Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Dạy học theo chủ đề

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (305.62 KB, 21 trang )

Dạy học theo chủ đề và việc ứng dụng trong giảng dạy bộ môn GDCD bậc THPT
Việc thực hiện giảm tải và tránh sự trùng lặp các chủ đề môn học ở mộ số đơn vị kiến thức, môn học (đơn môn hoặc
đa môn), cùng với đó là yêu cầu giảm tải chương trình, hiện nay có rất nhiều hướng tiếp cận nhằm giải quyết vấn đề
này, trong đó dạy học theo chủ đề đang được xem la giải pháp tối ưu trong việc không chủ xây dựng chương trình học
mà còn cả trong việc tiếp cận kiến thức học, phương pháp dạy học đối với GVBM hiện nay. Dưới đây là sơ lược về vấn
đề "dạy học theo chủ đề" và việc ứng dụng vào bộ môn GDCD bậc THPT, do tác giả trình bày. Mới quý thầy cô tham
khảo
Chuyên đề
DẠY HỌC THEO CHỦ ĐỀ VỚI VIỆC ỨNG DỤNG TRONG GIẢNG DẠY BỘ MÔN GDCD THPT
Chương 1
DẠY HỌC THEO CHỦ ĐỀ
VỚI CHỦ TRƯƠNG ĐỔI MỚI GIÁO DỤC HIỆN NAY
1.1. Thế nào là dạy học theo chủ đề?

Dạy học theo chủ đề (themes based leraning) là hình thức tìm tòi những khái niệm, tư tưởng, đơn vị kiến thức, nội
dung bài học, chủ đề,… có sự giao thoa, tương đồng lẫn nhau, dựa trên cơ sở các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn
được đề cập đến trong các môn học hoặc các hợp phần của môn học đó (tức là con đường tích hợp những nội dung từ
một số đơn vị, bài học, môn học có liên hệ với nhau) làm thành nội dung học[1] trong một chủ đề có ý nghĩa hơn, thực
tế hơn, nhờ đó học sinh có thể tự hoạt động nhiều hơn để tìm ra kiến thức và vận dụng vào thực tiễn.
Dạy học theo chủ đề là sự kết hợp giữa mô hình dạy học truyền thống và hiện đại, ở đó giáo viên không dạy học chỉ
bằng cách truyền thụ (xây dựng) kiến thức mà chủ yếu là hướng dẫn học sinh tự lực tìm kiếm thông tin, sử dụng kiến
thức vào giải quyết các nhiệm vụ có ý nghĩa thực tiễn.
Dạy học theo chủ đề là một mô hình mới cho hoạt động lớp học thay thế cho lớp học truyền thống (với đặc trưng là
những bài học ngắn, cô lập, những hoạt động lớp học mà giáo viên giữ vai trò trung tâm) bằng việc chú trọng những
nội dung học tập có tính tổng quát, liên quan đến nhiều lĩnh vực, với trung tâm tập trung vào học sinh và nội dung
tích hợp với những vấn đề, những thực hành gắn liền với thực tiễn.
Với mô hình này, học sinh có nhiều cơ hội làm việc theo nhóm để giải quyết những vấn đề xác thực, có hệ thống và
liên quan đến nhiều kiến thức khác nhau. Các em thu thập thông tin từ nhiều nguồn kiến thức.
Việc học của học sinh thực sự có giá trị vì nó kết nối với thực tế và rèn luyện được nhiêu kĩ năng hoạt động và kĩ năng
sống. Học sinh cũng được tạo điều kiện minh họa kiến thức mình vừa nhận được và đánh giá mình học được bao nhiêu
và giao tiếp tốt như thế nào.Với cách tiếp cận này, vai trò của giáo viên chỉ là người hướng dẫn, chỉ bảo thay vì quản lý


trực tiếp học sinh làm việc.
Dạy học theo chủ đề ở bậc THPT là sự cố gắng tăng cường tích hợp kiến thức, làm cho kiến thức có mối liên hệ mạng
lưới nhiều chiều; là sự tích hợp vào nội dung những ứng dụng kĩ thuật và đời sống thông dụng làm cho nội dung học
có ý nghĩa hơn, hấp dẫn hơn. Một cách hoa mỹ; đó là việc “thổi hơi thở” của cuộc sống vào những kiến thức cổ điển,
nâng cao chất lượng “cuộc sống thật” trong các bài học.
Theo một số quan điểm, dạy học theo chủ đề thuộc về nội dung dạy học chứ không phải là phương pháp dạy học
nhưng chính khi đã xây dựng nội dung dạy học theo chủ đề, chính nó lại tác động trở lại làm thay đổi rất nhiều đến
việc lựa chọn phương pháp nào là phù hợp, hoặc cải biến các phương pháp sao cho phù hợp với nó.
Vì là dạy học theo chủ đề nên căn bản quá trình xây dựng chủ đề tạo ra quá trình tích hợp nội dung[2] (đơn môn
hoặc liên môn) trong quá trình dạy.


1.2. Ưu thế của dạy học chủ đề so với dạy học theo cách tiếp cận truyền thống hiện nay.
Mọi sự so sánh giữa bất kì mô hình hay phương pháp dạy nào cũng trở nên khập khiễng bởi mỗi một mô hình hay
phương pháp đều có những ưu thế hoặc những hạn chế riêng có.
Tuy nhiên, nếu đặt ra vấn đề cho ngành giáo dục hiện nay là: Làm thế nào để nội dung kiến thức trở nên hấp dẫn và
có ý nghĩa trong cuộc sống? Làm thế nào để việc học tập phải nhắm đến mục đích là rèn kĩ năng giải quyết vấn đề,
đặc biệt là các vấn đề đa dạng của thực tiễn? Có phải cứ phải dạy kiến thức theo từng bài thì học sinh mới hiểu và vận
dụng được kiến thức? Làm thế nào để nội dung chương trình dạy luôn được cập nhật trước sự bùng nổ vũ bão của
thông tin để các kiến thức của việc học và dạy học thực sự là thế giới mới cho những người học?
Việc trả lời các câu hỏi trên đồng nghĩa với việc xác định mục tiêu giáo dục, mô hình dạy học trong thời đại mới. Đồng
thời, cũng sẽ chỉ ra cho ta thấy những lợi thế nhất định của từng mô hình khi áp dụng vào giảng dạy.
Rõ ràng, nếu căn cứ vào việc tìm câu trả lời cho những câu hỏi này thì dạy học theo chủ đề khi so sánh với dạy học
theo cách tiếp cận truyền thống hiện nay, sẽ có những ưu điểm[3] sau:

Dạy học theo cách tiếp cận truyền thống hiện Dạy học theo chủ đề
nay
1- Tiến trình giải quyết vấn đề tuân theo chiến 1- Các nhiệm vụ học tập được giao, học sinh
lược giải quyết vấn đề trong khoa học vật lý:
quyết định chiến lươc học tập với sự chủ động hỗ

logic, chặt chẽ, khoa học.. do giáo viên (SGK) áp trợ, hợp tác của giáo viên (Học sinh là trung tâm).
đặt (G.viên là trung tâm).
2- Hướng tới các mục tiêu: chiếm lĩnh nội dung
2- Nếu thành công có thể góp phần đạt tới mức kiến thức khoa học, hiểu biết tiến trình khoa học
nhiều mục tiêu của môn học hiện nay: chiếm lĩnh và rèn luyện các kĩ năng tiến trình khoa học như:
kiến thức mới thông qua hoạt động, bồi dưỡng quan sát, thu thập thông tin, dữ liệu; xử lý (so
các phương thưc tư duy khoa học và các phương sánh, sắp xếp, phân loại, liên hệ…thông tin); suy
pháp nhận thức khoa học: PP thực nghiệm, PP luận, áp dụng thực tiễn.
tượng tự, PP mô hình, suy luận khoa học…)
3- Dạy theo từng bài riêng lẻ với một thời lượng
cố định.
3- Dạy theo một chủ đề thống nhất được tổ chức
lại theo hướng tích hợp từ một phần trong
chương trình học.
4- Kiến thức thu được là các khái niệm trong một
mối liên hệ mạng lưới với nhau.
4- Kiến thức thu được rời rạc, hoặc chỉ có mối
liên hệ tuyến tính (một chiều theo thiết kế
chương trình học).
5- Trình độ nhận thức sau quá trình học tập
thường theo trình tự và thường dừng lại ở trình
độ biết, hiểu và vận dụng (giải bài tập).

5- Trình độ nhận thức có thể đạt được ở mức độ
cao: Phân tích, tổng hợp, đánh giá.


6- Kết thúc một chương học, học sinh không có
một tổng thể kiến thức mới mà có kiến thức từng
phần riêng biệt hoặc có hệ thống kiến thức liên 6- Kết thúc một chủ đề học sinh có một tổng thể

hệ tuyến tính theo trật tự các bài học.
kiến thức mới, tinh giản, chặt chẽ và khác với nội
dung trong sách giáo khoa.
7- Kiến thức còn xa rời thực tiễn mà người học
đang sống do sự chậm cập nhật của nội dung
sách giáo khoa.
8- Kiến thức thu được sau khi học thường là hạn
hẹp trong chương trình, nội dung học.
7- Kiến thức gần gũi với thức tiễn mà học sinh
đang sống hơn do yêu cầu cập nhật thông tin khi
thực hiện chủ đề.
9- Không thể hướng tới nhiều mục tiêu nhân văn
quan trọng như: rèn luyện các kĩ năng sống và
làm việc: giao tiếp, hợp tác, quản lý, điều hành,
ra quyết định…

8- Hiểu biết có được sau khi kết thúc chủ đề
thường vượt ra ngoài khuôn khổ nội dung cần
học do quá trình tìm kiếm, xử lý thông tin ngoài
nguồn tài liệu chính thức của học sinh.
9- Có thề hướng tới, bồi dưỡng các kĩ năng làm
việc với thông tin, giao tiếp, ngôn ngữ, hợp tác.

