Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

SKKN SKKN hướng dẫn học sinh làm văn nghị luận xã hội thpt dạng đề mở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (282.9 KB, 44 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
Đơn vị: Trường THPT Chun Lương Thế Vinh
Mã số:……………………

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

HƯỚNG DẪN HỌC SINH
LÀM VĂN NGHỊ LUẬN
XÃ HỘI DẠNG ĐỀ MỞ
Người thực hiện: Trần Thị Châu Thưởng
Lónh vực nghiên cứu:
Quản lý giáo dục:
×
Phương pháp dạy học bộ môn: Ngữ Văn
Phương pháp giáo dục:
Lónh vực khác:

Có đính kèm:
Mô hình

Phần mền

Phim ảnh

Năm học: 2012 – 2013

Hiện vật khác


SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC
I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN


1. Họ và tên: Trần Thị Châu Thưởng
2. Ngày tháng năm sinh: 04-10-1964
3. Nam, nữ: Nữ
4. Địa chỉ: R317, đường A3, Võ Thị Sáu, phường Thống Nhất, thành
phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai
5. Điện thoại (NR): 0613.600660
6. Fax:
7. Chức vụ: Tổ trưởng chuyên môn tổ Ngữ văn
8. Đơn vị cơng tác: Trường THPT chun Lương Thế Vinh
II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO
- Học vị: Tốt nghiệp Đại học Sư phạm
- Năm nhận bằng: 1986
- Chuyên ngành đào tạo: Ngữ văn
III.

KINH NGHIỆM KHOA HỌC

- Lĩnh vực chun mơn có kinh nghiệm: Giảng dạy Ngữ văn bậc
THPT
Số năm kinh nghiệm: 27 năm
- Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây:
+, Sáng kiến kinh nghiệm: Dạy văn nghị luận theo chương trình
và sách giáo khoa mới, bậc trung học phổ thông, 2007.
+, Nghị luận xã hội, Nxb. Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh,
2009;…
+, Chuyên đề: Nguyễn Minh Châu – cuộc đời và sự nghiệp văn
chương, 2009.


+, SKKN: Học theo dự án – Kết hợp học và du khảo về văn hóa

Đồng Nai, 2010.
+, SKKN: Một số kinh nghiệm trong việc bồi dưỡng học sinh giỏi
Ngữ văn, 2011.
+, SKKN: Mấy vấn đề về việc dạy học tác phẩm “Vũ Như Tơ” và
trích đoạn “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” của Nguyễn Huy Tưởng,
2012.


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

HƯỚNG DẪN HỌC SINH LÀM VĂN
NGHỊ LUẬN XÃ HỘI DẠNG ĐỀ MỞ
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. Tư tưởng và mục đích của hoạt động đổi mới phương pháp dạy
học trong trường phổ thông hiện nay là tích cực hóa hoạt động học tập
của học sinh. Với tinh thần này, Chương trình và sách giáo khoa hiện
hành đã có nhiều đổi mới về cách kiểm tra, đánh giá. Một trong những
phương diện đổi mới là việc chú trọng văn nghị luận xã hội (NLXH).
Đây là một cách rất tốt hình thành cho học sinh – những cơng dân trẻ của
đất nước tư tưởng, tình cảm tốt đẹp, suy nghĩ sâu sắc trước mọi vấn đề
của cuộc sống.
Bên cạnh đó, để tăng cường tính chủ động, tích cực của học sinh
(HS), việc ra đề văn NLXH theo hướng mở ngày càng được xã hội đồng
tình, nhiều giáo viên (GV) tích cực đổi mới cách ra đề. Ưu điểm của lối
ra đề NLXH theo hướng mở là rèn luyện khả năng độc lập suy nghĩ, phát
huy tính sáng tạo và gây hứng thú cho học sinh. Kết quả chúng ta đã có
những bài viết thể hiện suy nghĩ riêng, độc đáo và chân thực của học sinh
được đăng tải trên báo và các phương tiện thông tin đại chúng.
2. Tuy nhiên, theo tìm hiểu của chúng tơi, hiện nay việc ra đề
NLXH theo hướng mở và viết bài văn theo đề mở là vấn đề mới và cịn

nhiều khó khăn đối với giáo viên và học sinh.
Một số giáo viên vẫn chưa khuyến khích ý tưởng riêng, có cá tính
được thể hiện trong bài viết của học sinh, mà chỉ đi theo những kiến thức


có sẵn trong sách giáo khoa, sách hướng dẫn giáo viên hoặc suy nghĩ chủ
quan của bản thân. Nhiều GV tâm đắc với việc ra đề NLXH theo hướng
mở nhưng lại cảm thấy lúng túng trong cách hướng dẫn học sinh làm tốt
dạng đề này.
Một số học sinh khơng thích đề mở vì quen với lối làm văn máy
móc, rập khn theo mẫu có sẵn hoặc theo đúng ý thầy cô đã truyền thụ.
Những học sinh hứng thú với đề mở lại xuất phát từ quan niệm chưa
đúng. Các em cho đề mở là nghĩ gì viết nấy, dẫn đến lối viết tùy tiện
không đáp ứng đúng yêu cầu của một bài văn nghị luận.
3. Xuất phát từ công việc giảng dạy của một giáo viên ở bậc THPT
và từ thực tế trên, chúng tôi viết sáng kiến kinh nghiệm: HƯỚNG DẪN
HỌC SINH LÀM BÀI VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI DẠNG ĐỀ MỞ
nhằm làm rõ thêm quan niệm về đề mở và một số hoạt động dạy học giúp
học sinh làm tốt dạng đề này.

II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI

1. Cơ sở lí luận
- Trong bài viết Đề mở - Nhận dịện và cách làm (Tài liệu chuyên
văn), PGS. TS Đỗ Ngọc Thống đã dẫn lại ý kiến của cố Thủ tướng Phạm
Văn Đồng: Dạy Làm văn chủ yếu là dạy cho HS diễn tả cái gì mình suy
nghĩ, mình cần bày tỏ một cách trung thành, sáng tỏ, chính xác, làm nổi
bật điều mình muốn nói (Dạy văn là một q trình rèn luyện tồn diện,
Tạp chí Nghiên cứu giáo dục). Từ đó, ơng Đỗ Ngọc Thống nhận xét: Đó
là những tư tưởng rất quan trọng, làm cơ sở cho việc xác định phương

hướng dạy Làm văn nói chung và dạy Làm văn ở THPT nói riêng. Để
hiện thực hóa tư tưởng đó, trước hết cần hình thành và rèn luyện năng
lực chủ động và linh hoạt trong việc làm bài văn.


