Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

5 XU HƯỚNG ĐANG làm THAY đổi THẾ GIỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.91 KB, 19 trang )

NĂM XU HƯỚNG LỚN ĐANG LÀM THAY ĐỔI THẾ GIỚI
Các lực lượng toàn cầu, mang tính bao quát, như hiện đại hóa và mối
liên kết rộng khắp, đang nổi lên để định hình lại cuộc sống của chúng ta.
Nhưng khả năng thích ứng của con người lại là một “xu hướng lớn” sẽ giúp
cho tương lai của chúng ta không bị trượt khỏi tầm kiểm soát. Sau đây là
năm xu hướng lớn đang làm thay đổi thế giới một cách rõ rệt.
1. Xu hướng thứ nhất - hiện đại hóa văn hóa
Trên khắp thế giới trong thế hệ trước, những nguyên tắc cơ bản của các
nền văn hóa hiện đại, bao gồm sự bình đẳng, tự do cá nhân và tự phát huy năng
lực bản thân đã làm xói mòn những lĩnh vực của văn hóa truyền thống vốn dĩ
đánh giá cao uy quyền. Thế hệ trẻ trong các xã hội truyền thống đang có xu
hướng chạy theo lối sống kiểu phương Tây, quan trọng nhất là suy nghĩ theo tư
duy kiểu phương Tây. Hầu hết những người phương Tây và người Mỹ đã
không biết được những sức mạnh mang tính cá nhân của cuộc chiến tranh văn
hóa này bởi lẽ họ ở quá xa “chiến tuyến”. Hơn thế nữa, người phương Tây coi
các thiết chế cơ bản của hiện đại hoá bao gồm giáo dục phổ thông, chế độ nhân
tài và luật dân sự, là những điểm chuẩn trong tiến bộ xã hội, trong khi những
người bảo vệ cho nền văn hóa truyền thống lại cho chúng là những mối đe đoạ
đối với trật tự xã hội.
Các nhà nhân khẩu học đã nhận thấy một số chỉ báo xã hội dẫn đầu với
tư cách là những thước đo quan trọng cho mức độ hiện đại của một nền văn hóa
dân tộc. Họ đã trích dẫn trình độ học vấn trung bình của nam và nữ, tỉ lệ phần
trăm lực lượng lao động được hưởng lương là phụ nữ và tỉ lệ phần trăm của dân
số sống trong khu vực thành thị. Những chỉ số khác gồm tỉ lệ phần trăm lao
động làm thuê (ngược lại với tự làm chủ) và tỉ lệ phần trăm GDP sử dụng trong
các dịch vụ hỗ trợ kinh tế xã hội được thiết chế hóa, bao gồm bảo hiểm, lương
hưu, an sinh xã hội, toà án dân sự, tiền bồi thường cho công nhân, trợ cấp thất
nghiệp và phúc lợi.
Trước khi thế kỷ XX kết thúc, các lực lượng hiện đại hóa văn hóa, được
toàn cầu hóa kinh tế và sự lan tỏa nhanh chóng của cơ cấu thông tin viễn thông
vô tuyến thúc đẩy, dường như đã gạt các nền văn hóa truyền thống trên thế giới


3


ra ngoài lề một cách rõ ràng. Bởi lẽ các nguồn của hiện đại hóa các nền kinh tế
công nghiệp thế tục vốn dĩ mạnh mẽ tới mức không thể bị tấn công, nên chủ
nghĩa khủng bố là biện pháp duy nhất còn lại mà những người ủng hộ nền văn
hóa truyền thống có thể sử dụng để chiến đấu bảo vệ các giá trị và lối sống của
mình. Trong tương lai gần, nhiều nhà quan sát tin rằng xung đột văn hóa đang
diễn ra có thể sẽ sản sinh ra một số hành động cực đoan hơn nữa của chủ nghĩa
khủng bố, cho dù có các biện pháp an ninh. Nhưng cường độ cuối cùng và thời
gian tồn tại của những giai đoạn công khai, bạo lực, trong cuộc chiến văn hóa
toàn cầu đang diễn ra, phần lớn lại là những vấn đề mang tính phỏng đoán.
Sau những cuộc tấn công khủng bố năm 2001, các nhà bình luận xã hội
đã khái quát suy xét rằng những sự kiện này sẽ làm thay đổi nước Mỹ. Các
chuyên gia thừa nhận rằng chúng ta sẽ có nhiều động cơ hơn ở những điều
mang giá trị bên trong - con cái, gia đình, bạn bè, bản chất, tự phát huy năng
lực cá nhân và chúng ta sẽ thấy được sự gia tăng nhanh chóng số người đang
mưu cầu những mục tiêu chuyên môn và nghề nghiệp trong khối dịch vụ công.
Các cuộc điều tra trên các phương tiện truyền thông đại chúng chỉ ra rằng trung
bình dân Mỹ hiện nay đọc ít tin tức quốc tế hơn so với trước ngày 11/9. Nhìn
chung, những thay đổi của hành vi do sự kiện tác động chỉ là tạm thời. Thậm
chí nếu như những xung đột hiện tại làm sản sinh ra những hành động bạo lực
khủng bố cực đoan hơn, thì chúng cũng không có vẻ sẽ làm thay đổi lối sống và
cách ra quyết định thường nhật của chúng ta. Những nghiên cứu tại Israel cho
thấy công dân nước này đã trở nên quen thuộc với các cuộc tấn công khủng bố.
Hiện đại hóa văn hóa sẽ tiếp tục tấn công các nền văn hóa truyền thống
của thế giới, khuấy động những bất ổn về chính trị, căng thẳng về tâm lý và
xung đột xã hội khắp nơi. Tại các quốc gia phát triển, những nơi mà đại đa số
dân theo các nguyên tắc của hiện đại hóa và những mối đe đoạ của xung đột
văn hóa được thể hiện thành những hành động bạo lực bừa bãi thỉnh thoảng xảy

ra, thì sự đối đầu liên tiếp của tính truyền thống và hiện đại hóa dường như sẽ
sản sinh ra những biện pháp an ninh mang tính bất tiện, nhưng nó ít làm thay
đổi việc ra quyết định cùng những giá trị hoặc cuộc sống thường nhật của cá
nhân. Các quốc gia phát triển có lẽ sẽ không nỗ lực thực sự để kiềm chế sự lan
rộng của hiện đại hóa văn hóa hoặc kiềm chế lực lượng định hướng của nó là
toàn cầu hóa kinh tế.
4


