Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Giải phẫu và sinh lý não

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (405.83 KB, 8 trang )

BÀI GIẢNG CHUYÊN ĐỀ:

GIẢI PHẪU VÀ
SINH LÝ NÃO

1


MỤC TIÊU CHUYÊN ĐỀ
Bài giảng chuyên đề “Giải phẫu và sinh lý não” cung cấp cho
người học những kiến thức cơ bản có liên quan như:
- Giải phẫu não;
- Chức năng của não.

2


NỘI DUNG CHÍNH
I. GIỚI THIỆU
Đầu tiên các xung hoạt động được phát ra từ các nơron thần
kinh ngoại biên truyền đến tế bào của cơ thể, và theo hướng đó các
xung này được chuyên chở dọc theo sợi trục. Các xung này đi lên theo
đường tủy sống cho đến khi tới phần dưới của hệ thống thần kinh
trung tâm. Tại đây tín hiệu được chuyển tiếp tới các nơron khác. Có ba
hay bốn giai đoạn chuyển tiếp diễn ra trước khi tín hiệu đến những
vùng đặc trưng ở vỏ não. Quá trình xử lý tín hiệu xảy ra ở tất cả các
cấp độ, diễn ra trong trạng thái ý thức và nhận biết có ý thức các tín
hiệu khác nhau, do đó mô tả đặc điểm sinh lý cơ thể người. Hoạt động
để trở thành một hệ thống nhất quan trọng của não là đề tài nghiên cứu
sôi nổi. Tuy nhiên, sự phức tạp của vấn đề cũng làm chậm mức độ tiến
triển nghiên cứu. Trong mục này sẽ mô tả ngắn gọn về giải phẫu và


sinh lý não.
II. GIẢI PHẪU NÃO
Não chứa 10^10-10^11 nơron thần kinh liên kết chặt chẽ với
nhau thông qua sợi trục và đuôi gai. Bản thân các nơron được tăng
thêm đáng kể bởi các tế bào thần kinh đệm. Một nơron thần kinh có
thể nhận kích thích từ 10^3 đến 10^5 nơron khác (Nunez, 1981). Về
mặt phôi học, não được hình thành khi mặt trước của hệ thống thần
kinh đã gấp nếp.
Não bao gồm 5 phần chính được mô tả trong hình 1:
• Não bao gồm hai bán cầu đại não
• Não trung gian
• Não giữa
3


• Cầu não Varolii và tiểu não
• Hành não tủy

Hình 1: Giải phẫu của não.
Não người nặng khoảng 1500g (Williams và Warwick, 1989).
Trong não, vỏ não là phần lớn nhất. Bề mặt vỏ não hình thành nhiều
nếp gấp.Những nếp gấp này được chia thành hai bán cầu não tách biệt
với nhau bởi vết nứt sâu và được liên kết với nhau nhờ thể chai. Các
bán cầu não được chia thành các thùy sau: thùy trán, thùy đỉnh, thùy
chẩm và thùy thái dương. Diện tích bề mặt của não khoảng 1600cm²,
và dày khoảng 3mm. Có sáu lớp mỏng, mỗi lớp bao gồm số lượng các
loại nơron khác nhau có thể được quan sát tại bề mặt lớp. Các chức
4



năng cấp cao của não, khả năng cảm giác chính xác, điều khiển dây
thần kinh vận động tự giác của cơ đựoc đặt tại vùng này.
Não trung gian hay gian não được bao quanh bởi vỏ não và
được định vị xung quanh não thất ba. Não trung gian bao gồm đồi não
là cầu nối giữa các giác quan. Vùng dưới đồi đặt ở phía dưới gian não
rất quan trọng đối với sự điều khiển các chức năng tự động (không có
ý thức). Cùng với tuyến yên, vùng dưới đồi điều khiển quá trình bài
tiết hormon. Não giữa là một phần nhỏ của não. Cầu não Varolii một
cầu nối giữa các vùng thần kinh.
Tiểu não điều khiển di chuyển thuận tiện. Hành tủy não giống
như tủy sống và đựoc kết nối trực tiếp với nhau. Nhiều trung tâm phản
xạ như trung tâm vận mạch và trung tâm thở được đặt ở hành tủy não.
Trên vỏ não có thể đặt nhiều diện tích khác nhau cho các chức
năng đặc biệt của não (Pen-field và Rasmussen, 1950; Kiloh,
McComas, và Osselton, 1981). Các chức năng cấp cao diễn ra ở thùy
trán, trung tâm thị giác được đặt ở thùy trẩm, vùng cảm giác và vận
động được đặt ở cả hai phía của khe trung tâm. Có một vùng đặc biệt
ở trong vỏ cảm giác và vận động mà các thành phần của nó tương ứng
với các phần nhất định của cơ thể. Kích thước của mỗi vùng tỉ lệ thuận
với yêu cầu về mức độ chính xác của quá trình điều khiển cảm giác và
vận động. Những vùng này được miêu tả trên hình 2. Đặc biệt vùng
cảm giác tương ứng với môi và tay khá rộng và vùng tương ứng với
phần giữa cơ thể thì nhỏ. Trung tâm thị giác được đặt trong một vùng
khác của não. Vùng vận động và vùng tương ứng với tay và cơ quan
phát âm là lớn.