- GS. TS Trần Đình Sử, một trong hai Tổng Chủ biên của bộ sách
giáo khoa mới, trong bài Đề mở trong dạy – học Làm văn (Tạp chí Văn
học và Tuổi trẻ số 1 năm 2012) đánh giá: Đề mở là một hướng tiến bộ
trong dạy học Làm văn, nhưng vẫn đang là một vấn đề mới, chưa được
nghiên cứu sâu, cịn có những khía cạnh chưa rõ, phải qua thực tiễn thì
mới nhìn thấy hết được. Vấn đề này địi hỏi các giáo viên nghiên cứu, suy
nghĩ, nhìn thấy chỗ mạnh, chỗ khó, thậm chí chỗ yếu của nó, nghiên cứu
phương pháp dạy học phù hợp thì phương hướng này mới phát huy được
tác dụng tích cực của nó.
- Như vậy, có thể nói, việc dạy – học Làm văn theo đề mở là một
hướng đi đúng đắn và tích cực. Tuy nhiên, làm thế nào để hình thành và
rèn luyện năng lực chủ động và linh hoạt trong việc làm bài văn? Làm
thế nào để có phương pháp dạy học phù hợp và phát huy được tác
dụng tích cực của nó, là những vấn đề mà người thầy giáo cần quan tâm
và cần có một q trình để thực hiện.
- Tìm hiểu những bài viết bàn về việc hướng dẫn cách làm đề mở
nói chung, đề NLXH theo hướng mở nói riêng, chúng tơi nhận thấy, các
tác giả chỉ mới đề cập đến các bước như: tìm ý, lập dàn ý,… (Đỗ Ngọc
Thống - TLĐD). Ngay cả cuộc thi Ra đề và viết văn theo hướng mở của
Tạp chí Văn học và Tuổi trẻ tổ chức từ 1/4/2011 cho đến nay cũng chỉ
mới dừng lại ở việc giáo viên ra đề và gợi ý cách làm bài.
Là người trực tiếp đứng lớp, chúng tôi nhận thấy, để làm tốt bài văn
NLXH theo hướng mở, HS cần có một q trình rèn luyện. Bắt đầu từ
việc tích lũy vốn sống. Sau đó là có thói quen suy nghĩ về những vấn đề
đạo lí, có chính kiến trước một tư tưởng, hình thành những quan niệm

sống, biết trăn trở và có cái nhìn đa chiều trước mọi hiện tượng, sự việc
của cuộc sống. Cuối cùng là cách bày tỏ những hiểu biết, suy nghĩ của
bản thân trên trang giấy một cách thuyết phục, hấp dẫn. Đây chính là
những nội dung chính chúng tơi trình bày trong SKKN này.


2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của
đề tài
2.1. Nghị luận xã hội dạng đề mở: quan niệm và dạng
thức
2.1.1. Đề nghị luận theo quan niệm truyền thống
Trong quan niệm truyền thống, một đề văn nghị luận xã hội thường
có hai phần: phần nêu vấn đề cần nghị luận và phần yêu cầu kiểu bài (tức
thao tác lập luận). Nói cách khác, đó là dạng đề mệnh lệnh. Trong đề bài,
không chỉ nêu vấn đề cần nghị luận mà cả yêu cầu thực hiện (mệnh lệnh)
như: suy nghĩ, bình luận, giải thích, chứng minh,…Ví dụ các đề văn sau:
- Đề 1: Nhà thơ Pháp La Phơngten có nói: “Tính ích kỉ là thuốc độc
giết chết tình bạn”.
Hãy bình luận câu nói trên.
(Làm văn 10 – Sách chỉnh lí hợp nhất năm 2000)
- Đề 2. Giải thích câu tục ngữ: “Uống nước nhớ nguồn”.
(Làm văn 10 – Sách chỉnh lí hợp nhất năm 2000)
- Đề 3: Nhà bác học Đacuyn nói về kinh nghiệm thành cơng của
mình như sau: “Tơi nghĩ rằng tất cả những gì có giá trị một chút, tôi đều
đã thu nhận được bằng cách tự học”.
Bình luận câu nói trên. Em có suy nghĩ gì về con đường học tập sắp
tới của mình.
(Làm văn 12 – Sách chỉnh lí hợp nhất năm 2000)
Rõ ràng, những đề văn vừa nêu trên đều yêu cầu học sinh viết về
một vấn đề cụ thể (tính ích kỉ giết chết tình bạn; uống nước nhớ nguồn,

…), cùng sử dụng một hoặc hai thao tác lập luận (bình luận; giải thích;
…) và dĩ nhiên là cùng một phương thức biểu đạt – văn nghị luận.


Mặt khác, vấn đề nghị luận thường là một chân lí đã được thừa nhận
(tác hại của tính ích kỉ; đạo lí truyền thống của dân tộc,…), học sinh
thường khơng cần phản biện, chỉ việc làm rõ hay minh họa tính đúng đắn
tư tưởng ấy.
Về phía giáo viên, khi ra đề nghị luận cũng chỉ có một đáp án duy
nhất dùng để chấm bài cho học sinh. Có thể, cách ra đề văn NLXH truyền
thống sẽ tiện lợi cho người giáo viên và phần nào “dễ” hơn cho học sinh.
Tuy nhiên, đúng như nhận xét của giáo sư Hoàng Như Mai viết: Cách ra
đề các kì thi văn của chúng ta hiện nay cịn khá khơ cứng... Ra đề thi
phải khơi dậy những suy nghĩ riêng đồng thời phải rèn luyện cho HS óc
phê phán, nhìn vấn đề trên nhiều mặt. Cần tránh kiểu ra đề suôn sẻ,
dạng thỏa hiệp một chiều (Sự rung cảm và sáng tạo của học sinh có nguy
cơ mịn; Tạp chí Dạy và Học ngày nay số 6 – 2005).

2.1.2. Quan niệm về đề mở
Năm 2006, Chương trình và sách giáo khoa mới đã có nhiều đổi mới
trong cách kiểm tra, đánh giá học sinh, trong đó có sự đổi mới quan niệm
về đề văn. Nhằm kích thích suy nghĩ phong phú, đa dạng của nhiều đối
tượng học sinh, xu hướng ra đề văn nghị luận xã hội theo hướng mở ngày
càng trở nên phổ biến.
Theo chúng tôi, khái niệm đề mở được sử dụng trong sự so sánh với
đề đóng hay đề truyền thống.
- Đề đóng là đề có yêu cầu rõ ràng, cụ thể về nội dung vấn đề nghị
luận; thao tác lập luận và cả phạm vi, tư liệu (giới hạn).
- Đề mở là loại đề hoặc chỉ nêu vấn đề cần nghị luận, không nêu yêu
cầu về thao tác lập luận (như: hãy chứng minh, giải thích, bình luận,...)

cũng như giới hạn của đề.
Ví dụ: Câu tục ngữ:“Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng” thời nay
có cịn phù hợp?