2. Xu hướng thứ hai - toàn cầu hóa kinh tế
Toàn cầu hóa đưa ra một tiềm năng lâu dài nhằm nâng cao mức sống và
giảm chi phí hàng hóa và dịch vụ cho con người ở khắp mọi nơi. Nhưng những
hệ quả thị trường trong tức thời của tự do thương mại lại đe doạ nhiều người và
doanh nghiệp ở cả các nước phát triển và các nước đang phát triển bằng sự
cạnh tranh tiềm tàng không thể vượt qua được. Đối với hầu hết mọi người trên
thế giới, mối đe doạ từ những đối thủ cạnh tranh ngoài nước được coi là lớn
hơn so với mối nguy hại của những kẻ khủng bố ngoài nước. Lẽ đương nhiên,
rủi ro và tình trạng bấp bênh trong cuộc sống thường nhật lại tỏ ra đặc biệt cao
tại các nước đang phát triển. Tuy nhiên, trong các nền kinh tế phát triển, nơi
các thiết chế chính thức có thể duy trì được trật tự và khả năng suy đoán, thì tự
do thương mại vẫn đem lại những rủi ro và sự bấp bênh không quen thuộc đối
với nhiều doanh nghiệp. Có vẻ như điều này cũng tác động tới tâm lý tập thể
của cả những người công nhân cổ xanh và cổ trắng, đặc biệt đối với nam giới
những người đang ngày càng không muốn gắn bó với những nghề nghiệp thuộc
những lĩnh vực dễ dàng trở thành đối tượng của sự cạnh tranh nước ngoài với
chi phí thấp.
Bất chấp sự không thuận lợi về kinh tế không thể phủ nhận trong ngắn
hạn mà nó tạo nên, một xu thế hướng tới toàn cầu hóa đang tiếp diễn đã có
được lực lượng đứng phía sau nó. Kể từ Thế chiến thứ Hai, nhập khẩu đã tăng
từ 6% GDP thế giới lên đến trên 22%, tăng trưởng nhanh chóng trong suốt thời

kỳ Chiến tranh lạnh và thậm chí còn tăng trưởng nhanh hơn nữa kể từ năm
1990. Sự phân tán sản xuất hàng hóa trên toàn cầu và phân phối không đồng
đều dầu mỏ, khí đốt và những khoáng sản có giá trị trên khắp thế giới đã kết
hợp với nhau, biến sự lệ thuộc lẫn nhau trên tầm quốc tế thành một hiện thực
kinh tế cơ bản, và các doanh nghiệp liên hiệp công ty đang đưa vào những thực
tế đó. Những cản trở trong toàn cầu hóa, giống như những bất trắc của Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO) tại Cancun, Mexico tháng 9 năm 2003, sẽ nổi lên
với tư cách là những vấn đề chính trị nhạy cảm còn tồn tại cần được giải quyết,
gồm việc buôn bán các sản phẩm nông nghiệp, các dịch vụ chuyên môn và tài
chính, nhu cầu đối với trách nhiệm xã hội đoàn thể. Trong khi sẽ có những lợi
ích kinh tế lâu dài khổng lồ từ toàn cầu hóa ở tất cả các quốc gia phát triển và
đang phát triển, những chia rẽ ngắn hạn trong vấn đề lao động trong nước sẽ
5


biến thương mại tự do thành một vấn đề chính trị tiếp diễn sẽ chỉ có thể quản lý
được chừng nào các nền kinh tế trong nước tiếp tục tăng trưởng.
3. Xu hướng thứ ba - khả năng liên kết toàn cầu
Trong khi công nghệ thông tin (IT) tiếp tục làm chúng ta choáng ngợp
với những khả năng diệu kì của nó, thì cho tới nay, nó mang lại cho chúng ta
dường như chỉ duy nhất một sức mạnh mới đã gây nên tác động đáng kể tới
hành vi tập thể của chúng ta: khả năng tiến bộ trong liên lạc với nhau tại bất cứ
đâu, trong bất cứ thời điểm nào. Những nhà nghiên cứu hành vi đã phát hiện ra
rằng điện thoại di động đã làm lu mờ hay thay đổi ranh giới giữa công việc và
cuộc sống xã hội, giữa cuộc sống cá nhân và cuộc sống tập thể.
Khả năng liên kết toàn cầu sẽ được thúc đẩy bằng sự hội nhập của điện
thoại, điện thoại di động và các phương tiện truyền thông vô tuyến khác cùng
với Internet. Đến năm 2010, mọi cuộc đàm thoại đường dài cùng với 1/3 tất cả
các cuộc đàm thoại trong nước, sẽ được thực hiện thông qua Internet, trong khi
từ 80% đến 90% việc truy cập Internet sẽ được thực hiện bằng điện thoại cho

phép truy cập Web, bằng PDA và các máy tính xách tay không dây. Quan trọng
nhất là trong vòng chưa đầy một thập kỉ nữa, 1/3 dân số thế giới, khoảng 2 tỉ
người sẽ được truy cập Internet, chủ yếu thông qua điện thoại cho phép truy
cập Web. Theo một ý nghĩa rất thực, lnternet sẽ trở thành một “Đại lộ Thông
tin”, tức là hạ tầng cơ sở, hay cơ sở thông tin, cho kỉ nguyên máy tính. Cơ sở
thông tin đang thúc đẩy việc áp dụng việc làm có địa điểm linh hoạt và giảm
lượng lớn sự di chuyển tới chỗ làm, trong khi có thể làm tăng “sự cộng tác ở
khoảng cách xa xôi”, lấy thông tin từ bên ngoài và từ nước ngoài.
4. Xu hướng thứ tư - tính minh bạch trong giao dịch
Trước khi những hành động phi pháp diễn ra hàng loạt tại các tập đoàn
Enron, Tyco và worldcom, đã nổi lên một phong trào toàn cầu hướng tới sự
minh bạch hơn trong mọi doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp công. Ban
đầu có mục tiêu hướng vào những chế độ tham nhũng ở châu Phi và các
nước thuộc Liên Xô cũ, hiện nay phong trào này đã trở thành phổ biến, với
việc thiết lập các tiêu chuẩn kế toán quốc tế chặt chẽ hơn cũng như những
quy tắc toàn diện hơn đối với vấn đề giám sát công ty và lưu giữ báo cáo,
cộng với một công ước mới của Liên Hiệp Quốc về vấn đề kiểm soát tham
6


nhũng trong khu vực công. Bởi vì sự giữ bí mật sẽ nuôi mầm cho tham
nhũng và tình trạng kém cỏi, cho nên hiện tại đang có một sự đồng thuận
khắp thế giới về việc phơi bày những giao địch và quyết định quan trọng của
tất cả các doanh nghiệp cho công chúng kiểm tra.
Hầu như vấn đề quản lý công ty hiện đang được người ta quả quyết cho
rằng tính bảo mật là việc đi đôi cần thiết với vấn đề lãnh đạo. Nhưng hoạt động
của máy tính tràn lan, có mặt ở khắp nơi cũng như việc cung cấp tài liệu điện tử
toàn diện cuối cùng sẽ khiến cho mọi việc trở nên rõ ràng, và điều này có thể
làm cho nhiều nhà lãnh đạo và những người ra quyết định có cảm giác khó chịu
vì bị vạch trần, đặc biệt nếu như trước khi trưởng thành, họ không được trang

