Tải bản đầy đủ (.pdf) (208 trang)

NGUYÊN NHÂN BỊ MỔ MẮT, MỔ TIM, LỌC THẬN DO BỆNH TIỂU ĐƯỜNG CÁCH ĐỀ PHÒNG VÀ CÁCH CHỮA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 208 trang )

NGUYÊN NHÂN BỊ MỔ MẮT, MỔ TIM, LỌC THẬN DO BỆNH
TIỂU ĐƯỜNG
CÁCH ĐỀ PHÒNG VÀ CÁCH CHỮA
Cảnh báo cho những người bệnh tiểu đường do kiêng đường và tiêm
insulin lâu dài khiến đường xuống qúa thấp gây ra biến chứng mù
mắt, suy tim phải mổ tim, suy thận phải lọc thận.
Chúng ta cần phải suy xét lại biến chứng của bệnh tiểu đường bị mổ
mắt, mổ tim, lọc thay thận có trước khi uống thuốc trị tiểu đường hay
sau khi uống thuốc trị tiểu đường ? sau khi nghiên cứu kỹ 4 giai đoạn
này để biết rõ đâu là sự thật :
Giại đoạn 1 :
Chưa bị kết án có bệnh tiểu đường, đường huyết cao từ 8-12mmol/l,
người vẫn khỏe, vẫn năng động, thừa năng lượng làm việc, không bệnh
tật, và hiện nay những người này không đi khám, không chữa bệnh
tiểu đường bốn chục năm như tôi chưa hề bị bệnh và những ai có
lượng đường 8-12mol/l chưa thấy ai bị biến chứng tiểu đường làm mù
mắt, suy tim, lọc thay thận, vì sau khi hoạt động nặng, thể dục thể
thao, vận động cơ thể, sẽ mất năng lượng, đường huyết tụt thấp khi cơ
thể xuất mồ hôi thì đường huyết xuống còn 6mmol/l, cơ thể mệt, thèm
đường lại thích uống đường, ăn ngọt phục hồi năng lượng lên
8-12mmol/l, để có sức khỏe vận động hàng ngày, luôn giữ đường ở
mức thấp nhất là 6 cao nhất là 12mmol/l , tập thể dục thể thao đều đặn
thì không bao giờ bị bệnh tật.
Đường cao từ 8-12mmol/l chỉ nguy hiểm đối với những người già nằm
nhà già, hay lười vận động, cứ ăn rồi nằm đường huyết bữa ăn sáng
chưa tiêu lại thêm đường có trong thức ăn chiều, làm lượng đường
trong máu tích lũy càng cao dần đến trên 20-30mmol/l mới có những
biến chứng hoại tử da, phải cưa chân, mờ mắt, cũng làm suy tim, thận.
Giai đoạn 2 :

1




Bị tây y tuyên án bị bệnh tiểu đường cao so với tiêu chuẩn tây y
đường phải dưới 6mmol/l mới tốt, trên 6,5 mmol/l là phải uống thuốc
hạ đường. Những bệnh nhân này bị hoảng sợ và cho rằng mình may
mắn, hạnh phúc được phát hiện ra mình bị tiểu đường sớm.
Giai đoạn 3 :
Từ khi uống thuốc hạ đường xuống dưới 6.0mmol/l, tinh thần vẫn vui
vẻ, càng thấy hạnh phúc hơn khi đường huyết trong khoảng 5-6mmol/l,
cho đến khi đường huyết xuống dưới 5mmol/l tự cảm thấy chóng mặt,
tim hồi hộp, không dám đi xa, mất sức thiếu năng lượng hoạt động, mắt
mờ, ù tai, suy tim, sưng phù, không biết là mình đang trở thành người
có bệnh đường thấp (hypoglycemie) do hậu qủa của thuốc chữa bệnh
tiểu đường đang làm hại tim mạch, mắt mờ, mệt mỏi, chứ không còn là
do bệnh đường huyết cao.(hyperglycemie)
Biến chứng này có sau khi dùng thuốc chữa tiểu đường mà trước kia
ở giai đoạn 1 chưa bị phát hiện bệnh tiểu đường thì cơ thể vẫn khỏe
mạnh hoạt động hăng hái, đi xa không bị mệt như bây giờ, không bị mờ
mắt hại tim, suy thận như bây giờ, làm nhiều người chưa bị bệnh tiểu
đường hiểu lầm là ông A bà B bị bệnh tiểu đường bây giờ bị mổ tim,
mổ mắt, hư thận... Thật ra không do đưởng cao mà do nguyên nhân
đường huyết thấp, khiến những người khác sợ bị bệnh tiểu đường nên
cũng kiêng đường lại dẫn đến bệnh khác là thiếu máu thiếu đường tế
bào không được nuôi dưỡng đầy đủ trở thành tế bào ung thư chứ
không cần phải dùng thuốc chữa bệnh tiểu đường mà bị biến chứng
của thuốc tiểu đường phải mổ tim, lọc thận.
Giai đoạn 4 :
Tiêm thuốc insulin hết hiệu lực mặc dù kiêng đường, mà đường huyết
càng ngày càng cao do thoái hóa dạng tinh bột làm tăng đường, làm
dầy vách thành tim, dầy vỏ thận, bít màng lưới lọc thận trở thành thận

chết gây phù nề, phải lọc thận hay thay thận.
Các vị đang dùng thuốc chữa bệnh tiểu đường cần suy nghĩ lại cách
2


dùng thuốc chữa tiểu đường để đề phòng biến chứng kể trên :
Khi đo đường cao thì uồng, khi đường thấp 6.0mmo/l =100mg/dL thì
ngày hôm đó ngưng uống, mục đích chữa tiểu đường chỉ là điều chỉnh
lượng đường huyết không cao quá 10mmol/l, không thấp quá
6.0mmol/l thì không bao giờ sợ biến chứng suy tim, lọc thận.
PHẦN 1 : NHỮNG NGUYÊN NHÂN LÀM SUY THẬN
1-THIỀU MÁU
Dấu hiệu suy thận theo tây y là cơ thể suy nhược mệt mỏi nhanh chóng do
thiếu máu.
Khi thận khỏe mạnh tạo ra hormon tên erythropoietin giúp cơ thể tạo ra
nhiều tế bào hồng cầu mang oxy nuôi cơ và nuôi não. Thận suy sẽ sản xuất ít
hormon này thì cơ thể thiếu tế bào hồng cầu mang oxy khiến cơ thể thiếu
máu. Theo đông y là chứng hỏa thủy bất giao tâm thận hư.
Dấu hiệu thiếu lượng máu tuần hoàn là số tâm trương đo áp huyết bên tay
phải thấp dưới 60mmHg, thí dụ 110/60mmHg nhịp tim cao hơn 100 có cảm
giác trong người khô nóng mà ngoài tay chân da lạnh, nên đông y gọi là
chứng âm hư (=thiếu lượng máu) nội nhiệt.
Có trường hợp lượng máu không thiếu mà thiếu máu tuần hoàn về tim, thí dụ
lượng máu trong cơ thể 4 lít, do thói quen uống thêm 2 lít nước mỗi ngày,
ngoài số nước trong cơm, canh, thức ăn rau trái, cà phê, trà,... làm loãng máu
tăng lượng máu trong cơ thể, thận thải lọc có giới hạn làm ứ nước sưng phù
chân, hở van tĩnh mạch chân, nặng bàng quang chèn ép động mạch háng gây
tắc tuần hoàn máu về tim gây nên hậu qủa áp huyết đo ở 2 bên cổ chân trong
có tâm trương cao hơn 100, tắc khí nơi động mạch háng nên tâm thu cao trên
200mmHg, nhịp mạch chân lại thấp, thí dụ áp huyết đo ở cổ chân trái là