* Điểm tương đồng giữa dạy học chủ đề và dạy học truyền thống là VẪN COI VIỆC LĨNH HỘI NỘI DUNG
LƯỢNG KIẾN THỨC NỀN TẢNG, vì thế dạy học theo chủ đề là mô hình dạy học có thể vận dụng vào thực tiển hiện nay
dễ dàng hơn một số mô hình khác. Điều cần làm để có thể vận dụng nó là phải tổ chức lại một số bài học thành một
chủ đề được cho là sự tích hợp tốt hơn, có ý nghĩa thực tiễn hơn cách trình bày của sách giáo khoa mà chúng ta đang
có.
* Điểm khác biệt cơ bản dẫn tới nhiều khác biệt ở trên là:


Một, dạy học theo chủ đề cũng như một số mô hình tích cực khác, giáo viên không đựoc coi học sinh là chưa biết gì
trước nội dung bài học mới mà trái lại, luôn phải nghĩ rằng các em tự tin và có thể biết nhiều hơn ta mong đợi, vì thế
dạy học cần tận dụng tốt đa kiến thức, kinh nghiệm, kĩ năng có sẵn của các em và khuyến khích khả năng biết nhiều
hơn thế của học sinh về một vấn đề mới để giảm tối đa thời gian và sự thụ động của học sinh trong khi tiếp nhận kiến
thức mới, để tăng hiểu biết lên nhiều lần so với nội dung cần dạy.
Hai, dạy học theo chủ đề nhắm tới việc sử dụng kiến thức, hiểu biết vào thực tiễn các nhiệm vụ học tập nhắm tới sự
lĩnh hội hệ thống kiến thức có sự tích hợp cao, tinh giản và tính công cụ cao, đồng thời hướng tới nhiều mục tiêu giáo
dục tích cực khác (VD các năng lực), trong khi dạy học theo truyền thống lại coi trọng việc xây dựng kiến thức nên chỉ
nhắm tới các mục tiêu được cho là quá trình này có thể mang lại.
Ba, trong dạy học theo chủ đề kiến thức mới được học sinh lĩnh hội trong quá trình giải quyết các nhiệm vụ học tập ,
đó là kiến thức tổ chức theo một tổng thể mới khác với kiến thức trình bày trong tất cả các nguồn tài liệu. Hơn nữa, với
việc học sinh lĩnh hội kiến thức trong quá trình giải quyết nhiệm vụ học tập, cũng mang lại một lợi thế to lớn đó là mở
rộng không gian, thời gian dạy học, tinh giản thời gian dạy, độ ứng dụng thực tế cao hơn nhiều.


Bốn, với dạy học theo chủ đề, vai trò của giáo viên và học sinh cơ bản là thay đổi và khác so với dạy học truyền thống.
Người giáo viên từ chỗ là trung tâm trong mô hình truyền thống đã chuyển sang là người hướng dẫn, học sinh là trung
tâm.
1.3. Tại sao nên quan tâm đến dạy học theo chủ đề trong tiến trình đổi mới giáo dục hiện nay?
* Về mặt lý luận
Hiện nay, có ba lý do quan trọng cần lưu tâm và đặt chúng ta phải nghĩ đến một giải pháp làm thế nào để đáp ứng và
giải quyết được ba vần đề này, chình là:
Một, trước yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện về giáo dục – trong đó chú trọng đổi mới phương pháp, cách tiếp cận
dạy học theo định hướng phát huy tính tích cực của học sinh.
Hai, tính giới hạn về định lượng nội dung trong sách giao khoa và quá trình bùng nổ thông tin, tri thức kèm theo đó là
nhu cầu cập nhật kiến thức vô hạn đối với sự học của người học.
Ba, với cách tiếp cận giảng dạy truyền thống hiện có, liệu chúng ta đủ khả năng để thực hiện các mục tiêu dạy học tích
cực như; tăng cương tích hợp các vấn đề cuộc sống, thời sự vào bài giảng; tăng cường sự vận dụng kiến thức của học
sinh sau quá trình học vào giải quyết các vấn đề thực tiễn; rèn luyện các kĩ năng sống phong phú vốn rất cần cho
người học hiện nay?

Thêm vào đó, ngoài việc quá trình dạy học hướng tới định hướng nội dung học như đã có, thì đổi mới dạy học hiện nay
còn có tham vọng tiến xa hơn đó là định hướng hình thành NĂNG LỰC cho học sinh.
Do đó, dạy học theo chủ đề với những lợi thế về đặc điểm như đã so sánh ở trên so với dạy học theo cách tiếp cận
truyền thống, đặc biệt là nó có thể giải quyết được ba vấn đề trên, chính là bước chuẩn bị tương đối phù hợp cho đổi
mới chương trình và sách giáo khoa trong thời gian tới.
* Trên phương diện thực tiễn
Cần khẳng định rằng, mục tiêu giáo dục hiện nay của chúng ta đã bắt đầu chuyển hướng sang chú trọng tới định
hướng phát triển năng lực học sinh. Theo đó, chúng ta kì vọng vào quá trình dạy học, kiểm tra đánh giá chú trọng tăng
cường tính vận dụng kiến thức vào giải quyết những vấn đề thực tiễn của người học và nhờ vào quá trình đó các năng
lực được hình thành.
Tuy nhiên, trong thực tế, diện mạo đời sống xã hội không hiện diện đầy đủ ở bất cứ bài nào trong chương trình học.
Nói cách khác, không thể gom hết toàn bộ xã hội sinh động vào nội dung chương trình của bất kì một môn học nào
như một dạng kim chỉ nam xuyên suốt, kinh điển, giáo điều.
Thực tế trên cho thấy, khi giải quyết một vấn đề trong thực tiễn, bao gồm cả tự nhiên và xã hội, đòi hỏi học sinh phải
vận dụng kiến thức tổng hợp hoặc liên quan đến nhiều môn học. Vì vậy, dạy học cần phải tăng cường theo hướng tích
hợp đa chiều, liên môn. Do đó, hệ quả là buộc chúng ta phải xây dựng các chủ đề để tiến hành dạy học. Tất nhiên,
việc xây dựng các chủ đề trong dạy học cũng không tham vọng sẽ giải quyết việc đưa toàn bộ thực tiễn vào chương
trình, thậm chí mô hình này cũng chưa thể tạo ra một phương pháp giáo dục hoàn toàn mới, nhưng quan trọng hơn
hết chính là nó mở đường cho giáo viên và học sinh tiếp cận với kiến thức theo một hướng khác. Không phải là sự thụ
động mà là chủ động của học sinh. Không phải là sự tiếp nhận kiến thức sau khi học mà có thể là ngay khi làm nhiệm
vụ học. Nó cũng không chỉ dừng ở mục tiêu “đầu vào” về kiến thức mà nó còn hướng tới định hướng “đầu ra” (tức khả
năng vận dụng kiến thức vào giải quyết thực tiễn[4]) nhờ vào việc xác định các năng lực cần phát triển song song với
những mục tiêu về chuẩn nội dung kiến thức, kĩ năng trong chương trình học.
Ngoài ra, một thực tế khác cũng đáng quan tâm: hiện nay, ít nhiều trong chương trình học (bao gồm cả trong một bộ
môn theo bậc hoặc các môn khác nhau theo một bậc) cũng có nhiều đơn vị kiến thức có tính giao thoa, liên
hệ tương đối gần hoặc trùng lặp.


Ví dụ 1: Ở cấp độ đơn môn, môn GDCD bậc THPT, các đơn vị bài: bài 8 – Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, (GDCD 11, tr
81); bài 7 – Công dân với các quyền dân chủ (GDCD 12, tr 68 - 78), nội dung có sự liên hệ;

Hoặc: bài 12 – Công dân với tình yêu hôn nhân và gia đình (GDCD 10); mục 1 bài 4 – Quyền bình đẳng của công dân
trong một số lĩnh vực của đời sống xã hội (GDCD 12, tr 32 -35), nội dung có sự liên hệ gần nhau và phát triển cao hơn
ở tầm nhận thức lũy tiến từ khối 10 lên khối 12, từ giáo dục ý thức đạo đức lên ý thức pháp luật.
Ví dụ 2: ở cấp độ liên môn như: bài 14 – Công dân với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc (GDCD 10, tr95); bài 14
– Chính sách quốc phòng an ninh (GDCD 11, tr 110); và bài 5 – Chính sách quốc phòng an ninh và bảo vệ tổ quốc xã
hội chủ nghĩa (GDQP) có nội dung tương đối gần và có sự lặp lại ở một số khái niệm.
Nhằm tránh hiện trạng trên, cũng như nhằm tạo ra một đơn vị kiến thức học có tính sâu sắc hơn, có tính liên hệ tổng
thể, bao quát và đầy đủ hơn, thì việc xây dựng các chủ đề tích hợp các nội dung như đã trình bày là cần thiết.

