" một thời gian khổ được nói đến một cách hồn nhiên.
Quân phục xanh màu lá, nước da xanh và đầu không mọc tóc vì sốt rét rừng, thế mà quắc thước
hiên ngang, xung trận đánh giáp lá cà " dữ oai hùm" làm cho giặc Pháp kinh hồn bạt vía". "Đoàn
binh" gợi lên sự mạnh mẽ lạ thường của " Quân đi điệp điệp trùng trùng", của "tam quân tì hổ khí
thôn ngưu" (sức mạnh ba quân nuốt trôi trâu) . Ba từ " dữ oai hùm", gợi lên dáng vẻ oai phong lẫm
liệt, oai của chúa sơn lâm, người lính Tây Tiến vẫn mạnh mẽ làm chủ tình hình, làm chủ núi rừng,
chế ngự mọi khắc nghiệt xung quanh, đạp bằng mọi gian khổ. "mắt trừng"dữ tợn, căm thù, mạnh
mẽ, nung nấu quyết đoán làm kẻ thù khiếp sợ.


Nguyễn Anh Đức facebook.com/o0otienvagaidepo0o

Tâm hồn Lãng mạn: Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của
non sông mà còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động trong
một nỗi nhớ về một dáng kiều thơm, nhớ về vẻ đẹp của Hà Nội - Thăng Long xưa. Trước hết đó là
một vẻ đẹp tấm lòng luôn hướng về Tổ quốc, hướng về Thủ đô. Người lính dẫu ở nơi biên cương
hay viễn xứ xa xôi mà lòng lúc nào cũng hướng về Hà Nội, về quê hương.
4 câu cuối ngời lên vẻ đẹp lí tưởng:
+ Câu "rải rác..." toàn từ Hán Việt gợi không khí cổ kính. Miêu tả về cái chết, không né tránh hiện
thực.
Những nấm mồ hoang lạnh mọc lên vô danh nhưng không làm chùn bước chân Tây Tiến. Khi miêu
tả những người lính Tây Tiến, ngòi bút của Quang Dũng không hề nhấn chìm người đọc vào cái bi

thương, bi lụy. Cảm hứng của ông mỗi khi chìm vào cái bi thương lại được nâng đỡ bằng đôi cánh
của lí tưởng, của tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy mà hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi
rừng hoang biên giới xa xôi đã bị mờ đi trước lí tưởng quên mình vì Tổ quốc của người lính Tây
Tiến.
+ Tinh thần chiến đấu "Chiến trường...". Ba từ "chẳng tiếc đời xanh " vang lên vừa gợi vẻ bất cần
đồng thời mang vẻ đẹp thời đại "Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh", cống hiến trọn đời vì độc lập tự
do của đất nước của dân tộc.
Dẫn chứng thêm:
“Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta, như vợ, như chồng
Ôi Tổ quốc, nếu cần, ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông”
(Chế Lan Viên)
Hình ảnh ấy làm ta liên tưởng tới vẻ đẹp của những tráng sĩ thời xưa ví như Thái Tử Kinh Kha
sang đất Tần
hành thích Tần Thủy Hoàng cũng mang tinh thần: Tráng sĩ một đi không trở về.
Kết luận: Không chỉ mang vẻ đẹp của thời đại mà ở người lính Tây Tiến còn phảng phất vẻ đẹp
của tinh thần hiệp sĩ.
Coi nhẹ cái chết: "Áo bào............độc hành"
Hiện thực: Người lính chết không có manh vải liệm chỉ có manh chiếu bọc thân nhưng vẫn xem cái
chết nhẹ như lông hồng. Câu thơ của Quang Dũng không dừng lại ở mức tả thực mà đẩy lên thành
cảm hứng tráng lệ, coi chiếu là áo bào để cuộc tiễn đưa trở nên trang nghiêm, cổ kính. Quang Dũng
đã tráng lệ hoá cuộc tiễn đưa bi thương bằng hình ảnh chiếc áo bào và sự hy sinh của người lính đã
được coi là sự trở về với đất nước, với núi sông. Cụm từ "anh về đất" nói về cái chết nhưng lại bất
tử hoá người lính, nói về cái bi thương nhưng lại bằng hình ảnh tráng lệ. Chết là về với đất mẹ
"Người hi sinh đất hồi sinh/ máu người hóa ngọc lung linh giữa đời".Mạch cảm xúc ấy đã dẫn tới
câu thơ đầy tính chất tráng ca "Sông Mã gầm lên khúc độc hành" Sông Mã tiễn đưa bằng bản nhạc
của núi rừng đượm chất bi tráng như loạt đại bác đưa tiễn những anh hùng về với non sông tổ
quốc.