210/110mmHg nhịp mạch chân 85, ở cồ chân phải 195/120mmHg nhịp
mạch chân 83.
Áp huyết đo ở cổ chân có nghĩa là đo chức năng thận trái, thận phải, tâm thu
chân trái cao (210) là khí lực ép vào động mạch háng bên trái cao hơn bên
phải (195) làm đau tê mất cảm giác ở háng đùi, số tâm trương chân trái 110
là tĩnh mạch chân trái bị phình to làm hở van tĩnh mạch chân trái ít hơn van
tĩnh mạch chân phải phình to hơn 120, vừa làm chân tê sưng đau nhức,
nhưng điều đó không nghiêm trọng bằng lượng máu ứ đọng ở chân khoảng 1
3


lít không được các van tĩnh mạch bơm đẩy lượng máu này vể tim, do đó tim
phải đập mạnh, co bóp vào mạnh để bơm máu đỏ đi, và mở qủa tim lớn ra để
hút máu đen về tim, khiến bị mệt, lâu dần van tim sẽ bị hở, đập nhẩy mất
nhịp, không do nguyên nhân cholesterol, triglycerid mà do nguyên nhân
thiếu máu cục bộ mà tim không thu hồi về được, biến chứng sau này sẽ suy
tim và suy thận, ngược lại đo áp huyết ở tay trái 133/94mmHg nhịp mạch
80, ở tay phải 140/100mmHg nhịp mạch 79 là chức năng co bóp tim tâm thu
bình thường, chỉ hiện ra tâm trương tay trái cao 94, tay phải 100mmHg cũng
là dấu hiệu hở van tim.
2-SUY TIM
Chứng Tâm hư : (172)
Tâm động nên hồi hộp, đoản hơi, đau dưới tim, có khi lên cơn kịch phát, mất
ngủ, mất sức, đổ mồ hôi, suy nhược thần kinh, bất an, sợ sệt, nói sàm, ý
mông lung không chú tâm, hay quên, mắt thiếu máu, gai sốt, chân tay gía
lạnh, lưỡi nhạt rêu ít. Tùy theo tâm khí hư hoặc tâm huyết hư sẽ có dấu hiệu
riêng của mỗi loại để phân biệt.
Nhiễm acid do ăn dư thừa chất chua, làm tăng biên độ hô hấp thở
nhanh dài và sâu gây hậu qủa nguy hại cho sự sống tất cả các mô
quan trọng như tim, thận, não, gây ra suy sụp toàn diện, tình trạng cơ

thể giảm sút, suy hô hấp, co giật liên tục, cần phải hồi sức tim mạch.
Bệnh suy tim có liên quan đến khí lực, huyết lực. và đường trong
máu.
Thiếu máu làm suy tim khi đo áp huyết tâm trương thấp dưới
60mmHg, có dấu hiệu hẹp van tim do thiếu máu mà không do
cholesterol làm hẹp van tim
Suy thận làm suy tim có dấu hiệu hở van tim và thiếu máu mà tâm
trương cao trên 95
không do nguyên nhân cholesterol.
Suy tim nhịp tim đập chậm dưới 65, mà tay chân da lạnh, không thiếu
máu, nhưng hay mệt, là do thiếu đường, còn nhịp tim đập chậm 55-60,
đầu ngón tay bàn tay, da thịt ấm, đường huyết đủ là người khỏe do có
4


tập thể dục thể thao đều đặn như các lực sĩ
3-SUY THẬN :
Ngừa bệnh suy thận do tiểu đường phải thường theo dõi đường-huyết, áp
huyết, lipid huyết, ăn giảm chất protein, cữ thuốc lá, bia, rượu.
a-Suy giảm chức năng tuyến thượng thận :
Tuyến thượng thận nằm trên 2 qủa thận, tiết ra những kích thích tố
adrenalin, cortison, dihydroepiandrosterone (DHEA), aldosterone,
ACTH (adrenocoticotropic)
Adrenalin làm giảm căng thẳng tức thời làm tăng nhịp tim và tăng huyết áp,
còn cortison làm tăng lượng đường, giảm căng thẳng lâu dài, có tác dụng
chuyển hóa các acid amin không có đường biến thành đường glucose từ
protein đóng vai trò điều khiển hệ miễn nhiễm của cơ thể.
Suy thận tăng calci-huyết, phosphor-huyết giảm, calci-niệu tăng và
phosphat-niệu tăng.
Viêm thận kẽ kèm nhiễm calci-thận trong bệnh sạn calci, hội chứng

calci-huyết uống qúa nhiều sữa hoặc thuốc kiềm trị bao tử, thừa vit.D,
tăng calci-huyết cận ung thư gây ra ung thư phổi và ung thư thận.
Đường giúp hệ miễn nhiễm tăng cường sức đề kháng cho cơ thể, giảm căng
thẳng. lNếu chúng ta kiêng không ăn đường, cortison cũng phải chuyển hóa
các protein thành đường để duy trì sức đề kháng chống bệnh cho cơ thể, do
đó cơ thể thiếu đường tuyến thượng thận phải tiết ra nhiều cortison lâu dài
khiến chức năng tuyến thượng thận suy giảm dẫn đến suy thận.
Kích thích tố DHEA giúp tăng cường sửa chữa các mô tế bào bệnh, và nó có
thể chuyển hóa thành kích thích tố nam hay nữ testosteron và oestrogen.
Nếu u vỏ tuyến thượng thận làm xáo trộn chức năng làm biến đổi tính nam
như nữ, nữ như nam.
Kích thích tố aldosterone điều chỉnh các chất khoáng như muối, potassium
để cân bằng lượng chất lỏng và áp huyết cho cơ thể.

ACTH (adrenocoticotropic) là loại kích thích tố chính điều khiển tuyến
thượng thận sản xuất 3 loại hormon kể trên, khi tinh thần căng thẳng ACTH
5


tăng, khi hết căng thẳng ACTH giảm, do đó phương pháp thở thiền có khả
năng điều chỉnh kích thích tố ACTH phục hồi chức năng tuyến thượng thận.
Dấu hiệu suy giảm tuyền thượng thận và cách phục hồi:
Mệt mỏi, yếu sức, giảm áp huyết, thèm muối, tinh thần dễ bị căng thẳng. Tập
thể dục lại càng bị mệt, áp huyết đo ở thế đứng và thế nằm khác nhau nhiều,
khi đang nằm đứng lên bị chóng mặt, nguyên nhân thiếu đường, vì chất
cortison trong người thiếu, không chuyển protein thành đường glucose và
trong thức ăn cũng thiếu đường, nó sẽ tự động lấy đường glycogen dự trữ
trong gan, tuy nhiên cơ thể không đủ cortison để điều chỉnh lượng đường
thích hợp cho nhu cầu cơ thể, nên thử đường huyết có lúc cao lúc thấp bất
thường, cuối cùng suy thận làm mất đưởng dự trữ trong gan dẫn đến bệnh

gan hư và suy tim.
Đông y dùng chất Cam thảo phục hồi chức năng tiết cortison làm tăng áp
huyết và tăng đường phục hồi chức năng tuyến thượng thận, người cao áp
huyết không dùng cam thảo được. Tăng cường thêm khí lực cho thận khí,
dùng thên sâm, còn tây y dùng thêm vit.C và B5 là acid pantothenic và
pantothenate, giúp thức ăn cơ thể chuyển đổi thành đường cung cấp năng
lượng cho cơ thể, viên B5 có nhiều trong thực phẩm tự nhiên trích từ rau trái
có bán trong tiệm thuốc tây, giá khoảng 5 đô la.
b-Những dấu hiệu khác chúng ta có thể thấy được :
Dấu hiệu suy thận làm ngứa phát ban, lupus ban đỏ ở da .
Do thận không lọc chất thải còn nằm trong máu gây ra những cơn ngứa gãi
rách da chảy máu. (Theo đông y do chức năng gan thận hư)
Khi có dấu hiệu thở nông, ngắn hơi.khó thở.
Dấu hiệu này tây y chẩn đoán do suy thận, vì theo tây y trong thận có 2 dây
thần kinh của phế-vị điều chỉnh chức năng thận khí, khi suy thận chất lỏng
dư thừa trong cơ thể tích tụ trong 2 lá phổi do uống qúa nhiều nước, thận suy
không thải lọc được, nguyên nhân khác cũng do thận suy làm thiếu máu, làm
thiếu các tế bào hồng cầu vận chuyển oxy cho phổi gây ra chứng thở ngắn
như suyễn. (Theo đông y chức năng tỳ vị hư làm chức năng phế suy)
Dấu hiệu lúc nào cũng cảm thấy ớn lạnh.
Nguyên nhân thận suy làm thiếu máu không tuần hoàn ra đến ngoài da, và
áp lực bơm máu thấp ( áp huyết tâm thu, tâm trương thấp) tay chân và ngoài