bị hiểu biết về đạo đức. Hill và Knowlton, một công ty quốc tế về quan hệ công
chúng, mới đây đã điều tra 257 nhà lãnh đạo công ty tại Hoa Kỳ, châu Âu và
châu Á về tác động những cải cách của Điều luật Sarbanes - Oxley liên quan
tới vấn đề tín nhiệm và quản lý công ty. Trong khi hơn 80% người trả lời cảm
thấy những cải cách này sẽ cải thiện đáng kể tính liêm khiết của công ty thì
80% cho rằng họ cũng tin những cải cách này sẽ không làm tăng hành vi đạo
đức của những người đứng đầu công ty.
Trong khi hầu hết các nhóm giám hộ quyền lợi của người tiêu đùng và của
công chúng đang đòi hỏi ngay cả những quy tắc khắt khe hơn về quản lý kinh
doanh lớn, một số nhà cải cách công ty lại lập luận rằng thường thì các quy tắc là
phản tác dụng và luôn có khả năng bị né tránh. Họ tin rằng chỉ có sự minh bạch
100% mới có thể đảm bảo được cả tính chính trực và thẩm quyền của các hành
động thiết chế. Tại các tòa án trên thế giới và trong cả toà án công luận, trường
hợp về tính minh bạch sẽ ngày càng được các tổ chức phi chính phủ (NGO) xúc
tiến, những tổ chức này sẽ tận dụng cơ chế thông tin toàn cầu để lưu giữ và đưa
ra công chúng những hành vi lạm dụng về mặt môi trường tự nhiên lẫn mặt xã
hội của các doanh nghiệp tư nhân cũng như doanh nghiệp nhà nước.
Trên tất thảy, nhận thức tiến bộ dần của chúng ta trước vô số phản ứng
của nhân loại đối với môi trường sẽ ngày càng làm sáng tỏ một điều rằng tính
minh bạch toàn diện sẽ rất cần thiết cho sự an toàn và bền vững của một nền
kinh tế toàn cầu hiện đại. Nhưng cũng sẽ lại xuất hiện những hành vi lừa bịp,
sự đổ máu, khoa trương trước khi cuối cùng, tính minh bạch toàn diện trở thành
luật quốc tế trong 15 tới 20 năm tới đây.
7


5. Xu hướng thứ năm - sự thích nghi xã hội
Các lực lượng hiện đại hóa văn hóa, giáo dục, đô thị hóa và trật tự thiết
chế đang tạo nên sự thay đổi về xã hội trong thế giới phát triển cũng như tại các
quốc gia đang phát triển. Trong suốt thế kỷ XX, công dân trong những xã hội

công nghiệp hiện đại đang gia tăng về số lượng, ngày càng nhận thấy rõ một
điều rằng cả giáo hội lẫn nhà nước không có quyền tuyệt đối, và cho rằng
những người lãnh đạo họ cũng ít nhiều là những người bình thường mà thôi. Sự
lĩnh hội này đã khiến công dân của các xã hội hiện đại không đánh giá cao sự
chỉ đạo của các thiết chế cũng như của các nhà lãnh đạo họ, và khiến họ biết tự
chỉnh đốn mình hơn. Cử tri Mỹ ngày càng tự cho mình là những người độc lập,
và các giáo dân Cơ Đốc giáo đang gia tăng nhanh nhất từ trước tới nay tại Mỹ
thì không theo giáo phái.
Kể từ buổi bình minh lịch sử được con người ghi chép lại, xã hội đã thích
nghi với những hoàn cảnh biến đổi. Hơn thế nữa, hiện đại hóa văn hóa đã khiến
xã hội của những quốc gia công nghiệp trưởng thành được tự do thoát khỏi
nhiều lời chỉ trích của giáo hội và nhà nước, trao cho con người nhiều quyền tự
do hơn để cá nhân họ có thể tự thích nghi. Chúng ta có thể khá chắc một điều
rằng các xã hội hiện đại sẽ đối mặt với vô số thay đổi cơ bản về hoàn cảnh
trong khoảng thời gian 5, 10 hay 15 năm tới, những thay đổi mà đến lượt mình,
chúng sẽ tiếp tục gây ra hành vi thích nghi ở khắp nơi, đặc biệt là ở Mỹ.
Mỗi sự thay đổi trong lối sống phản ánh sự lựa chọn mang tính cá nhân
phản ứng trước một tập hợp các hoàn cảnh riêng biệt. Và lẽ đương nhiên thì
hành vi mang nhiều tính thích nghi được thực hiện lúc đầu với tư cách là một
biện pháp tạm thời sẽ bị loại bỏ khi tình hình trở về với trạng thái bình thường.
Chẳng hạn như, trong Thế chiến thứ Hai, hàng triệu phụ nữ đã xung phong gia
nhập thị trường lao động công nghiệp tại Mỹ và Anh nhưng lại quay về khu
vực nội trợ ngay sau khi cuộc chiến kết thúc và trạng thái phồn vinh bình
thường được tái lập. Nhưng cuộc Cách mạng Thông tin và sự lão hóa của các
xã hội công nghiệp trưởng thành đang là những hiện tượng tuyệt nhiên không
phải là nhất thời, một số điều đổi mới rộng rãi gần đây trong lối sống bao gồm
vấn đề trì hoãn nghỉ hưu và “các hộ gia đình kiểu sandwich” là điềm báo trước
cho những thay đổi lâu dài hoặc thậm chí là vĩnh viễn của xã hội. Xu hướng
8



hiện nay nhằm trì hoãn việc nghỉ hưu ở Mỹ đã bắt đầu vào giữa những năm
1980 và tăng nhanh trong khoảng giữa những năm 1990.
Tuy nhiên, những xu hướng hiện nay ở Mỹ gợi cho ta thấy rằng ba hệ
quả lớn về mặt văn hóa của công nghiệp hóa tức đô thị hóa xã hội, thiết chế hóa
công việc và hạt nhân hóa gia đình, có thể đều đang bị đảo ngược, khi mọi
người thích nghi với những hoàn cảnh đang thay đổi. Sự nổi lên mới đây của
“hộ gia đình kiểu sandwich” tại Mỹ đã tạo ra tiếng vang mạnh mẽ với kiểu gia
đình đa thế hệ và mở rộng, vốn thường đóng vai trò là các mạng lưới an sinh
của xã hội trong những thời kỳ tiền công nghiệp.
Vấn đề lãnh đạo trong những thời đại đang thay đổi
Những xu hướng lớn đang xuất hiện không chỉ là sự phát triển mang
tính bước ngoặt mà ta có thể dự đoán là trong thập kỉ tới đây, chúng sẽ định
hình lại cuộc sống thường ngày. Một lượng vô số các thực tế trì trệ vốn tồn tại
cố hữu trong hoạt động thông thường của con người sẽ không ngừng làm thay
đổi những hoàn cảnh chung của ta, những lựa chọn và đòi hỏi vốn chạm trán
với xã hội và những thiết chế của nó. Đến lượt mình, sự thích nghi của xã hội
đối với những thực tế này sẽ tạo ra những đổi thay nhiều hơn trong môi trường
hoạt động của thiết chế, trong số các khách hàng, các đối thủ cạnh tranh và các
cử tri. Không có lý gì khiến ta phải tin rằng cuộc Cách mạng Thông tin sẽ làm
thay đổi chúng ta ít hơn so với những gì cuộc Cách mạng Công nghiệp đã làm.
Trong những thời kỳ như hiện nay, lời khuyên tốt nhất là lời khuyên
thường xuất phát từ những chân lý cổ xưa vốn đã trụ được trước thử thách của
thời gian. Cách đây 2.500 năm, sử gia kiêm triết gia Hy Lạp Heraclitus đã nhận
xét rằng “không có gì về tương lai tất yếu sẽ xảy ra ngoại trừ sự biến đổi”. Hai
trăm năm sau đó, vị tướng huyền thoại Trung Quốc Tôn Tử cũng đã khuyên
rằng “nhà lãnh đạo sáng suốt phải khai thác những điều tất yếu sẽ xảy ra”.
Thông điệp được kết hợp lại của cả hai người hết sức rõ ràng: “Nhà lãnh đạo
sáng suốt phải khai thác sự biến đổi”.