Nguyễn Anh Đức facebook.com/o0otienvagaidepo0o

Nghệ thuật: sử dụng nhiều từ Hán Việt gợi sắc thái cổ kính, trang nghiêm. Lời thơ hàm súc vừa
đượm chất hiện thực vừa gợi chất hào hùng, bi tráng.
4. Đoạn cuối:
Lời thề son sắt thể hiện tinh thần "Nhất khứ bất phục hoàn" - Một đi không trở về.
"Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi..."
Bốn câu thơ khép lại một cảm xúc bâng khuâng làm lòng ta nao nao khó tả. Chàng trai Tây tiến,
khi ra đi đều không ước hẹn ngày về, đều sẵn sàng hy sinh vì nghĩa lớn "quyết tử cho tổ quốc quyết
sinh". Vì vậy cái chết với họ nào có là gì khi Hồn ta hoà vào hồn thiêng của toàn dân tộc, bay lên,
bay lên mãi, "chẳng về xuôi".
"Không hẹn ước" rồi lại "thăm thẳm một chia phôi". Quang Dũng khẳng định cái ý niệm "nhất khứ
bất phục hoàn" trong hình ảnh anh bộ đội Tây Tiến, cũng là cái ý niệm chung cả một thời kỳ, một
thế hệ con người.
Đã nói nhiều điều về Tây Tiến, đã nhắc lại nhiều kỷ niệm về Tây Tiến, nhưng cuối cùng cái đọng
lại sâu nhất, bền vững nhất về Tây Tiến là cái tinh thần ấy. Giọng thơ trầm, chậm, hơi buồn, nhưng
ý thơ thì vẫn hào hùng.
"Tây Tiến mùa xuân ấy" đã trở thành cái thời điểm một đi không trở lại của lịch sử nước nhà. Sẽ
không bao giờ còn có lại cái thuở gian khổ và thiếu thốn đến dường ấy nhưng cũng lãng mạn và
hào hùng đến dường ấy.
III. TÀI LIỆU THAM KHẢO:
A, NHÀ THƠ QUANG DŨNG NÓI VỀ TÂY TIẾN (TRÍCH)
(Nhà thơ Vũ Văn Sỹ ghi theo lời kể của nhà thơ Quang Dũng)
Đối với tôi, những ngày Tây Tiến không hẳn là những ngày in kỷ niệm sâu sắc hơn cả...
Tôi nhập ngũ đúng ngày Cách mạng tháng Tám thành công. Năm đó tôi hai mươi sáu tuổi...Tôi trở
thành phóng viên tiền phương của tờ báo Chiến đấu thuộc Khu II.

Tôi ở báo Chiến đấu đến đầu năm 1947 thì được điều đi học Trường bổ túc Trung cấp (tức Trường
bổ túc trung cấp quân sự Sơn Tây)...
Sau lớp học, tôi về Trung đoàn Tây Tiến, tức là Trung đoàn 54. Anh Tuấn Sơn làm Trung đoàn
trưởng. Tôi ở đại đội bộ, làm đại đội trưởng...Tây Tiến là mộ chiến dịch tiến quân từ Khu III, Khu
IV lên Khu X tức là Tây Bắc, vùng Điện Biên Phủ. Đây là chiến dịch có ý nghĩa chiến lược...Đầu
năm 1947 ta thành lập Trung đoàn Tây Tiến đầu tiên, gồm các chiến sĩ tình nguyện của Khu III,
Khu IV và tự vệ Thành Hà Nội trước thuộc Trung đoàn Thủ đô. Đợt Tây Tiến đầu tiên, ta đánh sâu
nhưng phải rút lui ngay, vì lực lượng địch tập trung và mạnh. Tôi đi đợt hai.
Nhiệm vụ của chúng tôi là mở đường qua đất Tây Bắc. Một nhiệm vụ không kém phần quan trọng
là công tác dân vận gây dựng cơ sở, tranh thủ sự giác ngộ của nhân dân. Vì thế đi đôi với chức vụ
đại đội trưởng, tôi còn được cử làm Phó đoàn tuyên truyền Lào - Việt.
Chúng tôi xuất phát từ Sơn Tây. Lúc đầu rất đàng hoàng đi bằng ô tô...Sau, chúng tôi chuyển sang
hành quân bằng đôi chân, thực sự nếm mùi Tây Tiến: mơt rừng, ngủ rừng. Những cái dốc thăm


Nguyễn Anh Đức facebook.com/o0otienvagaidepo0o

thẳm “Heo hút cồn mây súng ngửi trời”, những chiều “oai linh thác gầm thét”, những đêm “Mường
Hịch cọp trêu người”, rồi rải rác dọc biên cương những “nấm mồ viễn xứ”... tôi mô tả trong bài thơ
Tây Tiến là rất thực, có pha chút âm hưởng Nhớ rừng của Thế Lữ, mà sau này vô tình tôi mới nhận
ra... Trong bài thơ Tây Tiến, tôi còn
viết “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”. Hồi ấy trong đoàn chúng tôi rất nhiều người sốt rét trọc
cả đầu. Trong điều kiện gian khổ, thiếu thốn, mình lại không giữ vệ sinh, và lại có giữ cũng chả
được, nên bộ đội không những bị ốm, mà còn chết vì sốt rét rất nhiều. Chúng tôi đóng quân ở nhà
dân, cứ mỗi lần nghe tiếng cồng nổi lên, lại tập trung đến nhà trưởng thôn để tiễn một con người
vĩnh biệt rừng núi. Tiếng cồng ở Tây
Tiến thật buồn đến nẫu ruột. Kể chuyện lại, bây giờ tôi vẫn nghe văng vẳng tiếng cồng.Tôi muốn
gợi thêm một ý của bài thơ Tây Tiến để nói lên cái gian khổ, thiếu thốn ở miền Tây. Ngay cả khi
nằm xuống, nhiều tử sĩ cũng không có đủ manh chiếu liệm. Nói “áo bào thay chiếu” là cách nói
của người lính chúng tôi, cách nói ước lệ của thơ trước đây để an ủi những đồng chí của mình đã