6


da lúc nào cũng lạnh, nhưng trong người luôn cảm thấy khô nóng, đông y
gọi là âm hư (thiếu máu) sinh nội nhiệt.
Dấu hiệu hoa mắt chóng mặt, mất tập trung.
Chức năng phế thận hư do thiếu đường giúp cơ co bóp chuyển hóa, thức ăn

không biến thành máu, làm thiếu máu, não không được cung cấp oxy, dẫn
đến mất trí nhờ, thiếu tập trung, hoa mắt, chóng mặt.
Dấu hiệu đau chân, đau lưng, đau cạnh sườn.
Do bệnh thận đa nang, các nang trong thận chứa đầy chất thải không thải lọc
được sẽ thấy dù có uống nước nhiều mà đi tiểu ra ít, nhưng phải đi nhiều lần,
khiến thận sưng to làm đau lưng, sườn, tăng áp huyết giả, hay đi tiểu đêm,
đôi khi làm gan cũng sưng gây đau tức hông sườn. (Theo đông y thuộc
chứng chức năng gan thận hư)
Suy thận theo tây y qua xét nghiệm máu, nước tiểu để tìm bệnh thì có những
bệnh như :
Bệnh thận tiểu cầu :
Mạn tính : có tính cách miễn dịch sau bệnh nhiểm khuẩn.
Bệnh tiểu cầu đái tháo đường do thoái hóa dạng tinh bột, do lupus ban đỏ rải
rác, do ban xuất huyết dạng thấp khớp.
Bệnh thận kẽ, viêm ống thận kẽ :
Do nhiễm khuẩn, do sạn thận làm tắc nghẽn, do hẹp niệu quản, sưng u tuyến
tiền liệt, bệnh ở cổ bàng quang, xơ sau màng bụng, khối u ở đường niệu, do
độc tố sử dụng phenacetin lâu dài. Viêm ống thận kẽ là máu nhiễm khuẩn
làm hoại tử vỏ thận, viêm tĩnh mạch thận, u tủy, nhồi máu thận do viêm
màng trong tim
Dấu hiệu thận mủ :
Đau vùng thận kèm theo sốt cao mà rét run, nhức đầu, nôn hay buồn nôn, bí
tiểu hay tiểu rắt là thận có mủ do nhiễm khuẩn đường niệu, khi đi tiểu được
thì trong nước tiểu ra mủ là đục thì sốt giảm.
Bệnh nặng thận sưng nổi gò cứng ổ thành bụng nhìn thấy rõ.
Bệnh thận do mạch :
Do thận xơ cứng, viêm quanh động mạch có cục, u nang thận, loạn dưỡng
thận, loạn sinh acid oxalic
Suy thận do chức năng :
7



Tăng ure-huyết, mất cân bằng nước điện phân hay mất cân bằng trong tuần
hoàn có dấu hiệu làm hạ áp huyết, mất nước, giảm kali-huyết, hoặc do
thuốc kháng sinh gây ra.Thoái hóa xương xơ rỗng (fibro-géodique),
sạn niệu.
Suy thượng thận cấp :
Hạ áp huyết, trụy mạch kèm vật vã hoặc bất động do bán hôn mê, suy nhược
cực độ nguyên nhân do rối loạn tiêu hóa, ói mửa, thường tiêu chảy, mất nước
nếp da nhăn, đau thắt lưng, vọp bẻ, đau bụng, sốt hay giảm nhiệt, giảm
glucoza-huyết, giảm natri-huyết, tăng kali huyết
Tất cả nguyên nhân khác gây trụy :
Suy tim, mất nước, xuất huyết nội,
Albumin-niệu có dấu hiệu tổn thương thận :
Phù, tăng huyết áp, giảm hệ số thanh thải, tăng creatinin
4-UỐNG QUÁ NHIỀU NƯỚC
a-Dấu hiệu suy thận theo tây y là phù thủng.
Khi chức năng thận không loại bỏ được chất thải dư thừa, chất lỏng tích tụ
trong cơ thể có dấu hiệu sưng phù ở chân, nhất là nơi mắt cá cổ chân, bàn
chân, ở mặt hay ở tay.
Theo đông y thuộc chứng thận dương mệnh môn hỏa hư, có nhiều lý do liên
quan đến lượng nước uống hàng ngày.
Trường hợp thân hư do uống nhiều nước tây y có tên gọi là do ngộ độc
nước, không phải là nước có độc mà do dư thừa nước mà thận không lọc thải
kịp.
Có trường hợp theo thói quen sáng uống 1 lần 1 lít, quá sức chứa của thận và
bàng quang cũng gây ra bệnh suy thận khi lớn tuổi, ít hoạt động thể lực.
b-Cơ thể cần bao nhiêu nước mỗi ngày là đủ ?
Tây y phân loại suy thận dựa trên 2 yếu tố xét nghiệm creatinin trong máu và
trong nước tiểu so sánh với tiêu chuẩn chức năng mức lọc cầu thận (=mạch

máu trong thận) còn khỏe chưa bị bệnh :
Tiêu chuẩn bình thường khi chức năng lọc máu của thận còn khỏe, thì dung
8


dịch máu, nước có chứa các chất thải, cơ co bóp của thận ít nhất phải hút vào
thải ra 6 lít trong 1 giờ đối với người có trọng lượng trung bình, còn theo
tiêu chuẩn người tây phương to lớn hơn, tây y lấy tiêu chuẩn thận lọc 7,2
lít/1 giờ, như vậy trung bình một ngày 24 giờ thận lọc từ 144-172,8 lít, đổi
theo đơn vị 1 phút lượng lọc chất thải trong máu của thận là 100-120 ml, nếu
lấy tiêu chuẩn 120ml/phút thì số lượng creatinin có trong máu cho phép
trong giới hạn từ 70-106 micromol/l tương đương với 0.8-1,2mg/dL so với
lượng máu tuần hoàn trong cơ thể đầy đủ. mục đích lọc máu để thu hồi tái
hấp thụ lại nước sạch, đường và máu 99%, còn 1% là nước tiểu chứa chất
thải, nên nước tiểu có mầu vàng nhạt.
Cơ chế tạo ra nước tiểu ở cầu thận, máu từ tiểu động mạch chạy vào cầu thận
tạo nên áp lực máu trong cầu thận cao hơn trong ống thận nên huyết tương
từ các mao mạch cầu thận được lọc vào bọc Bowman tạo thành nước tiểu
đầu 1/5, 4/5 còn lại qua tiểu động mạch để lại protid, lipid không qua được
màng bọc Bowman do phân tử quá lớn, do đó số lượng nước 144-172,8 lít
ống thận sẽ hấp thụ lại 99% gồm 0,17% glucose, 0,6% muối
vào lại máu, 1% là nước tiểu trong 1 ngày từ 1,2-1,5 lít, theo tiêu chuẩn
1cc/kg/1 giờ hay 24cc x trọng lượng cơ thể/ngày.
Những chất độc không được tái hấp thụ, chì có 85% nước sạch, và glucose,
Na+, K+, Cl-, Ure, bicarbonat được tái hấp thụ nhiều hay ít tùy thuộc vào
nồng độ ADH (Anti-Diuretic hormon=kích thích tố chống lợi tiểu) trong
máu.
Nồng độ ADH là kích thích tố sau tuyến yên điều hòa tái hấp thu nước của
ống thận tăng lên, ngược lại chức năng thùy sau tuyến yên giảm gây ra bệnh
đái tháo nhạt là nhiều nước tiểu loãng nhạt mà không có đường.