Nguồn: Tài liệu phục vụ nghiên cứu TN2005-59 Viện TTKHXH.

NHỮNG NHẬN ĐỊNH VỀ TRẬT TỰ THẾ GIỚI THẾ KỶ 21
9


Hệ thống điều hành thế giới đang trải qua khủng hoảng, các thể chế
và nguyên tắc là di sản của thời đại lịch sử trước đây, không phù hợp với
những thực tiễn mới. Theo nhân định của các nhà chính trị Nga về trật tự
thế giới trong thế kỷ XXI nổi lên một số vấn đề cơ bản sau:
1. Bản chất của cuộc khủng hoảng hiện nay
Trong nửa cuối thế kỷ 20 cả bản thân hệ thống các quan hệ quốc tế lẫn
những quan niệm truyền thống về những nguyên tắc cơ bản tổ chức hệ thống
này đã thay đổi căn bản. Kết quả của Chiến tranh thế giới thứ hai, cuộc xung
đột vũ trang quy mô nhất trong lịch sử nhân loại, là sự đối kháng giữa Chủ
nghĩa Cộng sản và thế giới Tư bản, dựa trên nguyên tắc cân bằng lực lượng. Hệ
thống hai cực được hình thành đã sản sinh ra một kiểu cân bằng nhược điểm
trong khi cố gắng giành được sự ủng hộ lớn hơn, mỗi bên đều nhắm mắt làm
ngơ trước những nhược điểm và thậm chí cả những thói xấu của các đồng minh
của mình.
Trong khi cạnh tranh không chỉ với nhau, mà cả với các nước thực dân
truyền thống, Mỹ và Liên Xô đã tạo điều kiện cho quá trình phi thực dân hóa và
không dừng lại trước việc tước bỏ thực chất ý nghĩa của khái niệm “chủ
quyền”, đồng thời đã tạo điều kiện cho việc phổ biến nguyên tắc chủ quyền tới
“vùng xa xôi” của thế giới. Trong thời kỳ hình thành thế giới hai cực (19471962), cộng thêm với 50 nước độc lập, vốn tồn tại vào cuối Chiến tranh thế giới
thứ hai, là 100 quốc gia “có chủ quyền”, mà đa số trong đó chưa chắc đã có
quyền và cơ sở để tự coi là như vậy. Tuy nhiên, những nguyên tắc “tế nhị về
mặt chính trị” của thời đại hậu chiến đã không cho phép đánh giá một cách
thực tế Thế giới thứ ba, được hình thành nhanh chóng bên cạnh Thế giới thứ
nhất và thứ hai, trong đó có những định đề tuyên bố “quyền tự quyết của các

dân tộc kể cả việc tách ra và thành lập nhà nước dân tộc” cũng như “tính bất di
bất dịch của chủ quyền quốc gia”.
Nguyên tắc chủ quyền, được vận dụng với tư cách là một vũ khí trong
cuộc đấu tranh chống lại các cường quốc, đã không bị từ bỏ cả sau thắng lợi
của một trong các bên. Trong thời kỳ sụp đổ hệ thống hai cực (1989-1998)
cộng đồng thế giới còn được bổ sung thêm hàng chục chủ thể “có chủ quyền”
nữa mà mức độ sinh lực của nhiều trong số đó vẫn còn phải được xác định.
10


Đồng thời nước Mỹ, đã chiến thắng trong cuộc chiến tranh Lạnh như là một
môn đồ của tự do, dân chủ và nhân quyền, đã đưa vào nền chính trị thế giới
những đinh đề “tế nhị trên phương diện chính trị” mới, tuyên bố dân chủ là
phương thuốc vạn ứng khi giải quyết tất cả những vấn đề xã hội và kinh tế và
đề cao “dân chủ hoá trật tự thế giới”.
Tuy nhiên, trong buổi giao thời của thế kỷ 20 và thế kỷ 21, điều đang trở
nên rõ ràng là chủ quyền của các quốc gia nào đó không tương hợp với nền dân
chủ quốc tế vốn trù định thiểu số phục tùng đa số dưới hình thức này hay hình
thức khác. Học thuyết tuân thủ nhân quyền không công nhận các chính phủ chà
đạp lên nhân quyền trong chính sánh đối nội và đối ngoại. Sự thiếu vắng những
quy tắc dân chủ bên trong các nước nào đó, việc các nước này không có khả
năng phát triển xã hội và kinh tế khiến người ta hoài nghi về khả năng của các
nhà nước này thực hiện chủ quyền của họ.
Thời gian gần đây, nhiều nhà khoa học và chính khách đi tới kết luận về
việc các nhà nước “thất bại” đang chiếm phần lớn hơn của Thế giới thứ ba và
một phần đáng kể của Thế giới thứ hai cũ về việc các nước này không có khả
năng phát triển một cách tự chủ và là một nguy cơ nghiêm trọng đe dọa sự ổn
định quốc tế. Tình trạng bi đát càng trở nên trầm trọng hơn bởi hai yếu tố
không kém phần quan trọng.
Một mặt, nguyên tắc chủ quyền “hạn chế”, dựa trên việc dành một loạt

quyền hạn và chức năng cho các cơ quan trên nhà nước (chẳng hạn, mối quan
hệ tương hỗ trong khuôn khổ Liên minh châu Âu) đang dần trở nên phổ biến.
Mặt khác, Liên Hợp Quốc, vẫn là một thể chế quốc tế có uy tín và có tính đại
diện nhất, đang phải chịu ảnh hưởng đáng kể từ phía các nhà nước thất bại, bao
gồm đa số các thành viên Liên Hợp Quốc. Như vậy, sự biến thể của hệ thống
westphalia trong thế kỷ 21 trên thực tế là không thể tránh khỏi. Cả việc tự
nguyện từ bỏ chủ quyền trong một bộ phận của thế giới phát triển lẫn việc thế
giới phát triển không sẵn sàng công nhận chủ quyền của các nhà nước thất bại
cũng như sự cần thiết phải bảo đảm những điều kiện sống tối thiểu cho mọi
người trên các lãnh thổ này, ngăn chặn việc lây lan nhiều thảm họa toàn cầu,
trong đó có chủ nghĩa khủng bố, đều sẽ tạo điều kiện cho quá trình này. Trước
khi hình dung những hình hài của cấu trúc thế giới trong những thập kỷ tới,
chúng ta hãy phân tích những đặc điểm cơ bản của thực tế hiện nay.
11