5


Hình 2: Sự phân chia chức năng cảm giác (trái) và vận động (phải)

trên vỏ não (Từ Penfield và Rasmussen, 1950).
III. CHỨC NĂNG CỦA NÃO
Hầu hết các thông tin từ các cơ quan cảm giác truyền qua tủy
sống đến não. Có các vùng đặc biệt ở cả tủy sống và não cho các chức
năng khác nhau. Ví dụ như bộ phận nhận cảm xúc giác trong thân
synapse với nơron trung gian tại các nhánh lưng của tủy sống. Các
nơron trung gian này (đôi khi được biết như các noron thần kinh cảm
giác thứ cấp) thường đi qua các vùng khác nhau của tủy sống và đi
đến chất trắng của tủy dẫn đến não. Ở não, chúng khớp với các nhóm
6


noron thần kinh trung gian thứ hai (hoặc thứ ba) trong đồi não. Các
nơron cảm giác thứ ba kết nối với các trung tâm cao hơn trên vở não.
Trong vùng thị giác, những sợi hướng tâm từ những tế bào nhận
kích thích ánh sáng mang tín hiệu đến cuống não qua những dây thần
kinh thị giác và ống thị giác đến khớp thần kinh trong bộ phận quặp
bên (một phần của đồi não). Từ đây, những sợi trục thần kinh chuyền
đến thùy chẩm của vỏ não. Bên cạnh đó, các nhánh của sợi trục của
ống thị giác liên hợp thần kinh với các nơron trong vùng giữa đồi não
và não giữa là pretectal nucleus và ụ trên. Theo đó, những phần này
liên hợp với các nơron đối giao cảm trước hạch mà các sợi trục tiếp
theo dây thần kinh làm mắt vận động đến hạch lông mi (đặt ngay sau
cầu mắt). Sợi phản ứng được đóng bởi các thớ hậu hạch đi qua những
dây thần kinh lông mi đến các cơ mống mắt (điều khiển độ mở đồng
tử) và đến những cơ điều khiển độ cong thủy tinh thể (điều chỉnh các
đặc tính khúc xạ hay tập trung). Những phản xạ khác liên quan với
đầu hoặc chuyển động mắt cũng có thể được bắt đầu.
Các tín hiệu vận động đến cơ của thân và rìa từ trung tâm vận
động cao hơn của vỏ não đầu tiên di chuyển dọc các nơron vận động

cao hơn đến tủy sống thuộc hành tủy. Từ đó hầu hết các sợi trục của
các nơron vận động cao hơn vượt qua phía bên kia của của hệ thống
nơron trung tâm và đi xuống tủy sống trong ống vỏ não tủy sống bên,
còn lại di chuyển xuống dây ống vỏ não tủy sống phía trước. Những
nơron vận động trên cuối cùng liên hợp với các nơron vận động thấp
hơn trong sừng ở vung bụng của tủy sống; các nơron vận động phía
dưới hoàn thành con đường đến các cơ. Hầu hết những vận động phản
xạ bao hàm đến sự tích hợp thần kinh phức tạp và các tín hiệu phối
hợp đến các cơ liên quan nhằm tạo ra những chuyển động nhịp nhàng.
7


Sự tích hợp hiệu quả của thông tin cảm giác yêu cầu những
thông tin này được thu nhận ở một trung tâm riêng. Trong vỏ não,
người ta có thể xác định những vùng cụ thể với đầu vào cảm giác
riêng biệt (Penfield và Rasmussen, 1950; Kiloh, McComas,và
Osselton, 1981). Trong khi các tín hiệu hướng tâm truyền thông tin
gồm các cương độ kích thích, sự công nhận phương thức phụ thuộc
vào việc định vị lớp kết cấu của các đường hướng tâm. (Điều này có
thể được minh họa qua việc trao đổi các sợi hướng tâm từ các cơ quan
tiếp nhận thính giác và xúc giác, trong trường hợp mà âm thanh đi vào
được tiếp nhận như xúc giác gốc và ngược lại)
Những chức năng não cao hơn ở trong thùy trán, trung tâm thị
giác ở trong thùy chẩm, vùng cảm giác và vận động được đặt ở cả hai
phía của chỗ nứt trung tâm. Như được miêu tả phía trên, có một vùng
trong vỏ cảm giác mà các yếu tố phù hợp với mỗi phần của cơ thể.
Theo cách tương tự, một phần não chứa các trung tâm tín hiệu ra lệnh
(dây thần kinh ly tâm) điều khiển hệ thống cơ trong cơ thể. Ở đó cũng
có thể tìm thấy những chỗ nhô ra từ những vùng vỏ riêng biệt đến
những bộ phận cơ thể.


8



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×