Chương 2
NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG CƠ BẢN TRONG VIỆC ỨNG DỤNG DẠY HỌC THEO CHỦ ĐỀ ĐỐI VỚI BỘ MÔN GDCD
THPT
2. 1. Tình hình ứng dụng việc dạy học theo chủ đề trong bộ môn GDCD hiện nay
Dạy học theo chủ đề không phải là mô hình dạy học hoàn toàn mới trên thế giới. Tuy nhiên, ở Việt Nam, việc quan tâm
đến mô hình này mới chỉ dừng lại ở bước đầu tiếp cận. Song, căn cứ vào thực tiễn và kế hoạch đổi mới căn bản nền
giáo dục hiện nay, có thể khẳng định mô hình dạy học này sẽ còn tiếp tục được nghiên cứu và thử nghiệm để có được
những bài học kinh nghiệm xác đáng trước khi chính thức áp dụng phục vụ cho chủ trương đối mới căn bản, toàn diện
giáo dục hiện nay.
Nhìn lại quá trình tiếp cận và triển khai, có thể liệt ra một số chủ trương lớn và các hoạt động bổ trợ liên quan đã và
đang cụ thể hóa trong “khâu chuẩn bị” trong lộ trình xây dựng mô hình dạy học theo chủ đề ở nước ta như sau:
+ Chủ trương giảm tải, cắt bỏ nhiều nội dung không cần thiết và trùng nhau gây áp lục và khó khăn cho việc dạy và
học trong suốt những năm qua.
+ Tập huấn về đổi mới kiểm tra đánh giá đầu ra theo định hướng phát triển năng lực học sinh (2014). Thực chất, đây
là khâu “đi tắt, đón đầu” trong lộ trình trang bị kiến thức cần thiết cho giáo viên dần tiếp cận việc dạy học theo chủ đề,
trước khi có sự đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục trên phương diện nội dung, đó là: cơ cấu lại môn học sau năm
2015. Đây cũng là bước đệm quan trọng của Bộ GD & ĐT nhằm trang bị cho giáo viên những kỹ năng, thao tác, quy
trình để giáo viên có thể áp dụng trước vào khâu kiểm tra đánh giá học sinh khi các em tham gia vào một tiết học theo
chủ đề.
+ Bên cạnh đó, trong năm 2014, việc triển khai Hướng dẫn sinh hoạt chuyên môn về đổi mới phương pháp dạy học và
kiểm tra đánh giá… theo công văn số 5555/ BGDĐT, ngày 18/10/2014 của Bộ giáo dục và Đào tạo, theo đó; mỗi tổ

chuyên môn (trong đó có môn GDCD) xây dựng ít nhất một học kỳ 02 chủ đề để giảng dạy thử, dự giờ, phân tích, rút
kinh nghiệm…cũng là khởi đầu quan trọng giúp giáo viên có được vốn hiểu biết nhất định về thế nào là xây dựng tiết
dạy, bài dạy theo chủ đề trước khi có khung chương trình cụ thể.
+ Ở Đồng Nai, các nội dung trên cũng đã được tổ chức, kèm theo đó là Kế hoạch tổ chức Hội thi Sử dụng kiến thức
liên môn để giải quyết nội dung bài dạy ở các bộ môn năm 2014(trong đó có môn GDCD) cũng là minh chứng cho thấy
tình hình ứng dụng dạy học theo chủ đề hiện nay là có cơ sở và được quan tâm nhiều từ các phía ban ngành.
Các hoạt động trên, chính là tiền đề thuận lợi giúp giáo viên bộ môn có cơ hôi tiếp cận mô hình dạy học này trong giai
đoạn sắp tới mà không vấp phải sự bỡ ngỡ, khó khăn ngay khi chúng ta bước vào giai đoạn thực hiện khung chương
trình đổi mới giáo dục.


2. 2. Những thuận lợi và khó khăn khi thực hiện dạy học theo chủ đề đối với bộ môn GDCD bậc THPT
Bất kì môn học nào hiện nay khi đối diện với vấn đề dạy học theo chủ đề cũng gặp khó khăn nhất định. Phần vì đây là
cách tiếp cận mới. Hơn nữa, chưa có một khung chương trình thống nhất hoặc hướng dẫn địa chỉ cần xây dựng chủ đề
trong chương trình học hiện hành...v.v. Không những vậy, khó khăn này còn thể hiện ở chỗ: không chỉ bởi sự độc
lập[5] hay sự khác biệt tương đối về mặt nội dung[6] mà còn xuất phát từ phía giáo viên bộ môn với những hạn chế
như: sự hiểu biết sâu, rộng về kiến thức liến khối, liên môn; khả năng, kinh nghiệm nắm bắt các thao tác, quy trình
xây dựng chủ đề; kĩ năng vận dụng phương pháp dạy học linh hoạt đối với từng chủ đề mình xây dựng.
Tuy nhiên, ngoài khó khăn cũng không phải không có những thuận lợi khi áp dụng. Trong bài viết, xin được nêu ra lợi
thế xét trên cả hai khía cạnh: nội dung và khả năng hiện nay của giáo viên dạy bộ môn GDCD THPT (bao gồm kiến
thức, kĩ năng sử dụng kĩ thuật, phương pháp dạy học).
Về phần nội dung

Một, như đã biết, bộ môn GDCD có nội dụng học là vô cùng bao quát, phổ biến. Nội dung môn học trang bị bao gồm
thế giới quan và nhân sinh quan, cũng như các vấn đề cơ bản của đời sống xã hội trên rất nhiều lĩnh vực có tính thực
tiễn, gần gũi. Do đó, nội dung đề cập đến một lượng kiến thức dồi dào, thực tiễn, sinh động, không trừu tượng (như
toán, hóa, lý…). Điều này cũng có nghĩa là khi xây dựng chủ đề, nhất là chủ đề liên môn, giáo viên sẽ có trước tiên là
nhiều môn học, đề tài được chọn để đưa vào tích hợp, thêm vào đó trong quá trình dạy các nhiệm đặt ra đối với học
sinh cũng dễ dàng được tiến hành một cách chất lượng và đảm bảo bởi hai yêu tố: nguồn tài liệu dồi dào (từ thực tiễn,
hoặc kiến thức liên môn khác mà học sinh sẵn có) và tri thức thực tiễn sẵn có từ học sinh.

Vì là bộ môn trang bị thế giới quan và nhân sinh quan cũng như các vấn đề cơ bản của đời sống xã hội, nên quá trình
tích hợp xây dựng chủ đề liên môn, bản thân đơn vị kiến thức môn GDCD trong chủ đề thường là được sử dụng thường
xuyên làm kim chỉ nam cho định hướng giải quyết vấn đề của học sinh, do đó giáo viên cũng dễ dàng kiểm soát được
nội dung cơ bản của chủ đề môn học, không rơi vào tình trạng sa đà, lệch chuẩn.

Hai, bộ môn GDCD cũng là bộ môn có chứa nhiều đơn vị kiến thức liên đới nhau theo chủ đề từng chương mục[7]. Ví
dụ: GDCD 10- Phần thứ nhất, toàn bộ nội dung chỉ xoay quanh chủ đề thế giới quan, phương pháp luận (triết
học); Phần thứ 2: Nội dung xoay quanh chủ đề đạo đức học. Trong chủ đề này có thể chia ra các chủ đề nhỏ như: Đạo
đức và các phạm trù cơ bản (tích hợp 2 bài 10 và 11);
Hoặc như, trong phạm vi bậc THPT, chủ đề Đạo đức với đời sống, chúng ta cũng tìm thấy nội dung có sự liên hệ và
đưa vào chủ đề là Mối quan hệ giữa Pháp luật và đạo đức (mục c. bài 1, GDCD 12, tr 9)
Do đó, việc xây dựng chủ đề là khá dễ dàng, ngay cả khi môn này nhận thêm nhiệm vụ tích hợp, lông ghép các chủ đề
ngoài giờ lên lớp khác.
Ví dụ: lồng ghép, tích hợp giáo dục phòng chống tham nhũng[8] và học tập làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh[9], cũng có thể được đưa vào chủ đề Đạo đức với đời sống.

Ba, bộ môn GDCD cũng là bộ môn có nội dung liên hệ nhiều với các bộ môn như Sử, Địa, Văn, Sinh học, GDQP,
NGLL… Do đó, khi dạy theo chủ đề, học sinh dễ dàng tiếp cận hơn, dễ dàng nhận nhiệm vụ học tập nhờ vào sức tự tin
về kiến thức sẵn có khi yêu cầu giải quyết nhiệm vụ thực tiễn. Vì thế, môn học cũng hứa hẹn thái độ tích cực, hứng thú
và chủ động hơn từ phía học sinh.
Về khả năng của giáo viên
Khả năng của giáo viên bao gồm: kiến thức, kĩ năng sự dụng kỹ thuật, phương pháp dạy học.
Ưu thế vượt trội của giáo viên GDCD so với các giáo viên khác chính là việc quen thuộc với nhiều phân loại kiến thức
khoa học, đặc biệt là khoa học xã hội và nhân văn. Từ triết, đạo đức học, kinh tế chính trị, pháp luật học cho đến các
chủ đề nhỏ từng được đưa vào giảng dạy tích hợp, lồng ghép hàng chục năm qua như giáo dục kĩ năng sống, giáo dục
trật tự ATGT, giáo dục sức khỏe giới tính, bình đẳng giới, tích hợp giáo dục tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, giáo dục


chủ quyền biển đảo, giáo dục bảo vệ môi trường, giáo dục phòng chống các tệ nạn xã hội, …. Do vậy, dữ liệu các
kênh tri thức liên môn là vô cùng phong phú, dồi dào. Đây cũng là các chủ đề dễ dàng được giáo viên tích hợp thành