- Đề mở cũng có thể là loại đề mà nội hàm của vấn đề nghị luận tùy
thuộc vào sự nhận thức của người viết.
Ví dụ:
∗ Thinh lặng là quê hương của kẻ mạnh.
∗ Vì sao mà tơi sống trên đời ?
Tất cả các loại đề mở đều không áp đặt tính chân lí – cụ thể đối với
học sinh khi nghị luận về một vấn đề nào đó, cũng khơng bó buộc người
viết trong một khung hình thức thể hiện nhất định.

2.1.3. Các dạng đề mở thường gặp:
Theo GS. TS Trần Đình Sử (Tlđd), có ba dạng đề mở thường gặp là:
a, Đề cho đề tài:
Đề chỉ cung cấp một đề tài chung, HS có thể cụ thể hóa thành đề
mục hay nhan đề của bài viết.
Ví dụ đề cho HS lớp 10:
- Đề 1: Suy nghĩ về ngọn lửa.
- Đề 2: Hãy viết bài văn về chủ đề người chiến thắng.
- Đề 3: Suy nghĩ từ hạt giống.
b, Đề cho tài liệu
Đề cung cấp một bức tranh hoặc ảnh, hoặc một câu chuyện, một
mẩu tin trên báo, HS tự chọn lấy vấn đề, chủ đề để viết bài văn.
Ví dụ đề cho HS lớp 12:
- Đề: Chọn một trong ba tài liệu dưới đây làm bài theo yêu cầu bên
dưới:
a. Báo Dương Thành buổi tối (Quảng Châu) tường thuật, khoảng

17g30 ngày 13-10-2010, tại một con đường nhỏ ở Quảng Phật Ngũ Kim
Thành thuộc quận Nam Hải ở Phật Sơn, bé gái Duyệt Duyệt 2 tuổi đang


lững thững đi ra đường đã bị một xe hơi loại bảy chỗ tông phải và cán
lên phần gần đầu của bé. Lúc này bé Duyệt Duyệt còn cử động, tài xế
cho xe dừng lại vài giây rồi thản nhiên cho xe chạy tiếp và bánh sau lại
nghiến nát một phần thân thể bé gái. Chỉ vài phút sau, một chiếc xe tải
nhỏ tiếp tục cán nát đôi chân bé gái này.
b. Cậu bé 14 tuổi xả thân cứu người. Đây là lần thứ 3 Nguyên cứu
người, lại là lần định mệnh cướp đi sinh mạng của em. Cả xã Bình
Chánh, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, những ngày qua xơn xao về sự
ra đi của cậu học trị Trường THCS Bình Chánh. Trưa 8-9, sau khi tập
tành múa lân đón tết Trung thu, nhóm trẻ khoảng 10 đứa rủ nhau đi tắm
ao để giải nhiệt. Em Phạm Văn Thơ, học sinh lớp 6, không biết bơi lại lội
ra xa cách bờ khoảng 3m thì sụp hố sâu đuối nước. “Trong khi em vùng
vẫy thì được anh Nguyên cứu vào bờ”, cậu bé kể rồi khóc: “khơng ngờ
ảnh kiệt sức...”.
Người lớn đã cấp tốc đưa Nguyên đến Bệnh viện đa khoa Quảng
Ngãi để cấp cứu, song em kiệt sức lịm dần, rơi vào hôn mê sâu và không
bao giờ tỉnh lại nữa...
c. “Hiệp sĩ đường phố” lập công ba ngày liên tiếp. Đây là vụ thứ ba
liên tiếp trong ba ngày “hiệp sĩ đường phố” lập công. Hai ngày trứơc,
anh Tiến cũng đã bắt hai tên cướp giật dây chuyền trên đường Tơ Hiến
Thành. Sau đó, đơi trộm giàn giáo cơng trình ở quận 11 cũng bị anh bắt
quả tang.
Ngưỡng mộ thành tích hàng trăm lần bắt cuớp của anh Tiến, nhiều
người đã xin được làm “đệ tử” của anh, cùng anh rong ruổi trên khắp
các tuyến đường Sài Gòn để bắt tội phạm. Hiện nay, nhóm”hiệp sĩ
đường phố” có khoảng chục người.

Đọc kĩ tài liệu đã chọn, tự xác định đề mục, viết bài làm văn nghị
luận, biểu cảm không quá 800 chữ.


(Trần Đình Sử: Đề mở trong dạy – học làm văn, trong Tạp chí Văn học
và tuổi trẻ số 1 năm 2012)

c, Đề cho học sinh điền vào chỗ trống:
Đề đưa ra mệnh đề còn bỏ trống, HS điền vào chỗ trống để thể hiện
quan niệm của bản thân.
Ví dụ đề cho HS lớp 11:
- Đề 1: Hạnh phúc là...
- Đề 2: Tơi ước mong...

2.1.4. Đề mở có nhiều lựa chọn:
Ngồi những dạng đề trên, theo chúng tơi, cần có thêm dạng Đề
nhiều lựa chọn. Với dạng đề này, HS vừa được gợi ý, vừa tự do lựa chọn
hướng giải quyết theo suy nghĩ của bản thân. Đây cũng là cách hình
thành cho HS độc lập suy nghĩ, thói quen nhìn cuộc sống ở nhiều góc độ
và rèn luyện tư duy phản biện cho các em.
Ví dụ đề cho HS lớp 12:
- Đề 1: Phát biểu ý kiến về lối sống sành điệu của một bộ phận
thanh niên hiện nay.
- Đề 2: Con người sinh ra đã có tính hưởng thụ. Anh/ chị có đồng ý
khơng? Theo anh/ chị tính hưởng thụ là tốt hay xấu?
- Đề 3: Internet – ông thầy không mời mà đến – đang là mối bận
tâm hàng đầu của các bậc cha mẹ. Ý kiến của anh/ chị về vấn đề này.
- Đề 4: Nhà sư phạm nổi tiếng V.A. Xu-khơm-lin-xki có viết:
“Niềm tin và thế giới xúc cảm của con người có đạo đức đúng đắn,
tâm hồn đẹp đẽ được xây dựng trên cơ sở khinh bỉ những điều không

xứng đáng”.
Theo anh (chị), đối với một con người có đạo đức và tâm hồn đẹp
đẽ, những điều gì là khơng xứng đáng ?


