Tải bản đầy đủ (.pptx) (24 trang)

Các thiết bị trong vật lý trị liệu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.17 MB, 24 trang )

HỆ THỐNG THIẾT BỊ
VẬT LÝ TRỊ LIỆU


NHÓM 6:
Bùi Tấn Hoàng
Phan Thị Hồng Trúc
Trần Huỳnh Như
Lê Thành Khoa

Giảng viên: Nguyễn Thị Ngọc Lam


I. VẬT LÝ TRỊ LIỆU

1, Giới thiệu chung:
a, Định nghĩa:
Vật lý trị liệu là chuyên ngành y tế cung cấp các dịch vụ cho bệnh nhân và cộng đồng để phát triển, duy trì và
khôi phục khả năng vận động và các hoạt động chức năng tối đa trong suốt cuộc đời, bao gồm các can thiệp khi khả năng
vận động và hoạt động chức năng bị đe dọa do các nguyên nhân tuổi tác, tổn thương, bệnh tật, rối loạn, cũng như do các
điều kiện và yếu tố môi trường; trong đó vận động chức năng được xem là vấn đề cốt lõi của sức khỏe


b, Vật lý trị liệu liên quan đến ai?

Vật lý trị liệu liên quan đến sự tương tác giữa bác sĩ chuyên khoa, bệnh nhân hoặc khách hàng; các chuyên
gia chăm sóc sức khỏe, gia đình, người chăm sóc và cộng đồng trong một quy trình đánh giá khả năng vận động
và chẩn đoán.
Vật lý trị liệu được thực hiện bởi một bác sĩ chuyên khoa và đôi khi các dịch vụ trị liệu được cung cấp bởi
một trợ lý trị liệu (PTA) làm việc theo chỉ đạo của các bác sĩ.
Vật lý trị liệu và chuyên gia trị liệu thường xuyên làm việc cùng nhau, kết hợp với nhau để điều trị cho


bệnh nhân
Trong một số trường hợp , các kỹ thuật viên phục hồi chức năng vật lý có thể cung cấp dịch vụ vật lý trị
lệu.


c, Vật lý trị liệu bao gồm những gì?

Vật lý trị liệu là một công việc chuyên nghiệp trong đó có nhiều loại hình bao gồm: Thể thao, thần kinh học,
chăm sóc vết thương, thủ tục chẩn đoán EMG, tim phổi, chuyên khoa điều trị bệnh cho người già, chỉnh hình và khoa nhi
Phục hồi chức năng thần kinh chính là một lĩnh vực đang được chú ý và phát triển mạnh.
Lưu ý: Vật lý trị liệu cũng được áp dụng trong vai trò chăm sóc không bệnh nhân như các chính sách y tế, bảo
hiểm y tế, quản lý chăm sóc sức khỏe và giám đốc điều hành chăm sóc sức khỏe
Vật lý trị liệu liên quan trong các lĩnh vực y tế - pháp lý phục vụ cho các chuyên gia thực hiện thẩm định và kiểm
tra y tế.


2, PTs là gì?

a, Tìm hiểu chung về PTs:
PTs là các chuyên gia y tế chẩn đoán và điều trị cho cá nhân của tất cả các lứa tuổi, từ trẻ sơ sinh
đến người lớn tuổi; những người có vấn đề về y tế hoặc điều kiện y tế khác; bệnh hoặc chấn thương gây hạn
chế khả năng vận động di chuyển của bản thân và thực hiện các hoạt đọng chức năng cần thiết trong cuộc
sống hàng ngày.
PTs dụng bệnh án của một cá nhân và kiểm tra sức khỏe của cá nhân đó để đi đến một chẩn đoán,
lên kế hoạch quản lý khi cần thiết; kết hợp các kết quả của phòng xét nghiệm và phòng chẩn đoán hình
ảnh. Kiểm tra thể xuất cũng có thể hỗ trợ PTs.


b, Quản lý PTs:


Quản lý PTs bao gồm: Đơn thuốc hỗ trợ với các bài tập thể dục cụ thể, thủ tục điều trị; sự hướng dẫn các thao tác
tập và các can thiệp khác.
Ngoài ra làm việc với các cá nhân PTs để ngăn chặn sự tê liệt trước khi nó xảy ra bằng cách tập thể dục và các
chương trình sức khỏe theo định hướng để có lối sống lành mạnh và tích cực hơn; cung cấp dịch vụ cho các cá nhân, tổ
chức để duy trì, phát triển và khôi phục lại tối đa khả năng của các hoạt động chức năng trong cuộc sống.
PTs bao gồm: Cung cấp các liệu pháp điều trị trong trường hợp hoạt động và chức năng vận động đang bị đe dọa
bởi sự lão hóa, vết thương, bệnh hoặc do các yếu tố môi trường.
Các trung tâm vận động chức năng có ý nghĩa là để giúp mọi người khỏe mạnh.


c, Thực tế về PTs:

PTs thực tế ở nhiều nơi, chẳng hạn như các phòng khám ngoại trú, văn phòng, trạm y tế và sức khỏe, các cơ sở
bệnh viện phục hồi chức năng, cơ điều dưỡng chuyên môn, cơ sở chăm sóc lâu dài, nhà riêng, trung tâm giáo dục và
nghiên cứu, viện chăm sóc đặc biệt nơi công nghiệp tại các môi trường lai động khác, các trung tâm thể dục thể thao và
các cơ sở đào tạo khác.