chủ đề để đưa vào giảng dạy nếu được áp dụng mô hình dạy học này.
Ngoài ra, về phương diện sử dụng kĩ thuật và phương pháp dạy học, không chỉ riêng giáo viên GDCD mà ở các bộ môn
khác cho đến nay, về cơ bản đã từng tiếp cận và kinh qua tương đối thành công rất nhiều các kĩ thuật và phương pháp
dạy học tích cực (vd: như phương pháp dự án, thảo luận nhóm, trực quan…), điều này vô cùng hữu dụng và là tiền đề
cho việc sử dụng nó vào việc khai thác các đơn vị kiến thức trong tiết dạy học theo chủ đề. Về cơ bản, dạy học theo
chủ đề rất cần những phương pháp này để khai thác nội dung bài học, cũng như đây là cách để học sinh liên hệ thực
tiễn.
Đối với học sinh
Khả năng đón nhận cao vì trước hết, các chủ đề được xây dựng theo dạng tích hợp, liên môn có tính thực tiễn sinh
động nên chủ đề học bao giờ cũng hấp dẫn, dễ tạo ra động cơ, hứng thú học tập cho học sinh. Học các chủ đề tích
hợp, liên môn, học sinh được tăng cường vận dụng kiến thức tổng hợp vào giải quyết các tình huống thực tiễn, ít phải
ghi nhớ kiến thức một cách máy móc. Quan trọng hơn là các chủ đề tích hợp, liên môn giúp cho học sinh không phải
học lại nhiều lần cùng một nội dung kiến thức ở các môn học khác nhau, vừa gây quá tải, nhàm chán, vừa không có
được sự hiểu biết tổng quát cũng như khả năng ứng dụng của kiến thức tổng hợp vào thực tiễn.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu thế, riêng với môn học GDCD khi áp dụng dạy học theo chủ đề cũng gặp một số khó
khăn, như:
+ Giáo viên chưa chuẩn bị tâm lý, ngại thay đổi.
+ Học sinh vẫn coi GDCD là môn phụ.
+ GDCD là môn học có tần suất và nội dung được đưa vào tích hợp nhiều những vấn đề khác ngoài chương trình, do
đó có thể gây khó khăn và lúng túng cho giáo viên khi xác định nội dung xây dựng chủ đề hoặc phá vỡ kết cấu nội
dung, làm nhạt nội dung chính của chương trình.
+ Thời gian học 1 tiết trên lớp, khiến chủ đề khi đưa vào giảng dạy dễ bị chia nhỏ, manh mún, ảnh hưởng đến việc
trình bày sản phẩm, kết quả học tập của học sinh. Đồng thời, khiến chủ đề học dễ rơi vào tình trạng chỉ là một dạng
thức hình thành trên cơ sở của tổng đại số đơn thuần các đon vị kiến thức (không liên hệ, không mở rộng, không lũy
tiến).
+ Độ ngắn dài hay nội dung chủ đề phụ thuộc rất nhiều vào nhóm năng lực mà từng giáo viên, từng môn, từng địa
phương đề ra trong quá trình giáo dục, khó thống nhất dễ gây xáo trộn chương trình chung.
+ Quan trọng hơn hết là chưa có một khung chương trình xây dựng các chủ đề, từ đơn môn đến liên môn. Do đó, điều
này cần sự bàn bạc, thống nhất giữa các giáo viên trong tổ bộ môn và giữa các bộ môn, thậm chí là những nhà quản lý
giáo dục, các chuyên gia giáo dục để có sự thống nhất đồng bộ, đảm bảo không thiếu sót hoặc lặp lại kiến thức, không

tạo ra tính ỷ lại ở bộ môn này cho môn khác; không tạo ra sự mầu thuẫn giữa các quan điểm lập trường chuyên môn
người dạy giữa các môn; không quan trọng hóa môn học này hay môn học khác trong quá trình tích hợp theo chủ đề.
2.3. Xây dựng chủ đề dạy học trong bộ môn GDCD và những điểm cần chú ý
Trước tiên, cần tái khẳng định lại rằng; dạy học theo chủ đề là một cách tiếp cận hoàn toàn mới mẻ. Do đó, việc đưa
ra những định hướng trong quá trình xây dựng chủ đề, bao gồm cách thức, quy trình và những nguyên tắc xây dựng
chủ đề chỉ là những gợi mở, tham khảo và chờ đợi sự đóng góp tích cực từ kinh nghiệm giảng dạy của giáo viên trực
tiếp tham gia thực hiện mô hình này để chuyên đề có tính khả dụng.
Tuy nhiên, từ các dữ liệu nghiên cứu, hầu hết đều cho rằng, trước khi bắt tay vào xây dựng chủ đề học (không chỉ đối
với môn GDCD mà còn cả đối với các môn học khác) cần nắm vững những điểm sau:


Một là; Chủ đề tích hợp được soạn theo yêu cầu hình thành một năng lực nào đó cho học sinh trong thực tiễn. Các
năng lực này tùy vào tình hình thực tế tại cơ sở có thể thay đổi tùy vào trình độ của học sinh.
Hai là; Công cụ của dạy học theo chủ đề là: giáo án về chủ đề đó, có liên quan đến ít nhất kiến thức của hai đơn vị
nội dung học hoặc bài trong một bộ môn hoặc hai bộ môn trở lên. Trong quá trình này, phương pháp dạy học có thể
sử dụng chính các phương pháp tích cực trong dạy học hiện nay để khai thác chủ đề (phương pháp dự án, thảo
luận…). Đồng thời, chú trọng đến yếu tố Công nghệ thông tin như một phương tiện hỗ trợ đắc lực khi khai thác chủ
đề.
Ba là; Kết quả chủ yếu, căn bản cần đạt được khi dạy học theo chủ đề phải trả lời cho câu hỏi: Sau chủ đề học, học
sinh biết làm gì? Hình thành năng lực gì?
Bốn là; Tùy theo nội dung chương trình sách giáo khoa hiện nay mà việc xây dựng chủ đề dạy học có thể là:
Chủ đề tích hợp: dành cho giáo viên (đưa kiến thức từ đời sống đến bài dạy);
Chủ đề liên môn: dành cho học sinh (đưa kiến thức từ nhiều môn học để giải quyết các tình huống trong thực tiễn cuộc
sống).
Chủ đề dạy học: tập hợp các đơn vị kiến thức gần nhau để xây dựng thành một chủ đề.
Tuy nhiên, ranh giới giữa các hình thức chủ đề trên cũng tương đối. Đôi khi, một chủ đề dạy học vẫn có thể bao gồm
cả những đặc điểm của hai chủ đề còn lại (cách phân loại này chỉ có tác dụng đối với giáo viên khi muốn xác định cấp
độ đơn giản hay phức tạp của nội dung tích hợp trong chủ đề, ứng với trình độ, năng lực cụ thể của học sinh).

Năm là; Hình thức dạy học chủ đề tích hợp có thể được tiến hành dạy luôn trong chương trình. Quỹ thời gian lấy ở các

bài đơn lẻ, đã được dạy trong bài dạy tích hợp. Có thể dạy trong nhiều tiết, nên từ 2-3 tiết/chủ đề. Không gian tổ chức
có thể tại lớp, sân trường… khuyến khích không gian trải nghiệm (các hoạt động thực hành, trải nghiệm, xưởng sản
xuất, đi thực tế, tham quan…) .
Sáu là; đối với những kiến thức liên môn nhưng có một môn học chiếm ưu thế thì có thể bố trí dạy trong chương trình
của môn đó và không dạy lại ở các môn khác.
Trường hợp nội dung kiến thức có tính liên môn cao hơn thì sẽ tách ra thành các chủ đề liên môn để tổ chức dạy học
riêng vào một thời điểm phù hợp, song song với quá trình dạy học các bộ môn liên quan.

Chương 3
ĐỊNH HƯỚNG QUY TRÌNH XÂY DỰNG, SOẠN GIẢNG CHỦ ĐỀ HỌC TRONG BỘ MÔN GDCD BẬC THPT VÀ
NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUÁ TRÌNH KHAI THÁC CHỦ ĐỀ TRONG GIẢNG DẠY
3.1. Các bước cơ bản xây dựng chủ đề và tiến trình soạn giảng chủ đề học môn GDCD bậc THPT
Khó khăn nhất hiện nay của giáo viên bộ môn chính là việc định hình quy trình xây dựng và tiến hành soạn giảng một
chủ đề. Trong thực tế, chưa có sự thống nhất cuối cùng để đưa ra một hướng dẫn cụ thể, tất cả mới dừng lại ở việc
tìm tòi, vừa thử nghiệm vừa rút kinh nghiệm.
Theo tìm hiểu bước đầu của tác giả, để xây dựng một chủ đề đảm bảo tính khoa học và đáp ứng các mục tiêu dạy học,
có thể tiến hành tuần tự theo các bước sau:

Bước 1: Xác định nội dung, phạm vi kiến thức muốn đưa vào chủ đề. Nội dung có thể là sự tích hợp một đơn vị kiến
thức trong một bài, nhiều bài, một môn, nhiều môn.


Yêu cầu: Có sự liện hệ tri thức gần nhau, giao thoa hoặc trùng lặp hay có độ liên đới lũy tiến, đi lên phù hợp trình độ
nhận thức của học sinh.

Bước 2: Căn cứ các nội dung đã được xác định tích hợp, giáo viên tiến hành xây dựng chủ đề.
Yêu cầu: Tên chủ đề bao quát các đơn vị kiến thức muốn tích hợp, kết cấu nội dung chủ đề phải hợp lý, các đơn vị
kiến thức trong chủ đề phải theo trình tự nhận thức từ dễ đến khó, đơn giản đến phức tạp hoặc nhóm thành các chủ
đề nhỏ phù hợp với nhiệm vụ học tập được giao cho học sinh.
Chủ đề xây dựng vừa đúng, đủ, phù hợp và đảm bảo các yêu cầu về chuẩn kiến thức, kĩ năng trong chương trình

chuẩn, cũng như các năng lực cần xây dựng, kiểm tra, đánh giá đối với học sinh.

Bước 3: Tiến hành soạn giáo án theo chủ đề đã xây dựng. Có thể tham khảo theo mẫu sau:
Ngày soạn: …………………

Tuần: từ tuần… đến tuần…..

Ngày dạy: từ ngày … đến ngày….

Tiết: từ tiết….. đến tiết…….