2.2. Nghị luận xã hội dạng đề mở: tác dụng và yêu cầu
2.2.1. Tác dụng
Việc ra đề mở trong nghị luận xã hội có nhiều tác dụng đối với học
sinh:
- Đề mở khuyến khích tối đa sự sáng tạo, cách cảm thụ, sự linh hoạt
của người viết, rèn luyện khả năng độc lập suy nghĩ của học sinh trước
một vấn đề tư tưởng, đạo lí hay một hiện tượng, sự việc trong đời sống.
- Đề mở tạo cơ hội cho học sinh có dịp bộc lộ tư tưởng, tình cảm,
suy nghĩ của cá nhân, đề xuất những ý kiến về cuộc sống, xã hội với
những trải nghiệm của bản thân.
- Đề mở rèn luyện cho học sinh khả năng tư duy phản biện xã hội,
biết xem xét một vấn đề, một sự việc, hiện tượng trên nhiều bình diện
khác nhau.
- Đề mở tạo điều kiện cho người viết có những suy nghĩ trẻ trung,
cảm xúc tươi mới, và quan trọng hơn, là thể hiện phẩm chất của con
người thành thực, dám nghĩ và dám viết. Với đề mở, tình trạng học tủ,
học vẹt, sao chép văn mẫu trong học sinh cũng sẽ bị hạn chế.
Đối với giáo viên, việc ra đề mở trong nghị luận xã hội cũng có
những tác dụng trong q trình giảng dạy bộ mơn Ngữ văn nói chung,
phân mơn Làm văn nói riêng:
- Đề mở có tác dụng giúp phân hóa trình độ học sinh trong kiểm tra,
đánh giá.
- Từ những tác dụng đối với học sinh khi làm văn, đề mở trong nghị
luận xã hội góp phần tác động đến cả việc đổi mới giảng dạy và học tập ở
bộ môn Ngữ văn.

- Đề mở không chỉ tạo hứng thú cho học sinh trong khi nghị luận mà
còn tạo hứng thú cho cả giáo viên khi ra đề cũng như chấm bài.


Dĩ nhiên, trên đây là những tác dụng tích cực của đề nghị luận xã
hội theo hướng mở. Nói thế, khơng có nghĩa đối với dạng đề này khơng
có những khó khăn, thậm chí phức tạp nhất định trong q trình giảng
dạy. Điều đó càng khơng có nghĩa là chỉ nên ra mỗi một loại đề không
mệnh lệnh (đề mở), bỏ hẳn loại đề mệnh lệnh (đề đóng) trong nghị luận
xã hội.

2.2.2. Yêu cầu
Việc ra đề / làm bài / chấm bài nghị luận xã hội theo dạng mở không
chỉ mới mẻ mà cịn là loại đề khó. Vì thế, học sinh và giáo viên cần nắm
vững một số yêu cầu khi dạy học và làm văn:
2.2.2.1. Về phía học sinh:
- Đề mở thường không nêu rõ các phương thức biểu đạt, thao tác lập
luận, khơng có gợi ý về phạm vi, tư liệu, khơng có nghĩa là học sinh sẽ
viết một cách tùy tiện. Trái lại, người viết phải hiểu rõ vấn đề từ nghĩa
tường minh đến nghĩa hàm ẩn. Từ đó, lựa chọn và định hướng viết sao
cho bài văn thể hiện được suy nghĩ sâu sắc, lối viết sáng tạo, có tính
thuyết phục đối với người đọc theo hướng tích cực. Điều đó có nghĩa,
chính người viết phải tự xác lập được phương thức biểu đạt, thao tác lập
luận và phạm vi vấn đề nghị luận.
- Đề mở khơng chỉ có tính mở về phương thức biểu đạt, thao tác lập
luận hay phạm vi, tư liệu, mà đơi khi tính mở lại thể hiện ngay ở vấn đề
cần nghị luận. Do đó, người viết cũng phải xác định nội hàm của vấn đề,
dự liệu hướng yêu cầu của người ra đề.
2.2.2.2. Về phía giáo viên:
- Đề ra theo hướng mở cần chọn được vấn đề mở, đặt người viết

trước một tình huống bất ngờ, đa chiều, gợi được hứng thú làm bài cho
học sinh. Vấn đề đặt ra vừa có chất văn, khơi gợi được cảm xúc, vừa gắn


với cuộc sống, thường là những vấn đề xã hội và các em đang quan tâm,
tránh xa lạ, nặng về học thuật, mà cũng không gượng ép.
Đề ra theo hướng mở còn là cách giúp các em trưởng thành trong
suy nghĩ, hướng các em đến lí tưởng đẹp, hồn thiện dần tư cách của một
cơng dân có trách nhiệm với xã hội.
Muốn vậy, người giáo viên phải cân nhắc đến tính vừa sức ở học
sinh. Có những vấn đề nghị luận chỉ phù hợp với học sinh lớp 12 mà lại
quá sức với học sinh lớp 10, càng khó khăn cho học sinh ở bậc trung học
cơ sở.
- Để học sinh có thể làm tốt dạng đề mở, giáo viên phải huấn luyện
cho các em kĩ năng làm văn nghị luận, nhất là các kĩ năng: phân tích đề;
lập ý, lập dàn ý; thao tác lập luận,… Nói rốt ráo, học sinh khơng có kĩ
năng làm văn nghị luận thì đề đóng đã khơng thể thực hiện được, huống
gì đề mở.
- Tương ứng với việc ra đề mở, người giáo viên phải có đáp án mở
và cách chấm mở.
Đáp án mở là đáp án không cụ thể, chi tiết, không mang tính áp đặt,
khơng đếm ý cho điểm, nhưng cũng không chung chung để dẫn đến việc
cho điểm tùy hứng, thiếu cơng bằng. Đáp án mở vẫn có những u cầu
nhất định về kiến thức, kĩ năng và tư tưởng tình cảm của người viết.
Người ra đề và soạn đáp án cần phải lường trước khả năng học sinh có
thể viết để lên phương án cho điểm.
Cách chấm mở là cách chấm tôn trọng suy nghĩ và sự sáng tạo của
người viết, không áp đặt cách giải quyết vấn đề theo lối một chiều.

3. Hướng dẫn học sinh làm văn nghị luận xã hội

theo dạng đề mở


Để học sinh làm được bài văn NLXH theo đề mở, người thầy giáo
cần có q trình rèn luyện cho các em, có phương pháp dạy học phù hợp
mới phát huy hết tác dụng của nó. Sau đây chúng tơi xin đề xuất những
hoạt động dạy – học nhằm Hướng dẫn học sinh làm bài văn nghị luận
xã hội theo đề mở:

3. 1. Hoạt động dạy học hướng dẫn học sinh tích lũy
kiến thức và vốn sống:
3.1.1. Ý nghĩa của việc tích lũy kiến thức và vốn sống
Để có một bài nghị luận xã hội giàu tính thuyết phục, học sinh cần
có lí lẽ sắc sảo và dẫn chứng phong phú. Có thể tích lũy kiến thức từ sách
vở: lĩnh vực văn học, báo chí, bộ sách Hạt giống cho tâm hồn... ; kiến
thức từ cuộc sống và trải nghiệm bản thân: đó là những gì các em quan
sát hàng ngày, suy ngẫm về những sự việc xảy ra trong cuộc sống. Trải
nghiệm bản thân, cách cảm, cách nghĩ của các em chính là nguồn tư liệu
làm bài viết thêm phong phú và giàu sức thuyết phục.
Việc tích lũy kiến thức và vốn sống sẽ rất hữu ích cho các em trong
việc xây dựng các luận cứ, bao gồm lí lẽ và dẫn chứng.