ngã xuống giữa đường.
Bài thơ Tây Tiến tôi làm khi về dự Đại hội toàn quân ở Liên khu III, làng Phù Lưu Chanh (tên một
tổng của Hà Nam thời Pháp). Tôi làm thơ rất nhanh, làm xong đọc trước Đại hội, được mọi người
hoan nghê liệt nhiệt. Nhân có Nguyễn Huy Tưởng, đại biểu nhà văn ở Việt Bắc về dự, lúc đi, tôi
gửi anh luôn. Sau anh Xuân Diệu cho in ngay ở Tạp chí Văn nghệ. Hồi đó tấm lòng và cảm xúc
của mình ra sao thì viết vậy. Tôi chả có chút lý luận gì về thơ cả. Dẫu sao bài thơ Tây Tiến có cái
hào khí của lãng mạn một thời gắn với lịch sử kháng chiến anh dũng của dân tộc... Từ Tây Tiến trở
đi tôi làm nhiều thơ hơn.
Cuối năm 1948, sau chiến dịch Tây Tiến, tôi về làm trưởng tiểu ban tuyên huấn của Trung đoàn
52... Rồi làm trưởng đoàn Văn nghệ Liên khu III.
Tháng 8 năm 1951, tôi xuất ngũ. Còn cái trung đoàn Tây Tiến của tôi, hình như sau này được phân
chia, bổ sung để thành lập sư đoàn 320 thì phải.
B, PHÍA SAU BÀI THƠ TÂY TIẾN (TRÍCH)
(Theo lời kể của nhạc sĩ Quang Vĩnh - con trai cả của cố nhà thơ Quang Dũng) - Tây tiến đã "bị"
sửa như thế nào?
Quang Dũng tham gia đoàn quân Tây tiến năm 1947 và hành quân lên Tây Bắc với nhiệm vụ phối
hợp với bộ đội nước bạn để bảo vệ vùng biên giới Việt Lào.
Ban đầu, bài thơ được Quang Dũng đặt tên là Nhớ Tây Tiến. Ông sáng tác rất nhiều, nhưng không
hiểu sao lại trăn trở nhất với riêng bài thơ này.
Ông Quang Vĩnh kể lại, nhiều lần, ông thấy cha mình ngồi rất lâu trước một cuốn sổ tay băn khoăn
về cái tít vỏn vẹn có 3 chữ ấy. Có lẽ Tây tiến là một kỷ niệm đáng nhớ nhất trong cuộc đời binh
nghiệp của Quang Dũng nên bài thơ thấm đẫm linh hồn đoàn quân hào hoa ngày nào, ông luôn
muốn có một sự chỉn chu đến từng câu chữ.
Cuối cùng, Quang Dũng lấy bút bỏ đi chữ "Nhớ". Dù còn nhỏ, nhưng ông Vĩnh cũng buột miệng
hỏi sau khi thấy cha "bóp trán" hàng năm trời mà chỉ sửa được vọn vẹn duy nhất một chữ: "Chữ
'Nhớ' đâu có ảnh hưởng nhiều đến vần điệu bài thơ sao bố nghĩ gì mà lâu thế?". Quang Dũng chỉ


Nguyễn Anh Đức facebook.com/o0otienvagaidepo0o


cười mà rằng: "Tây tiến, nhắc đến là đã thấy nỗi nhớ rồi. Thế nên để chữ Nhớ là thừa. Không cần
thiết nữa con trai ạ".
Đến quãng năm 1956, có lẽ vẫn chưa "dứt duyên" nổi với Tây Tiến, một buổi sáng Quang Dũng lại
mang cuốn sổ thơ của mình ra "ngâm cứu". Rồi như cần đến một người tri kỷ, Quang Dũng gọi con
trai lại và hỏi:
"Con đọc cho bố nghe cả bài thơ rồi cho nhận xét xem nó thế nào". "Khi ấy tôi còn rất nhỏ" - ông
Vĩnh nói -mới học lớp 7 nên nào biết cảm nhận văn chương thơ phú nó ra làm sao, thậm chí đọc
bài thơ ấy còn thấy hơi... ngang ngang". Tuy vậy, nhưng ra vẻ con nhà nòi, ông Vĩnh cũng "phán"
bừa một câu rằng: "Con thấy câu “Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người” nghe nó cứ "chối" thế
nào. Hay bố thay cái địa danh khác vào nghe cho nó hợp chứ Mường Hịch nghe nặng nề quá".
Thực ra lúc ấy ông Vĩnh chỉ thấy nó có vẻ không vần điệu lắm với khổ thơ trên, nhưng nghe vậy
Quang
Dũng ngần ngừ một lát, rồi suy tính thế nào lại mỉm cười nói, thế thì không ổn con trai ạ.
Mãi về sau ông Vĩnh mới vỡ lẽ ra cái sự ngần ngừ không ổn ấy bắt nguồn từ một nguyên do,
Mường Hịch còn là một địa danh gắn liền với kỷ niệm bất ngờ của cha mình. Trong một lần hành
quân, đoàn quân Tây Tiến đã dừng chân ở Mường Hịch, gần sông Mã. Người dân nơi đây kể cho
Quang Dũng về một con cọp đã thành tinh chuyên bắt người ăn thịt. Rất nhiều dân lành đi rừng đã
bị con cọp này vồ mất xác.
Thấy bộ đội có súng nên một số người dân ngỏ lời nhờ bộ đội Tây tiến diệt trừ giúp. Vốn là người
gan dạ, khỏe mạnh, mới nghe thế máu mã thượng trong người Quang Dũng đã bốc lên. Ông gọi
một số anh em trong đơn vị lại rồi lấy một con lợn trói tại gốc cây làm mồi bẫy, còn bản thân cùng
anh em chia nhau nấp đợi hổ về.
Nửa đêm, dân làng nghe thấy mấy tiếng súng vọng lại từ rừng già, rồi sau đó là tiếng hổ gầm điên
loạn, gần sáng thì thấy Quang Dũng dẫn đầu một tốp bộ đội hớn hở tìm về, người ngợm ướt đẫm
sương. Mãi sau này người ta mới biết, lúc bị thương con hổ điên cuồng chống trả, Quang Dũng
phải nổ mấy phát súng mới kết liễu được nó. Vậy mà cái địa danh đáng nhớ ấy, suýt nữa thì ông
Vĩnh cắt mất của cha mình.