TÊN CHỦ ĐỀ:………………………………
Số tiết: ……………………………

I. MỤC TIÊU (chung cho cả chủ đề)
1.Kiến thức: ……………………………
2.Kỹ năng: ……………………………..

Lưu ý: Đảm bảo chuẩn kiến thức, kỹ năng theo chương trình hiện hành, trên quan điểm phát triển năng lực học
sinh[10].
3. Năng lực cần phát triển……………

Lưu ý:
a. Bao gồm những năng lực chuyên biệt ở từng đơn vị kiến thức, bài hoặc chương cần phát triển cho học sinh khi
học xong chủ đề.
b. Trong số các năng lực cần phát triển đó, giáo viên sắp xếp theo thứ tự ưu tiên từ trên xuống dưới tùy vào mục đích,
yêu cầu và dung lượng của các đơn vị kiến thức được tích hợp trong chủ đề đó.
II. BẢNG MÔ TẢ CÁC NĂNG LỰC CẦN PHÁT TRIỂN

Nội dung chủ đề


Nhận biết

Thông hiểu

Vận dụng thấp

Vận dụng cao


………………….

……………..

……………..

……………..

……………..

………………….

……………..

……………..

……………..

……………..


Lưu ý:
1. Giáo viên mô tả chi tiết các mức độ cần đạt để phát triển năng lực cho HS, cơ sở của bảng mô tả này là các năng
lực mà giáo viên đã đưa ra ở mục 3 phần I (mục tiêu).
2. Giáo viên không nhầm lẫn giữa bảng mô tả với ma trận đề kiểm tra.
III. HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC
1. Đối với chủ đề là một bài dạy với thời lượng là 1 tiết (45 phút ) hoặc nhiều tiết (bài có nhiều nội dung) giáo viên
thiết kế hoạt động dạy học tương tự hoạt động dạy học trong các giáo án theo quy định hiện hành, như sau:

TL

HOẠT ĐỘNG CỦA GIÁO HOẠT ĐỘNG CỦA HS
VIÊN
Hoạt động 1: Nội dung 1

NỘI DUNG ĐẠT
ĐƯỢC
I. Nội dung

…………………………
Hoạt động 2: Nội dung 2

Nhiệm vụ a, b,c …………………

1: ………………….
II. Nội dung

…………………………
Hoạt động 3: Nội dung 3

Nhiệm vụ a, b,c ………………..


2: ………………….
III. Nội dung

…………………………

Nhiệm vụ a, b, c…………………

3: ………………….
……………………..

…………………………..

…………………………….

2. Đối với chủ đề có nhiều bài dạy (có thể các bài dạy trong 1 chương hoặc không phải là 1 chương nhưng có nhiều nội
dung liên quan[11]…) giáo viên có thể tham khảo mẫu thiết kế như sau:

TL HOẠT ĐỘNG CỦA
GIÁO VIÊN
Hoạt động 1: Nội dung 1
(bài 1)

HOẠT ĐỘNG CỦA HS

NỘI DUNG ĐẠT
ĐƯỢC
I. Nội dung

Nhiệm vụ a, b, c, ……………................ 1: ……………………….



…………………………….
Hoạt động 2: Nội dung 2
(bài 2)

II. Nội dung
Nhiệm vụ a, b, c, ……………………… 2: ……………………….

……………………………
Hoạt động 3: Nội dung 3
(bài 3)

III. Nội dung
Nhiệm vu a, b, c, ……………………… 3: ……………………….

……………………….....
……………………………. ………………………………………….

hành.

Ngoài ra, các bước còn lại như củng cố, chuẩn bị nội dung học mới tương tự như giáo án theo quy định hiện

Lưu ý: Về thời gian dạy dạng chủ đề có nhiều bài dạy
Giáo viên tự bố trí thời gian hợp lý cho từng nội dung nhưng phải đảm bảo cung cấp cho học sinh những kiến
thức, kỹ năng và những năng lực cần phát triển như đã yêu cầu ở phần mục tiêu và không được ít hơn hoặc nhiều hơn
thời gian dành để dạy cho một chương hoặc cho nhiều bài (đã gộp lại thành một chủ đề) theo tổng số tiết đã được quy
định trong phân phối chương trình.

Bước 4: Dựa trên các nhiệm vụ học tập được đư ra theo kế hoạch, giáo viên tiến hành thực hiện dự án dạy. Ở

bước này, giáo viên cần bám sát những nhiệm vụ học của học sinh, đề ra các phương pháp phù hợp khai thác hiệu quả
nội dung chủ đề. Tiết dạy học theo chủ đề thường được tiến hành giống như một tiết học bình thường ngay tại lớp học
hoặc ngoài trời, nơi không gian trải nghiệm. Tuy nhiên, dạy học theo chủ đề thướng gắn với các nhiệm vụ học tập và
gắn với giải quyết các vấn đề thực tiễn nên khâu chuẩn bị có thể sẽ phải tiến hành trước tiết dạy nhiều tuần. Các dự
án cần có kế hoạch theo dõi tiến trình thực hiện để có cơ sở kiếm tra, đánh giá các năng lực học sinh ngay trong quá
trình thực hiện nhiệm vụ học tập.
Bước 5:Sau khi dạy học theo chủ để giáo viên có thể tiến hành kiểm tra đánh giá việc học theo chủ đề với
những câu hỏi/ bài tập phù hợp.
Thông thường trong dạy học chủ đề có một số lưu ý về câu hỏi/ bài tập như sau:

Một, phải căn cứ vào bảng mô tả ở trên giáo viên mới tiến hành xây dựng các câu hỏi và bài tập tương
ứng[12] để khai thác và kiểm tra đánh giá học sinh.
Hai, câu hỏi/ bài tập đưa ra nhằm kiểm tra, đánh giá việc tiếp thu kiến thức, kỹ năng trong đó chú ý
đến các năng lực cần phát triển sau khi học sinh học xong chủ đề (tương tự như câu hỏi/bài tập mà giáo viên dùng để
củng cố bài trong các tiết dạy hiện nay).
Ba, đối với câu hỏi/ bài tập liên quan đến phát triển năng lực học sinh yêu cầu câu hỏi/bài tập đưa ra
phải đánh giá được 4 mức độ như trong bảng mô tả (nhận biết, thông hiểu, vận dụng thấp, vận dụng cao) trong đó ưu


tiên những câu hỏi/bài tập gắn liền với thực tiễn đòi hỏi học sinh vận dụng kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm của bản
thân để giải quyết các tình huống thực tiễn đó.

Bốn, sau mỗi chủ đề giáo viên có thể kiểm tra học sinh dưới dạng đề kiểm tra 15 phút. Nếu sau chương
hoặc sau các bài không nằm trong một chương nhưng giáo viên đã gộp lại để dạy dưới dạng một chủ đề mà có bài
kiểm tra 1 tiết theo quy định của phân phối chương trình thì giáo viên xây dựng đề kiểm tra 1 tiết. Trong đề kiểm tra 1
tiết cũng phải đảm bảo các yêu cầu như ở mục 2, 3 của bước 5 này. Đề kiểm tra 15 phút hoặc một tiết giáo viên vẫn
phải xây dựng ma trận đề.
3.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc khai thác hiệu quả tiết dạy học theo chủ đề

Một, phương pháp dạy học

Một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến việc khai thác chủ đề học có chất lượng và đi đúng với những mục tiêu ban
đầu của giáo viên hay không tùy thuộc rất nhiều vào phương pháp khai thác chủ đề học. Không ít trường hợp cho
rằng, với mô hình mới cần phải có phương pháp mới. Tuy nhiên, cần khẳng định lại mô hình dạy học theo chủ đề là
vấn đề liên quan đến nội dung chứ không phải phương pháp. Do vậy, mô hình này vẫn có thề sử dụng các phương
pháp dạy học hiện có. Tất nhiên, do yêu cầu về đổi mới giáo dục tăng cường định hướng phát triển năng lực học sinh
mà một số phương pháp truyền thống có thể ít nhiều không phù hợp (ví dụ phương pháp đàm thoại), nhưng còn đó
rất nhiều các phương pháp như phương pháp dự án, thảo luận nhóm, nêu vấn đề… đặc biệt rất cần cho mô hình dạy
học này. Do đó, việc nắm vững các phương pháp khai thác của giáo viên như thế nào sẽ góp phần quan trọng vào việc
khai thác nội dung chủ đề học tốt hay không như thế ấy.

Hai, cách thức xây dựng câu hỏi/ bài tập và việc giao nhiệm vụ học tập
Như đã biết, theo cách tiếp cận dạy học theo chủ đề mang tính chất tổng quát, hàm chứa các nội dung kiến thức mà
chúng ta cần trang bị cho học sinh. Những kiến thức này có thể liến quan đến một hay nhiều lĩnh vực khác nhau và có
thể tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau. Căn cứ vào mục tiêu dạy học, nội dung kiến thức trong chủ đề cũng như trình
độ học sinh, một hệ thống câu hỏi định hướng sẽ được xây dựng với sự thỏa thuận giữa giáo viên và học sinh. Căn cứ
vào câu hỏi định hướng này, giáo viên tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh nhằm giải quyết vấn đề, trả lời
những câu hỏi đặt ra. Như vậy, việc học tập của học sinh được định hình với những yêu cầu cụ thể và tự nó trở nên có
tính mục đích cao. Thông qua các hoạt động học tập đó, giáo viên tạo cơ hội cho học sinh chủ động xây dưng cho
mình một hệ thống kiến thức mang tính chặt chẽ, sâu sắc, bản chất, thiết thực và hệ thống. Theo cách tiếp cận dạy
học này, việc thiết lập hệ thống câu hỏi định hướng (Framing Question) có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc định
hướng học tập của học sinh[13]. Do đó, nếu giáo viên không nắm được các loại câu hỏi định hướng, cách thức, yêu
cầu khi xây dựng một câu hỏi định hướng coi như dạy học theo chủ đề không khác một tiết dạy truyền thống, khô
cứng và thiếu sinh động.
Thêm vào đó, cũng cần chú ý nội dung câu hỏi/ bài tập đã đáp ứng được mục tiêu chuẩn kiên thức kĩ năng và đặc biệt
là những yêu cầu về năng lực học sinh mà chủ đề đang hướng tới hay chưa.Trường hợp không đáp ứng các yêu cầu
này, chủ đề học trở nên rời rạc, thiếu liên kết và các hoạt động học tập cũng trở nên thiếu động lực.