II, NOCICEPTORS: (bộ phận cảm nhận đau)

1, Tìm hiểu chung:
Bộ phận cảm nhận đau tự do, dây thần kinh ngoại vi noncorpuscular bao gồm một loại các hình dạng trục, phân
đoạn này liên kết bởi các đoạn mỏng để tạo ra một chuỗi các hạt xuất hiện.
Các hạt đầu và cuối chứa ty thể, hạt glycogen, tiểu bào và các khuc vực trần của màng bọc sợi trục không được
bao phủ bởi các quá trình tế bào schwann.
Bộ phận cảm nhận đau có mặt ở hầu hết tất cả các loại mô. Tuy nhiên, không có bộ phận cảm nhận đau có mặt
trong các pulposus hạt nhân và phần bên trong của fibrosus annulus của đĩa cột sống




2, Hoạt động của bộ phận cảm nhận đau:

Có thể được kích hoạt bằng nhiệt cao, cơ khí hoặc các kích thích hóa học từ các nguồn ngoại sinh hay nội sinh
Ví dụ: Kích thích cơ khí căng thẳng, chẳng hạn như gây ra bởi một viên gạch rơi vào chân ai đó hoặc mãnh xương
vỡ nén bộ phận cảm nhận đau. Sẽ dẫn đến kích hoạt bộ phận cảm nhận đau.
Kích thích hóa học của các chất ngoại sinh như ocid hay thuốc tẩy, hoặc bằng chất được sản xuất nội sinh như
bradykinin, histamine, acid arachidonic, được phát sinh như là điều kiện của các dáp ứng với tổn thương mô cũng có thể
kích hoạt bộ phận cảm nhận đau. Bởi vì các chất trung gian hóa học còn lại sau khi các kích thích vật lý ban đầu đã qua.
Nó thường gây ra đau đớn để tồn tại lâu dài với các kích thích nguy hại ban đầu.



3, Bộ phận cảm nhận đau và các lưu ý:

Điều quan trọng cần lưu ý là chất trung gian hóa học của các vết viêm cũng nhạy cảm với bộ phận cảm nhận đau,
giảm ngưỡng kích hoạt đến các kích thích khác.
Đây là lý do lâm sàng nhiều hoạt động và kích thích đến các khu vực bị thương được cho là không gây đau đớn
ngay cả khi họ không bị tổn thương.


III, CAVITATION (sự sinh lỗ hỗng):

Sự hình thành tăng trưởng và đập bong bóng khí hoặc hơi đầy gây ra bởi siêu âm. Trong giai đoạn nén của
một làn sóng siêu âm, bong bóng xuất hiện trong các mô nhỏ được tạo ra, và trong suốt giai đoạn đo chân không
và nó mở rộng.
Sự sinh lỗ hỗng có thể ổn định hoặc không ổn định(thoáng qua). Với sự sinh lỗ hỗng ổn định, các bong
bóng dao động về kích thước trong suốt nhiều chu kỳ nhưng không vỡ. Với sự sinh lỗ hỗng không ổn định, các
bong bóng lớn hơn một số chu kỳ và sau đó đột nhiên nổ tung (Fg 7-15).
Sự xô vào này tạo ngắn lớn, áp suất và nhiệt độ tăng lên vàa ây sự hình thành gốc tự do, sự sinh lỗ hỗng ổn

định đã được đề xuất như là một cơ chế cho tác dụng điều trị phi nhiệt của siêu âm, trong khi sự sinh lỗ hỗng
không ổn định được cho là không thể xảy ra ở những nới cường độ của sóng siêu âm được sử dụng trong điều trị.