Ranh giới giữa một bộ phận của thế giới, mà trong đó người ta ngày
càng hay nghĩ tới khả năng từ bỏ chủ quyền và một bộ phận khác, mà ở đó
người ta đặc biệt chú trọng tới việc khôi phục và củng cố chủ quyền, đang đồng
thời biến thành biên giới giữa các cộng đồng của các nhà nước thành đạt và thất
bại với mức độ ngày càng lớn hơn . Đối với nhiều thực thể được coi gần như là
nhà nước và lãnh thổ, biên giới này đang trở nên ngày càng khó vượt qua khi
nó trở thành đường phân cách giữa “trung tâm” và “vùng xa xôi” Bắc và Nam,
thế giới hỗn loạn, thế giới hậu hiện đại và hiện đại. Sự chia rẽ của nền văn mình
hiện hành đang trở thành một trong những đặc điểm mang tính quyết định của
thời đại chúng ta.
Sự bùng nổ dân số ở Thế giới thứ ba đã làm gia tăng số dân của các nhà
nước thất bại và làm trầm trọng thêm tình trạng của các nước này. Tuy nhiên,
một số nước cá biệt, chẳng hạn như Trung Quốc và Ấn Độ, đã biết tranh thủ
những lợi thế của toàn cầu hoá và bước vào con đường phát triển bền vững khi

thực thi một chính sách khôn khéo. Tuy nhiên, một bộ phận đáng kể các nước,
vốn ở bên ngoài phạm vi lãnh thổ được coi là “phương Tây mở rộng”, là những
nguồn gốc của đa số các vấn đề toàn cầu như hiện nay - các vấn đề chính trị, xã
hội, kinh tế và thậm chí là sinh thái.
Tình hình đó đang đặt nhiều người đương thời của chúng ta vào thế bế
tắc. Những người mà thế giới quan của họ được hình thành vào những năm
1960 và 1970, vốn được giáo dục theo những lý tưởng bình đẳng và tiến bộ,
không thể chấp nhận được sự phá sản của quan điểm “phát triển” vốn vẽ nên
một cách rõ ràng viễn cảnh tăng trưởng kinh tế và ổn định chính trị trước các
nước độc lập mới. Những thất bại của các nước đang phát triển nuôi dưỡng đủ
mọi thứ lý luận về “tội lỗi” của các mẫu quốc trước đây đối với tình trạng hiện
nay của “vùng xa xôi” những quan điểm “phải có nghĩa vụ do thực thi chính
sách thực dân” mà những người ủng hộ cho rằng sự lạc hậu có thể và cần phải
được khắc phục bằng những cách giúp đỡ khác nhau. .
Đã đến lúc từ bỏ những quan điểm tương tự. Tất nhiên, khi tiến hành
chính sách thực dân, các nước hàng đầu đã theo đuổi trước hết là những lợi ích
vị kỷ của họ. Nhưng trong nhiều trường hợp (mặc dù đương nhiên là cũng có
những ngoại lệ) quá trình thực dân hoá của châu Âu là một nhân tố của tiến bộ
kinh tế và xã hội, điều thường không được thừa nhận trong khuôn khổ “tế nhị
12


từ góc độ chính trị” mới. Với toàn bộ tính mâu thuẫn của nó, sự hiện diện của
chủ nghĩa thực dân châu Âu ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ La Tinh đã tạo
điều kiện cho người dân địa phương làm quen với các công nghệ mới, tinh
thông các phương pháp tổ chức lao động hoàn thiện hơn, nâng cao trình độ giáo
dục, tiếp xúc với những nhân tố giá trị châu Âu. Ở nơi mà thời kỳ thực dân hóa
diễn ra tương đối dài, còn trình độ phát triển văn minh trước khi người châu Âu
đến tương đối cao, thì kết quả là tích cực hơn (chẳng hạn Ấn Độ và Malaixia).
Ở nơi mà quá trình thực dân hóa diễn ra quá ngắn ngủi, nền văn minh châu Âu

đã không thể bén rễ được, còn các nền văn hóa nguyên thủy đã bị tàn phá ở
mức độ đáng kể (như điều đã diễn ra ở đa số các nước của châu Phi nhiệt đới).
Trong tình hình như vậy, những mặt tiêu cực của sự hiện diện thực dân đã nổi
lên hàng đầu. Sự thù hận đối với những kẻ thực dân và sự nghèo nàn của những
truyền thống (văn hoá địa phương đã được thể hiện trong những nỗ lực nhằm
tạo ra cái gọi là một “bản sắc mới”, vốn mang tính phô trương và trong đa số
trường hợp là dựa trên chế độ độc tài.
Những thập niên gần đây có rất nhiều ví dụ và việc không tiếp nhận
những giá trị và lối sống phương Tây ở các nước đang phát triển, vốn mong
muốn khép kín trong sự lạc hậu của mình. Có vô số ví dụ tương tự ở châu Phi
và châu Á, nhưng những ví dụ này hết sức rõ rệt trên lãnh thổ Liên Xô cũ: Các
nước cộng hòa trung Á, hàng thập niên vốn sống nhờ các nguồn, công nghệ và
vốn trí thức của Nga, hiện nay là các nền kinh tế nguyên liệu với hệ thống
chính trị nửa phong kiến. Những ý đồ nguy hại phủ nhận những giá trị của nền
văn minh hiện đại, mong muốn tự cô lập là đặc trưng cả đối với một bộ phận
giai cấp chính trị Nga.
Tiềm năng thấp về con người của các nhà nước thất bại, sự chuyên
quyền độc đoán của các nhà cầm quyền các nước này cũng như sự mất giá
nghiêm trọng các nguồn tài nguyên nảy sinh do quá trình toàn cầu hóa, đồng
thời với sự gia tăng tầm quan trọng của các công nghệ và tri thức đang làm mất
đi những cơ hội phát triển một cách tự chủ của các nước này. Hơn nữa, viện trợ
nhân đạo của các nước phương Tây thường làm hư hỏng dân chúng và chính
quyền của các nhà nước thất bại, đồng thời không góp phần hiện đại hóa các
nền kinh tế và các cơ cấu xã hội của các nước này trong khi lại làm nảy sinh
tình trạng sống nương nhờ và tham nhũng. Một hệ quả như vậy là rõ ràng trong
13


trường hợp dành cho các nước này bất kỳ ưu đãi thương mại đặc biệt nào đó.
Toàn bộ vấn đề là ở chỗ cơ sở xuất khẩu của những nước này là các mặt hàng

nguyên liệu, mà lịch sử lại chưa hề biết đến những ví dụ cải tổ thành công cơ
cấu các nền kinh tế nguyên liệu, trong điều kiện giá tài nguyên trên thế giới
tăng cao (qua ví dụ bản thân nước Nga, chúng ta thấy đặc thù “người nhận viện
trợ nhân đạo” nguy hiểm như thế nào, đấy là chưa nói đến sự lệ thuộc vào dầu
lửa, giống như lệ thuộc vào ma túy vậy).
Kinh nghiệm của một số không lớn các “nước công nghiệp mới” đã thoát
khỏi cạm bẫy suy thoái kinh tế, cũng chứng tỏ rằng trong thế giới ngày nay,
phương thức duy nhất để đạt được thành công kinh tế là thừa nhận những luật
chơi xuất phát từ nền kinh tế toàn cầu và thực hiện đường lối hội nhập với cộng
đồng các quốc gia chia sẻ những lý tưởng và giá trị của nền văn minh phương
Tây. Giữa các nước công nghiệp mới này và các nước phương Tây đang hình
thành mối quan hệ đối tác và ngày nay đang đòi hỏi sự hỗ trợ toàn diện của
“trung tâm” cho sự lớn mạnh thành công của một bộ phận của “vùng xa xôi”
này không phải bằng sự “giúp đỡ” làm băng hoại đạo đức ngày càng mạnh mẽ
hơn, mà bằng cách mở ra các thị trường của mình, ủng hộ sự phát triển vốn con
người, hội nhập bộ phận này với các cơ cấu chính trị và kinh tế của mình
Tuy nhiên, một bộ phận của “vùng xa xôi” đang dần xích gần lại với
“trung tâm” không làm thay đổi bức tranh chung, đặc biệt là ở các khu vực, nơi
mà hầu như không có những tiền lệ phát triển “bám đuổi” thành công, ở châu
Phi và ở Trung Đông “mở rộng”. Ai cũng thấy được sự lạc hậu của các khu vực
này, sự trì trệ và thậm chí suy thoái vốn con người, hành động thiếu thận trọng
và thái độ vô trách nhiệm của giới tinh hoa cầm quyền, vốn sẵn sàng buộc tội
bất kỳ ai về những tai họa của họ, chứ không nghĩ đó chính là sự thiếu hiểu
biết, tính trục lợi và tham nhũng của họ. Bộ phận này của “vùng xa xôi” được
coi là nguồn gốc của các vấn đề sinh thái chủ yếu; sự thoái hóa tại đây làm trầm
trọng thêm vấn đề bất bình đẳng trên thế giới; bạo lực sinh ra ở đây khiến hàng
triệu người phải tị nạn hoặc di chuyển chỗ ở; các thế hệ trẻ mất phương hướng
trở thành mảnh đất màu mỡ cho việc phổ biến những tư tưởng cực đoan, và
khủng bố.
Việc quản lý các quá trình diễn ra ở bộ phận này của thế giới, việc thiết