VIỆT BẮC
-TỐ HỮUI. KIẾN THỨC CƠ BẢN:

1. Vài nét về tiểu sử:


Nguyễn Anh Đức facebook.com/o0otienvagaidepo0o

Tố Hữu, tên thật là Nguyễn Kim Thành (04/10/1920 – 09/12/2002) tại làng Phù Lai, nay thuộc xã
Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế
là một tác gia có vị trí đặc biệt quan trọng, một nhà thơ tiêu biểu của dòng thơ cách mạng Việt
Nam. Ông đã từng giữ các chức vụ quan trọng trong hệ thống chính trị của Việt Namnhư Ủy viên
Bộ Chính trị, Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Phó Chủ tịch thứ Nhất
Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
tại làng Phù Lai, nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
2. Nét nổi bật trong giá trị nội dung và nghệ thuật của tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu:
- Ở tập thơ Việt Bắc, Tố Hữu hướng vào thể hiện con người quần chúng kháng chiến, trước hết là
công nông binh với những phẩm chất tốt đẹp mà nhà thơ ngợi ca cảm phục. Cái tôi của nhà thơ ẩn
mình đi đằng sau các hình ảnh anh vệ quốc quân, chị nông dân, anh bộ đội, người mẹ nông dân, chị
phụ nữ, em bé liên lạc...Trên tất cả, tập trung và tiêu biểu cho mọi phẩm chất của dân tộc, của con
người kháng chiến là hình ảnh Bác Hồ.
- Việt Bắc là bản hùng ca của cuộc kháng chiến chống Pháp, phản ánh những chặng đường gian
lao, anh dũng và những bước đi lên của cuộc kháng chiến cho đến ngày thăng lợi. Tập thơ kết tinh
những tình cảm lớn của con người Việt Nam, kháng chiến, mà thống nhất mà bao trùm là tình yêu
nước, một tình cảm thấm sâu vào mọi bình diện và mọi quan hệ đời sống, được biểu hiện trong
nhiều trạng thái phong phú đa dạng: tình quân dân "cá nước", tình hậu phương tiền tuyến, miền
ngược với miền xuôi, tình nghĩa gắn bó giữa cán bộ và quần chúng, lòng kính yêu của nhân dân
với lãnh tụ...
- Vào những năm cuối của cuộc kháng chiến, những sự kiện lịch sử trọng đại như chiến thắng Điện
Biên Phủ, hoà bình lập lại nửa nước được giải phóng...đã chắp cánh cho hồn thơ Tố Hữu bay bổng
và rộng mở trong cảm hứng sử thi - trữ tình mang hào khí thời đại, tiếp thu nhiều giá trị văn hoá
dân gian như lối đối đáp, lối xưng hô "mình-ta"...và kế thừa những thành tựu thơ ca dân tộc, nhất là
lục bát, mang lại cho Việt Bắc một nghệ thuật thơ nhiều tính dân tộc và đại chúng.

II. KIẾN THỨC CƠ BẢN:
1, Tám dòng thơ đầu
Việt Bắc được Tố Hữu sáng tác vào tháng 10/1954, khi Trung ương Đảng, Chính phủ, Bác Hồ từ
biệt chiến khu Việt Bắc, nhân dân Việt Bắc về Hà Nội sau gần 15 năm gắn bó.
Trong cuộc tiễn đưa đầy lưu luyến bịn rịn của việt Bắc đối với người về xuôi, khúc hát chia tay đã
được bắt đầu cất lên từ chính lòng người ở lại. Tố Hữu như muốn nói lòng người Việt Bắc thủy
chung với Cách mạng biết nhường nào. Ngay từ câu thơ mở đầu trong sáu tiếng đã có tới 2 tiếng
“mình” thân thương. Sự trở đi trở lại tiếng gọi đối với mình như để nói lòng người Việt Bắc không
nguôi nhớ người về xuôi nhưng lại cũng như xoáy sâu vào ký ức của người về xuôi những kỷ niệm
chan chứa nghĩa tình. Cũng ngay từ câu thơ mở đầu những chữ “mình, ta” đã như quấn quýt với
nhau, như sự gắn bó không muốn chia xa giữa người ở và người về. Âm điệu của câu thơ chủ yếu
được tạo bởi thanh bằng với một chữ “ta” ở cuối làm cho tình cảm nhớ thương vừa lắng vào lòng
người trong cuộc chia tay lại lan ra mênh mang.
Kết cấu của hai câu thơ mở đầu là kết cấu của một câu hỏi tu từ, câu hỏi khơi gợi những kỷ niệm
tha thiết mặn nồng, câu hỏi bao trùm cả không gian của 15 năm ấy. Câu hỏi thường có tác dụng


Nguyễn Anh Đức facebook.com/o0otienvagaidepo0o

khơi sâu vào lý trí của người nghe nhưng ở đây câu hỏi lại khơi gợi những kỷ niệm đầy xúc động
của 15 năm Cách mạng đã gắn bó với Việt Bắc để làm nên một Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà.
Bởi, Tố Hữu đã sử dụng một chữ “15 năm ấy” gợi ta nhớ tới cái “thuở ban đầu” của tình yêu đã
từng được nói tới trong hơ của Lưu Trọng Lư.
“Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy
Nghin năm hồ dễ đã ai quên”.
Người về làm sao có thể quên được 15 năm ây của mối tình đầu giữa Việt Bắc và Cách mạng.
Cùng với sự khơi gợi những tình cảm trong sáng, mạnh mẽ, những tình cảm “nghìn năm hồ dễ đã
ai quên” câu thơ được tiếp tục bởi những chữ “thiết tha, mặn nồng”. Một câu thơ viết về 15 năm
của Cách Mạng, của kháng chiến mà nồng nàn, mà tha thiết mà trữ tình biết bao.
Vẫn là một câu hỏi mà người ở lại hướng tới người về xuôi, vẫn là một cách xưng hô hết sức tình