Như vậy ngoài lượng máu trong cơ thể không thay đổi, cơ thể cần thêm
lượng nước từ ngoài vào qua thức ăn, hoa quả, nước uống, cà phê, trà..để bù
vào số lượng nước bị thải lọc qua nước tiểu 1% có nghĩa là khoảng từ
1,5-1.8 lít/ngày.
Nếu tính theo trọng lượng cơ thể, công thức tính là 1 giờ thận lọc máu lấy ra
được 1cc nước tiểu cho mỗi kg trọng lượng cơ thể. Một ngày được 24cc cho
1kg trọng lượng cơ thể.
Chúng ta có thể tính ra được số lượng nước uống hợp với trọng lượng cơ thể
mỗi người khác nhau trong 1 ngày :
9


Thí dụ người có trong lượng 40 kg thì số nước bù cho nước tiểu thải ra là 24
x 40 = 960cc
Người nặng 100kg sẽ cần : 24 x 100 = 2,4 lít/ngày.
Đó là lý do tại sao chúng ta cân nặng 60 kg mỗi ngày uống 2 lít tại sao khi
cân mỗi ngày vẫn chỉ nặng 60kg.
Tuy nhiên có 3 loại nước uống khác nhau :
-Uống nước trắng 2 lít, sẽ đi tiểu ra 2 lít, trọng lượng cơ thể mỗi ngày không
thay đổi.
-Uống nước vắt ép như nước cam (orange jus) uống 2 lít, khi đi tiều không
được thải lọc hết 2 lít mà thải lọc ít hơn như 1.8 lít, do đó uống nhiều ngày
làm tăng trọng lượng cơ thể .
-Uống nước trà xanh 1 lít, khi đi tiều bị thải lọc ra nhiều hơn, như 1,2 lít, do
đó lâu ngày trọng lượng cơ thể giảm.
c-Muốn biết chức năng thận hư hay không chúng ta để ý đến nước tiểu :
Nước tiểu ra mầu trắng là thận không lọc, ra mầu vàng nhạt là thận tốt.
Uống nước nhiều mà đi tiểu ngay sau khi uống là thận dư thừa nước, phải
uống bớt nước.
Nước tiểu ra vàng sậm là thận thiếu nước cần uống thêm nước.

d- Theo dõi những thay đổi khi đi tiều để biết mình có bị bệnh suy thận hay
không :
Thận tạo ra nước tiểu, do vậy khi thận bị hỏng, có thể có những thay đổi đối
với nước tiểu như phải thức dậy vào đêm để đi tiểu, nước tiểu có bọt hay có
nhiều bong bóng. nước tiểu ra nhiều lần hơn bình thường và có màu nhợt,
hay số lần đi tiểu nhiều lần mà lượng nước tiểu ít, có mầu tối, có lẫn máu, đi
tiều rắt, són.
(Theo đông y thuộc chứng thận âm hư)
5-DO THUỐC CHỮA BỆNH TIỂU ĐƯỜNG LÀM HẠ ĐƯỜNG QÚA
THẤP
Dấu hiệu suy thận theo tây là nhiễm acid chuyển hóa .
Nước tiểu nhiều acid, giảm kiềm, áp lực pCO2 giảm trầm trọng, có dấu
hiệu khó thở, chậm sâu và hôn mê dần, nguyên nhân do đái tháo
10


đường nhiễm acid-ceton trong hơi thở, nhiễm acid-ceton do nhịn ăn,
nhất là người nghiện rượu, đái tháo đường chữa bằng thuốc
phenformin (insoral) hay bằng Metformin (Glucophage), tiêu chảy kéo
dài, cơn co giật liên tục, lỗ rò tiêu hóa, thuốc gây acid hóa, do ngộ độc
aspirin.
Cơ thể cần một số chất điện giải, trong đó có Na+ từ muối, thức ăn, và
trong thuốc uống, khi xét nghiệm máu Na+ bình thường cho phép
135-145mmol/l
Nếu cao hơn là thừa muối gây ra bệnh thận, phù thận, u nang vỏ thượng
thận. mất nước nhiều không qua thận mà qua phổi làm tăng nhịp thở và qua
da mất nhiều mồ hôi.
Nếu Na+ giảm thấp hơn trong bệnh đái tháo đường cao, nhiễm cetonic, pH
trong máu động mạch < 7,25, đi tiểu nhiều hay lạm dụng thuốc lợi tiểu làm
mất Na+, K+ gây ức chế tái hấp thụ Na+ ở tế bào ống thận, có dấu hiệu tiêu

chảy, xuất mồ hôi.
Nếu Na+ tăng gây phù thận, ảnh hưởng đến vỏ thượng thận
Bệnh đái tháo đường do chức năng thận hư ( là Tiểu đường loại 3 ?)
Khi thận mất chức năng kiểm soát Na+ làm đường trong máu cao, tây y gọi
là bệnh đái tháo đường do thận, ngoài 2 loại đái tháo đường do tụy tạng và
đái tháo đường loại 2 không do insulin.
Như vậy chức năng thận hư sẽ làm tăng đường gây ra bệnh tiểu đưởng
và tăng ure trong nước tiểu.
Nhiễm cetonic trong bệnh tiều đường làm tăng K+ vì nhiễm acid và suy
thận, nhưng sau khi trị tiểu đường bằng insulin thì hết nhiễm acid và bài
tiết nước tiểu tốt thì K= lại giảm.
6-DO PHẢN ỨNG PHỤ CÁC THUỐC KHÁC CỦA TÂY Y LÀM TĂNG
CREATININ
Các thuốc có thể làm tăng nồng độ creatinin máu là: Amphotericin B,
androgeri/arginin acidascorbic, barbiturat, captopril, cephalosporin,
chlorthalidon, cimetidin, clofibrat, clonidin, corticosteroid, dextran,
disopyramid, doxycyclim, fructose, gentamicin, glucose, hydralazin,
hydroxyurea, kanamycin, levodopa, lithium, mannitol, meclofenamat,
11


methicilin, methyldopa, metoprolol, minoxidil, nitrofurantoin, propranolol,
proteinm pyruvat, sulfonamid, streptokinase, testosteron, triamteren,
trimethoprim.
Cũng có các loại thuốc như aminoglycosids (vancomycin, gentamicin) có
thể gây ra thiệt hại thận làm tăng creatinin. Các loại thuốc khác, chẳng
hạn như cephalosprins (cefoxitin), có thể làm tăng nồng độ creatinin mà
không phản ánh tổn thương thận.
7-THIẾU HAY THỪA CALCI :
Ca++ bình thường : = 1,0 - 1,3 mmol/l.

Ca giảm không ion hóa gắn với protid làm mất protein theo nước tiểu. cũng
bị suy thận vì mất qua nước tiểu cùng với protein dấu hiệu thấy nước tiểu
đục.
Ca máu giảm do giảm albumin máu, tăng phosphat máu, giảm calci ở ruột.
Nếu dư thừa, xét nghiệm máu dư calci làm tăng áp huyết, nhưng vẫn bị
loãng xốp xương, và thận cũng không thải lọc hết còn nằm trong thận, niệu
đạo, bàng quang sẽ trở thành sạn.
8-SẠN THẬN VÀ SẠN TRONG ĐƯỜNG TIẾT NIỆU :
Hệ tiết niệu bao gồm 2 thận, bàng quang, 2 niệu quản, tuyến tiền liệt và niệu
đạo.
a-Thận là tạng đặc nằm phía sau 2 bên xương sườn 12, thận bên phải cùng
chỗ với gan nên vị trí thấp hơn thận bên trái 2cm, phần trên nằm tầng ngực
liên quan đến phổi và khoang màng phổi che bởi xương sườn, nửa phần dưới
nằm ở phần bụng, khi thận sưng to vượt ra khỏi vòm hoành sẽ sờ khám thấy.
Thận bao phủ bên ngoài một nhu mô dầy, dai, chắc gọi là vỏ thận gồm 2
vùng lả vùng tủy chứa các tháp Malpyghi là những đài nhỏ chứa hệ thống
ống vào trong ống góp dẫn vào đài thận, và trong vỏ thận chứa các tế bào
chức năng thận chứa hơn triệu nephron mỗi thận. Giữa thận là rốn thận dẫn
cuống thận vào thận.
Còn niệu quản là ống tròn đường kính 4-5mm có thể co giãn tối đa 7mm, nối
dài 25-30cm dẫn nước tiểu từ bể thận xuống bọng đái vào thành bàng quang