Ba, năng lực, trình độ học sinh
Chính năng lực trình độ học chứ không phải nội dung chương trình môn học hoặc liên môn quyết định đến việc xây
dựng và soạn giảng chủ đề. Bởi lẽ, dạy học theo chủ đề lấy học sinh là trung tâm. Từ tính tích cực, chủ động thực hiện

các nhiệm vụ học tập, vận dụng kiến thức vào giải quyết các vấn đề thực tiễn mà tri thức và các năng lực được hình
thành. Do vậy, khi trình độ có sự phân hóa cao, dạy học heo chủ đề sẽ khó thực hiện được các mục tiêu về chuẩn kiến
thức, kĩ năng cũng như các năng lực cần phát huy, kiểm tra, đánh giá đối với người học.

Bốn, phương tiện dạy học, đặc biệt là công nghệ thông tin, truyền thông
Công nghệ thông tin, truyền thông là một yếu tố ảnh hưởng không hề nhỏ đến quá trình dạy học theo chủ đề. Bởi lẽ,
trong mỗi chủ đề học tập, với những nhiệm vụ học tập đã được đặt ra trước đó, học sinh phải tìm kiếm, thu thập, xử lý
thông tin từ nhiều ngồn khác nhau; phải trao đổi, xuất bản thông tin để chia sẻ với người khác… do vậy công nghệ
thông tin và truyền thông sẽ được đưa vào sử dụng như một nhu cầu tư nhiên trong quá trình học. Do đó, khâu chuẩn


bị một tiết dạy theo chủ đề, với những dự án học tập, cần thiết phải bổ sung vào danh mục đồ dùng, phương tiện dạy
học những trang thiết bị, cơ sở vật chất cần thiết phục vụ cho việc trình bày sản phẩm mà nhiệm vụ học tập đã đề ra
đối với học sinh./.

KẾT LUẬN

Dạy học theo chủ đề là một trong những mô hình dạy tối ưu hóa góp phần giải quyết các vấn đề còn tồn tại trong nội
dung chương trình học hiện nay như: góp phần phát huy tính tích cực của học sinh trong quá trình học, tăng cường
định hướng phát triển năng lực học sinh thông qua vận dụng kiến thức giải quyết các vấn đề thực tiễn, cùng với đó là
việc giúp học sinh giảm thiểu nhàm chán, áp lực do sự trùng lặp kiến thức khi học và hướng tới kết cấu lại những đon
vị kiến thức có tính liên hệ, tổng thể hơn giúp học sinh nắm bắt bản chất kiến thức sau khi học.
Đây là mô hình đang được tiếp cận bởi tính khả dụng của nó khi đối chiếu với lộ trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục ở nước ta sau năm 2015.
Ở một phương diện khác, nhằm trang bị kiến thức, kĩ năng, phương pháp dạy học khi có sự đổi mới về mô hình dạy
học và chương trình dạy học, nhiều môn học đã bước đầu chủ động tiếp cận, tìm hiểu, thực hành. Tuy còn liên quan
đến nhiều yếu tố đòi hỏi phải có quá trình chuẩn bị như chương trình sách giáo khoa, tổ chức dạy học, phương pháp
dạy học, đánh giá, kiểm tra, thi cử… song những sáng kiến, kinh nghiệm và các kết quả thu được bước đầu… đã góp
phần giải quyết một số những khúc mắc về vấn đề lý luận, đồng thời làm tư liệu tham khảo có ích cho các bộ môn
khác.

Với môn GDCD, yêu cầu đặt ra hiện nay là việc tiếp cận theo mô hình mới này cần nhiều những định hướng thiết thực
làm tiền đề cho các hoạt động bộ môn sau này đi vào thực chất, tiến tới triển khai có hiệu quả.
Trên cơ sở tham khảo các nguồn tài liệu, với kiến thức hạn hẹp, chuyền đề “ Dạy học theo chủ đề với việc ứng dụng
trong giảng dạy bộ môn GDCD THPT” không kì vọng quá nhiều vào tính ứng dụng phổ biến cho toàn bộ môn ở thời
điểm hiện tại, chỉ mong góp một phần nhỏ để quý đồng nghiệp trao đổi thông tin, sinh hoạt chuyên môn nhằm chuẩn
bị tâm thế cho lộ trình đổi mới giáo dục sau năm 2015 khi thực hiện việc áp dụng mô hình dạy học này đến các môn
học, trong đó có GDCD. Với thời gian và giới hạn về đề tài, chúng tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ quý
đồng nghiệp.


5 BƯỚC XÂY DỰNG CHỦ ĐỀ DẠY HỌC
Công văn Số: 5555/BGDĐT-GDTrH ngày 8 tháng 10 năm 2014 của Bộ Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn sinh
hoạt chuyên môn về đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá; tổ chức và quản lí các hoạt động
chuyên môn của trường trung học/trung tâm giáo dục thường xuyên qua mạng
5 BƯỚC XÂY DỰNG CHỦ ĐỀ DẠY HỌC
(Theo Công văn Số: 5555/BGDĐT-GDTrH của Bộ GD và ĐT ngày 08-10-2014)
1. Xây dựng chuyên đề dạy học
Thay cho việc dạy học đang được thực hiện theo từng bài/tiết trong sách giáo khoa như hiện nay,
các tổ/nhóm chuyên môn căn cứ vào chương trình và sách giáo khoa hiện hành, lựa chọn nội dung để xây
dựng các chuyên đề dạy học phù hợp với việc sử dụng phương pháp dạy học tích cực trong điều kiện thực
tế của nhà trường. Trên cơ sở rà soát chuẩn kiến thức, kĩ năng, thái độ theo chương trình hiện hành và các
hoạt động học dự kiến sẽ tổ chức cho học sinh theo phương pháp dạy học tích cực, xác định các năng lực
và phẩm chất có thể hình thành cho học sinh trong mỗi chuyên đề đã xây dựng.
2. Biên soạn câu hỏi/bài tập
Với mỗi chuyên đề đã xây dựng, xác định và mô tả 4 mức độ yêu cầu (nhận biết, thông hiểu, vận
dụng, vận dụng cao) của mỗi loại câu hỏi/bài tập có thể sử dụng để kiểm tra, đánh giá năng lực và phẩm
chất của học sinh trong dạy học. Trên cơ sở đó, biên soạn các câu hỏi/bài tập cụ thể theo các mức độ yêu
cầu đã mô tả để sử dụng trong quá trình tổ chức các hoạt động dạy học và kiểm tra, đánh giá, luyện tập
theo chuyên đề đã xây dựng.
3. Thiết kế tiến trình dạy học

Tiến trình dạy học chuyên đề được tổ chức thành các hoạt động học của học sinh để có thể thực
hiện ở trên lớp và ở nhà, mỗi tiết học trên lớp có thể chỉ thực hiện một số hoạt động trong tiến trình sư
phạm của phương pháp và kĩ thuật dạy học được sử dụng.
4. Tổ chức dạy học và dự giờ
Trên cơ sở các chuyên đề dạy học đã được xây dựng, tổ/nhóm chuyên môn phân công giáo viên
thực hiện bài học để dự giờ, phân tích và rút kinh nghiệm về giờ dạy. Khi dự giờ, cần tập trung quan
sát hoạt động học của học sinh thông qua việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ học tập với yêu cầu như
sau:
- Chuyển giao nhiệm vụ học tập: nhiệm vụ học tập rõ ràng và phù hợp với khả năng của học sinh,
thể hiện ở yêu cầu về sản phẩm mà học sinh phải hoàn thành khi thực hiện nhiệm vụ; hình thức giao nhiệm


vụ sinh động, hấp dẫn, kích thích được hứng thú nhận thức của học sinh; đảm bảo cho tất cả học sinh tiếp
nhận và sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ.
- Thực hiện nhiệm vụ học tập: khuyến khích học sinh hợp tác với nhau khi thực hiện nhiệm vụ học
tập; phát hiện kịp thời những khó khăn của học sinh và có biện pháp hỗ trợ phù hợp, hiệu quả; không có
học sinh bị "bỏ quên".
- Báo cáo kết quả và thảo luận: hình thức báo cáo phù hợp với nội dung học tập và kĩ thuật dạy học
tích cực được sử dụng; khuyến khích cho học sinh trao đổi, thảo luận với nhau về nội dung học tập; xử lí
những tình huống sư phạm nảy sinh một cách hợp lí.
- Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập: nhận xét về quá trình thực hiện nhiệm vụ học tập
của học sinh; phân tích, nhận xét, đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ và những ý kiến thảo luận của học
sinh; chính xác hóa các kiến thức mà học sinh đã học được thông qua hoạt động.
Mỗi chuyên đề được thực hiện ở nhiều tiết học nên một nhiệm vụ học tập có thể được thực hiện ở
trong và ngoài lớp học. Vì thế, trong một tiết học có thể chỉ thực hiện một số bước trong tiến trình sư phạm
của phương pháp và kĩ thuật dạy học được sử dụng. Khi dự một giờ dạy, giáo viên cần phải đặt nó trong
toàn bộ tiến trình dạy học của chuyên đề đã thiết kế. Cần tổ chức ghi hình các giờ dạy để sử dụng khi phân
tích bài học.
5. Phân tích, rút kinh nghiệm bài học
Quá trình dạy học mỗi chuyên đề được thiết kế thành các hoạt động học của học sinh dưới dạng

các nhiệm vụ học tập kế tiếp nhau, có thể được thực hiện trên lớp hoặc ở nhà. Học sinh tích cực, chủ động
và sáng tạo trong việc thực hiện các nhiệm vụ học tập dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Phân tích giờ dạy
theo quan điểm đó là phân tích hiệu quả hoạt động học của học sinh, đồng thời đánh giá việc tổ chức, kiểm
tra, định hướng hoạt động học cho học sinh của giáo viên.
Việc phân tích bài học có thể được căn cứ vào các tiêu chí cụ thể như sau:
Nội dung

Tiêu chí
Mức độ phù hợp của chuỗi hoạt động học với mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học được sử
dụng.