tứ “mình” với “ta” nhưng ở hai dòng thơ tiếp theo lại là câu hỏi bao trùm cả không gian, không
gian của cuộc chia tay, không gian của những kỉ niệm qua suốt 15 năm ấy, không gian của cả đất
nước bao trùm cả miền ngược lẫn miền xuôi, không gian của cây với núi, của sông với nguồn. Một
câu hỏi làm bâng khuâng cả núi rừng sông suối, cả đất trời trong khung cảnh chia tay. Dường như
ở đâu trong thời điểm ấy cũng có sự hòa hợp giữa niềm vui và nỗi nhớ vì sự chia tay giữa mình và
ta là một sự kiện lớn lao trong đời sống của Đất nước.
Cái đặc sắc của câu thơ không chỉ thể hiện qua kết cấu của câu hỏi, qua từ ngữ xưng hô tình tứ mà
còn qua những hình ảnh như được viết ra từ thể hứng, thể phú, thể tỉ trong ca dao. Đọc câu thơ.
“Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”
Ta ngỡ như đọc câu ca dao:
“Qua đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu”
Hay
“Qua cầu ngả nón trông cầu
Câu bao nhiêu nhịp dạ sầu bấy nhiêu”
Thơ Tố Hữu viết về những vấn đề chính trị mà vẫn thấm cái hồn của ca dao, dân ca. Bốn câu thơ
như một bài ca dao vậy, chất trữ tình gắn liền với những băn khoăn trăn trở của người ở lại, của
Việt bắc vô cùng thủy chung với Cách mạng. Tố Hữu đã chọn một cách nói để khơi nguồn cho
cảm xúc xuyên suốt văn bản hết sức đặc sắc.
Mạch thơ từ những câu thơ mở đầu này cứ thế tuôn chảy dào dạt.
Nằm trong mạch hát đối đáp bài thơ đã dành đúng 4 dòng thơ diễn tả tâm trạng người về xuôi, tạo
nên sự cân đối với 4 dòng thơ mở đầu, tạo nên sự tương xứng với sự thủy chung của Việt Bắc. Ở 4
dòng thơ này như có sự nhớ thương đáp lại nhớ thương, tha thiết đáp lại với tha thiết cái bịn rịn
không nỡ rời chân đáp lại cái mặn nồng của người ở lại. Nằm trong mạch cảm xúc như của tiếng
hát giữa đôi lứa yêu nhau, Tố Hữu buông một câu thơ rất tình tứ.
“Tiếng ai tha thiết bên cồn”
Chỉ cáo một chữ “ai” đâu phải để hỏi vì muốn biết “ai”. Chữ “ai” đâu cũng còn là đại từ phiếm chỉ
để chỉ chung, chỉ một đối tượng không xác định bởi đây cả “ta” lẫn “mình” đang lên tiếng hát cho



Nguyễn Anh Đức facebook.com/o0otienvagaidepo0o

cuộc chia tây đầy lưu luyến. Chữ “ai” chỉ là một cách nói để làm tăng thêm tình cảm yêu thương,
để câu nói trở nên tình tứ mà thôi. Người về xuôi trong nỗi niềm xúc động như mở rộng tâm hồn,
mở rộng nỗi lòng của mình để đón nhận cái thiết tha của những tình cảm thủy chung kia để rồi bày
tỏ tình cảm của mình. Đó là trạng thái:
“Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi”
Những chữ “bâng khuâng” “bồn chồn” diễn tả rất chính xác trạng thái tình cảm của người về xuôi.
“Bâng khuâng” chính là nỗi niềm thương nhớ đối với cảnh, đối với người, đối với cuộc sống đã trở
thành kỉ niệm của những ngày kháng chiến, những kỷ niệm còn vương vấn, còn dâng đầy trong
tâm trí người về xuôi.
Bước chân về xuôi mà lòng dường như vẫn còn vấn vương với Việt Bắc, còn “bồn chồn” là một từ
đã tâm trạng hóa bước đi của người về xuôi, những bước đi không nỡ rời mảnh đất yêu thương qua
15 năm ấy. Mỗi bước đi lại mỗi nhớ nhung, mỗi bước đi mỗi bước không yên bởi nỗi niềm thương
nhớ ấy.
Với câu thơ thứ 3 ở khổ thơ này Tố Hữu đã bất ngờ làm hiện ra ý nghĩa lịch sử của cuộc chia tay.
Bởi với những dòng thơ mở đầu trước đó, tiếng hát đối đáp như chỉ của mình với ta, của đôi lứa
yêu nhau, đột nhiên cuộc chia tay ấy trở thành cuộc chia tay lớn của cả Việt Bắc đối với cuộc
kháng chiến. Từ một hình ảnh hoán dụ.
“Áo chàm đưa buổi phân li”
Cả Việt Bắc như ngẩn ngơ trong cuộc chia tay lịch sử ấy, Hình ảnh “áo chàm” dùng để chỉ hình
ảnh của Việt Bắc trong thủ pháp hoán dụ. Cái ngẩn ngơ của VB hiện ra ở những chữ “đưa buổi
phân li”. Trong khi đó câu thơ:
“Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
Không chỉ thể hiện cái lặng đi trong giấy phút xúc động của người về xuôi mà còn diễn tả cái ngập
ngừng, bịn rịn, lưu luyến trong bước chân của người về xuôi qua sự đột biến của nhịp điệu câu thơ.
Bởi, câu thơ lục bát vốn có kết cấu của những nhịp chẵn đều đặn, mang cái dìu dặt của khúc hát
chia tay đã chuyển thành nhịp lẻ 3/3/2:
“Cầm tay nhau/biết nói gì/hôm nay”