12


kết thúc bằng 2 lỗ niệu quản.
Bàng quang là bọng chứa nước tiểu khi rỗng nó nằm ngay sau lớp mu, khi
đầy nước có thể lên tới sát rốn chứa được 300-500cc, tối đa 1 lít.
Niệu đạo nam dài 14-16cm là đường đi chung của nước tiểu và hệ sinh dục
khi xuất tinh, chia làm 2 đoạn, niệu đạo sau dài 4cm gồm niệu đạo tuyến tiền

liệt dài 3cm, và niệu đạo màng dài hơn 1cm xuyên qua cận đáy chậu giữa,
khi bị vỡ xương chậu thì dễ bị tổn thương, còn niệu đạo tuyến tiền liệt dễ bị
tổn thương khi nội soi tiết niệu.
Niệu đạo trước dài 10-12cm trong dương vật, trong bìu và niệu đạo tầng
sinh, có vật xốp bao quanh khi bị tổn thương dễ làm hẹp niệu đạo.
Niệu đạo nữ cố định dài 3cm giống như niệu đạo sau của nam giới liên quan
với thành trước âm đạo.
Nguyên nhân hình thành sạn trong thận :
Do cơ thể dư thừa calci không được thận tái hấp thụ, do ăn nhiều thức ăn đồ
biển như tôm cua, ốc, sò, do cholesterol và dư thừa các chất béo kết tủa, gọi
là nguyên nhân rối loạn chuyển hóa.
Thành phần cấu tạo sạn có 2 loại :
Sạn vô cơ như sạn oxalat canxi: hay gặp mầu đen, gai góc cản quang rõ.
Sạn photphat calci: có mầu vàng nhạt hoặc trắng bẩn, dễ vỡ.
Sạn carbonat calci: có mầu trắng như mầu phấn, mềm dễ vỡ.
Sạn hữu cơ như :
Sạn urat: mầu trắng gạch cua, có thể không cản quang mềm và hay tái phát.
Sạn systin: nhẵn, mầu vàng nhạt, mền hay tái phát.
Sạn struvic: (amonium magnéium-phosphat) mầu vàng trắng, thường do
nhiễm khuẩn đường niệu loại vi khuẩn Proteus.
Theo Boyce, Baker, Simon thì các sạn calci, acid uric đều có một nhân khởi
điểm hữu cơ mà cấu trúc của nhân này là mucoprotein, là loại protein đặc
hiệu rất giàu glucid.
Bình thường, mucoprotein có nhiều ở màng đáy ống thận.
Ngoài ra, do ống thận tắc, hẹp gọi là nguyên nhân dị dạng đường niệu do
chức năng thận kém, thận ứ niệu làm giãn đài bể thận làm lắng đọng chất
thải kết tủa thành sạn, nhất là khi có sạn thận tây y khuyến khích uống nhiểu
nước cho trôi sạn không có lợi mà gây ra ứ niệu, tây y không biết cách áp
dụng tập khí công giúp thận co bóp bơm chất thải ứ đọng trong thận ra
ngoài, nên nước thừa tăng dần làm căng giãn chèn ép nhu mô thận khiến

13


thận phình to nổi rõ sau lưng ấn đè vào đau, gây ra tình trạng suy giảm chức
năng thận làm ra bệnh suy thận nguyên nhân do uống nhiều nước, tây y gọi
là bệnh thận ngộ độc nước.....
Sạn thận còn gây ra bệnh viêm khe thận mãn tính phát sinh ra bệnh sơ teo
thận làm huyết áp tăng cao, tùy theo kích thước của sạn làm thận suy mãn
tính hay cấp tính.
Dấu hiệu bị sạn thận:
Dấu hiệu đầu tiên là cứng lưng, rồi đau lưng, nhìn thấy vị trí qủa thận sau
lưng nổi cao, ấn vào đau, thời gian sạn kết tủa to hơn sẽ bị đau lan sang vùng
rốn như có cảm tưởng đau bụng, cái đau từ rốn sang lưng từ lưng sang rốn
làm khó thở, khó cử động, đi tiểu không thông.
Dấu hiệu bị sạn bàng quang :
Nguyên nhân do nín tiểu, do niệu đạo hẹp, do uống nhiều nước nặng bàng
quang chèn ép tuyến tiền liệt, làm đau vùng bẹn, bí tiểu, tiểu rắt ít một, sót
rát lỗ tiểu, tiểu ngắt quãng, tiểu lâu khó ra do tuyến tiền liệt đè tắc ống tiểu
khiến phải đi tiểu nhiều lần, do những sạn nhỏ chạy qua, và tiểu ra máu lẫn
nước tiểu làm nước tiểu đỏ hồng do sạn đi qua làm trầy xước ống tiểu.
Tây y khi thăm khám trực tràng lúc hết nước tiểu có thể sờ thấy sạn.
Theo đông y nguyên nhân hình thành sạn thận và tiểu ra máu gọi là :
Chứng sa lâm :
Có sạn sỏi trong bàng quang, nguyên nhân phần nhiều do nhiệt và thấp nung
nấu ở hạ tiêu, tạp chất trong nước tìểu ngưng tụ kết thành sạn làm vùng bụng
rốn co thắt lan sang một bên lưng, có từng cơn đau lan toả xuống bụng dưới
và bộ sinh dục, khó tiểu hoặc đang tiểu bị tắc nửa chừng, tiểu đau, mầu nước
tiểu vàng đục có lẫn cát, lẫn máu.
Chứng huyết lâm :
Bệnh tiểu ra máu, đái dắt, buốt, bụng dưới căng trướng đau âm ỉ do hạ tiêu

bệnh ( thận và bàng quang ).
Nếu niệu đạo nóng mỗi khi tiểu là do bị thấp nhiệt nung nấu bức huyết đi
càn.
Nếu khi tiểu, niệu đạo không nóng, và bụng dưới hơi đau là do nguyên nhân
âm hư hỏa động, không có khả năng thu giữ huyết gây nên.

14


9-BỆNH GÚT
Do bệnh gout làm tăng nồng độ acid-uric tăng cao hơn 595mmol/l, không có
bệnh gout thường thấp hơn 595mmol/l.
Acid uric-huyết tăng ở đàn ông đưa đến bệnh gout và sạn thận do ăn
qúa thừa thãi, ít vận đõng thường ngồi một chỗ, ăn thừa lipid, uống
rượu, ở bệnh máu như bệnh lách to dạng tủy, bệnh bạch cầu dạng tủy
điều trị bằng hóa liệu pháp tiêu tế bào và liệu pháp corticoit, và tăng do
thuốc trị ung thư, thuốc chống đông, do lạm dụng thuốc lợi tiểu, suy
nhược, giảm trương lực cơ, ngủ gà, ý thức u ám, lẫn tâm thần rối loạn ý
thức có thể dẫn đến hôn mê, chán ăn, buồn nôn, ói mửa, đau thượng
vị, tim đập nhanh, chụp X-quang có dấu hiệu ăn mòn dưới vỏ xương
đốt cuối ngón tay và xương dài, gẫy xương đột ngột, bệnh sạn thận hay
nhiễm calci-thận, trong bệnh ác tính như ung thư vú, ung thư thận,
phổi, tuyến tiền liệt, tuyến giáp, thực quản, đa u tủy
10-BỆNH TUYẾN TIỀN LIỆT :
Bệnh tuyến tiền liệt :
Nguyên nhân theo tây y do thay đổi mất quân bình tỷ lệ men dehydrotestosteron/nồng độ testosteron trong máu trong qúa trình tăng sản các mô
tuyến và mô sợi, theo dõi diễn biến của bệnh có 3 giai đoạn :
-Lượng nước tiểu tồn dư trong bàng quang sau khi tiểu.
Biến chứng suy thận giai đoạn 1 nước tiểu tồn đọng dưới 50ml, thành bàng
quang còn dầy, giai đoạn 2, nước tiểu tồn đọng trên 50ml, bệnh nhân cảm

thấy tiểu không thoải mái, giai đoạn 3 tiểu không theo ý muốn, đái rỉ ít một,
bí đái, trào ngược nước tiểu về thận làm giãn niệu quản, bể thận, làm suy
thận, dẫn đến tình trạng rối loạn tiểu tiện, tiểu đêm nhiều lần, và trong ngày
cũng tiểu nhiều lần, thăm khám trực tràng sờ thấy tuyến tiền liệt to.
Mức thang điểm định bệnh do tổ chức y tế thế giới quy định năm 1993 bệnh
tuyến tiền liệt (IPSS=International Prostate Symptom Score) dựa trên 7 triệu
chứng :
Mức độ nhẹ IPS <7 điểm. Đánh dấu là L : 1-2 nhẹ
Mức độ vừa IPS 8-19 điểm. Đánh dấu là L : 3-4 trung bình