Mức độ rõ ràng của mục tiêu, nội dung, kĩ thuật tổ chức và sản phẩm cần đạt được của mỗi nhiệm vụ
1. Kế học tập.
hoạch và
tài liệu dạy
Mức độ phù hợp của thiết bị dạy học và học liệu được sử dụng để tổ chức các hoạt động học của học
học
sinh.
Mức độ hợp lí của phương án kiểm tra, đánh giá trong quá trình tổ chức hoạt động học của học sinh.
Mức độ sinh động, hấp dẫn học sinh của phương pháp và hình thức chuyển giao nhiệm vụ học tập.
2. Tổ chức Khả năng theo dõi, quan sát, phát hiện kịp thời những khó khăn của học sinh.
hoạt động
Mức độ phù hợp, hiệu quả của các biện pháp hỗ trợ và khuyến khích học sinh hợp tác, giúp đỡ nhau
học cho
khi thực hiện nhiệm vụ học tập.
học sinh
Mức độ hiệu quả hoạt động của giáo viên trong việc tổng hợp, phân tích, đánh giá kết quả hoạt động
và quá trình thảo luận của học sinh.
Khả năng tiếp nhận và sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ học tập của tất cả học sinh trong lớp.



Mức độ tích cực, chủ động, sáng tạo, hợp tác của học sinh trong việc thực hiện các nhiệm vụ học tập.
Mức độ tham gia tích cực của học sinh trong trình bày, trao đổi, thảo luận về kết quả thực hiện nhiệm
vụ học tập.
Mức độ đúng đắn, chính xác, phù hợp của các kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập của học sinh.

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Số: 5555/BGDĐT-GDTrH

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

V/v hướng dẫn sinh hoạt chuyên môn về
đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra,
đánh giá; tổ chức và quản lí các hoạt động
chuyên môn của trường trung học/trung
tâm giáo dục thường xuyên qua mạng

Hà Nội, ngày 08 tháng 10 năm 2014

Kính gửi: - Các sở giáo dục và đào tạo
- Các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng giáo viên
Nhằm hỗ trợ các trường phổ thông, các trung tâm giáo dục thường xuyên triển khai
có hiệu quả việc đổi mới đồng bộ phương pháp dạy học (PPDH) và kiểm tra, đánh giá
(KTĐG) chất lượng giáo dục, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên về phát
triển kế hoạch giáo dục nhà trường theo định hướng phát triển năng lực học sinh, Bộ Giáo
dục và Đào tạo (GDĐT) hướng dẫn một số nội dung sinh hoạt chuyên môn về đổi mới
PPDH, KTĐG và tổ chức, quản lí các hoạt động chuyên môn trong trường trung học/trung

tâm giáo dục thường xuyên (GDTX) qua mạng như sau:
I. Mục đích
1. Nâng cao chất lượng sinh hoạt chuyên môn trong trường trung học và trung tâm
GDTX, tập trung vào thực hiện đổi mới PPDH và KTĐG theo định hướng phát triển năng
lực học sinh;
2. Giúp cho cán bộ quản lý, giáo viên bước đầu biết chủ động lựa chọn nội dung để
xây dựng các chuyên đề dạy học trong mỗi môn học và các chuyên đề tích hợp, liên môn
phù hợp với việc tổ chức hoạt động học tích cực, tự lực, sáng tạo của học sinh; sử dụng các
phương pháp và kỹ thuật dạy học tích cực để xây dựng tiến trình dạy học theo chuyên đề
nhằm phát triển năng lực và phẩm chất của học sinh; làm quen với hình thức tập huấn, bồi
dưỡng, học tập và sinh hoạt chuyên môn qua mạng.
3. Thống nhất phương thức tổ chức và quản lí các hoạt động chuyên môn của trường
trung học/trung tâm GDTX qua mạng, tạo tiền đề tích cực cho việc triển khai thực hiện đổi
mới chương trình và sách giáo khoa giáo dục phổ thông sau năm 2015.


II. Yêu cầu
1. Việc xây dựng các chuyên đề dạy học trong mỗi môn học, các chuyên đề tích
hợp, liên môn và kế hoạch dạy học bộ môn phải nhằm góp phần thực hiện mục tiêu của
chương trình giáo dục phổ thông, phù hợp với điều kiện thực tế của nhà trường, địa phương
và khả năng học tập của học sinh; kế hoạch dạy học của tổ/nhóm chuyên môn, giáo viên
phải được lãnh đạo nhà trường phê duyệt trước khi thực hiện và là căn cứ để thanh tra,
kiểm tra;
2. Việc sinh hoạt tổ/nhóm chuyên môn trong trường trung học và trung tâm GDTX, tổ
chức và quản lí các hoạt động chuyên môn trên mạng phải được thực hiện nghiêm túc, mang
lại hiệu quả thiết thực. Mỗi giáo viên có 01 tài khoản để tham gia các khóa tập huấn, bồi
dưỡng và sinh hoạt chuyên môn qua mạng. Mỗi tổ/nhóm chuyên môn trong trường trung học
và trung tâm GDTX phải xây dựng được tối thiểu 02 chuyên đề dạy học/học kì; tổ chức dạy
thử nghiệm để dự giờ, phân tích, rút kinh nghiệm và nộp kết quả qua diễn đàn trên mạng.
3. Các nội dung sinh hoạt tổ/nhóm chuyên môn khác phải được tổ chức thực hiện đầy

đủ theo quy định hiện hành.
III. Nội dung sinh hoạt tổ/nhóm chuyên môn về đổi mới PPDH và KTĐG
1. Xây dựng chuyên đề dạy học
Thay cho việc dạy học đang được thực hiện theo từng bài/tiết trong sách giáo khoa
như hiện nay, các tổ/nhóm chuyên môn căn cứ vào chương trình và sách giáo khoa hiện
hành, lựa chọn nội dung để xây dựng các chuyên đề dạy học phù hợp với việc sử dụng
phương pháp dạy học tích cực trong điều kiện thực tế của nhà trường. Trên cơ sở rà soát
chuẩn kiến thức, kĩ năng, thái độ theo chương trình hiện hành và các hoạt động học dự kiến
sẽ tổ chức cho học sinh theo phương pháp dạy học tích cực, xác định các năng lực và phẩm
chất có thể hình thành cho học sinh trong mỗi chuyên đề đã xây dựng.
2. Biên soạn câu hỏi/bài tập
Với mỗi chuyên đề đã xây dựng, xác định và mô tả 4 mức độ yêu cầu (nhận biết,
thông hiểu, vận dụng, vận dụng cao) của mỗi loại câu hỏi/bài tập có thể sử dụng để kiểm
tra, đánh giá năng lực và phẩm chất của học sinh trong dạy học. Trên cơ sở đó, biên soạn
các câu hỏi/bài tập cụ thể theo các mức độ yêu cầu đã mô tả để sử dụng trong quá trình tổ
chức các hoạt động dạy học và kiểm tra, đánh giá, luyện tập theo chuyên đề đã xây dựng.
3. Thiết kế tiến trình dạy học
Tiến trình dạy học chuyên đề được tổ chức thành các hoạt động học của học sinh để
có thể thực hiện ở trên lớp và ở nhà, mỗi tiết học trên lớp có thể chỉ thực hiện một số hoạt
động trong tiến trình sư phạm của phương pháp và kĩ thuật dạy học được sử dụng.
4. Tổ chức dạy học và dự giờ
Trên cơ sở các chuyên đề dạy học đã được xây dựng, tổ/nhóm chuyên môn phân
công giáo viên thực hiện bài học để dự giờ, phân tích và rút kinh nghiệm về giờ dạy. Khi


dự giờ, cần tập trung quan sát hoạt động học của học sinh thông qua việc tổ chức thực hiện
các nhiệm vụ học tập với yêu cầu như sau:
- Chuyển giao nhiệm vụ học tập: nhiệm vụ học tập rõ ràng và phù hợp với khả năng
của học sinh, thể hiện ở yêu cầu về sản phẩm mà học sinh phải hoàn thành khi thực hiện
nhiệm vụ; hình thức giao nhiệm vụ sinh động, hấp dẫn, kích thích được hứng thú nhận thức

của học sinh; đảm bảo cho tất cả học sinh tiếp nhận và sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ.
- Thực hiện nhiệm vụ học tập: khuyến khích học sinh hợp tác với nhau khi thực hiện
nhiệm vụ học tập; phát hiện kịp thời những khó khăn của học sinh và có biện pháp hỗ trợ
phù hợp, hiệu quả; không có học sinh bị "bỏ quên".
- Báo cáo kết quả và thảo luận: hình thức báo cáo phù hợp với nội dung học tập và
kĩ thuật dạy học tích cực được sử dụng; khuyến khích cho học sinh trao đổi, thảo luận với
nhau về nội dung học tập; xử lí những tình huống sư phạm nảy sinh một cách hợp lí.
- Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập: nhận xét về quá trình thực hiện
nhiệm vụ học tập của học sinh; phân tích, nhận xét, đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ và
những ý kiến thảo luận của học sinh; chính xác hóa các kiến thức mà học sinh đã học được
thông qua hoạt động.
Mỗi chuyên đề được thực hiện ở nhiều tiết học nên một nhiệm vụ học tập có thể
được thực hiện ở trong và ngoài lớp học. Vì thế, trong một tiết học có thể chỉ thực hiện một
số bước trong tiến trình sư phạm của phương pháp và kĩ thuật dạy học được sử dụng. Khi
dự một giờ dạy, giáo viên cần phải đặt nó trong toàn bộ tiến trình dạy học của chuyên đề đã
thiết kế. Cần tổ chức ghi hình các giờ dạy để sử dụng khi phân tích bài học.
5. Phân tích, rút kinh nghiệm bài học