lập sự kiểm soát tối thiểu đối với các quá trình đó là sự bảo đảm để củng cố sự
14


ổn định chính trị hết sức cần thiết cho sự phát triển của thế giới. Điều đó sẽ cho
phép hiện đại hóa bản thân các nước và các khu vực lạc hậu, làm giảm sự căng
thẳng toàn cầu, lấp đầy “khoảng trống an ninh” cũng như tiến hành cuộc cải
cách đã chín muồi từ lâu đối với hệ thống quan hệ quốc tế, vốn là di sản của
thời Chiến tranh Lạnh.
2. Các công cụ mang tính nguyên tắc hiện hành của trật tự thế giới
Những biến động lịch sử phức tạp của thời kỳ hậu chiến là nguyên nhân
gây ra sự thiếu tính kết cấu ở mức độ cao của hệ thống quan hệ quốc tế hiện
nay. Ở mức độ lớn nhất sự thiếu tính kết cấu này xuất phát lừ ba yếu tố. Một là,
tất cả các quá trình chính trị đã một thời gian dài lệ thuộc vào những nhiệm vụ
của Chiến tranh Lạnh. Hai là, ảnh hưởng của các nhân tố kinh tế trong nền
chính trị toàn cầu gia tăng mạnh mẽ. Ba là, khả năng sử dụng sức mạnh quân
sự truyền thống trong những tình huống xung đột giảm đi. Tất cả những yếu tố
này đã không được đánh giá thích đáng và không được phản ánh trong hệ thống
các thể chế quốc tế đã hình thành hiện nay.
Mặt cốt yếu của các quá trình liên quan đến yếu tố thứ nhất đã được thể
hiện đầy đủ nhất trong sự tiến triển vai trò và tầm quan trọng của Liên Hợp
Quốc, được thành lập ngay sau khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai gồm 50
nước thành viên. Cơ cấu Liên Hợp Quốc ban đầu không trù định sự tham gia
một cách dân chủ rộng rãi của rất nhiều nước mới, đã giành được độc lập trong
những thập niên tiếp theo. Hội đồng Bảo an của “dòng khác năm 1945”, trong
đó có hai cường quốc Liên Xô và Mỹ, hai mẫu quốc thực dân Anh và Pháp
cũng như Trung Quốc, có quyền phủ quyết, về thực chất là một công cụ hợp
pháp hóa hệ thống hai cực. Là một sự bổ khuyết đặc biệt của hệ thống này,
Liên Hợp Quốc đã không thể đạt được việc thành lập một hệ thống an ninh tập
thể, xây dựng các lực lượng vũ trang quốc tế hữu hiệu có khả năng không

những duy trì, mà cả áp đặt hòa bình, ngăn chặn các cuộc xung đột, chống lại
việc phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt. Trong suốt lịch sử liên Hợp Quốc chỉ
có ba lần những nghị quyết của Hội đồng Bảo an (ở Triều Tiên năm 1953, ở
Công gô đầu những năm 1960 và ở Côoét trong thập niên 1990) là được thể
hiện bằng những hành động cụ thể nhằm trừng phạt kẻ xâm lược.

15


Trong những năm qua, Liên Hợp Quốc đã sản sinh ra vô số tổ chức và cơ
quan. Một số trong đó như Tổ chức y tế thế giới, Cơ quan năng lượng nguyên
tử quốc tế, Ngân hàng thế giới và một loạt tổ chức khác, là hết sức có ích, trong
khi đa số các tổ chức khác đã trở nên quan liêu, chẳng hạn như kỳ họp thường
kỳ đặc biệt của Đại hội đồng bàn việc phối hợp giải quyết vấn đề ma túy, lại
chỉ là những cuộc tranh luận vô bổ. Với hình thức hiện nay Liên Hợp Quốc vẫn
bảo toàn được ý nghĩa của mình như một công cụ đối thoại đặc biệt và toàn
diện, tuy nhiên, trên thực tế, nó đã không chỉ mất đi khả năng can thiệp vào các
cuộc xung đột quốc tế, mà còn thường cản trở việc hình thành các thể chế có
khả năng giải quyết hiệu quả các vấn đề phát sinh. Liên Hợp Quốc đã tiến gần
đến ranh giới, mà ở đó sự “sửa chữa” cơ cấu của nó, hơn nữa, hoàn toàn không
phải mang tính tô điểm, là cần thiết. Những ý đồ cải cách tổ chức hiện không
mấy thành công. Việc phân tích bản báo cáo của Nhóm cấp cao về những nguy
cơ, thách thức và chuyển biến được đệ trình hồi cuối năm 2004 khiến người ta
tin vào điều đó. Bản báo cáo, hiển nhiên, cần được thảo luận riêng một cách sâu
sắc, song nó đã không làm nhẹ bớt cảm giác rằng ngay cả trong giới chuyên gia
cũng thấy rõ sự thiếu vắng những ý tưởng mới mẻ.
Yếu tố thứ hai gây ra sự thiếu tính kết cấu ở mức độ cao của hệ thống
quan hệ quốc tế hiện nay liên quan đến quá trình toàn cầu hóa ngày càng gia
tăng của nền kinh tế thế giới, mà dường như sẽ tạo ra một chiều hướng chính trị
cho các vấn đề thuần túy kinh tế. Trong những điều kiện mới đã bộc lộ sự thiếu

khả năng hoạt động hiệu quả của các thể chế chính trị, được hình thành trong
thời kỳ khi không ai có thể thậm chí nghĩ tới việc cưỡng chế giá nguyên liệu từ
phía những cácten quốc tế lẫn khả năng phá sản của những người vay tiền tự
chủ cũng như việc thành lập các khu vực thương mại tự do, hơn nữa, về các
khu vực tiền tệ chung bao trùm một số nền kinh tế quốc gia. Việc khắc phục
các cuộc khủng hoảng kinh tế và những thảm họa tài chính liên quan trực tiếp
tới những hình thức này hay hình thức khác của việc giới hạn trong thời gian
ngắn (mà cũng có thể là lâu dài) một nhân tố hết sức quan trọng trong hệ thống
các thể chế quốc tế - chủ quyền quốc gia. Song tính hợp pháp của một giới hạn
như vậy trên thực tế không được lý luận quan hệ quốc tế hiện nay thừa nhận.
Ví dụ rõ ràng nhất của việc toàn cầu hóa kinh tế biến đổi thành sự liên
kết chính trị là Liên minh châu Âu. Thành công của dự án tương đối khiêm tốn
16