Nhịp điệu ấy gợi ta nhớ tới cảnh chia tay trong câu thơ
“Bước đi một bước giây giây lại dừng”
Sự thay đổi nhịp điệu của câu thơ còn làm cho đoạn thơ có sự đổi mới đối với cảm xúc của người
đọc câu thơ đã làm cho người đọc không rơi vào cái tiết tấu quá đều đặn qua suốt 8 dòng thơ mà
trở nên mòn, chán.
2, Đoạn thơ: “Mình đi có nhớ những ngày...Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa”.
Nhắc đến Tố Hữu thì ai cũng biết ông là một trong những nhà thơ trữ tình Cách Mạng hàng đầu
của nền văn học Việt Nam. Thơ Tố Hữu là tiếng thơ của lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn
của con người Cách mạng và cuộc sống Cách Mạng. Bài “Việt Bắc” là đỉnh cao trong sự nghiệp
sáng tác thơ của Tố Hữu nói riêng, của thơ kháng chiến chống Pháp nói chung.Có thế nói, “Việt
Bắc” là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca, thế hiện ân tình sâu nặng, thủy chung của nhà thơ
đối với căn cứđịa Cách Mạng cả nước. Điều này càng được khắc họa rõ nét hơn trong khổ thơ:
“Mình đi,có nhớ những ngày


Nguyễn Anh Đức facebook.com/o0otienvagaidepo0o

…………….........
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?”
“Việt Bắc” là tác phẩm trường thiên,dài 150 dòng,được Tố Hữu viết vào tháng 10/1954 khi Trung
ương Đảng và chính phủ, Bác Hổ và cán bộ từ giã “Thủ đô gió ngàn” để về với “Thủ đô hoa vàng
nắng Ba Đình” .Bao trùm đoạn thơ là một niềm hoài niệm nhớ thương về những năm tháng ở chiến
khu Việt Bắc, là nỗi nhớ da diết, tâm trạng bâng khuâng, lưu luyến của kẻ ở người đi – người miền
ngược và người đi kháng chiến.
Mở đầu đoạn thơ là hàng loạt câu hỏi rất ngọt ngào:
“Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mưa
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”
Ở khổ thơ, xuất hiện một loạt cụm từ “có nhớ”, điều này gợi cho ta cảm nhận được tâm trạng của

người ở lại – một tâm trạng quan tâm, lo lắng không biết: “Cán Bộ về xuôi, Cán Bộ có còn nhớ
chiến khu Việt Bắc nữa không ?”. Để cho Việt Bắc hỏi là vì nhà thơ muốn khơi gợi lại những ngày
kháng chiến gian khổ. Nhớ thiên nhiên Việt Bắc “mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù” , câu
thơ đã đặc tả được cảnh thiên nhiên hoang sơ, thời tiết khắc nghiệt nơi núi rừng Việt Bắc, tuy
khung cảnh có chút ảm đạm nhưng vẫn mang đậm chất trữ tình, thơ mộng, phóng khoáng và hùng
vĩ. Ngoài việc phải đối mặt với sự khắc nghiệt,khó khăn của thiên nhiên, “mình và ta” còn phải đối
diện với cuộc sống thiếu thốn,đầy gian khổ “miếng cơm chấm muối”. Hình ảnh hoán dụ “mối thù
nặng vai”, gợi liên tưởng đến “mối thù” sâu nặng của nhân dân đối với những kẻ cướp nước,
những kẻ đan tâm bán nước ta cho giặc. Đồng thờ còn là lời nhắc nhở kín đáo của người ở lại về
một thời rất đỗi tự hào, “mình và ta” đã cùng sát cánh bên nhau, cùng nhau tiêu điệt kẻ thù chung,
giành lại độc lập tự do và đem đến cho nhân dân cuộc sống hạnh phúc, ấm no. Ngệ thuật tiểu đối
kết hợp với cách ngắt nhịp 2/2/2 - 4/4 đều đặn khiến cho câu thơ trở nên nhịp nhàng, cân đối, lời
thơ càng thêm tha thiết.
Tiếp mạch cảm xúc, vẫn là những lời hỏi của Việt Bắc nhưng ẩn chứa trong vần thơ lại là lời bộc
bạch tâm sự của
người ở lại, bày tỏ tình cảm lưu luyến với cán bộ về xuôi:
“Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già”
Tố Hữu đã sử dụng biện pháp hoán dụ “rừng núi nhớ ai” – “rừng núi” chính là hình ảnh người ở
lại, còn đại từ “ai” là chỉ người cán bộ về xuôi – nhằm nhấm mạnh tình cảm thắm thiết và nỗi nhớ
da diết của nhân dân Việt Bắc đối với những người kháng chiến, với Đảng và chính phủ...Thiên
nhiên và con người Việt Bắc nhớ cán bộ về xuôi nhiều đến mức “trám bùi để rụng, măng mai để
già” – “trám bùi và măng mai” là hai món ăn thường nhật của bộ đội, của cán bộ kháng chiến;
đồng thời cũng là “đặc sản” của thiên nhiên Việt Bắc. “Mình về” khiến núi rừng Việt Bắc bỗng trở
nên trống vắng, buồn bã đến lạ thường, ngay cả khi “trám bùi – măng mai” mà cũng không ai thu
hái. Người ở lại đã bộc lộ tình cảm của mình thật chân thành và tha thiết.