15


Mức độ nặng IPS >20 điểm. Đánh dấu là L : 5-6 nặng.
Nếu không có dấu hiệu suy thận, chỉ do bệnh tại tuyến tiền liệt do hậu qủa
thủ dâm, hay uống nhiều nước làm nặng bàng quang chèn ép niệu đạo và
tuyến tiền liệt, viêm tuyến tiền liệt, ung thư tuyến tiền liệt, sạn tuyến tiền liệt
do ứ nước tiểu trong bàng quang, nguyên nhân do thức ăn có nhiều chất béo,
chất vôi, do bia rượu, do lười vận động thể dục thể thao như các bài tập làm
tăng cường sức cơ thành bụng và cơ tầng sinh môn ép tuyến tiền liệt nhỏ lại
hay các phương pháp tăng nhiệt làm bốc hơi hay áp lạnh (chườm nóng hay
lạnh).
11-THỪA MUỐI
Khi uồng nhiều nước thì thành phần nước trong máu tăng, thận sẽ tăng
cường đào thải nước làm tiểu nhiều, khi ống thận tắc nước ứ tại thận làm
sưng phù thận, suy tim, giảm tuổi thọ của thận làm suy thận phải lọc thận ,
tây y gọi là bệnh ngộ độc nước.
Ăn muối nhiều khi viêm thận sự đào thải ClNa kém, muối và nước ứ đọng
trong các mô gây ra bệnh phù thủng.
12-QUAN TRỌNG NHẤT LÀ THIẾU KHÍ CHUYỂN HÓA GÂY RA

MỌI BỆNH
Theo xét nghiệm của tây y, yếu tố gây ra bệnh suy thận do Chứng thoái hóa
dạng tinh bột. (Amyloidosis) là sự thay đổi chức năng sinh hóa trong cơ thể
làm lắng đọng chất bột trong máu trở ngại tuần hoàn máu làm tổn thương
dây thần kinh ngoại biên, tổn thương tim mạch, suy tim, suy thận và các cơ
quan nội tạng khác như sưng khớp cổ chân, gan lách to, lưỡi to, ban xuất
huyết.
a-Nếu rối loạn thần kinh ngoại biên :
Cảm giác tê cóng, rát bỏng, ở đầu tay chân có cảm giác tê đau như châm
chích, từ bàn tay dần lên tới đỉnh đầu do các sợi thần kinh thường gặp trong
bệnh tiểu đường, làm mỏi, khó co duỗi ngón tay bàn tay và ngón chân cái
yếu dần, bước đi khó khăn.
Các dấu hiệu khác theo thời gian như co cứng cơ thắt lưng, co cơ và teo cơ,
rối loạn thần kinh thực vật, rối loạn tim mạch, giảm áp huyết ở thế đứng, bất
lực ở nam giới, liệt ruột, do hậu quả của thuốc điều trị tiểu đường.

16


Sự lắng đọng chất dạng tinh bột trong ống máu, mao mạch, giữa các sợi và
bó sợi, trong vách thành của các mạch máu... gây nên tình trạng thiếu máu,
thiếu oxy, nhất là mạch máu não gây nên tình trạng xuất huyết não.
b-Thoái hóa dạng tinh bột cũng thấy trong bệnh suy tim ứ huyết khi siêu âm
tim có dấu hiệu bất thường dầy vách tâm thất, rối loạn chức năng tâm
trương, rung nhĩ, nhịp nhanh nhĩ, ngoại tâm thu thất.
c-Thoái hóa dạng tinh bột cũng là nguyên nhân tìm thấy trong bệnh suy thận,
trong tổn thương ống tiêu hóa làm giảm sự co thắt nhu động ruột. làm tiêu
chảy, bón hay xuất huyết, gan to do nhiễm chất dạng tinh bột lắng đọng
trong gan, lắng đọng dạng tinh bột làm thoái hóa các khớp.
d-Dấu hiệu thoái hóa dạng tinh bột có thể nhận biết dễ dàng, có thể gọi là

bệnh tiểu đường loại 4 do trong máu có nhiều tinh bột làm đường-huyết
tăng.
Chúng ta để ý, khi chúng ta uống thuốc hay chích insulin mỗi ngày, và kiêng
nhịn đường, thay vì chỉ số đường trong máu phải thấp, mà thử đường càng
ngày càng cao, chính là chúng ta đang ở thời kỳ nặng, thiếu khí làm suy
chức năng co bóp cơ tim nghẹt tim phải mổ tim thay ống mạch, chức năng
co bóp cơ thận, chức năng co bóp gan, bao tử, phổi, ruột, nên tất cả thức ăn
bị thoái hóa dạng tinh bột, thử đường các nơi trong cơ thể như đầu ngón tay,
chân, lưng, bụng, nơi bị thấp khớp, xương sống lưng xương cổ bị thoái hóa
đều cho ra trị số nhiều ít khác nhau.
Đã phát hiện 4 loại tiểu đường ?
Như vậy bệnh tiểu đường loại 1 là loại do chức năng tỳ hư ( tụy tạng thường
gọi là lá lách không tiết insulin).
Loại 2 không do insulin.
Loại 3 do chức năng thận hư làm tăng ure trong nước tiểu, miệng có vị kim
loại và xông ra mùi khai, gây ra triệu chứng buồn nôn hay nôn, chán ăn, sụt
cân, hạ áp huyết, nếu tiếp tục dùng thuốc hạ áp huyết làm mệt tim gây ra
buồn nôn nhiều hơn.
Loại 4 do thoái hóa dạng tinh bột, càng tiêm insulin không có kết quả
đường huyết vẫn cao, mau làm chết thận, phải lọc thận hay thay thận.
Nếu biết cách tập khí công bài Kéo Ép Gối, bài Làm Tan mỡ bụng, Vỗ Tay 4

17


Nhịp, Cúi Ngửa 4 nhịp, Vặn Mình 4 nhịp, Đứng tấn ngũ hành, để chuyển
hóa đường, để ngăn ngừa thoái hóa dạng tinh bột, ngừa sạn thận và bàng
quang, ngừa ung thư tuyến tiền liệt, mạnh chức năng lọc thận, mạnh tim, bao
tử, phổi, thận, gan, thì cơ thể sẽ không bao giờ bị bệnh tật.


PHẦN 2 : CẤP DỘ SUY THẬN VÀ CÁCH THỬ NGHIỆM THEO
TÂY Y :
Phần này có lợi cho những người đã đi xét nghiệm máu trên giấy liệt kê kết
quả những thành phần máu được ghi H (high = cao hơn tiêu chuẩn) hay L
(low=thấp hơn tiêu chuẩn) để biết có ý nghĩa như thế nào, bệnh gì, giúp
mình biết cách phòng bệnh, tự điều chỉnh cách ăn uống và tập luyện bổ sung
cho thuốc uống để bệnh mau hồi phục.
A-CÓ 4 CẤP ĐỘ SUY THẬN :
Tây y phân loại suy thận dựa trên 2 yếu tố xét nghiệm creatinin trong máu và
trong nước tiểu so sánh với tiêu chuẩn chức năng mức lọc cầu thận (=mạch
máu trong thận) còn khỏe chưa bị bệnh :
Bệnh viêm thận thì máu vào thận ít làm tăng áp huyết.
Áp huyết giảm làm áp lực mao mạch cầu thận giảm nên bài tiết ít nước tiểu,
các chất dộc không được thải ra ngoài làm bị choáng cũng làm suy thận.
Tuyến thượng thận tiết ra adrenalin, nếu tiết ra ít sẽ làm giãn động mạch vào
và co động mạch ra của cầu thận, nên áp lực máu trong tiểu cầu thận tăng thì
18


bài tiết nước tiểu tăng.
Thận tiếp nhận nhánh dây thần kinh phó giao cảm và giao cảm của phế vị sẽ
làm co mạch ở thận, làm giãn hoặc ngưng bài tiết nước tiểu.
Dấu hiệu thông thường của suy thận như nôn, buồn nôn, lú lẫn, hôn mê, đau
lưng, tiểu ra máu.
Xét định mức độ suy thận phải qua xét nghiệm máu và nước tiểu :
Được chẩn đoán suy thận là cơ co bóp thận không đủ sức co bóp hút để lọc
máu và nước được nhiều như trước mà càng ngày càng ít đi, mà creatinin
tăng dần, tùy theo lượng máu và nước qua thận thì chúng ta có thể biết được
chức năng thận suy ở mức độ nào theo bảng tiêu chuẩn dưới đây :
1-Suy thận độ 1 :