3.1.2. Hoạt động dạy học giúp học sinh tích lũy kiến thức và
vốn sống
Đa phần học sinh thường chưa có ý thức trong việc tích lũy tư liệu,
khơng có thói quen đọc báo, xem thời sự để nâng cao hiểu biết thực tế
đời sống. Do đó, giáo viên cần có các hoạt động dạy học giúp các em
hình thành thói quen này.
3.1.2.1. Cách thức tiến hành hoạt động dạy học giúp học sinh
tích lũy kiến thức và vốn sống:

HĐ 1: GV cho bài tập về nhà.


HĐ 2: GV đưa ra yêu cầu:
- Quy định ngày, giờ nộp sản phẩm;
- Quy định hình thức sản phẩm: gửi đến địa chỉ mail của giáo viên
(đây là cách GV tập hợp sản phẩm của HS);
- Quy định hình thức trình bày (bản word, font chữ...),…
HĐ 3: Giáo viên tập hợp sản phẩm.
HĐ 4: Giáo viên xóa tên học sinh, cho in thành nhiều bản, phát cho
các học sinh trong lớp.
HĐ 5:Học sinh đọc và bình chọn sản phẩm hay nhất (khơng chọn
của mình).
HĐ 6: Giáo viên thống kê, cho điểm và nhận xét, đánh giá.
3.1.2.2. Ưu điểm của hoạt động dạy học giúp học sinh tích lũy
kiến thức và vốn sống
Yêu cầu học sinh tích lũy kiến thức và vốn sống không phải là hoạt
động dạy học mới của giáo viên. Khi dạy văn nghị luận, chúng ta vẫn
thường nhắc nhở các em dẫn chứng phải cụ thể, xác thực, lí lẽ phải sắc
sảo. Song, chúng ta chỉ dừng lại ở việc gợi ý nên làm, mà chưa tạo thành
một yêu cầu, một thói quen cho học sinh. Chính vì thế, bài văn các em
thường nghèo nàn về ý, dẫn chứng sáo mịn với những câu danh ngơn
quen thuộc, những tấm gương chưa đọc đã biết. Và như thế, làm sao có
được những bài văn suy nghĩ sâu sắc và giàu cảm xúc?
Hoạt động dạy học trên có ưu điểm:
- HS tự giác sưu tầm tư liệu, chọn tư liệu hay và bổ ích.
- Trong q trình tìm hiểu và chọn tư liệu, một cách tự nhiên học
sinh đã đọc nhiều tư liệu khác, làm giàu vốn sống của bản thân, thấm
nhuần tư tưởng cao cả.



- Học sinh hình thành thói quen theo dõi thơng tin về đời sống được
đăng tải trên các phương tiện thơng tin đại chúng, điều mà trước đây có
những em không hề quan tâm.
- Kết thúc hoạt động dạy học, mỗi học sinh đều có một bộ tư liệu
phong phú, phục vụ cho quá trình học lâu dài.

3.1.3. Minh họa một vài bài tập giáo viên đã tiến hành:
3.1.3.1. Bài tập 1
a, Đề:
Hãy sưu tầm một số câu danh ngôn mà anh/ chị chọn làm lẽ sống
cho bản thân. Chọn một câu để viết một đoạn văn ngắn (dưới 10 câu)
trình bày vì sao mình tâm đắc?
b, Kết quả sản phẩm:
∗ Đề trên được ra cho lớp 11 Văn, Trường THPT chuyên Lương
Thế Vinh (năm học 2012 - 2013). Lớp có tất cả 19 học sinh. Mỗi em sưu
tập từ 3-4 câu danh ngơn. Tổng cộng cả lớp có hơn 50 câu danh ngơn
được sưu tập và 19 lời bình của các em về tư tưởng đã được chính các em
cho là tâm đắc nhất.
∗ Một số câu danh ngôn cùng lời bình của học sinh:
- Hãy ln khao khát, hãy cứ dại khờ (Stay hungry, stay foolish).
(Kết thúc phát biểu của Steve Jobs tại lễ trao bằng tốt nghiệp trường ĐH
Stanford)

THANH THẢO:
Khao khát - để ước mơ. Dại khờ - để dám biến ước mơ thành hiện thực.
Khao khát và dại khờ, ấy là khởi đầu cho mọi điều tốt đẹp hơn đến với thế giới
này. Trước khắc nghiệt cuộc đời, khơng khao khát, khơng dại khờ, thì bạn và
tơi sẽ uổng phí thời gian ngắn ngủi để sống trong vỏ bọc an tồn. Khơng dám
làm gì, chẳng có được gì, và chẳng là gì cả.



- Chính lựa chọn của chúng ta, chứ khơng phải khả năng, mới chứng tỏ
chúng ta thực sự là ai (It's our choices that show what we truly are, far more
than our abilities)
(J.K.Rowling, trích Harry Potter và Phịng chứa Bí mật)

THANH THẢO:
Hồi nhỏ xem phim Gọi giấc mơ về, tôi nhớ hồi một câu của người ơng
làm nghề nước mắm nói với cơ cháu gái: Cá loại một thì sẽ làm ra được nước
mắm loại một, nhưng nước mắm loại một không phải tất cả đều làm từ cá loại
một. Cá hay người thì cũng vậy thơi. Cái quan trọng khơng phải tơi có gì, mà là
tơi sẽ làm gì với những điều tơi có. Có ít hơn so với người khác, nhưng biết
vận dụng, vẫn có thể thành khơng. Có tất cả, mà dùng sai mục đích thì cũng là
vơ ích. Vả lại, có bao giờ ta đánh giá được hết khả năng của chính mình mà
dựa vào đó để ngại ngần?
- Hạnh phúc là một hành trình, khơng phải một điểm đến (Happiness is a
journey, not a destination)
(Paulo Coelho, trích Nhà giả kim)

- Bạn có thể thất vọng nếu thất bại, nhưng sẽ sụp đổ đến tận cùng nếu từ
bỏ mọi ước mơ.
(Miguel de Unamuno)

HOÀNG THỊ MAI DUNG:
Ước mơ nuôi dưỡng tâm hồn con người. Từ bỏ ước mơ cũng đồng nghĩa
rằng ta đã đánh mất sức sống tâm hồn, đánh mất điểm tựa của niềm tin. Thất
bại chưa phải là chấm hết, nếu như còn biết ước mơ thì ước mơ ta ấp ủ sẽ là
ngơi sao chỉ đường định hướng ta đến thành công. Câu danh ngôn đã luôn thôi
thúc tinh thần, làm động lực và nhắc nhở nhở không nên từ bỏ ước mơ.