Nguyễn Anh Đức facebook.com/o0otienvagaidepo0o


Nhân dân Việt Bắc vẫn tiếp tục hỏi, nhưng ở đoạn thơ này lời hỏi được nhấn mạnh hơn, thể hiện cụ
thể và rõ ràng hơn: “Cán Bộ về xuôi có nhớ cảnh vật Việt Bắc, con người Việt Bắc, nhớ những
năm tháng cùng nhau kháng chiến hay không ?”
“Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, có nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh.”
Cụm từ “nhớ những nhà” – biện pháp hoán dụ - gợi cho ta cảm nhận được tâm trạng lo lắng không
biết rằng: Cán bộ có nhớ những người dân Việt Bắc hay không ?Chứ nhân dân Việt Bắc nhớ cán
bộ nhiều lắm,nhớ đến nỗi ”hắt hiu lau xám”.Từ láy “hắt hiu” kết hợp với hình ảnh đặc trưng của
thiên nhiên Việt Bắc “lau xám” càng làm nổi bật hơn khung cảnh hoang vắng,đơn sơ, im lặng nơi
núi rừng. Nhưng đối lập với khung cảnh ấy là “tấm lòng son”, tấm lòng ấm áp và chân thành của
con người Việt Bắc. Ngoài ra, nhân dân Việt Bắc còn muốn biết thêm rằng: Cán bộ về xuôi có nhớ
“núi non”, nhớ thiên nhiên Việt Bắc hùng vĩ hay không? Có nhớ khoảng thời gian cùng nhau
“kháng Nhật”, “thuở còn làm Việt Minh” hay không? Chính nghĩa tình của đồng bào Việt Bắc đối
với bộ đội, với Cách Mạng; sự đồng cảm cùng san sẻ mọi gian khổ, niềm vui, cùng gánh vác nhiệm
vụ nặng nề, khó khăn làm cho Việt Bắc – quê hương của Cách Mạng, cội nguồn nuôi dưỡng cho
Cách Mạng – càng thêm ngời sáng trong tâm trí nhà thơ nói riêng và trong lòng người đọc nói
chung. Kết lại đoạn thơ là nỗi nhớ về những địa danh lịch sử:
“Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa.”
Chỉ với hai câu thơ,nhưng tác giả đã gửi gắm rất nhiều tình cảm, ẩn chứa rất nhiều điều; đặc biệt là
ở câu thơ sáu chữ có đến ba từ “mình” quyện vào nhau nghe thật tha thiết và chân thành. Từ
“mình” thứ nhất và thứ hai được dùng để chỉ người cán bộ về xuôi, còn từ “mình” thứ ba ta có thể
hiểu theo nhiều cách. Nếuhiểu theo nghĩa rộng, “mình” là Việt Bắc – đại từ nhân xưng ngôi thứ hai
– thì câu thơ mang hàm ý: Cán bộ về xuôi, về Hà Nội không biết cán bộ có còn nhớ đến nhân dân
Việt Bắc, nhớ đến người ở lại không?”. Ở nghĩa hẹp
hơn, “mình” chính là cán bộ về xuôi – đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất – khiến cho câu thơ được
hiểu theo một nghĩa khác: Cán bộ về xuôi, cán bộ có nhớ chính mình hay không? Có còn nhớ đến
quá khứ của bản thân, nhớ những năm tháng chiến đấu gian khổ vì lí tưởng cao đẹp,vì độc lập tự

do của dân tộc hay không?”.
Với cách hiểu thứ hai này, người ở lại đã đặt ra một vấn đề có tính thời sự, sợ rằng mọi người sẽ
ngủ quên trên chiến thắng, quên đi quá khứ hào hùng của mình, thậm chí sẽ phản bội lại lí tưởng
cao đẹp của bản thân. Nhà thơ Tố Hữu đã hình dung trước được diễn biến tâm lý của con người sau
chiến thắng, đây quả là câu thơ mang tính trừu tượng và triết lý sâu sắc.
“Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa.”
Ở câu thơ cuối trong khổ ba, người ở lại nhắc đến hai địa danh nổi tiếng gắn liền với hai sự kiện
quan trọng đã từng diễn ra ở Việt Bắc. Địa điểm thứ nhất: sự kiện “cây đa Tân Trào” (12/1944),
đây là nơi đội Việt Namtuyên truyền giải phóng quân làm lễ xuất phát, lúc đầu chỉ với mấy chục
thành viên nhưng sau đó trở thành đội quân Việt Nam- lực lượng chủ chốt đã làm nên chiến thắng


Nguyễn Anh Đức facebook.com/o0otienvagaidepo0o

ngày hôm nay. CÒn địa điểm thứ hai là tại đình “Hồng Thái” nơi Bác đã chủ trì cuộc họp (8/1945)
quyết định làm cuộc Cách Mạng Tháng 8; chính nhờ quyết định sáng suốt này mà cuộc kháng
chiến chống Pháp đã thành công vang dội,có thể giành lại độc lập tự do cho nước nhà. Tố Hữu
lồng hai địa danh lịch sử vào trong câu thơ nhằm nhấn mạnh câu hỏi của người ở lại, đồng thời còn
là lời nhắc nhở nhẹ nhàng: Không biết rằng cán bộ về xuôi có còn nhớ rằng Việt Bắc chính là cái
nôi của Cách mạng, là nguồn nuôi dưỡng Cách Mạng hay không? Và liệu rằng cán bộ về xuôi có
còn thủy chung, gắn bó với Việt Bắc như xưa không hay là đã thay lòng đổi dạ?”
Chỉ với 12 câu thơ trong khổ 3 của bài Việt Bắc, Tố Hữu đã đưa ta vào thế giới của hoài niệm và kỉ
niệm, vào một thế giới êm ái,ngọt ngào, du dương của tình nghĩa Cách Mạng. Cái hay nhất trong
khổ thơ chính là Tố Hữu đã sử dụng rất khéo léo và đặc sắc hai cụm từ đối lập “mình đi – mình
về”.Thông thường, đi và về là chỉ hai hướng trái ngược nhau, nhưng ở trong khổ thơ này thì “mình
đi – mình về” đều chỉ một hướng là về xuôi,về Hà Nội.Với lối điệp cấu trúc kết hợp nhịp thơ 2/2/2
- 4/4 đều đận, khiến cho âm điệu thơ trở nên nhịp nhàng, cân xứng giống như nhịp chao của võng
đong đưa, rất phù hợp vối phong cách thơ trữ tình –chính trị của Tố Hữu.“Giọng thơ tâm tình ngọt
ngào tha thiết và nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc” của Tố Hữu đã góp phần tạo nên sự thành
công cho bài Việt Bắc. Những chi tiết về ánh sáng và tình người, từ “miếng cơm chấm muối, trám