hợp nhất ngành công nghiệp than và thép của Pháp và Đức đã từng dẫn tới việc
thành lập Cộng đồng kinh tế châu Âu, sau đó vài thập niên đã biến thành Liên
minh châu Âu hiện nay, cơ quan chính trị phức tạp nhất trong lịch sử loài
người. Thực thể chính trị, kinh tế đặc biệt này chứng tỏ không chỉ tính hiệu
quả kinh tế, mà cả tác dụng xã hội tốt của sự liên kết, sản sinh ra một xã hội
tương đối công bằng và hoàn toàn có khả năng cạnh tranh. Đồng thời chúng ta
đang trở thành chứng nhân của việc ngày càng có nhiều nước hơn tham gia quá
trình giới hạn một cách hoàn toàn tự nguyện đối với chủ quyền. Đồng thời một
châu Âu hợp nhất chứng tỏ một phương án mới của chính sách bành trướng
dường như có hiệu quả và dễ chấp nhận về mặt xã hội nhất trong số tất cả
những phương án mà lịch sử được biết.
Yếu tố thứ ba gây ra sự thiếu tính kết cấu của hệ thống quan hệ quốc tế hiện
nay là việc giảm khả năng sử dụng sức mạnh quân sự truyền thống trong những
tình huống xung đột. Trong bối cảnh gia tăng sự bất ổn định toàn cầu, đã trở nên
hết sức rõ ràng sau khi kết thúc chiến tranh Lạnh, NATO - liên minh chính trị,

quân sự quốc tế hùng mạnh nhất đã bị mất phương hướng. Trong suốt 40 năm
thực hiện nhiệm vụ kiềm chế chiến lược ở châu Âu, NATO đã chứng tỏ sự bất lực
của mình trong việc trừng trị những kẻ đã thực hiện vụ tấn công vào Mỹ ngày
11/9/2001 và hai năm rưỡi sau đó vào châu Âu (các vụ đánh bom tàu hỏa ở Tây
Ban Nha). Trong một thập niên gần đây NATO đã kết nạp thêm hơn 10 thành viên
mới, nhưng tổ chức này đã không xem xét lại những yếu tố cơ bản trong chiến
lược của mình và trên thực tế đã bị chia rẽ do chiến dịch quân sự tại Irắc.
Tóm lại, có thể nói một cách không phóng đại rằng về mặt chính trị và
quân sự thế giới ngày nay được chia thành “trung tâm” và “vùng xa xôi” cũng
giống như về mặt kinh tế và xã hội. Đặc điểm nổi bật quan trọng là ở chỗ Mỹ
(đại diện cho thế giới phát triển) cũng như Nga và Trung Quốc (từ phía các
nước đang phát triển) vẫn duy trì niềm tin vào chính sách cân bằng lực lượng
truyền thống trong khi các nước châu Âu thì trung thành với những phương
pháp gây ảnh hưởng kinh tế, không can thiệp về quân sự và trung lập về chính
trị. Những khác biệt giữa điều ngày càng hay được gọi một cách tương ứng là
nền chính trị hiện đại và hậu hiện đại, ngày càng trở nên rõ nét. Nhưng cả hình
mẫu này lẫn hình mẫu khác hiện đều không có khả năng đề xuất những công
thức khắc phục tình trạng vô giới hạn toàn cầu.
17


Trật tự thế giới thế kỷ 21 sẽ không giống như trật tự thế giới cũ, đã rất
quen thuộc đối với các chính trị gia của thế kỷ 20. Khác biệt chủ yếu của nó là
ở chỗ nguyên tắc cân bằng lực lượng bất di bất dịch trong suốt 300 năm trở lại
đây đang mất đi tầm quan trọng trước đây của nó. Sự giảm sút khả năng xung
đột giữa các cường quốc và sự xích lại gần lập trường của các nước này về đa
số những vấn đề quốc tế đang tranh cãi sẽ dẫn đến việc hình thành liên minh
các nước phát triển, mà sức mạnh của nó không thể làm quân bình với bất kỳ
liên kết lực lượng nào của các quốc gia “xa xôi”. Sự khác biệt rõ rệt giữa hệ
thống quan hệ quốc tế mới với hệ thống quan hệ quốc tế hiện nay là việc khôi

phục hệ thống quản lý các nhà nước thất bại bằng nỗ lực của một số cường
quốc hay liên minh các cường quốc, nhưng không nhằm bóc lột tài nguyên hay
sức người của các nước đó, mà là để bảo vệ các quyền cơ bản của công dân các
nước này và dành cho họ những sự bảo đảm tuân thủ các quyền đó.
Tất cả những dự báo này sẽ trở thành hiện thực đến mức nào là tuỳ thuộc
vào khả năng của các nước phát triển phối hợp chính sách của mình và đặt
những mục tiêu mang tính cục diện hiện nay của mình tuỳ thuộc vào những
nhiệm vụ xây dựng một thế giới an toàn và có thể dự đoán được. Hiện nay,
chúng ta không thể tự tin nói rằng quyết tâm của chính phủ các nước này tiến
theo con đường đã chọn mạnh mẽ đến đâu, nhưng chúng ta hy vọng vào một
tầm nhìn dài hạn dù sao cũng thắng thế trước những lợi ích nhất thời.

Nguồn: Các vấn đề quốc tế tháng 10/2005.

MỐI QUAN HỆ TAM GIÁC TRUNG QUỐC - MỸ - CHÂU ÂU

18


Sau sự kiện 11/9 và chiến tranh Irắc, cục diện thế giới ngày càng trở
nên phức tạp. Mối quan hệ của các nước lớn thể hiện rõ bản chất của cục
diện của thế giới ngày nay, đặc biệt là mối quan hệ Trung Quốc- Mỹ và
châu Âu
Châu Âu đang tìm những đối tác chiến lược mới để củng cố ảnh hưởng
quốc tế, còn Trung Quốc lại nuôi ý đồ can thiệp sâu hơn vào các vấn đề của
châu Á để vươn lên làm bá chủ trong một khu vực được coi là “ô xuất phát”
của mình. Châu Âu và Mỹ có cùng một ý đồ chống lại sự trỗi dậy của Trung
Quốc, nhưng về cách đánh giá lại khác nhau. Mỹ tìm cách kiềm chế những
tham vọng của Trung Quốc, trong khi châu Âu lại muốn sáp nhập Trung Quốc
vào liên minh các quốc gia, gắn trách nhiệm của Trung Quốc với tư cách là