Dung dịch máu được lọc 60-41ml/phút creatinin 107-129mcmol/l=
1,3-1,4mg/dL
có lượng máu hơi thiếu không đáng kể.
2-Suy thận độ 2 :
Dung dịch máu được lọc ít dần 40-21ml/phút creatinin tăng dần
130-299mcmol/l=1,5-3,4mg/dL có thiếu máu nhẹ.
3-Suy thận độ 3a :
Dung dịch máu được lọc ít dần 20-11ml/phút, creatinin tăng cao hơn
300-499mcmol/l=3,5-5,9mg/dL, có dấu hiệu chán ăn, thiếu máu vừa.
4-Suy thận độ 3b :
Dung dịch máu được lọc 10-5ml/phút creatinin 500-900mcmol/l=
6.0-10mg/dL
chán ăn, thiếu máu nặng, chỉ định lọc máu.
5-Suy thận độ 4 :
Dung dịch máu được lọc ít nhất 5 ml/phút creatinin cao hơn 900mcmol/l=
cao hơn 10mg/dL
Thiếu máu trầm trọng, urê-máu cao, chức năng thải lọc của thận còn 10-15%
bắt buộc phải lọc thận.
B-CREATIN VÀ CREATININ LÀ GÌ :
19


Tây y định nghĩa creatin có nhiều trong thịt đỏ, là một hợp chất bổ cần thiết,
giúp cung cấp năng lượng cho cơ thể, do thức ăn cung cấp và được chức
năng của gan, tụy, thận, chuyển hóa sản xuất thành một chất có năng lượng
cao gọi là ATP (viết tắt của adenosin tri-phosphate) để được dẫn đến nuôi
cơ bắp qua đường máu giúp phát triển cơ, khi nó đến cơ, nó chuyển hóa
thành phosphocreatin (creatine-phosphate) làm tăng sức mạnh cơ bắp chịu
đựng được việc vận động lâu hơn, cần thiết cho các lực sĩ. Khi cơ thể tập
luyện, năng lượng ATP giảm xuống thấp dần thì creatin chịu trách nhiệm

phục hồi lại mức ATP cho cơ thể. Creatin điều chỉnh acid trong tế bào, nhất
là acid lactic làm giảm sự mỏi cơ, điều hòa mức calci giúp điều khiển sự co
giãn cơ, giúp cho các vận động viên tăng khả năng tập luyện lâu bền dẻo dai
hơn, tăng sức mạnh cho cơ bắp.
Lượng creatin có khoảng 140mg/100gr cơ đang hoạt động, giống như chất
glutathione là 2 chất chống oxy hóa tự nhiên do cơ thể sinh sản giúp cơ thể
chống lại những gốc tự do có hại cho cơ thể, tây y thường cho dùng thêm
các vitamin B2, B6, B9, B12 giúp creatin trong qúa trình chuyển hóa methyl
giúp tế bào phát triển khỏe mạnh, nhất là tế bào cơ bắp, cơ tim, thận, bao
tử...nhưng nếu cơ thể thiếu vận động cơ bắp thì qúa trình chuyển hóa không
tốt, tế bào sẽ trở thành ung thư.
Khi cơ bắp mệt mỏi do tăng acid thì chất creatin giúp điều tiết acid cân bằng
độ pH, điều hòa chất vôi calci trong các mô co giãn của cơ.
Trung bình, cơ thể người chứa 120 grams creatin và 95% lượng creatin này
nằm trong cơ bắp. Nhưng khi vận động nặng, cơ thể có thể dung nạp thêm
đến 30-40grams cùng với đường glucose..
Theo tây y, các vận động viên cần dung nạp creatin và đường glucose để
nuôi cơ bắp hoạt động tốt sau khi tập luyện theo một chế độ hướng dẫn sau :
Sáng 5gr creatin với nước trái cây hay nước đường glucose.
Trước khi tập 5gr vối nước đường hoặc đường
Sau khi tập, 5gr với Carb-Glycemic và Whey protein.
Tối, 5gr với nước trái cây hay nước đường.
Tuy nhiên, chất creatin có nguồn gốc từ thức ăn gọi là ngoại sinh, còn nội
sinh do gan tổng hợp từ arginin và methionin hiện diện trong máu, cung cấp
cho các cơ bắp hoạt đõng co bóp không mệt mỏi và chất thải từ cơ bắp là
creatinin, do sự phân hủy hợp chất creatin, hay ngược lại ăn dư thừa creatin
20


mà cơ thể không được vận động thì creatin cũng bị thoái biến trong các cơ,

bị phân hủy thành creatinin nằm trong máu và chất này được đưa trở lại tuần
hoàn, rồi được thải trừ qua thận, nên creatinin cũng có trong nước tiểu sẽ
làm suy thận. Vì vậy, tây y căn cứ vào lượng creatinin cao hay thấp trong
máu và trong nước tiểu để đánh giá mức đõ suy thận.
Ở thận, creatinin được lọc qua cầu thận và không được ống thận tái hấp thu.
Vì vậy, giá trị của creatin phản ánh toàn bộ khối cơ của cơ thể, trái lại giá trị
của creatinin phản ánh chức năng cơ co bóp lọc thận của bệnh nhân.
Dấu hiệu bệnh khi gia tăng creatinin có thể hơi sốt nhẹ, mệt mỏi, phù nề
quanh mắt và mặt, tay chân, mất cảm giác ngon miệng, thay đổi cân
nặng, đau đầu, khó thở, đau lưng dưới, nước tiểu có bọt, lượng nước tiểu
giảm, và tinh thần mệt mỏi.

D-CÁCH XÉT NGHIỆM ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ SUY THẬN :
Xét nghiệm creatinin trong máu được sử dụng cùng với xét nghiệm
Urea, còn được gọi BUN (urea nitrogen Blood ) để đánh giá chức
năng lọc của thận.
Cách thử nghiệm định bệnh suy thận trong phòng thí nghiệm tính theo hệ số
thanh thải của creatinin ( viết tắt creat.) khi lấy mẫu nước tiểu ( viết tắt
U.creat), thể tích nước tiểu trong 24 giờ, (viết tắt V), và máu (viết tắt P.creat)
V: là lượng nước tiểu trong một phút (ml/phút), là lượng nước tiểu đong
được trong 24 giờ qui ra ml chia cho số phút trong một ngày (24 x 60= 1440
phút). Ví dụ: Nước tiểu đong được 1,2 l/24h thì V = 1200/1440 = 0,833 ml/
phút.
Hệ số thanh thải của creatinin = U creat x V/P creat.
Cách này có thể bị sai khi không có sự hợp tác của bệnh nhân để lấy đủ nước
tiểu trong 24 giờ..
Cách tính thứ hai theo tuổi và trọng lượng cơ thể bệnh nhân :
Hệ số thanh thải của creatinin = (140 - tuổi) x trọng lượng cơ thể (kg) /7,2 x
P.creat (mg/dL)
Hệ số thanh thải tốt = Nam : 80-120ml/phút. Nữ : 70-100ml/phút


21


đối với bệnh nhân nữ phải nhân lấy kết qủa 85%.
Có 2 loại creatinin trong máu và trong nước tiểu trong tiêu chuẩn bình
thường :
1-creatinin huyết thanh :
Nam 0,7-1,3mg/dL hay 62-115mcmol/l
Nữ : 0,5-1,0mg/dL hay 44-88mcmol/l
Trẻ em : 0,3-1.0mg/dL hay 26-88mcmol/l
2-creatinin niệu :
Nam : 1-2g/24gio72 hay 20-25mg/kg/24 giờ
Nữ : 0,8-1,5g/24 giờ hay 15-20mg/kg/24 giờ
Có 2 loại creatin trong máu và trong nước tiểu :
1- creatin huyết thanh : 0,2-0,9mg/dL hay 15-69mcmol/l
2- creatin niệu : 2-5mg/kg/24 giờ
E-SUY THẬN NGUYÊN NHÂN TĂNG CREATININ TRONG MÁU :
Tây y phân loại bệnh lý của thận trong 3 trường hợp riêng có nguyên nhân
khác nhau :
1-Suy thận nguồn gốc trước thận :
Nguyên nhân do : suy tim, mất nước giảm khối lượng tuần hoàn do dùng
thuốc hạ áp huyết và thuốc lợi tiểu, xuất huyết làm mất máu, hay hẹp động
mạch thận.
(Theo đông y là chứng tâm hỏa hư)
2-Suy thận nguồn gốc thận :
Nguyên nhân do tổn thương cầu thận, tăng huyết áp, đái tháo đường, bệnh
nhiễm amyloid thoái hóa dạng tinh bột, viêm cầu thận, bệnh lupus ban đỏ,
do thuốc ức chế men chuyển hóa angiotensin, lắng đọng men kháng thể hồng
cầu IgA ( immunoglobulin A) tại cầu thận làm sưng thân, sưng chân, tổn

thương ống thận, viêm thận cấp hay mãn, viêm nhú thận do đái tháo đường,
sạn thận, đa u tủy xương, tăng calci máu, tăng ure máu, do các loại hóa chất
độc từ thuốc...
(Theo đông y là thận âm dương lưỡng hư)