bùi,măng mai, mái nhà hắt hiu lau xám...” đến “mối thù” hai vai chung gánh, những “tấm lòng
son” sẽ không bao giờ phai nhạt,sẽ sống mãi trong lòng nhà thơ và trong tâm trí của người dân Việt
Bắc,của những cán bộ về xuôi.
3. Đoạn thơ:
“Ta với mình, mình với ta
....................
Chày đêm, nên cối đều đều suối xa”.
a. Người ra đi khẳng định lòng chung thủy và tình cảm thiết tha với cội nguồn cách mạng:
“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”
- Ở đoạn đầu của bài thơ, người Việt bắc trong nỗi niềm của người ở lại: Sợ người ra đi trở về
thành thị sẽ quên mất mình (Sáng đèn có nhớ mảnh trăng giữa rừng). Niềm phấp phỏng ấy được
diễn tả bằng một câu hỏi: “Mình về mình có nhớ ...”, “Mình đi có nhớ ... “. Vì vậy 4 câu thơ trên là
câu trả lời, sự khẳng định của người ra đi.
- Lời thơ óng ả, dịu dàng, tình tứ với lối xưng hô thân mật, ngọt ngào của ca dao, dân ca “ta mình”. Nỗi nhớ của người cách mạng về quê hương Biệt Bắc giống như nỗi nhớ của những đôi lứa
yêu nhau. Sự sắp xếp từ liền đôi, thành cặp trong câu đã có đảo trật tự từ “Ta với mình, mình với
ta” vừa gợi ra sự bịn rịn, lưu luyến, quấn quýt không muốn rời xa của “ta” và “mình”, vừa khéo léo
khẳng định tấm lòng của “ta” cũng giống như “mình”.


Nguyễn Anh Đức facebook.com/o0otienvagaidepo0o

- Những từ ngữ chỉ thời gian mãi mãi “sau, trước” chỉ tình cảm trước sau như một, không nhạt
phai, đinh ninh “mặn mà” xuất hiện liên tiếp trong một câu thơ đã khẳng định một cách chắc chắn
lòng son sắt của những người kháng chiến về xuôi. Câu thơ “Lòng ta sau trước mặn mà” đinh ninh
vừa là lời an ủi, vỗ về vừa là lời thề thủy chung sâu nặng.
- Mượn cách so sánh, ví von quen thuộc của ca dao để giãi bày nỗi nhớ da diết, không vơi cạn:
“Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”

b. Nỗi nhớ thiên nhiên, con người Việt Bắc được diễn tả cụ thể qua nhiều kỉ niệm:
“Nhớ gì như nhớ người yêu
..................
Chày đêm nện cối đều đều suối xa”
* Nỗi nhớ thiên nhiên Việt Bắc:
- Hàng loạt hình ảnh liệt kê, cụ thể, gần gũi, gợi cảm: trăng, núi, nắng, khói, sương, rừng nứa, bờ
tre, ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê ... làm hiện lên một thiên nhiên thơ mộng, trữ tình và mang đậm
nét đặc trưng của Việt Bắc.
- Nỗi nhớ có hình ảnh, có thời gian và không gian. Đó là một nỗi nhớ sâu đậm và quá đỗi chân
thành.
* Nỗi nhớ con người Việt Bắc:
- Nét đặc sắc cao quí của Việt Bắc chính là ở chỗ nghèo cực mà chân tình, rộng mở, son sắt, thủy
chung với cách mạng:
“Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”.
- Thiên nhiên Việt Bắc thơ mộng, trầm tĩnh, thâm u, con người Việt Bắc giản dị, mộc mạc, dù cuộc
sống lao động gian khổ nhưng họ lạc quan yêu đời.
+ Hình ảnh người mẹ vất vả, nhọc nhằm nhưng ấm áp cảm động, địu con trên lưng dưới cái nắng
cháy da để bẻ bắp nuôi bộ đội:
“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô”.
+ Trong kí ức của Tố Hữu, Việt Bắc không chỉ kiên cường trong kháng chiến chống giặc ngoại
xâm mà còn nhẫn nại, cương quyết đương đầu với giặc dốt. Đêm rừng Việt Bắc bập bùng đuốc
sáng của những lớp học i tờ. Niềm vui, sự lạc quan chiến thắng sự gian nan, người Việt Bắc vẫn ca
vang núi đèo:
“Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sớm những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo”.
- Việt Bắc trở thành quê hương của những người kháng chiến - tình yêu đã “làm đất lạ hóa quê

hương” (Chế Lan Viên). Cả những âm thanh của đời thường cũng đi vào nỗi nhớ của người ra đi:
đó là tiếng mõ gọi trâu về làng, tiếng chày giã gạo đêm đêm:
“Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nên cối đều đều suối xa”.


×