nhân tố chính của hệ thống quốc tế. Sự phát triển của các mối quan hệ thương
mại và kinh tế giữa Trung Quốc và Châu Âu đã thúc đẩy 2 bên thăm dò những
lĩnh vực hợp tác mới. Theo quan điểm của Bắc Kinh, việc đồng EURO tăng giá
so với đồng đô la và việc mở rộng châu Âu đã góp phần làm cho châu Âu trở
thành một cực mạnh có thể làm đối trọng với Mỹ. Trên lĩnh vực ngoại giao,
việc khẳng định một chính sách đối ngoại và an ninh chung (PESC) cũng phù
hợp với nhận thức của Trung Quốc về một thế giới đa cực. Việc Trung Quốc
gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) năm 2001 và sự thay đổi thế hệ
lãnh đạo một năm sau đó, đã gây cảm tưởng rằng sự phát triển của Trung Quốc
là không thể cưỡng lại được, trong khi đó Mỹ liên tiếp sau 2 cuộc chiến ở
Ápganixtan và Irắc đang phải tính toán lại chiến lược của mình ở châu Á. Cuối
năm 2004, kế hoạch giảm quân số và triển khai lại các phương tiện quân sự mà
Mỹ vẫn bố trí ở Đông Bắc Á sau khi cuộc chiến tranh ở Thái Bình Dương kết
thúc đã khiến người ta nghĩ như vậy. Công cuộc toàn cầu hoá đã rút ngắn
khoảng cách giữa châu Âu với châu Á và sự kiện 11/9/2001 một lần nữa khiến
châu Âu đã khẳng định hơn nữa sự cần thiết phải tăng cường quan hệ với Trung
Quốc, một cường quốc hạt nhân, lại nằm ở trung tâm của những chiến lược lớn
ở châu Á, nắm chìa khoá của 2 nguồn xung đột gây mất ổn định tiềm tàng ở
châu Á: biểu đồ tam giác phổ biến hạt nhân, với Ấn Độ, Pakistan, và tương lai
19


của Đài Loan. Các nước Đông Nam Á chấp nhận ký với Trung Quốc một Quy
tắc ứng xử Biển Đông, Mỹ tán thành để Bắc Kinh làm trung gian trong việc
giải quyết vấn để hạt nhân của Bắc Triều Tiên. Ngay từ tháng 6/2002 Trung
Quốc và EU đã thông qua một tài liệu mang tính chiến lược toàn cầu
“Country Strategy Paper for China 2002-2006, với nội dung cơ bản tăng viện
trợ để đầu tư vào các dự án lớn ở Trung Quốc. Tuy nhiên về chính trị quan hệ
giữa EU và Trung Quốc vẫn có giới hạn.Tài liệu do Bộ Ngoại giao Trung
Quốc công bố tháng 10/2003 xác định khuôn khổ các mối quan hệ mà Trung

Quốc muốn thiết lập với châu Âu. Về nguyên tắc Bắc Kinh ủng hộ một châu
Âu vững mạnh trên trường quốc tế kể cả ở châu Á - Thái Bình Dương với ý
đồ Trung Quốc muốn một thế giới đa cực, riêng về vấn đề Đài Loan và Tây
Tạng 2 bên còn những khác biệt.
Về quan hệ chiến lược quân sự giữa Trung Quốc với EU vì Mỹ luôn luôn
áp dụng chính sách bao vây Trung Quốc, ngăn cản Trung Quốc trở thành một
cường quốc quân sự sánh ngang bằng với Mỹ. Do vậy, việc châu Âu dỡ bỏ lệnh
cấm vận vũ khí và tăng cường hợp tác công nghiệp trong lĩnh vực công nghệ
nhạy cảm là một vấn đề cần quan tâm đối với Trung Quốc vì quân đội Trung
Quốc kém cả về chất và lượng, đang tìm cách để mua các loại vũ khí hiện đại
hiện nay, Trung Quốc đang phụ thuộc vào phần lớn nhập khẩu vũ khí của Nga,
một phần của lsrael. Về mặt chiến lược, đường lối chiến tranh của Trung Quốc
là dành chiến thắng mà không cần có chiến tranh và tìm kiếm sự khuất phục
của kẻ thù bằng cách lấn át về chính trị.
Các nước châu Âu, Pháp, Đức đã tuyên bố ủng hộ việc dỡ bỏ lệnh cấm
vận vũ khí được áp dụng từ năm 1989 đối với Trung Quốc. Trong khi sự bất
đồng đang gia tăng giữa Pháp và Mỹ về vấn đề Irắc thì động thái này của Pháp
sẽ là mầm mống cho những căng thẳng mới trong các mồi quan hệ xuyên Đại
Tây Dương. Nhưng nếu như EU đã chấp nhận dỡ bỏ lệnh cấm vận áp dụng đối
với Libi từ năm 1986 thì một sự vận động tương tự đối với Trung Quốc cho tới
nay vẫn chưa đạt được sự nhất trí nào. Tuy nhiên, theo quan điểm của Pháp và
Đức, khả năng dỡ bỏ cấm vận phải không dẫn đến một sự tăng đáng kể những
20


chuyển giao công nghệ cao và vũ khí cho các lực lượng Trung Quốc. Các chính
sách đối với Trung Quốc của Mỹ và EU ngày càng khác nhau. Cải thiện quan
hệ với Trung Quốc của EU chỉ đơn thuần về kinh tế.
Ngược lại, phát biểu của Mỹ về Trung Quốc, xoay quanh sự xuất hiện
của một cường quốc quân sự Trung Quốc trong 10 năm tới, lại nhấn mạnh vào

vấn đề cân bằng chiến lược và những nguy cơ phổ biến vũ khí hạt nhân. Trong
bối cảnh này, việc châu Âu dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí đối với Trung Quốc có
thể làm thay đổi sâu sắc một số điểm cân bằng quốc tế. Mỹ sẽ phải tính đến
mối quan tâm ngày càng tăng của châu Âu đối với châu Á và Trung Quốc,
không chỉ trong những lĩnh vực kinh tế và chính trị mà cả trong lĩnh vực ngoại
giao và quân sự. Châu Âu muốn xây dựng một mô hình hợp tác an ninh có thể
áp dụng cho châu Á.
Châu Á đang đứng trước những thách thức, đối mặt với những mối đe
doạ khủng bố, trước mắt là các nước ASEAN, trong khí Đông Á là vấn đề hạt
nhân của Bắc Triều Tiên. Ở Nam Á, phương trình hạt nhân giữa Trung Quốc,
Pakistan và Ấn Độ được thể hiện bằng một ván bài giành ảnh hưởng gây mất
ổn định. Trung Quốc xuất hiện như chìa khoá cho những cân bằng an ninh giữa
3 nước châu Á mà họ đang xoá bỏ mọi ngăn cách. Sự đánh cược của châu Âu
về tương lai của Trung Quốc không phải là không mạo hiểm. Đối với EU,
những tham vọng và ý chí của Trung Quốc đã thổi một luồng sinh khí mới vào
khái niệm đa cực và làm nhẹ bớt giọng điệu của Mỹ tự cho mình là cường quốc
duy nhất có khả năng đảm bảo an ninh quốc tế. Nguy cơ ở đây nằm trong sự
khôn khéo của Bắc Kinh biết lợi dụng những bất đồng giữa Mỹ và châu Âu có
lợi cho họ hơn là nằm trong những sự chệch hướng quân sự của họ.

Nguồn: Sự kiện & nhân vật nước ngoài, Tổng cục V/ Bộ công an Tháng 9/2005.

21



×