- Ý nghĩa của cuộc sống khơng phải ở chỗ nó đem đến cho ta điều gì, mà
ở chỗ ta có thái độ đối với nó ra sao; khơng phải ở chỗ điều gì xảy ra với ta,
mà ở chỗ ta phản ứng với những điều đó như thế nào.
(Lewis L. Dunnington)

HỒNG THỊ MAI DUNG:


Câu danh ngôn nhắc nhở về ý nghĩa của cuộc sống là gì và đem đến cho
em thái độ tích cực trước những gì cuộc sống mang đến, từ đó có suy nghĩ
trưởng thành hơn khi đối diện với khó khăn thử thách.
- Dù nó thật tồi tàn đi nữa, nhưng khơng nơi nào có thể sánh được với
mái ấm gia đình.
J.H.Payne

ĐẶNG BÍCH NGỌC:
Có lẽ khơng nơi nào trên Trái Đất có thể đem đến cho bạn cảm giác n
bình cho bằng gia đình. Gia đình, với những con người luôn yêu thương bạn,
dù bạn là ai, bạn đến từ đâu, bạn như thế nào. Tình yêu của những người trong
gia đình là thứ tình cảm mãnh liệt và vơ vị lợi. Gia đình khơng chỉ là nơi ni
dưỡng thể chất mỗi người mà đó cịn là mảnh đất màu mỡ để ươm mầm cho
những ước mơ, rèn luyện những giá trị đao đức tốt đẹp cho mỗi con người. Và
hơn hết thảy, khi bạn đã đi khắp nơi, trải qua bao thăng trầm trong cuộc sống,
đối diện với những vấp ngã, những phản bội, những lừa lọc, giả tạo, cuối cùng
chỉ khi ở bên gia đình bạn mới cảm thấy thoải mái nhất, yên bình nhất, và
HẠNH PHÚC nhất.
- Con người sinh ra không phải để tan biến đi như một hạt cát vô danh.
Họ sinh ra để in dấu lại trên mặt đất, in dấu lại trong trái tim người khác.
(Xukhơmlinski )


TRÀ GIANG:
Câu danh ngơn này em thích ở mặt tư tưởng bởi thể hiện rõ lí do của sự
sống của con người trong cõi đời. Nó khiến cho em phải nhìn nhận lại chính
mình, nhìn lại một phần đời mà mình đã đi qua. Và từ đây, em có thể xác định
rõ hơn mục tiêu, mục đích sống của bản thân, nhắc nhở em phải sống thế nào
cho ý nghĩa.
- Sự tranh biện và cãi lẽ, có thể làm cho người khác ngượng được, nhưng
thắng như vậy thì có ích gì đâu, vì khơng khi nào làm cho người ta thành thật
đồng ý với mình hết.
(Franklin)


NGUYỄN THỊ NGỌC ÁNH:
Đa phần con người vì cái tơi và sĩ diện sẽ cố chấp khơng nhận sai về
mình khi bị người khác chỉ trích và đả kích mạnh mẽ, cho dù bản thân nhận
thấy mình khơng đúng. Vì thế, khi em khơng hài lịng, em khơng muốn cố cãi
lại hay chống đối, như trong Kinh Thánh đã ghi: “Câu trả lời nhã nhặn của bạn
đã làm tiêu tan hết mọi giận dữ”. Thay vì làm hả hê bản thân khi chiến thắng
trên sự nhục nhã của người khác, hãy suy nghĩ thấu đáo, khiêm tốn, nhẹ nhàng
giúp họ nhận sai.
- Bạn sẽ tìm thấy niềm vui khi giúp đỡ người khác bằng tất cả tấm lòng.
(Paul Newman)

NGUYỄN THỊ NGỌC ÁNH:
Em hồn tồn có thể cảm nhận được câu nói này mỗi khi thật lịng giúp
đỡ người khác. Niềm vui không đơn thuần ta nhận được nhiều yêu thương mà
cịn từ việc ta biết sẻ chia nó. Khi thật sự trải lịng, em khơng cịn quan tâm vật
chất nữa, khơng quan tâm mình mất gì, mà chỉ có thể cảm nhận được niềm vui
khi làm cho người khác hạnh phúc. Em khơng địi hỏi nhận được nơi họ nụ
cười hoặc lời cảm ơn, chỉ cần thấy họ nhận lấy sự giúp đỡ của em, điều đó đã

làm em hạnh phúc.
- Ngu ngốc không phải là do thiếu kiến thức, không phải là do không
muốn học mà do tin rằng đã biết hết tất cả.
(Anita Joachim-Daniel).

TRẦN THỊ BẢO YẾN:
Tự tin vào chính mình là một điều tốt, góp phần đưa con người đi đến
thành công, song tự tin thái quá, cho rằng mình hơn người lại là một con dao
sắc nhọn từng bước bào mịn sự thành cơng trong mỗi chúng ta. Con người ta
luôn phải học hỏi không ngừng để hồn thiện chính mình và thái độ “tự tin
rằng đã biết hết tất cả” là một vật cản vô cùng lớn lao trên bước đường thành
cơng. Vì thế, tơi ln tập cho mình một thái độ sống khiêm nhường, học hỏi và
chọn lọc mọi thứ, vì tơi biết rằng, mình là một người chưa hồn hảo, vẫn cịn
nhiều khiếm khuyết trên bước đường nắm bắt cuộc sống.