Microscale edding diễn ra gần khu vực nhỏ, gây ra rung đối tượng.
Microstreaming xảy ra xung quanh các bong bóng khí đặt vào dao động của sự sinh lỗ hỗng


IV, LASER:

Cường độ tia laser có thể được thể hiện bằng công suất (đo bằng watt), mật độ điện (đo bằng W/cm 2), mật độ
năng lượng (J/cm2)
Mật độ điện = Công suất (W) / Diện tích chiếu xạ (cm2)
Mật độ năng lượng = [Công suất (W)*Thời gan (s)] / Diện tích chiếu xạ (cm 2)
Cường độ của tia laser làm thay đổi tác dụng lâm sàng của nó; cường độ tia laser cao gây nóng và phá hủy mô, từ
ánh sáng laser được hấp thụ có chọn lọc bởi nhóm màu (vật liệu hấp thụ ánh sáng) trong da, nó tạo ra nhiệt và phá hủy
các mô được chùm tia laser chiếu trực tiếp, tránh làm tổn thương các mô xung quanh.
Laser nóng được sử dụng trong lâm sàng để mổ và để đốt trong các thủ tục phẫu thuật. nó có một số ưu điểm so
với các dụng cụ phẫu thuật truyền thống: là chùm vô trùng, có sự kiểm soát tốt, nó đốt như cắt, kết quả cho sẹo rất nhỏ,
tuy nhiên nó không được sử dụng để phục hồi chức năng.


Cường độ laser thấp , trong đó tia laser đầu ra sáng ít hơn 500mV điện, thường vào khảng 50mV/cm 2 mật độ điện và
với mật độ năng lượng thấp hơn 35J/cm 2 đã được nghiên cứu và khuyến cáo sử dụng trong phục hồi chức năng vì có chứng
minh rằng năng lượng điện có thể kích thích sinh học và đủ điều kiện chữa bệnh.
Nói chung, phạm vi mật độ năng lượng thấp hơn từ 0,05 - 1J/cm 2 đã được đề nghị cho điều trị bệnh cấp tính; trong
khi đó liều cao hơn lên đến 40J/cm 2 đã được đề nghị cho điều trị bệnh mãn tính.
Một số nghiên cứu cũng đã phát hiện ra rằng, những tác động của tia laser là rõ rệt hơn trong thời gian ngắn cho liều
năng lượng cao hơn. Trong thời gian dài liều năng lượng cung cấp tổng số năng lượng.



V, HOLD/ RELAX TIMES (giữ/ thời gian thư giãn):

Nếu lực kéo liên tục được thực hiện, lực kéo tối đa được áp dụng trong suốt thời gian giữ và một lực kéo thấp hơn
được áp dụng trong suốt thời gian thư giãn.
Tỷ lệ thời gian được đề nghị và số lần thư giãn phụ thuộc vào tình trạng và khối lượng của bệnh nhân.
Nói chung, nếu lực kéo liên tục được sử dụng để điều trị thoát vị đĩa đệm thời gian giữ lâu hơn khoảng 60s, và
thời gian thư giãn ngắn hơn khoảng 20s. Khuyến cáo, trong khi điều trị nếu lực kéo đang được sử dụng để điều trị một
vấn đề nào đó của cột sống thì thời gian giữ ngawns hơn thời gian thư giãn mỗi lần khoảng 15s.



Các triệu chứng nghiêm trọng cũng nên được xem xét như một hướng dẫn để xác định thời gian giữ và thời gian
thư giãn.
Khi các triệu chứng của bệnh nhân nặng, cần khuyến cáo sử dụng cả thời gian giữ và thời gian thư giãn dài để hạn
chế số lượng hoạt động.
Nếu như các triệu chứng trở nên nghiêm trọng, thời gian thư giãn có thể được giảm dần theo mức độ của triệu
chứng; khi cơn đau được giảm xuống hơn thì thời gian giữ cũng có thể được giảm khi các triệu chứng được giảm nhẹ
Lực kéo tạo ra một chuyển động dao động với thời gian giữ ngắn và thời gian thư giaanxkhongr 3-5 lần/s


VI, FORCE (năng lượng):

Các tác giả khấc nhau trong các khuyến nghị liên quan đến độ lớn của lực được sử dụng cho lực kéo. Tuy nhiên,
hầu hết đồng ý rằng số lượng tối ưu của năng lượng phụ thuộc vào biểu hiện lâm sàng của bệnh nhân., các mục tiêu điều
trị và tình trạng bệnh của bệnh nhân trong quá trình điều trị.
Đối với tất cả các ứng dụng, năng lượng nên giữ ở mức thấp trong lần kéo ban đầu để giảm nguy cơ phản ứng co
thắt và để xác định lực kéo có thể làm nặng thêm các triệu chứng của bệnh nhân.
Lực kéo có thể được tăng dần trong các lần kéo tiếp theo, khi đó bệnh nhân sẽ quen với các thủ tục điều trị.
Điều này được khuyến khích cho tất cả các ứng dụng, lực kéo từ đầu cột sống thắt lưng ở giữa khoảng 13 - 25 kg

(25 - 50lb)


Khi mục tiêu là để nén vào rễ thần kinh tủy sống hay khớp xương, lực đủ mạnh để tách các khớp xương trong
khu vực đang được điều trị phải được sử dụng. Ở cột sống thắt lưng, đã được chứng minh rằng điều này đòi hỏi
một ăng lượng khoảng 22,5Kg(50lb) và khoảng 60% trọng lượng cơ thể của bệnh nhân.




×