1. Kếdạy
hoạch
học và tài liệu

Quá trình dạy học mỗi chuyên đề được thiết kế thành các hoạt động học của học
sinh dưới dạng các nhiệm vụ học tập kế tiếp nhau, có thể được thực hiện trên lớp hoặc ở
nhà. Học sinh tích cực, chủ động và sáng tạo trong việc thực hiện các nhiệm vụ học tập
dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Phân tích giờ dạy theo quan điểm đó là phân tích hiệu
quả hoạt động học của học sinh, đồng thời đánh giá việc tổ chức, kiểm tra, định hướng hoạt
động học cho học sinh của giáo viên.
Việc phân tích bài học có thể được căn cứ vào các tiêu chí cụ thể như sau:


Nội
dung

Tiêu chí
Mức độ phù hợp của chuỗi hoạt động học với mục tiêu, nội dung và phương
pháp dạy học được sử dụng.
Mức độ rõ ràng của mục tiêu, nội dung, kĩ thuật tổ chức và sản phẩm cần đạt
được của mỗi nhiệm vụ học tập.
Mức độ phù hợp của thiết bị dạy học và học liệu được sử dụng để tổ chức các
hoạt động học của học sinh.


2. Tổ chức hoạt
sinh
động học cho học
3. Hoạt
sinh
động của học

Mức độ hợp lí của phương án kiểm tra, đánh giá trong quá trình tổ chức hoạt
động học của học sinh.
Mức độ sinh động, hấp dẫn học sinh của phương pháp và hình thức chuyển giao
nhiệm vụ học tập.
Khả năng theo dõi, quan sát, phát hiện kịp thời những khó khăn của học sinh.
Mức độ phù hợp, hiệu quả của các biện pháp hỗ trợ và khuyến khích học sinh
hợp tác, giúp đỡ nhau khi thực hiện nhiệm vụ học tập.
Mức độ hiệu quả hoạt động của giáo viên trong việc tổng hợp, phân tích, đánh giá kết quả
hoạt động và quá trình thảo luận của học sinh.
Khả năng tiếp nhận và sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ học tập của tất cả học sinh
trong lớp.

Mức độ tích cực, chủ động, sáng tạo, hợp tác của học sinh trong việc thực hiện các nhiệm
vụ học tập.
Mức độ tham gia tích cực của học sinh trong trình bày, trao đổi, thảo luận về kết quả thực
hiện nhiệm vụ học tập.
Mức độ đúng đắn, chính xác, phù hợp của các kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập của học
sinh.

IV. Tổ chức và quản lí các hoạt động chuyên môn qua mạng
Để tổ chức và quản lí các hoạt động chuyên môn trong các trường; tạo môi trường
chia sẻ, thảo luận, hỗ trợ lẫn nhau giữa các trường phổ thông, trung tâm GDTX trên phạm
vi toàn quốc; tổ chức các hoạt động học tập và hỗ trợ hoạt động trải nghiệm sáng tạo của
học sinh trên mạng, Bộ GDĐT tổ chức "Trường học kết nối" trên mạng tại địa chỉ website:
. Mỗi Sở GDĐT được cấp 01 tài khoản cấp sở để tham gia tổ
chức và quản lí các hoạt động chuyên môn của các cơ sở giáo dục trên địa bàn. Sở GDĐT
cấp tài khoản cho các trường trung học/trung tâm GDTX để qua đó cấp tài khoản cho cán
bộ quản lí, giáo viên và học sinh tham gia các hoạt động chuyên môn qua mạng.
Giáo viên là người trực tiếp tham gia thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn trong các
khóa học/bài học/chuyên đề. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao, giáo viên có
thể tham khảo các tài liệu điện tử trên mạng hoặc/và các tài liệu truyền thống; trao đổi tài
liệu và thảo luận với các thành viên trong tổ/nhóm chuyên môn (trực tiếp và qua mạng);
trao đổi với giảng viên/ban tổ chức về những vấn đề có liên quan.
Giáo viên có thể được giao quyền cấp tài khoản cho học sinh; xây dựng các khóa
học/bài học trên mạng; tổ chức, quản lí và hỗ trợ học sinh thực hiện các hoạt động học tập
qua mạng theo hình thức “hoạt động trải nghiệm sáng tạo”.
V. Trách nhiệm của các cấp quản lý giáo dục


1. Các sở GDĐT có trách nhiệm cấp tài khoản và tổ chức tập huấn sử dụng hệ thống
cho Phòng GDĐT, nhà trường/trung tâm và tất cả giáo viên như sau:
- Giám đốc Sở GDĐT nhận tài khoản cấp sở và chịu trách nhiệm chỉ đạo, tổ chức,

quản lí các hoạt động chuyên môn trên hệ thống “Trường học kết nối” trong phạm vi quyền
hạn của tài khoản được cấp; cử tối thiểu 01 cán bộ tham gia quản trị hệ thống;
- Cán bộ quản trị hệ thống của Sở GDĐT phải thành thạo quy trình tổ chức và quản
lí hệ thống; cấp tài khoản và tập huấn cho các trường trung học/trung tâm GDTX trong
phạm vi của sở về quy trình tổ chức và quản lí hệ thống, bao gồm việc cấp tài khoản và
hướng dẫn giáo viên, học sinh tham gia các hoạt động chuyên môn qua mạng.
- Hiệu trưởng/Giám đốc nhận tài khoản cấp trường/trung tâm từ Sở GDĐT; chịu
trách nhiệm chỉ đạo, tổ chức và quản lí các hoạt động chuyên môn trên hệ thống “Trường
học kết nối” trong phạm vi quyền hạn của tài khoản được cấp; cử tối thiểu 01 giáo viên
tham gia quản trị hệ thống;
- Cán bộ quản trị hệ thống của trường/trung tâm phải thành thạo quy trình tổ chức
và quản lí hệ thống; cấp tài khoản và tập huấn cho giáo viên, học sinh tham gia các hoạt
động chuyên môn trên hệ thống.
2. Tổ trưởng/nhóm trưởng lãnh đạo tổ/nhóm chuyên môn tham gia các khóa học/bài
học/chuyên đề qua mạng. Hoạt động của tổ trưởng/nhóm trưởng như sau:
- Đăng kí tham gia các khóa học/bài học/chuyên đề và yêu cầu các thành viên của
tổ/nhóm chuyên môn tham gia tạo thành 01 nhóm sinh hoạt chuyên môn trên hệ thống.
- Tổ chức thảo luận trong tổ/nhóm chuyên môn (trực tiếp và qua mạng) để thực hiện
các nhiệm vụ được giao trong khóa học/bài học/chuyên đề; thống nhất các ý kiến và hoàn
thiện báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ của tổ/nhóm.
- Nộp báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ của tổ/nhóm lên mạng theo quy định.
3. Các Sở GDĐT, Phòng GDĐT và nhà trường/trung tâm thường xuyên chỉ đạo tổ
chức sinh hoạt tổ/nhóm chuyên môn thông qua dự giờ, rút kinh nghiệm để hoàn thiện các
chuyên đề, tiến trình dạy học và phương pháp tổ chức hoạt động dạy học; có biện pháp
khuyến khích, tạo điều kiện cho giáo viên tham gia các hoạt động chuyên môn trên mạng;
có hình thức động viên, khen thưởng các tổ/nhóm chuyên môn, giáo viên tích cực đổi mới
phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá.
4. Các cơ sở đào tạo giáo viên chủ động đưa nội dung đổi mới PPDH và KTĐG theo
định hướng phát triển năng lực học sinh vào chương trình đào tạo, bồi dưỡng giáo viên; tạo
điều kiện thuận lợi để giảng viên tham gia các hoạt động chuyên môn qua mạng.

Nhận được công văn này, các sở GDĐT gửi danh sách cán bộ phụ trách mạng (họ
và tên; chức vụ; đơn vị công tác; địa chỉ liên hệ; điện thoại; email) về Bộ GDĐT (qua
email: ; ) để được nhận tài khoản và hướng
dẫn sử dụng hệ thống. Việc cấp tài khoản và hướng dẫn sử dụng cho các Phòng GDĐT,
nhà trường/trung tâm, giáo viên phải hoàn thành trước ngày 30/11/2014. Trong quá thực


hiện, nếu có khó khăn, vướng mắc cần phản ánh kịp thời về Bộ GDĐT (qua Vụ Giáo dục
Trung học, Vụ GDTX) để được hướng dẫn, giải quyết./.
Nơi nhận:
- Như kính gửi (để thực hiện);
- Bộ trưởng (để báo cáo);
- Các Thứ trưởng (để biết);
- Thanh tra Bộ (để thực hiện);
- Vụ GDTX (để thực hiện);
- Lưu: VT, GDTrH, GDTX.

KT. BỘ TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG
(Đã kí)
Nguyễn Vinh Hiển



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×