3.1.3.2. Bài tập 2
a, Đề:
Hãy kể về một tấm gương làm ảnh hưởng tới lối sống hoặc suy nghĩ
của anh/ chị.
b, Kết quả sản phẩm:
∗ Đề trên cũng được ra cho lớp 11 Văn, Trường THPT chuyên
Lương Thế Vinh (năm học 2012 - 2013). Kết quả có 15 bài viết kể về
tấm gương ảnh hưởng đến lối sống và suy nghĩ của các em. Nếu phân
tích kĩ các bài viết, chúng ta sẽ thấy có nhiều điều thú vị về suy nghĩ của
những người trẻ, khơng riêng gì kĩ năng nghị luận xã hội. Chẳng hạn,
trong số 15 bài viết, chỉ có 2 bài trùng nhau về danh nhân được lựa chọn
(Thomas Edison). Trong số các tấm gương được các em cho là thần
tượng có các chính trị gia (Abraham Lincol, Chủ tịch Hồ Chí Minh), nhà
khoa học (Thomas Edison, Marie Curie), doanh nhân (Đặng Lê Nguyên

Vũ, Steve Jobs), những vượt lên số phận nghiệt ngã của mình (Satoshi
Fukushima, Hellen Keller, Bethany Hamilton, Bạch Quang Thái),… Đặc
biệt, có đến 5 tấm gương là người Việt Nam (Bác Hồ, Nguyễn Thị
Phương, Bạch Quang Thái, Nguyễn Thị Khánh Huyền, Đặng Lê Nguyên
Vũ). Qua cách giới thiệu của các em, tấm gương nào được lựa chọn cũng
đều có những nét đặc biệt, thực sự xứng đáng là “tấm gương”.
∗ Một số tấm gương được học sinh lựa chọn:
- TRẦN THỊ BẢO YẾN:
Trong cuộc đời mỗi con người, hai chữ “thần tượng” có vẻ là một khái
niệm rất rộng. Chúng ta thần tượng cha mẹ – những con người mẫu mực đáng
để noi theo, chúng ta thần tượng một nhóm nhạc Hàn Quốc, vì họ hát hay,
nhảy đẹp… Không quan trọng là bạn yêu thích hay ngưỡng mộ ai, điều căn bản
ở đây là qua những con người ấy, bạn học được điều gì – trở thành một con
người như thế nào? Có lẽ không phải ngẫu nhiên mà nước ta lại phát động


“Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại”. Bác đúng là
một tấm gương sáng để mọi người học tập, chẳng những qua các hoạt động
chính trị lớn lao mà ngay trong những việc nhỏ nhặt nhất, Bác luôn khéo léo
biến mọi việc dù phức tạp cũng trở nên giản đơn vơ cùng. Đó là một đức tính
mà tơi ln rèn luyện, học hỏi từ Bác.
Năm 1929, khi các tổ chức cộng sản được thành lập, đất nước ta chưa kịp
reo ca vì tìm được chính Đảng lãnh đạo thì mọi người lại một lần nữa hoang
mang vì các tổ chức này hoạt động riêng rẽ, đều cho rằng chủ trương của mình
là đúng đắn, khơng ai chịu ai. Trước tình hình đó, đầu năm 1930, Bác Hồ đang
từ Xiêm phải trở về nước để chủ trì hội nghị họp nhất các tổ chức cộng sản
thành một đảng duy nhất. Cuộc họp diễn ra sôi nổi, những người đại diện các
tổ chức cộng sản đều đưa ra những lí lẽ thuyết phục người khác, duy chỉ có
Bác là vẫn ngồi yên. Đến khi gần kết thúc buổi họp, Bác đột ngột đứng dậy.
Mọi người im lặng. Người khơng nói nhiều, chỉ hỏi có một câu:

- Ai trong các anh khơng phải người Việt Nam thì bước ra đây!…
Một sự yên lặng kéo dài… Sau vài phút khơng thấy ai lên tiếng Bác mới
nói tiếp:
- Nếu tất cả là người Việt Nam thì tại sao lại phải phân chia đảng phái
này nọ, sao không tổ chức thành một đảng duy nhất để tiến hành giải phóng đất
nước chúng ta trong lúc nguy cấp này…
Thêm một khoảng thời gian yên lặng… Và… bây giờ… chúng ta có
một Đảng cộng sản lãnh đạo duy nhất; một Nhà nước của dân, do dân, vì dân;
một đất nước hịa bình – dân chủ.
Thế đó, khơng phải cứ nói nhiều là thành công. Quan trọng là tôi và bạn
phải biết cách nói như thế nào, nói vào lúc nào… Quan trọng là cách tôi và bạn
ứng xử như thế nào trước một sự việc… Quan trọng là cách tôi và bạn kiểm
sốt được chính mình và thuyết phục người khác ra sao… Tất cả những điều ấy
tưởng như đơn giản nhưng một khi đưa vào thực tiễn, bạn sẽ thấy nó khó đến
mức nào. Khơng phải ngẫu nhiên khi Bác có rất nhiều hành động to lớn, tốt
đẹp mà tôi lại chọn mẫu chuyện rất nhỏ này về Bác. Mọi việc phải được bắt


đầu từ những điều nhỏ nhặt nhất, có như thế, tơi và bạn mới có thể thành cơng,
mới có thể làm nên sự khác biệt giữa mấy tỉ người trên trái đất này.
Thái độ bình tĩnh của Bác khi đứng trước một đám đơng đang chia rẽ
nhau thật bình tĩnh, dõng dạc. Bác dùng lí lẽ của chính mình để chống lại
những lí lẽ rất “có lí” khác. Một câu hỏi, một lời nói bình thường nhưng đúng
lúc và đúng mục đích, lại đem đến cho con người ta một kết cục khơng ngờ.
Tơi và bạn nói và làm rất nhiều nhưng liệu có bao lần chúng ta nói đúng, bao
lần nói hay? Cách chúng ta cư xử với mọi người trong cuộc sống thường ngày
liệu đã gọi là khéo léo, liệu đã đáng được gọi là “có văn hóa ứng xử”? Thế đấy,
Bác lại dạy cho tôi và bạn thêm một bài học.
Cái tơi cần học cịn rất nhiều, song tơi sẽ học từ những điều nhỏ nhặt
nhất, bình thường nhất, để làm nên những cái vĩ-đại-nhất.

- NGUYỄN LÊ HỒNG NHUNG:
Chúng ta – thế hệ trẻ ngày nay nhiều lúc vẫn thầm trách ông trời bất
công, trách sao cuộc đời q bất hạnh, trách mình khơng được như người này
người kia để rồi ủ dột, buồn chán và cả ganh tị, ghen ghét. Nhưng bạn có biết
khơng? Sinh ra là một con người tồn vẹn có đầy đủ các giác quan thì bạn quả
thực đã rất may mắn rồi. Bạn nhất định phải cảm ơn ơng trời vì điều đó. Có lẽ
bốn tiếng “ơng trời bất cơng” chỉ có thể để Hellen Keller – nhà văn, nhà hoạt
động xã hội người Mĩ nói lên mà thơi. Bởi người phụ nữ đáng thương ấy chỉ
được nhìn thấy ánh sáng mặt trời, lắng nghe âm vang cuộc sống, bập bẹ tiếng
“mẹ, cha” trong mười chín tháng đầu đời. Mười chín tháng sau căn bệnh quái
ác – viêm màng não đã làm hỏng mất đơi mắt và sau đó tai cũng bị điếc.
Khơng thể nhìn, khơng thể nghe thế nên khơng thể nói là điều tất nhiên. Con
người ta bị một trong ba khiếm khuyết ấy cũng đã đau đớn lắm rồi thế mà bà
phải gánh chịu tất cả. Những tưởng như thế là kết thúc một cuộc đời như nụ
hoa chưa nở đã tàn. Nhưng không, Hellen vẫn tiếp tục sống, chống chọi với số
phận. Qua lời khuyên của bác sĩ, bà được gia đình đưa tới học tại trường
Perkins dành cho người mù. Tại đây, Keller đã được gặp một cô gia sư vừa
mới tốt nghiệp tên là Anne Sullivan và từ đây bắt đầu một tình bạn kéo dài suốt
49 năm trời. Anne Sullivan là người đã dạy Hellen tập nói. Những năm tháng