22


3-Suy thận nguồn gốc sau thận :
Nguyên nhân do sạn thận, ung thư tuyến tiền liệt, khối u bàng quang, khối u
tử cung, xơ hóa sau phúc mạc.
(Theo đông y can tỳ hư)
F-GIẢM NỒNG ĐỘ CREATININ TRONG MÁU :
Nguyên nhân do hòa loãng máu, hội chứng tiết hormon chống bài niệu
(=antidiuretic-hormon ADH) không thích hợp, suy dinh dưỡng nặng, do
bệnh teo mô cơ, có thai.
Các thuốc có thể làm giảm nồng độ creatinin máu là: Cefoxitin, cimetidin,
chlorpromazin, marijuana, thuốc lợi tiểu, nhóm thiazid, vancomycin.
G-URE MÁU VÀ URE NIỆU :
Urê được tổng hợp ở gan từ CO2, NH3, ATP.CO2, là sản phẩm thoái hóa
của protid. Trong lâm sàng, xét nghiệm urê máu và nước tiểu được làm
nhiều để đánh giá chức năng lọc cầu thận và tái hấp thu ở ống thận. Tuy
nhiên, xét nghiệm này bị ảnh hưởng của chế độ ăn như khi ăn giàu đạm
(tăng thoái hóa các aminoacid) thì kết quả tăng sẽ sai lệch.
Bình thường:
Nồng độ urê máu: 3,6 - 6,6 mmol/l.
Nồng độ urê nước tiểu : 250 - 500 mmol/24h.
Bệnh lý:
Urê máu tăng cao trong một số trường hợp suy thận, viêm cầu thận mạn, u
tiền liệt tuyến.

Urê máu 1,7 - 3,3 mmol/l (10 - 20 mg/dl) chỉ ra chức năng thận bình thường.
Urê máu 8,3 - 24,9 mmol/l (50 - 150 mg/dl) là tình trạng suy chức năng thận
nghiêm trọng.
Xét nghiệm máu creatinin được sử dụng cùng với xét nghiệm urea, còn được
gọi BUN (urea nitrogen Blood) để đánh giá chức năng thận.
Nếu các xét nghiệm creatinin và BUN kết quả bất thường hoặc nếu có bệnh
tiểu đường, ảnh hưởng đến thận, sau đó hai xét nghiệm này có thể được sử
dụng để theo dõi sự tiến triển của rối loạn chức năng thận.

23


Tỉ lệ urê/creatinin máu bình thường nằm trong khoảng 6:1 đến 20:1.
Đề phòng suy thận, cần theo dõi nồng độ urê và creatinỉn máu trước khi
dùng bất kỳ một thuốc nào được biết có thể gây độc cho thận.
Như đối với bệnh tiểu đường loại 2 đang dùng thuốc Metformin phải thử
nồng độ creatinin máu mỗi năm 1 lần, vì thuốc có thể lảm suy thận gây
nhiễm acid lactic.
Đa số bệnh nhân lớn tuổi có bệnh đái tháo đường, tăng huyết áp, bị kết tội
oan là suy thận mạn trong khi suy thận cấp hoặc đợt cấp suy thận mạn hoàn
toàn có thể hồi phục trở lại chức năng thận ban đầu.
H-CÁC CHẤT ĐIỆN GIẢI :
K+ bình thường : = 3,5 - 5,5 mmol/l.
Nều tăng cao hơn là bệnh viêm thận, suy chức năng vỏ thượng thận làm
giảm sự đào thải K+ qua thận.
Nếu giảm thấp hơn tiêu chuẩn, do mất Kali gây ra bởi bệnh nhiễm cetonic
trong bệnh tiểu đường do thận có dấu hiệu lúc đầu tăng K+ vì nhiễm acid pH
thấp và suy thận, nhưng sau khi điều trị tiểu đường bằng insulin hết nhiễm
acid thì bài tiết của thận tốt lại làm K+ giảm cũng gây ra suy thận, giảm K+
cũng do lạm dụng thuốc lợi tiểu làm suy thận.

Protein toàn phần trong huyết tương bình thường= 60 - 80 g/l. Là chức năng
lọc của cầu thận tốt
Nếu giảm thấp hơn nguyên nhân do màng lọc cầu thận bị tổn thương trong
bệnh viêm thận, viêm cầu thận mạn, thận nhiễm mỡ.
Protein nước tiểu 24 giờ bình thường = 0 - 0,2 g/24h.
Protein có trong nước tiểu chủ yếu gặp trong các bệnh thận, gặp khi màng
lọc cầu thận bị tổn thương, các lỗ lọc rộng ra, protein (albumin) lọt qua.
Đặc điểm của protein niệu do bệnh thận thường > 0,3 g/l.
Tăng protein niệu gặp trong các bệnh thận như:
Tăng cao nhất trong thận hư nhiễm mỡ: từ 10 - 30 g/24h, có thể cao hơn
(50g/24h).
Nếu protein niệu > 2g/24h kéo dài nhiều ngày cần theo dõi và chú ý tới hội
chứng thận hư.

24


Viêm cầu thận cấp do nhiễm độc thuốc hoặc hóa chất độc.
Hoại tử do thủy ngân (Hg): tăng 20 - 25 g/24h.
Viêm tiểu cầu thận: thường lớn hơn 2 - 3 g/l.
Viêm thận - bể thận mạn: Thường thấy xuất hiện protein niệu gián đoạn, ở
mức 1 - 2 g/l.
Ngoài ra, protein niệu còn gặp trong bệnh xơ cứng thận, xung huyết thận,
cao huyết áp ác tính.
Nguyên nhân có protein niệu trong bệnh thận là do tổn thương màng siêu lọc
cầu thận làm tăng tính thấm cầu thận đối với protein.
Tỷ trọng nước tiểu
Xác định tỷ trọng nước tiểu dựa trên sự giải phóng proton (H+) từ polyacid
với sự có mặt của các cation có trong nước tiểu. Proton (H+) được giải
phóng gây ra sự thay đổi màu của chất chỉ thị bromothymol bleu từ xanh đến

xanh lục rồi tới vàng. Cường độ màu tỷ lệ tỷ trọng niệu.
Tỷ trọng nước tiểu bình thường: 1,01 - 1,020 (nước tiểu 24h của người lớn
ăn uống bình thường có tỷ trọng từ 1,016 - 1,022).
Xét nghiệm này nhạy với các giai đoạn sớm của giảm chức năng thận, nhưng
một kết quả bình thường cũng không thể loại trừ các bệnh lý khác của thận.
Nó không chính xác trong các trường hợp mất cân bằng nước-điện giải
nghiêm trọng, chế độ ăn kiêng ít protein, chế độ ăn nhạt, các bệnh mạn tính
của gan, phụ nữ mang thai…
I-PHÂN BIỆT HAI LOẠI SUY THẬN CẤP VÀ MẠN :
1-SUY THẬN CẤP :
Có 3 giai đoạn :
a-Giai đoạn sớm :
Có dấu hiệu nước tiểu ít, dưới 50ml/ngày trong vòng 2 tuần, ure-máu tăng từ
21mg-49mg/dL (3.4-8.2mmol/l), creatinin máu tăng, hạ calci-máu, có thề
tăng men tiêu hóa amylase và lipase trong máu ở tụy tạng, amylase là chất
men có trong tụy và tuyến nước bọt giúp chuyển hóa thức ăn thành đường,
và lipase cũng có trong tụy giúp chuyển hóa chất béo, và có dấu hiệu nhiễn
acid chuyển hóa.
25


×