đầu rất khó khăn song nhờ sự nỗ lực của cả cơ trị, Keller đã có thể nói ra điều
mình mong muốn cũng như bày tỏ suy nghĩ, quan điểm bản thân. Khi 8 tuổi,
Keller đã bộc lộ rõ tài năng vượt trội về các mơn tốn, địa lí, sinh học, tập đọc;
bà còn học cả bơi, chèo thuyền, cưỡi ngựa, đi xe. Sau đó, Keller vào học
trường nữ học tiểu bang Massachusetts. Cô giáo Anne luôn luôn ở bên cạnh
Keller để viết lại nội dung bài giảng vào lòng bàn tay Keller. Năm 1900, Keller
thi đậu vào trường cao đẳng Radcliffe College, học tài liệu chữ nổi dành cho
người mù. Bà kiên trì học tới mức khi nào đầu ngón tay rớm máu mới chịu
dừng. Hai năm sau khi tốt nghiệp, Keller được vinh dự được bầu vào chức chủ

tịch hội người mù tiểu bang Massachusetts, bắt tay vào công việc xã hội phục
vụ cho cộng đồng người mù. Keller đón tiếp rất nhiều người mù, trả lời nhiều
thư từ và đi thuyết giảng lưu động tại 39 nước trên thế giới. Bà không quản
ngại vất vả, cống hiến hết sức mình cho chương trình giáo dục và chữa trị cho
người mù. Năm 1920, với sự phấn đấu không mệt mỏi, Keller đã thành lập
được Hội người mù toàn nước Mĩ. Tổ chức này vẫn còn tồn tại cho đến ngày
nay. Quả thực, cuộc đời Hellen Keller là cả một câu chuyên đầy đáng thương
nhưng sáng ngời hơn cả là đáng trọng, đáng nể phục. Rõ ràng, tàn nhưng
không phế, Hellen Keller khơng chỉ sống mà cịn sống vơ cùng có ích, vơ cùng
tốt đẹp. Bà làm được những việc mà những người may mắn như chúng ta khó
có thể thực hiện. Và Hellen Keller – cái tên ấy sẽ là ánh sáng chỉ đường cho
tôi, cho bạn, cho mọi người để vươn tới một cuộc sống hoàn thiện hơn, là động
lực để ta đứng dậy sau mỗi vấp ngã. Vâng, một ý chí kiên cường, một nghị lực
phi phường, một tấm lòng nhân hậu, vượt qua nghịch cảnh để sống, để vươn
lên, khẳng định mình với cuộc đời, bà xứng đáng là tấm gương chói ngời cho
bao thế hệ ngày sau.
- ĐẶNG BÍCH NGỌC:
Steve Jobs – biểu tượng cho sự thành công của hãng Apple nổi tiếng, một
trong những "ông vua" của công nghệ. Không chỉ vậy, ông cịn là tấm gương
về một con người có nghị lực kiên cường và lịng đam mê cơng việc mà nước
Mĩ và cả thế giới biết tới. Steve Jobs có một tuổi thơ không hạnh phúc, bị bố
bỏ rơi, người mẹ gửi ơng làm con ni trong một gia đình lao động. Con


đường đi học của ơng cũng gặp nhiều khó khăn khi phải rời trường đại học vì
khơng đủ tiền trả học phí. Tuy nhiên, hồn cảnh khơng làm ảnh hưởng đến một
con người đầy hồi bão, Steve Jobs ni giấc mơ sau này dựng lên một công ty
trị giá 10 tỷ. Và quả thật sau này, công ty Apple do ông dựng nên trị giá 350 tỷ
đô la và ông được cả thế giới nhớ tới như một doanh nhân lỗi lạc. Tuy nhiên,
khơng có thành cơng nào lại q dễ dàng đạt được. Steve Jobs từng đứng trước

nguy cơ phá sản, nhưng với sự bình tĩnh, kiên cường, Jobs đã giúp Apple hồi
sinh thần kì. Cơng ty Apple trở thành cơng ty nổi tiếng tồn thế giới. Ơng từng
nói rằng: "Tơi cho rằng khi bạn làm một điều gì đó tốt thì bạn nên cố gắng tạo
ra những điều tốt hơn nữa. Đừng chìm đắm trong những thành cơng quá lâu mà
phải tạo ra những thành công mới”. Steve Jobs trở thành thần tượng của mọi
thanh niên đang mang ước mơ làm giàu. Bản thân em khi biết về con người
ông cũng thật sự ngưỡng mộ, khâm phục. Một con người mang đầy khát vọng
và có đủ ý chí, lòng đam mê để biến giấc mơ thành sự thật. Ở ông, em học hỏi
được về niềm say mê công việc, sự lao động hết mình và sự kiên trì đến khơng
ngờ.
Cơ hội khơng lựa chọn một ai, chính bản thân con người tạo ra cơ hội.
Muốn đạt được điều mình muốn, phải nỗ lực hết mình dẫu trải qua khó khăn,
nhưng khi đã thành cơng cũng khơng nên tự kiêu, thỏa mãn. Steve Jobs là một
tấm gương về khả năng kì diệu của con người, ơng mãi mãi được nhớ đến.

3.2. Hoạt động hướng dẫn học sinh có thói quen suy
nghĩ về những vấn đề tư tưởng, đạo lí và đời sống:
3.2.1. Ý nghĩa của thói quen suy nghĩ về những vấn đề tư
tưởng, đạo lí và đời sống
- Nghị luận là một trong những kiểu văn bản quan trọng trong đời
sống xã hội của con người, có vai trò rèn luyện tư duy, năng lực biểu đạt
những quan niệm, tư tưởng sâu sắc trước đời sống. Có thể nói, khơng có
văn nghị luận thì khó mà hình thành các tư tưởng mạch lạc và sâu sắc


×